Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Tiểu luận: Ảnh hưởng của luật đầu tư 2005 đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài ở các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.43 KB, 41 trang )

Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 1 -






Tiểu luận

Ảnh hưởng của luật đầu tư 2005 đối với đầu tư trong nước và đầu
tư nước ngoài ở các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Việt Nam
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 2 -
Nội dung chính của bài thuyết trình gồm 3 chương:
Chương 1: Tìm hiểu bối cảnh ra đời và khái quát về luật đầu tư.
Chương 2: Ảnh hưởng của luật đầu tư 2005 đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài ở các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện luật đầu tư trong tình hình hội
nhập quốc tế và toàn cầu hóa.




















Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 3 -
CHƯƠNG 1: TÌM HIỂU BỐI CẢNH RA ĐỜI VÀ KHÁI QUÁT
VỀ LUẬT ĐẦU TƯ
1.1. Bối cảnh ra đời và nguồn gốc của luật đầu tư 2005.
Luật Đầu tư 2005 ra đời trong bối cảnh có xu hướng về việc hợp nhất các luật
liên quan đến doanh nghiệp và đầu tư. Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp
Nhà nước 2003 và một phần Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987 đã được hợp
nhất thành Luật Doanh nghiệp 2005 (thường được gọi là Luật Doanh nghiệp thống
nhất). Trong bối cảnh ấy, việc thống nhất Luật Đầu tư dường như đã là một xu hướng
không thể đảo ngược tại thời điểm Luật Đầu tư 2005 ra đời.
Luật Đầu tư 2005 (thường được gọi là Luật Đầu tư chung) được cho là kế thừa
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987 và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước
1994. Nhưng dường như khi thống nhất các luật trên, Luật Đầu tư 2005 đã không
“chiết” được cái tinh túy nhất từ các luật này, mà mới chỉ “cộng” các luật này với
nhau.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987 quy định chủ yếu về cách thức tổ
chức thành lập, hoạt động, giải thể của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Về
bản chất, nó là một bộ phận của pháp luật về tổ chức doanh nghiệp hay nói cách khác,
là một “ Luật Doanh nghiệp con” áp dụng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong khi đó, Luật Khuy ến khích đầu tư trong nước 1994 lại tập trung vào các
chính sách và thủ tục về ưu đãi đầu tư cho doanh nghiệp trong nước – tức là luật về nội

dung chứ không phải luật về t ổ chức như Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987.
Do phạm vi điều chỉnh của các luật này là khác nhau, không thể chỉ căn cứ vào
tên gọi mà gom Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987 và Luật Khuy ến khích đầu
tư trong nước 1994 thành Luật Đầu tư (chung) một cách máy móc. Đáng lẽ ra, các vấn
đề tổ chức, thành lập, hoạt động của doanh nghiệp trong Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam 1987 cần được chuyển sang Luật Doanh nghiệp, còn quy định về chính sách
đầu tư, khuyến khích đầu tư cần được chuyển sang một luật về khuy ến khích đầu tư
chung. N ghĩa là, nếu được sắp xếp hợp lý, chúng ta cần có Luật Doanh nghiệp (thống
nhất) và Luật Khuyến Khích đầu tư (chung).

Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 4 -
1.2. Nội dung cơ bản của luật đầu tư.
1.2.1. Quy định chung.
Về việc áp dụng pháp luật, Luật Đầu tư và quy định trường hợp pháp luật Việt
Nam được ban hành sau khi Việt Nam là thành viên của các điều ước quốc tế có quy
định thuận lợi hơn so với điều ước quốc tế thì nhà đầu tư có quy ền lựa chọn việc áp
dụng theo điều ước quốc tế hoặc pháp luật Việt Nam.
Ngoài ra, nhằm đảm bảo khả năng bao quát, không chồng lấn với các luật
chuyên ngành, Luật Đầu tư quy định hoạt động đầu tư đặc thù được quy định trong
pháp luật chuy ên ngành thì áp dụng theo quy định của pháp luật chuyên ngành đó.
Quy định như vậy nhằm đảm bảo thực tế có một số luật chuyên ngành quy định về
chứng khoán, bảo hiểm, ngân hàng, tài chính đã và đang được thực hiện theo pháp luật
chuyên ngành.
Về giải thích từ ngữ, Luật Đầu tư đã bổ sung các thuật ngữ dự án đầu tư m ới,
dự án đầu tư mở rộng để nhà đầu tư biết rõ trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư
của mình mà có liên quan đến ưu đãi đầu tư.
1.2.2. Về hình thức đầu tư.
Về những hình thức đầu tư như: thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà
đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài; thành lập tổ chức kinh tế

liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài; đầu tư theo hình
thức hợp đồng BBC, hợp đồng BOT, hợp đồng BT; đầu tư phát triển kinh doanh; mua
cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư; và đầu tư thực hiện việc
sát nhập và mua lại doanh nghiệp. Nhà đầu tư được đầu tư để thành lập tổ chức kinh tế
bằng 100% vốn của mình, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại
Việt Nam được hợp tác với nhau và hoặc với nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành
lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài mới theo quy định của pháp luật về
doanh nghiệp. Nhà đầu tư cũng có thể đầu tư thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa
nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh trên được
tiếp tục liên doanh với nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư thành
lập tổ chức kinh tế mới theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp luật có liên
quan.
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 5 -
Đối với hoạt động đầu tư thành lập tổ chức kinh tế để thực hiện dự án đầu tư,
Luật Đầu tư quy định: nhà đầu tư trong nước có dự án đầu tư gắn với việc thành lập tổ
chức kinh tế thì thực hiện việc đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh
nghiệp, pháp luật có liên quan và thực hiện thủ tục đầu tư theo quy định của Luật Đầu

Bên cạnh đó, Luật Đầu tư còn quy định nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư
vào Việt Nam phải có dự án đầu tư và thực hiện thủ tục đầu tư để được cấp Giấy
chứng nhận đầu tư; Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh. Một điểm khác so với quy định trước đây, được coi là điểm m ở rất thoáng
và mới đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, đó là: đối với nhà đầu tư nước ngoài đã
được cấp Giấy chứng nhận đầu tư tại Việt Nam, nếu nhà đầu tư có dự án đầu tư m ới
mà không thành lập pháp nhân mới thì chỉ thực hiện thủ tục đầu tư để được cấp Giấy
chứng nhận đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư; nếu nhà đầu tư có dự án đầu tư mới
gắn với việc thành lập pháp nhân mới thì thực hiện t hủ tục thành lập tổ chức kinh tế và
thủ tục đầu tư theo quy định như đối với đầu tư trong nước.
Ngoài ra, để đảm bảo tính linh hoạt của hoạt động đầu tư của nhà đầu tư, pháp

