Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

LUẬN VĂN CÔNG NGHỆ SINH HỌC CÂY TẠO TRẦM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 47 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
BỘ MÔN CÔNG NGHỆ SINH HỌC
***OOO***