luật đầu tư có quy định về chuyển đổi hình thức đầu tư của doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài. Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình hoạt động của mình
được tự do chuyển đổi giữa các hình thức đầu tư cho phù hợp với tình hình sản xuất
kinh doanh mà không bị cấm hoặc hạn chế, từ hình thức công ty TNHH sang công ty
cổ phần hoặc ngược lại, từ công ty hợp doanh sang công ty cổ phần hoặc TNHH và
ngược lại
1.2.3. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư.
Luật Đầu tư đã cụ thể hóa những nội dung về quy ền và nghĩa vụ của nhà đầu tư,
theo đó, nhà đầu tư có quyền tự chủ đầu tư kinh doanh, quyền t iếp cận các nguồn lực
đầu tư, sử dụng nguồn vốn tín dụng, đất đai và tài nguyên, quyền sử dụng lao động,
quyền mở tài khoản và mua ngoại tệ, quyền xuất khẩu, nhập khẩu, quảng cáo, gia
công, gia công lại,
Ngoài ra, pháp luật đầu tư lần này là đã mở cửa thị trường đầu tư phù hợp với
cam kết quốc tế, theo đó không bắt buộc nhà đầu tư phải thực hiện các yêu cầu như: ưu
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 6 -
tiên mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ trong nước hoặc phải mua hàng hóa, dịch vụ từ
nhà sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ nhất định trong nước; xuất khẩu hàng hóa, hoặc
xuất khẩu dịch vụ đạt một tỷ lệ nhất định; hạn chế số lượng, giá trị, loại hàng hóa và
dịch vụ xuất khẩu hoặc sản xuất, cung ứng trong nước; nhập khẩu hàng hóa với số
lượng và giá trị tương ứng với số lượng và giá trị hàng hóa xuất khẩu hoặc phải tự cân
đối ngoại tệ từ nguồn xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu; đạt được tỷ lệ nội địa
hóa nhất định trong hàng hóa sản xuất; đạt được một mức độ nhất định hoặc giá trị
nhất định trong hoạt động nghiên cứu và phát triển ở trong nước; cung cấp hàng hóa,
dịch vụ tại một địa điểm cụ thể ở trong nước hoặc nước ngoài; đặt trụ sở chính tại một
địa điểm cụ thể.
1.2.4. Lĩnh vực, địa bàn ưu đãi và hỗ trợ đầu tư.
Về lĩnh vực ưu đãi và địa bàn ưu đãi đầu tư ban hành kèm được xây dựng trên
cơ sở kế thừa và thay thế các danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư đã ban hành
kèm theo các Nghị định như: Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 quy định

hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (đã được sửa đổi bổ sung tại
Nghị định 27/2003/NĐ-CP ngày 19/3/2003), Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày
22/12/2003, và N ghị định 152 về thuế thu nhập doanh nghiệp, Nghị định
149/2005/NĐ-CP ngày 06/12/2005 về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để vừa đảm bảo
không gây xáo trộn lớn đối với quyền lợi của nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư đã
hoạt động đầu tư, vừa không ưu đãi tràn lan. Đồng thời, việc ưu đãi đầu tư bảo đảm
không trái với các điều cấm quy định trong các điều ước quốc t ế và các quy định của
WTO mà Việt Nam đã cam kết loại bỏ từ thời điểm gia nhập.
Theo đó, lĩnh vực đầu tư ưu đãi tập trung các ngành sản xuất vật liệu mới, năng
lượng mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ tin học, công nghệ thông tin; phát
triển nuôi trồng, chế biến nông, lâm, hải sản, bảo vệ môi trường; nghiên cứu phát triển
và ươm tạo công nghệ cao, đầu tư vào nghiên cứu phát triển, sử dụng nhiều lao động
và phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp. v v Còn địa bàn ưu đãi đầu tư được
thiết kế áp dụng cho các địa phương dựa trên các tiêu chí về thu nhập kinh tế quốc dân,
về tỷ lệ đói nghèo, về cơ sở hạ tầng, về mức độ tăng trưởng công nghiệp, về chính sách
phát triển vùng và hài hòa các vùng.
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 7 -
Về áp dụng ưu đãi đầu tư, Luật Đầu tư quy định: nhà đầu tư đang hưởng ưu đãi
theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật
Hợp tác xã và các Luật thuế thì tiếp tục được hưởng các ưu đãi đầu tư theo Giấy chứng
nhận ưu đãi đầu tư hoặc Giấy phép đầu tư đã cấp. Đối với dự án đầu tư thực hiện trước
ngày Luật Đầu tư có hiệu lực thuộc đối tượng ưu đãi đầu tư quy định tại thì nhà đầu tư
được hưởng ưu đãi đầu tư cho thời gian ưu đãi còn lại kể từ ngày có hiệu lực.
Để đảm bảo lợi ích cho nhà đầu tư, Luật Đầu tư có quy định: trường hợp pháp
luật, chính sách mới được ban hành có các quyền lợi và ưu đãi cao hơn so với quyền
lợi và ưu đãi mà nhà đầu tư đã được hưởng trước đó thì nhà đầu tư được hưởng các
quyền lợi, ưu đãi cho thời gian ưu đãi còn lại (nếu có) theo quy định mới kể từ ngày
pháp luật, chính sách mới có hiệu lực.
Tuy nhiên, Luật đầu tư cũng quy định: nếu các ưu đãi trên trái với cam kết

trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên thì thực hiện theo quy định của
điều ước quốc tế. Các ưu đãi đầu tư được ghi vào Giấy chứng nhận đầu tư nhằm bảo
đảm cho nhà đầu tư yên tâm khi thực hiện hoạt động đầu tư của mình.
Ngoài ra, Luật Đầu tư có quy định về điều chỉnh, bổ sung ưu đãi đầu tư. Theo
đó trong quá trình thực hiện dự án đầu tư, nếu nhà đầu tư đáp ứng điều kiện hưởng ưu
đãi đầu tư thì có quy ền đề nghị cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư điều chỉnh, bổ
sung ưu đãi đầu tư trong Giấy chứng nhận đầu tư đã cấp.Trong quá trình thực hiện dự
án đầu tư, nếu thực tế nhà đầu tư không đạt điều kiện để được hưởng ưu đãi đầu tư thì
không được hưởng ưu đãi đầu tư.
Về hỗ trợ đầu tư: các hỗ trợ đầu tư về chuyển giao công nghệ, đào tạo, tư vấn
đầu tư, hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng KCN, KCX được tiếp tục cụ t hể hóa hơn trong
Luật Đầu tư và Nghị định 108.
Về lĩnh vực đầu tư có điều kiện quy định trong Luật Đầu tư là các điều kiện gia
nhập thị trường mà nhà đầu tư phải đáp ứng, không bao gồm các điều kiện hoạt động
mà nhà đầu tư phải bảo đảm trong quá trình hoạt động kinh doanh. Các lĩnh vực đầu tư
có điều kiện này phải tuân thủ các quy định về lĩnh vực đầu tư có điều kiện quy định
tại Điều 29 của Luật Đầu tư và các lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật có liên
quan chủ yếu là lĩnh vực đầu tư có tác động đến trật tự an toàn xã hội, an toàn tài
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 8 -
chính, một số lĩnh vực dịch vụ đặc thù liên quan đến mở cửa thị trường và các lĩnh vực
có tác động rộng rãi đến cộng đồng. Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư, địa bàn ưu đãi
đầu tư là cơ sở chung, thống nhất cho việc áp dụng các chính sách ưu đãi đầu tư.
Về lĩnh vực cấm đầu tư, Luật Đầu tư quy định cụ thể dự án gây phương hại đến
quốc phòng, an ninh quốc gia và lợi ích của công cộng, về dự án gây phương hại đến
di tích lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục của Việt Nam, dự án gây tổn hại
đến sức khỏe nhân dân, làm hủy hoạt tài nguyên, phá hủy môi trường và các dự án xử
lý phế thải độc hại đưa từ bên ngoài vào Việt Nam; sản xuất các loại hóa chất độc hại
hoặc sử dụng tác nhân độc hại bị cấm theo điều ước quốc tế.
1.2.5. Về thủ tục đầu tư trực tiếp.

Luật Đầu tư là phân cấp mạnh cho ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Ban quản lý
KCN, KCX, KCNC và KKT (sau đây gọi là ban quản lý) cấp Giấy chứng nhận đầu tư
cũng như quản lý hoạt động đầu tư, đồng thời giảm bớt những dự án phải trình Thủ
tướng Chính phủ. Nếu phải trình thì Thủ tướng Chính phủ chỉ chấp thuận về mặt
nguyên tắc đối với mốt số dự án quan trọng chưa có trong quy hoạch hoặc chưa có quy
hoạch. Những dự án đã có trong quy hoạch được duyệt và đáp ứng các điều kiện theo
quy định của pháp luật và điều ước quốc tế thì UBND cấp tỉnh và Ban quản lý cấp
Giấy chứng nhận đầu tư mà không phải trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ
trương đầu tư. Các dự án còn lại sẽ do UBND cấp tỉnh và ban quản lý tự quyết định và
cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Đối với các dự án đầu tư không nằm trong quy hoạch đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt hoặc ủy quyền phê duyệt hoặc dự án không đáp ứng điều kiện mở cửa
thị trường quy định tại điều ước quốc t ế mà Việt Nam là thành viên, thì cơ quan cấp
giấy chứng nhận đầu tư chủ trì, lấy ý kiến bộ quản lý ngành, Bộ Kế hoạch và Đ ầu tư
và các cơ quan có liên quan trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc điều chỉnh, bổ
sung quy hoạch hoặc quyết định mở cửa thị trường. Đối với dự án đầu tư thuộc lĩnh
vực chưa có quy hoạch, thì cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư lấy ý kiến của các cơ
quan có liên quan trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư.
Luật là thủ tục đầu tư được thiết kế đơn giản và thuận lợi cho các nhà đầu tư.
Theo đó, dự án được phân chia thành hai loại: đăng ký đầu tư và thẩm tra đầu tư.
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 9 -
Đối với dự án đầu tư trong nước dưới 15 tỷ đồng Việt Nam và không thuộc lĩnh vực
đầu tư có điều kiện thì nhà đầu tư không phải làm thủ tục đăng ký đầu tư và cũng
không cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Đối với dự án đầu tư trong nước có quy mô đầu tư từ 15 tỷ đồng Việt Nam đến
dưới 300 tỷ đồng Việt Nam mà không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện, nhà đầu tư
chỉ cần đăng ký đầu tư theo mẫu trước khi thực hiện dự án mà không cần phải có Giấy
chứng nhận đầu tư, trường hợp nhà đầu tư có nhu cầu, cơ quan nhà nước quản lý đầu
tư sẽ cấp Giấy chứng nhận đầu tư.

Đối với dự án đầu tư nước ngoài có quy mô vốn dưới 300 tỷ đồng Việt Nam và
không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện, nhà đầu tư chỉ cần đăng ký đầu tư theo mẫu
để được cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản đăng
ký hợp lệ.
Dự án thuộc diện thẩm tra áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài, theo đó, các dự án thuộc Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện hoặc dự
án có quy mô vốn từ 300 tỷ đồng Việt Nam trở lên thì phải làm thủ tục thẩm tra đầu tư.
Nôi dung thẩm tra chỉ bao gồm: (1)sự phù hợp với quy hoạch kết cấu hạ tầng-kỹ thuật,
quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng, quy hoạch sử dụng khoáng sản và các
nguồn tài nguyên khác; (2) nhu cầu sử dụng đất; (3) tiến độ thực hiện dự án; (4) giải
pháp về môi trường. Riêng đối với dự án thuộc danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện
thì chỉ thẩm tra các điều kiện mà dự án phải đáp ứng.
Pháp luật đầu tư quy định đối với nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào
Việt Nam phải có dự án đầu tư. Trường hợp đã thành lập tổ chức kinh tế mà có nhu
cầu thực hiện dự án đầu tư tiếp theo thì không phải thành lập tổ chức kinh tế mới. Đối
với đầu tư trong nước t hì khi thành lập tổ chức kinh tế không cần phải có dự án. Đây là
điểm khác biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, điểm khác biệt này là cần
thiết bởi đầu tư nước ngoài cần phải thực hiện theo lộ trình mở cửa thị trường trong
các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Nhằm thực hiện cải cách hành chính đối với hoạt động đầu tư quy định trường
hợp dự án đầu tư gắn với việc t hành lập tổ chức kinh tế thì thủ tục đầu tư được làm
đồng thời với thủ tục đăng ký kinh doanh. Trong Giấy chứng nhận đầu tư bao gồm cả
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 10 -
các nội dung đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Trong trường
hợp này Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và
cũng ðýợc gửi cho cõ quan quản lý kinh doanh để quản lý chung về đăng ký kinh
doanh.
Đối với việc điều chỉnh dự án đầu tư, Luật Đầu tư quy định khi điều chỉnh dự
án đầu tư liên quan đến mục tiêu, quy mô, địa điểm, hình thức, vốn và thời hạn thực

hiện dự án ðầu tý, nhà ðầu tý phải làm thủ tục tại cõ quan tiếp nhận hồ sõ ðể làm thủ
tục ðiều chỉnh Giấy chứng nhận ðầu tý. Việc ðiều chỉnh dự án ðầu tý ðýợc thực hiện
theo quy trình đăng ký điều chỉnh dự án đầu tư hoặc thẩm tra điều chỉnh dự án đầu tư.
1.2.6. Đầu tư kinh doanh bằng vốn Nhà nước.
Nhằm cụ thể hóa các quy định về đầu tư, kinh doanh bằng vốn Nhà nước, pháp
luật đầu tư có quy định một số các nguyên tắc về thủ tục sử dụng vốn Nhà nước để đầu
tư kinh doanh (vốn ngân sách Nhà nước; vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước;
vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh; vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước).
Các quy định này chỉ đề cập đến giai đoạn quyết định bỏ vốn của Nhà nước để đầu tư
kinh doanh. Sau khi quyết định bỏ vốn đầu tư kinh doanh, các doanh nghiệp thực hiện
các hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật có liên quan.
Các quy định về thủ tục sử dụng vốn Nhà nước để đầu tư kinh doanh bao gồm
thủ tục về thẩm định, chấp thuận việc bỏ vốn Nhà nước để đầu tư kinh doanh theo
nguyên tắc:
- Cơ quan trực tiếp quản lý vốn ngân sách Nhà nước (bộ hoặc ủy ban nhân dân
cấp tỉnh) sẽ tổ chức t hẩm định và chấp nhận việc bỏ vốn đối với dự án sử dụng vốn
ngân sách nhà nước.
- Cơ quan trực tiếp quản lý quỹ tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước sẽ thẩm
định và chấp thuận việc bỏ vốn đầu tư của Nhà nước đối với dự án sử dụng vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
- Bộ Tài chính tổ chức thẩm định và chấp thuận bỏ vốn đầu tư của Nhà nước
đối với dự án sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh.
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 11 -
- Hội đồng quản trị tập đoàn hoặc tổng công ty, giám đốc (trường hợp doanh
nghiệp không có Hội đồng quản trị) thẩm định chấp thuận việc bỏ vốn đối với dự án
đầu tư sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển.
- Tổng công ty đầu tư kinh doanh vốn Nhà nước thẩm định chấp thuận việc sử
dụng vốn Nhà nước để đầu tư theo quy ết định của Thủ tướng Chính phủ.
1.2.7. Về triển khai thực hiện dự án đầu tư.

Về triển khai thực hiện dự án đầu tư, nhằm bám sát các vấn đề thực tế đã nảy
sinh trong hoạt động đầu tư để làm rõ mối quan hệ giữa hoạt động đầu tư và hoạt động
xây dựng, Luật Đầu tư quy định khi triển khai thực hiện dự án đầu tư có xây dựng
công trình phải tuân thủ quy định về quản lý xây dựng của pháp luật xây dựng. Trong
quá trình hoạt động đầu tư kinh doanh nếu có công trình xây dựng thì nhà đầu tư phải
tuân thủ các quy định về kiến trúc, khảo sát thiết kế, giấy phép xây dựng, tuân thủ các
quy trình về thi công, bảo đảm an toàn công trình và tuân thủ các quy định về giám sát
và kiểm tra xây dựng. Các hoạt động này được thực hiện sau quá trình bỏ vốn và triển
khai thực hiện hoạt động đầu tư.
Đối với hoạt động thuê quản lý, nhà đầu tư được chủ động trong việc thuê tổ
chức, cá nhân để quản lý dự án mà không cần phải được sự chấp thuận của cơ quan
cấp Giấy chứng nhận đầu tư như quy định trước đây. Luật Đầu tư còn quy định về
trình tự, hồ sơ đối với chuyển nhượng vốn và chuyển nhượng dự án. Quy định về
chuyển nhượng dự án của Luật đầu lần này. Quy định về chuyển nhượng dự án nhằm
pháp luật hóa hoạt động chuyển nhượng dự án đã diễn ra khá nhiều trong thời gian vừa
qua và tránh gây lãng phí các nguồn lực đã đầu tư.
Về điều chỉnh dự án đầu tư, Luật Đầu tư quy định trong quá trình hoạt động nếu
nhà đầu tư có điều chỉnh về mục tiêu, quy mô, địa điểm, vốn, hình thức và thời hạn
đầu tư thì phải làm thủ tục điều chỉnh theo quy định đăng ký hoặc thẩm tra đầu tư.
1.2.8. Về quản lý nhà nước về đầu tư.
Luật Đầu tư quy định cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ quan quản
lý nhà nước về đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguy ên và
M ôi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Xây dựng, các bộ, ngành kinh tế kỹ thuật,
UBND cấp tỉnh và Ban quản lý, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 12 -
UBND cấp tỉnh trong quản lý hoạt động đầu tư. UBND cấp tỉnh là một đơn vị hành
chính của Trung ương tại địa phương, ủy ban nhân dân sẽ thực hiện chức năng quản lý
toàn diện về phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, trong đó có cấp Giấy chứng
nhận đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư trên địa bàn.

Cùng với việc phân cấp mạnh cho UBND cấp tỉnh và Ban quản lý, chức năng
quản lý của nhà nước của Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ yếu tập trung vào công tác xây
dựng chính sách pháp luật, t heo dõi, kiểm tra, thanh tra, giám sát và hỗ trợ cho hoạt
động đầu tư, chủ trì thực hiện hoạt động xúc tiến đầu tư trên quy mô toàn quốc, chủ trì
phối hợp, tham gia soạn thảo các điều ước quốc tế liên quan đến hoạt động đầu tư; tổ
chức hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, tăng cường năng lực quản lý đầu tư cho
cơ quan quản lý đầu tư các cấp.
1.2.9. Áp dụng đối với dự án đầu tư thực hiện trước ngày 1/7/2006.
Để đảm bảo các hoạt động đầu tư không bị xáo trộn, Luật Đầu tư quy định các
dự án đầu tư trong nước và dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã thực hiện hoặc cấp Giấy
phép đầu tư trước khi Luật Đầu tư có hiệu lực không phải làm thủ tục đăng ký hoặc
thẩm tra đầu tư; nếu nhà đầu tư có nhu cầu cấp Giấy chứng nhận đầu tư thì đăng ký tại
cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đầu tư và không phải làm thủ tục về
thẩm tra đầu tư (nếu dự án thuộc diện thẩm tra đầu tư).










Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 13 -
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA LUẬT Đ Ầ
U TƯ 2005
ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀ Đ ẦU TƯ NƯỚC NGOÀI


Ở CÁC KHU CÔ NG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT TẠI VIỆT NAM
2.1. Vài nét về khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam.
2.1.1. Khu chế xuất.
Với tính chất là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, đứng ngoài chế độ mậu
dịch và thuế quan của một nước, ngày nay có nhiều cách hiểu khác nhau về khu chế
xuất, và do đó, có nhiều định nghĩa khác nhau về mô hình kinh tế này.
- Định nghĩa của Hiệp hội các khu chế xuất thế giới( WEPZA): Theo điều lệ
hoạt động của WEPZA, khu chế xuất bao gồm tất cả các khu vực được Chính phủ các
nước cho phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự do, khu công nghiệp tự do hoặc bất kì
khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác được WEPZA công nhận. Định nghĩa này về
cơ bản đồng nhất khu chế xuất với khu vực miễn thuế. Theo định nghĩa này, có thể xếp
Hồng Kông và Singapo vào các khu chế xuất.
- Định nghĩa của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc( UNIDO):
Theo UNIDO, khu chế xuất là "khu vực được giới hạn về hành chính, có khi về địa lý,
được hưởng một chế độ thuế quan cho phép tự do nhập khẩu trang bị và sản phẩm
nhằm mục đích sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Chế độ thuế quan được ban hành cùng
với những qui định luật pháp ưu đãi, chủ yếu về thuế nhằm thu hút đầu tư nước ngoài."
Khái niệm khu chế xuất bao hàm viêc t hành lập các nhà máy hiện đại trong một khu
công nghệp và một loạt những ưu đãi nhằm khuyến khích việc đầu tư của các nhà kinh
doanh nước ngoài vào nước sở tại. Với định nghĩa hẹp nói trên của UNIDO, về bản
chất hoạt động kinh tế khu chế xuất khác với khu mậu dịch tự do, cảng tự do. Bởi hoạt
động chính trong khu chế xuất là sản xuất công nghiệp, mặc dù trên thực tế các hoạt
động kinh doanh cũng được thực hiện tại một số khu chế xuất.
- Định nghĩa của Việt Nam: Theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
công nghệ cao- ban hành kèm theo Nghị định số 36/ CP ngày 24/ 4/ 1997, khu chế
xuất là "khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng
xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 14 -
sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập”. Như vậy, về cơ

bản, khu chế xuất ở Việt Nam cũng được hiểu theo như định nghĩa hẹp của UNIDO.
2.1.2 Khu công nghiệp:
Tuỳ điều kiện từng nước mà Khu công nghiệp có những nội dung hoạt động
kinh tế khác nhau. Nhưng tựu trung lại, hiện nay trên thế giới có hai mô hình phát triển
Khu công nghiệp, cũng từ đó hình thành hai định nghĩa khác nhau về khu công nghiệp.
- Định nghĩa 1: Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản
xuất công nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công
nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở Khu
công nghiệp theo quan niệm này về thực chất là khu hành chính - kinh tế đặc biệt như
khu công nghiệp Batam Indonesia, các công viên công nghiêp ở Đài Loan, Thái Lan
và một số nước Tây Âu.
- Định nghĩa 2: Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở
đó tập trung các doanh nghiệp công nghệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có
dân cư sinh sống. Đi theo quan niệm này, ở một số nước như Malaixia, Indonesia, Thái
Lan, Đài Loan đã hình thành nhiều khu công nghiệp với qui mô khác nhau. - Định
nghĩa của Việt Nam: Theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ
cao - ban hành kèm theo Nghị định số 36/ CP ngày 24/ 4/ 1997, khu công nghiệp là
"khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp
và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, kông
có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập.
Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất". Như vậy, khu công nghiệp ở
Việt Nam được hiểu giống với định nghĩa hai.
2.1.3 Sự giống và khác nhau giữa KCN, KCX.
a. Giống nhau:
- Một là, qui mô khu chế xuất và khu công nghiệp gần như nhau, khoảng một
vài trăm ha. Thí dụ diện tích khu chế xuất Tân Thuận là 300 ha, khu chế xuất Linh
Trung là 60 ha, khu chế xuất Hải Phòng là 100 ha; diện tích khu công nghiệp Biên Hoà
là 365 ha, khu công nghiệp Nội Bài là 100 ha, khu công nghiệp Sài Đồng là 97 ha
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 15 -

- Hai là, các doanh nghiệp trong khu chế xuất và khu công nghiệp chủ y ếu có
qui mô vừa và nhỏ, thường dưới 5 triệu đôla, với số lao động khoảng từ 300 đến 400
người. Những ngành nghề đặc trưng trong khu chế xuất và khu công nghiệp là: điện
tử, sợi dệt, may m ặc, chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng, cơ khí chế tạo, các ngành
không gây ô nhiễm môi trường hoặc gây ô nhiễm ít có thể xử lí bằng các biện pháp và
phương tiện trong khu
- Ba là, đối tượng đầu tư trong khu chế xuất và khu công nghiệp là các tổ chức
kinh tế và cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước
ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam, các tổ chức kinh tế và cá nhân ở nước ngoài.
- Bốn là, về hình thức đầu tư, trong khu chế xuất và khu công nghiệp được
thành lập doanh nghiệp 100% vốn của nhà đầu tư, doanh nghiệp liên doanh, hợp tác
kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Năm là, để xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu chế xuất và khu công
nghiệp, có thể dùng phương thức trong nước tự đầu tư hoặc kêu gọi đầu tư trực tiếp
của nước ngoài theo hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài.
- Sáu là, để quản lí Nhà nước đối với khu chế xuất và khu công nghiệp, Thủ
tướng Chính phủ thành lập Ban quản lí. Ban quản lí khu chế xuất và khu công nghiệp
là cơ quan thực hiện dịch vụ quản lí "một cửa" cho các nhà đầu tư.
b. Khác nhau:
- Thứ nhất, về mục tiêu hoạt động, doanh nghiệp khu chế xuất phải xuất khẩu
toàn bộ sản phẩm ra thị trường ngoài nước, còn doanh nghiệp khu công nghiệp được
tiêu thụ sản phẩm tại thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Thứ hai, do xuất phát từ mục tiêu khác nhau, nên có một số điều kiện ưu đãi
dành cho các doanh nghiệp trong khu chế xuất và khu công nghiệp cũng khác nhau.
Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài ban hành vào
tháng 7 năm 2000 và Nghị định số 24/ 2000/ NĐ- CP ngày 31 tháng 7 năm 2000 qui
định chi t iết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, điều kiện ưu đãi về thuế
thu nhập doanh nghiệp dành cho doanh nghiệp khu công nghiệp và doanh nghiệp khu
chế xuất như sau:

Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 16 -
+ Đối với doanh nghiệp khu chế xuất, bất kể là của chủ đầu tư trong hay ngoài
nước đều được hưởng mức ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cao và như nhau,
doanh nghiệp sản xuất thuế t hu nhập doanh nghiệp là 10%, được miễn 4 năm kể từ khi
kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo; doanh nghiệp dịch vụ thuế thu
nhập doanh nghiệp là 15%, được miễn 2 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50%
trong 3 năm tiếp theo.
+ Đối với doanh nghiệp khu công nghiệp, doanh nghiệp sản xuất thuế thu nhập
doanh nghiệp là 10% (với điều kiện xuất khẩu từ 80% sản phẩm trở lên) được miễn 4
năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo, là 15% (với điều
kiện xuất khẩu trên 50% sản phẩm) được miễn 2 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và
giảm 50% trong 3 năm tiếp theo; doanh nghiệp dịch vụ thuế thu nhập doanh nghiệp là
20%, được miễn 1 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo.
2.2. Sự phát triển của khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam.
Được hình thành và phát triển xuất phát từ chủ trương của Đảng và Chính phủ
trong việc quy hoạch các vùng tập trung phát triển công nghiệp, vùng lãnh thổ kinh tế
gắn với các cơ chế, chính sách đặc thù nhằm tạo đột phá trong phát triển công nghiệp,
phát triển vùng phục vụ mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
trải qua quá trình xây dựng và phát triển, các KCN, K CX, KKT đã có những đóng góp
tích cực trong thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài, giải quyết việc
làm, góp phần hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao giá trị sản xuất công nghiệp,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế các địa phương và cả nước đảm bảo thực hiện mục tiêu
phát triển kinh tế, thương mại gắn với bảo đảm an ninh quốc phòng trên biển, biên giới
và đất liền.
KCN, KCX đã tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, có giá trị
lâu dài, góp phần hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng trên cả nước. Các KCN, KCX
có đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng ngành sản xuất công nghiệp, nâng cao giá trị
xuất khẩu và sức cạnh tranh của nền kinh tế qua đó góp phần chuy ển dịch cơ cấu kinh
tế của các địa phương và cả nước theo hướng công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa

(HĐH), góp phần quan trọng trong việc giải quy ết việc làm, đào tạo nguồn nhân lực,
nâng cao thu nhập, đời sống và trình độ của người lao động.
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 17 -
Song hành cùng với quá trình đổi mới và mở cửa nền kinh t ế, Đảng và N hà
nước đã chủ trương hình thành các KCN, KCX với ý nghĩa là các trung tâm sản xuất
công nghiệp, dịch vụ có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Các KCN, KCX hiện đang
là điểm đến của nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới trong các lĩnh vực khác nhau với các
sản phẩm đa dạng được xuất khẩu toàn cầu, góp phần khẳng định vị thế của Việt Nam
trong bản đồ địa kinh tế của khu vực và thế giới. KCN, KCX đã huy động được lượng
vốn đầu tư lớn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, nâng cao hiệu quả sử
dụng đất, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Trong năm 2012, một số tập đoàn lớn trong KCN có sự đột biến trong tăng
trưởng về doanh thu, xuất khẩu, nhập khẩu, đặc biệt là Tập đoàn Samsung, góp phần
quan trọng đưa các chỉ tiêu sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp KCN tăng
trưởng cao so với cùng kỳ năm trước. Kết quả, tổng doanh thu của các doanh nghiệp
KCN trong năm 2012 đạt hơn trên 60 tỷ USD (tăng 57% so với năm 2011) và 86,73
nghìn tỷ đồng (tăng gần 20.000 tỷ đồng so với năm 2011); kim ngạch xuất khẩu và
nhập khẩu của các doanh nghiệp đạt xấp xỉ 38 tỷ USD và 37,7 tỷ USD, tăng 26% so
với năm 2011, bằng 33% so với giá trị xuất nhập khẩu của cả nước năm 2012; đóng
góp vào ngân sách nhà nước 30,5 nghìn tỷ đồng và 416 triệu USD, tăng hơn 15% so
với so với cùng kỳ.
Tính đến cuối tháng 9/2012, các KCN, KCX đã thu hút được hơn 4.300 dự án
FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt hơn 64,8 tỷ USD, tổng vốn đầu tư
thực hiện đạt 32,7 tỷ USD, bằng 51% tổng vốn đầu tư đăng ký. Hàng năm vốn FDI
vào KCN, KCX chiếm từ 40-45% tổng vốn FDI đăng ký tăng thêm của cả nước, trong
đó các dự án FDI về sản xuất công nghiệp trong KCN, KCX chiếm gần 80% tổng vốn
FDI vào ngành công nghiệp cả nước. Riêng trong 9 tháng đầu năm 2012, tổng vốn FDI
đã đăng ký vào các KCN, KCX đạt 4,43 tỷ USD, tăng 30% so với cùng kỳ năm 2011.
 Một số định hướng phát triển khu công nghiệp trong tương lai:

Để tiếp tục phát huy những thành quả đạt được, khắc phục những khó khăn
vướng mắc, cản trở đối với thu hút đầu tư nước ngoài vào KCN, KKT, trong thời gian
tới, đồng hành với những định hướng phát triển chung của nền kinh tế về tái cấu trúc
đầu tư, doanh nghiệp ngân hàng, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia, ổn định kinh tế vĩ
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 18 -
mô, kiềm chế lạm phát, đảm bảo an sinh xã hội, phát triển nguồn nhân lực quốc gia,
các KCN, KKT cần xây dựng và phát triển theo một số ðịnh hýớng cõ bản sau:
- Một, nâng cao chất lượng quy hoạch KCN, KKT
Xây dựng, triển khai quy hoạch KCN, KKT gắn với thực hiện quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển các ngành công
nghiệp, quy hoạch đô thị, quy hoạch khu dân cư, quy hoạch nhà ở và các quy hoạch
ngành khác.
- Hai, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng KCN, KKT
Nâng cao chất lượng xây dựng kết cấu hạ tầng KCN theo hướng xây dựng một
cách đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật với các tiện nghi, tiện ích công cộng phục vụ
cho KCN; gắn kết cấu hạ tầng trong hàng rào với ngoài hàng rào KCN. Đa dạng các
nguồn vốn để đầu tư xây dựng nhà ở và các công trình tiện nghi, tiện ích phục vụ đời
sống người lao động KCN.
Đối với các KKT, trong thời gian tới cần có cơ chế huy động tổng hợp các
nguồn vốn (ODA, FDI, ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ) và nhiều hình thức
đầu tư (đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, BT, BOT, PPP…) để tiếp tục đầu tư xây dựng
các công trình hạ tầng thiết yếu, quan trọng trong các KKT để tạo điều kiện đẩy mạnh
thu hút đầu tư phát triển các KKT. Tăng cường tính chủ động của địa phương trong
việc huy động các nguồn vốn đầu tư xây dựng hạ tầng KKT.
Đẩy nhanh tiến độ các dự án động lực đã thu hút được và cơ sở hạ tầng kỹ thuật
thiết yếu trong các KKT để tạo tiền đề cho việc hình thành khu vực phát triển công
nghiệp nòng cốt trong các KKT và thu hút các nhà đầu tư khác.
- Ba, cải thiện chất lượng thu hút đầu tư vào KCN, KKT
Tập trung ưu tiên thu hút các ngành nghề, lĩnh vực có hàm lượng công nghệ

tiên tiến, hiện đại, thân thiện với môi trường, các ngành nghề xác định là mũi nhọn
phát triển và có lợi thế của Việt Nam và phù hợp với chương trình tái cơ cấu kinh tế,
cơ cấu đầu tư của đất nước. Tăng cường tính liên kết ngành trong phát triển KCN,
KKT; hình thành các KCN liên kết ngành nhằm tăng lợi thế cạnh tranh của KCN và
nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN, dần hình thành các ngành công nghiệp phụ
trợ, đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương.
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 19 -
Bối cảnh kinh tế tại một số quốc gia trong thời gian vừa qua cũng tạo ra cơ hội
cho Việt Nam trong việc kêu gọi dòng đầu tư đang dịch chuyển sang các nước Đông
Nam á, trong đó có Việt Nam, đặc biệt là các nhà đầu tư Nhật Bản, Hàn Quốc. Điều
này tạo cơ hội cho Việt Nam trong thu hút đầu tư nhưng cũng đặt ra thách thức cho
Việt Nam trong việc cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao tính hấp dẫn của Việt Nam
trong quá trình cạnh tranh với các quốc gia truyền thống khác trong khu vực như Thái
Lan, Indonesia, Malaysia và một số quốc gia mới nổi như Campuchia, Myanma. Để
đón nhận được làn sóng đầu tư nước ngoài mới, trong giai đoạn tới, Việt Nam cần phải
nhanh chóng hoàn thiện các cơ chế, chính sách về đầu tư nước ngoài, hạ tầng kinh tế -
xã hội phục vụ nhà đầu tư và tăng cường hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư.
- Bốn, kiểm soát chặt chẽ vấn đề môi trường
Tăng cường giám sát, thanh, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về môi trường
trong các KCN, KKT gắn với việc xử lý vi phạm một cách kiên quyết, dứt điểm. Nâng
cao năng lực quản lý và kỹ thuật về môi trường cho các cơ quan liên quan đến KCN,
KKT để tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý có đầy đủ nguồn lực thực hiện nhiệm
vụ về bảo vệ môi trường KCN.
- Năm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động
Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm cải thiện điều kiện lao động,
hỗ trợ đời sống vật chất, tinh thần của người lao động trong KCN, KKT phù hợp với
điều kiện thực tế của đất nước. Xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa người lao động và
người sử dụng lao động, tăng cường vai trò của tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp,
khuyến khích doanh nghiệp phát triển kinh doanh gắn với nâng cao trách nhiệm đối

với quyền lợi của người lao động và của cộng đồng. Nghiên cứu, xây dựng chính sách
mang tính khuyến khích cao để huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng nhà ở cho
người lao động KCN, KKT thuê; chú trọng huy động nguồn lực sẵn có trong dân cư
gắn với kiểm soát tiêu chuẩn xây dựng, kinh doanh nhà ở cho người lao động thuê.
- Sáu, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển KCN, KKT
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách hiện hành về KCN, KKT theo hướng
tăng cường phân cấp, ủy quyền từ Trung ương tới địa phương, gắn chặt với cơ chế
phân công trách nhiệm và phối hợp rõ ràng, minh bạch giữa các cơ quan Trung ương
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 20 -
và địa phương. Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước ở cấp Trung ương và địa phương
đảm bảo đủ thẩm quy ền và nguồn lực để quản lý các KCN, KKT theo hướng một cửa,
một đầu mối và tương xứng với vai trò vị trí ngày càng quan trọng của các KCN, KKT
trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
2.3. Ảnh hưởng của luật đầu tư năm 2005 đối với đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài ở các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Việt Nam.
2.3.1. Thu hút đầu tư tại khu công nghiệp, khu chế xuất.
Đối với Việt Nam, để tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đòi hỏi một khối
lượng vốn đầu tư rất lớn.Vốn trong nước chưa đủ để đáp ứng nhu cầu đó. Do đó thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX là rất quan trọng vì KCN, KCX
phản ánh tiềm năng phát triển công nghiệp của mỗi nước. Theo ngân hàng thế
giới(WB), các dự án thực hiện trong KCN, KCX do các nhà đầu tư nước ngoài hoặc
do liên doanh với nước ngoài thực hiện (24% do liên doanh với nước ngoài, 33 do các
nhà đầu tư nước ngoài, 43% do đầu tư trong nước). Do vậy KCN, KCX đã góp phần
đáng kể trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cho nước chủ nhà.
Năm 2012, các KCN cả nước đã thu hút được 366 dự án FDI với tổng vốn đầu
tư đăng ký đạt 4.017 triệu U SD và điều chỉnh tăng vốn cho 329 lượt dự án với tổng
vốn đầu tư tăng thêm 2.840 triệu USD. Tính chung, tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào
KCN năm 2012 đạt 6.860 triệu USD, tăng 6% so với năm 2011, chiếm 53% tổng vốn
FDI cả nước, trong đó có một số dự án lớn đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong

năm 2012, như: Dự án đầu tư giai đoạn 2 của Samsung tại KCN Yên Phong, tỉnh Bắc
Ninh với tổng vốn tăng thêm 830 triệu USD; Dự án tăng vốn mở rộng sản xuất thêm
870 triệu USD của Công ty TNHH Wintex Việt Nam tại KCN Quang Châu, tỉnh Bắc
Giang; Dự án của Công ty TNHH sản xuất Toàn cầu LIXIL Việt Nam tại KCN Long
Đức, tỉnh Đồng Nai với tổng vốn đầu tư 441 triệu U SD; Dự án nhà máy sản xuất sợi
tại KCN Hải Yên, TP Móng Cái, Quảng Ninh của nhà đầu tư Hồng Kông với tổng vốn
đầu tư 300 triệu U SD; dự án Công ty TNHH Thép KYOEI Việt Nam của nhà đầu tư
Nhật Bản tại KCN Khánh Phú, tỉnh Ninh Bình với tổng vốn đầu tư 184,4 triệu USD.
Lũy kế đến cuối năm 2012, các KCN trong cả nước đã thu hút được 4.519 dự án FDI
với t ổng vốn đầu tư đăng ký 60.300 triệu USD, tổng vốn đầu tư đã thực hiện đạt
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 21 -
32.400 triệu USD, bằng 54% tổng vốn đầu tư đăng ký. Hiện nay đã có hơn 3.200 dự án
đang sản xuất kinh doanh, 450 dự án đang trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản.
Tính đến thời điểm hiện tại, Bình Dương là đã có 28 khu công nghiệp được
thành lập, trong đó 26 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động với tổng diện tích là
8.400ha - là địa phương thu hút nhiều vốn FDI nhất với 2.53 tỉ USD vốn đăng ký mới
và tăng thêm chiếm 19,5% vốn đầu tư.Nhờ có hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ nên
thương hiệu “KCN Bình Dương” có sức hấp dẫn mạnh đối với các nhà đầu tư. .
+ Các dự án FDI đầu tư vào các KCN của tỉnh Bình Dương có vốn đầu tư tương
đối khá, với mức bình quân 7,5 triệu USD/dự án. Hiện đã có 33 quốc gia và vùng lãnh
thổ trên thế giới có dự án đầu tư tại các KCN tỉnh Bình Dương. Các quốc gia và vùng
lãnh thổ có dự án lớn là: Đài Loan, Singap ore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ… Những dự
án này có xu hướng thiên về công nghệ cao, sản xuất những sản phẩm có giá trị gia
tăng lớn, sức cạnh tranh mạnh.Số lượng DN đầu tư vào các KCN ở tỉnh Bình Dương
không ngừng tăng lên trong những năm qua, bình quân mỗi năm có khoảng 60-70 DN
mới. Cũng nhờ đó, tốc độ tăng doanh thu trung bình hàng năm đạt từ 15-20%. Giai
đoạn 2006-2010, các KCN đã tạo ra doanh thu 25,6 tỷ USD, trong đó giá trị xuất khẩu
đạt 12,4 tỷ USD, nộp ngân sách 650 triệu USD, đóng góp khoảng 50-60% GDP của
tỉnh. Năm 2011, doanh thu của các DN trong các KCN tỉnh Bình Dương đạt 7,225 tỷ

USD, trong đó xuất khẩu đạt 3,1 tỷ USD, chiếm 30% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh.
Các KCN đã giải quyết việc làm cho 308 ngàn lao ðộng
+ Những khu công nghiệp có tỉ lệ lắp đầy 80-100% là Sóng Thần 1, Sóng Thần
2, Đồng An, Tân Đông Hiệp A, Việt Hương,VSIP1, VSIP2, Mỹ Phước 2, Bình An,
Bình Đường, M ỹ Phước,Nam Tân Uyên, Tân Đông Hiệp B.
+ Không ngừng ở đó mà các nhà lãnh đạo dự kiến các khu công nghiệp tỉnh
Bình Dương sẽ thu hút khoảng 3-4 t ỉ USD vốn FDI, giai đoạn 2016-2020 là 4-5 tỉ
USD.
Theo sau khu công nghiệp Bình Dương là khu công nghiệp Hải Phòng với tổng
vốn đăng ký cấp mới là tăng thêm 1,16 tỉ USD chiếm 9%. Số vốn FDI thu hút vào các
khu công nghiệp chiếm gần 98% tổng vốn FDI toàn thành phố Hải Phòng (926,3 triệu
USD).
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 22 -
+ Tính đến cuối tháng 4/2012, các khu côn nghiệp trên địa bàn thành phố Hải
Phòng thu hút gần 908 triệu USD vốn FDI, bao gồm 5 dự án mới được cấp giấy chứng
nhận đầu tư với số vốn đăng ký là 863,2 triệu USD và 4 dự án tăng vốn thêm 44,7 triệu
USD. So với năm 2011 kết quả vốn FDI tăng gấp 20 lần do các nhà đầu tư Nhật Bản
cam kết đầu tư số vốn lớn vào địa phương mà lớn nhất là dự án sản xuất lốp xe ô-tô
của tập đoàn Bridgestone với 575 triệu USD vào khu công nghiệp Đình Vũ.
+ Gần đây nhất là tập đoàn Nipro Pharma Corporation ( Nhật Bản) đã nhận giấy
chứng nhận đầu tư triển khai dự án xây nhà máy chuyên sản xuất dược phẩm và thiết
bị y tế tại khu công nghiệp tại huyện Thủy Nguyên. Với tổng số vốn đầu tư là 250 triệu
USD, nhà máy chuyên sản xuất các loại tân dược để xuất khẩu ra thế giới. Theo kế
hoạch, nhà máy sẽ được khởi công xây dựng trong tháng 8/2012 và đi vào sản xuất
trong tháng 5/2015.
Tiếp theo đó là Đồng Nai, Hà Nội, Bắc Ninh với quy mô vốn đăng ký lần lượt
là 1.115 tỉ USD, 1.111 tỉ USD, 1.105 tỉ USD.
+ Tính đến tháng 9/2012, Đồng Nai có 31 KCN được thành lập với tổng diện
tích 9.838,31ha, trong đó đã cho thuê được 3.996,63ha đạt tỷ lệ 62,02% diện tích đất

dành cho thuê (6.144,12ha), thu hút 36 quốc gia và vùng lãnh thổ hoạt động đầu tư với
tổng số 1.192 dự án còn hiệu lực, trong đó có 867 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với
tổng vốn đầu tư 35.085 tỉ đồng. Giá trị giải ngân lũy kế đến tháng 9/2012 đạt 8.598
triệu USD đạt 59% so với tổng vốn đăng ký. Riêng 2011 doanh thu đạt 11.118 triệu
USD, xuất khẩu đạt 5,856 triệu U SD, nhập khẩu 7.356 triệu USD.
Trong tháng 01/2013, Ban Quản lý các KCN Đồng Nai đã cấp Giấy chứng nhận
đầu tư mới cho 07 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký là 124
triệu USD, trong đó đặc biệt là dự án Cty TNHH Terumo BCT Việt Nam tại Khu
Công nghiệp Long Đức có tổng vốn đầu tư đăng ký là 98,9 triệu USD, với mục tiêu
hoạt động là Sản xuất sản phẩm, thiết bị y tế: túi đựng máu, bộ thiết bị thu thập thành
phần máu. Đồng thời, trong tháng 01/2013 Ban Quản lý các KCN Đồng Nai đã điều
chỉnh 40 lượt dự án, trong đó bao gồm 04 dự án tăng vốn với tổng vốn tăng là 45.6
triệu USD. Ngoài ra, Ban Quản lý đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong nước cho 02
dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 200 tỷ đồng. Như vậy, tính đến hết ngày
31/01/2013, các Khu Công nghiệp Đồng N ai đã thu hút được tổng vốn đầu tư FDI là
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 23 -
khoảng 181,1 triệu USD và 200 tỷ đồng vốn đầu tư trong nước; ước đạt 613,8% so với
lượng vốn đầu tư nước ngoài cùng kỳ năm ngoái (29,5 triệu USD) và 21,3% so với kế
hoạch cả năm (01 tỷ đô la Mỹ).(DIZA)
+ Năm 2011, ban quản lý Hà Nội đã cấp giấy chứng nhận đầu tư mới cho 29 dự
án và điều chỉnh tăng vốn cho 21 dự án tổng giá trị đạt 191,13 triệu USD tăng 40,5%.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN trong khu công nghiệp đạt mức tăng
trưởng khá cao với doanh thu cả năm 2011 đạt 4,068 tỉ USD tăng 13,8% so với năm
2010. Kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 2,46 tỉ USD tăng 15,5% chiếm 37,5% kim ngạch
xuất khẩu của thành phố, kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 2,48 tỉ Usd tăng 17,7%. Đến
cuối năm 2012 các khu công nghiệp ở Hà Nội có 510 dự án đăng ký đầu tư, trong đó
có 257 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký 3,723 tỉ U SD.
 Để có được sự thu hút đầu nước ngoài như vậy thì cũng do một số yếu tố:
+ Đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển

khu công nghiệp để tạo tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
chủ trương đổi mới, mở cửa nền kinh tế, mở rộng hợp tác quốc tế và phát huy nội lực
để tăng trưởng kinh tế đã được quán triệt rộng rãi từ Trung ương đến địa phương và
các thành phần kinh tế .
+ Hệ thống chính sách phát triển khu công nghiệp bước đầu đã tạo được hành
lang pháp lý cho việc vận hành các khu công nghiệp. Đây là vấn đề cần được tiếp tục
hoàn thiện trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tế của công tác phát triển khu công
nghiệp.
+ Sự quan tâm chỉ đạo của các Bộ, ngành trong công tác quản lý phát triển khu
công nghiệp. Bằng cơ chế uỷ quyền, các Bộ, ngành đã tạo điều kiện cho các Ban quản
lý khu công nghiệp phát huy tốt cơ chế quản lý một cửa, tại chỗ, thực hiện các giám
sát về chuyên môn để đảm bảo sao cho các vướng mắc của doanh nghiệp được giải
quyết nhanh và đúng pháp luật .
+ Ý chí quy ết tâm và sự quan tâm của Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân các cấp ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đối với việc phát triển
khu công nghiệp trên địa bàn là nhân tố quan trọng để phát huy lợi thế của địa phương,
của vùng. Bài học ở các địa phương có khu công nghiệp phát triển cho thấy, sự thống
nhất ý chí của các cấp ở địa phương là yếu tố quyết định đối với sự phát triển của khu
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 24 -
công nghiệp, đưa các chủ trương, chính sách về phát triển khu công nghiệp của Đảng

+ Tinh thần quyết tâm khắc phục khó khăn, chủ động tìm kiếm giải pháp hiệu
quả để xây dựng, phát triển khu công nghiệp của các Ban quản lý khu công nghiệp, các
doanh nghiệp phát triển hạ tầng, các doanh nghiệp khu công nghiệp được coi là một
trong các yếu tố quan trọng nhất đảm bảo sự thành công của việc phát triển các khu
công nghiệp.
 Đầu tư nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất là nguồn vốn bổ
sung quan trọng cho nguồn vốn phát triển kinh tế:
Đầu tư vào KCN, KCX thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hướng CNH, HĐH: Do tác động của vốn, khoa học kỹ thuật do đầu tư trực tiếp nước
ngoài mang lại làm cơ cấu kinh tế được chuyển dịch. Hướng chuyển dịch là tăng tỷ
trọng sản phẩm công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp. Số
doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào trong KCN, KCX tăng sẽ thu hút được số lượng
khá lớn lao động, giải quyết được công ăn việc làm cho nước s ở tại. Ngoài ra, KCN,
KCX còn góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ cho đất nước.Theo thống kê
của WEPZA (Hiệp hội KCX thế giới) một KCX diện tích khoảng 100ha, cần đầu tư 50
triệu USD cho cơ sở hạ tầng trong vòng 20 năm sẽ tạo việc làm làm cho 10.000 lao
động. Từ đó tạo ra hàng xuất trị giá 100 triệu USD/năm và 100 triệu USD/năm thông
qua thu nhập gián tiếp ngoài KCX. Như vậy tính bình quân một công nhân trong KCX
tạo ra giá trị 5.000-10.000USD/năm. Vào đầu thập kỷ này đã hình thành một số KCN,
KCX. Thành công bước đầu và quá trình phát triển, lớn mạnh các KCX góp phần quan
trọng đưa đất nước ta t iến nhanh trên con đường CNH, HĐH đất nước.
FDI trong KCN, KCX có đóng góp không nhỏ vào tăng trư ởng sản xuất công
nghiệp, nâng cao giá trị xuất khẩu và sức cạnh tranh của nền kinh tế: thực tế 20 năm
xây dựng và phát triển cho thấy, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong các KCN, đã
có những đóng góp ngày càng lớn vào việc nâng cao giá trị gia tăng trong ngành công
nghiệp. Tỷ trọng vốn FDI trong KCN, chiếm tới 80% tổng vốn FDI đầu tư vào ngành
công nghiệp cả nước. Ngoài ra, qua vai trò của FDI trong KCN, sức cạnh tranh của
các doanh nghiệp KCN, KKT trên thị trường thế giới được nâng cao đáng kể trong
thời gian qua, thể hiện ở giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, tăng đều qua
Bài Thuyết Trình – Luật Đầu Tư GVHD: TS. Nguyễn Đăng Liêm
- 25 -
các năm với tốc độ tăng bình quân cao hơn tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân
của cả nước. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng lên từ mức 20% năm 2005 và 25-30% trong
những năm gần đây.
Và còn mở rộng hợp tác đầu tư quốc tế: Ngày nay trên thế giới không chỉ diễn
ra sự cạnh tranh của các nước tiếp nhận đầu tư mà còn diễn ra cuộc cạnh tranh quyết
liệt giữa các nước đi đầu tư. Xu hướng đa cực trong đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo

điều kiện cho các nước thực hiện đường lối mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Vì vậy,
đầu tư trực tiếp vào KCN, KCX cũng góp phần mở rộng quan hệ kinh tế giữa nước
chủ nhà với các nước, lãnh thổ của chủ đầu tư.
 Bên cạnh những thành công thì vẫn còn một vài hạn chế:
Do cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ cho phát triển công nghiệp còn yếu
kém, trong đó hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào là nhân tố gây tâm lý lo ngại cho
các nhà đầu tư; chi phí đầu tư xây dựng hạ tầng, nền móng nhà xưởng tại các KCN tốn
kém do nền đất tương đối yếu.
Về môi trường, xã hội trong KCN, KKT:Vấn đề bảo vệ môi trường KCN tuy đã
được cải thiện, song vẫn còn tồn tại một số KCN, doanh nghiệp KCN chưa tuân thủ
nghiêm túc pháp luật về môi trường. N guyên nhân là do ý thức của doanh nghiệp thứ
cấp, kể cả doanh nghiệp là chủ đầu tư hạ t ầng KCN nhiều khi chưa cao, vẫn đặt lợi ích
kinh t ế lên trên trách nhiệm bảo vệ môi trường; công tác phối hợp kiểm tra, giám sát
bảo vệ môi trường KCN của các cơ quan Nhà nước chưa thật chặt chẽ. M ặc dù số
lượng các nhà máy xử lý nước thải tập trung đã tăng lên nhưng theo báo cáo của các
Ban Quản lý các KCN, tại khu vực xung quanh KCN ở một số địa phương, một số tiêu
chuẩn nước thải vượt quá quy định cho phép. Nguyên nhân là do việc vận hành nhà
máy xử lý nước thải chưa tuân thủ theo quy định trong khi công tác giám sát, kiểm tra,
thanh tra của các cơ quan quản lý còn hạn chế, chưa có chế tài xử phạt có tính răn đe.
Các chính sách khuyến khích hiện hành đối với đầu tư xây dựng nhà ở cho công
nhân vẫn chưa đủ mạnh, chưa đủ hấp dẫn các doanh nghiệp, chưa khiến họ quan tâm
thỏa đáng đến việc đầu tư xây nhà ở cho người lao động trong KCN, KKT. Phần lớn

×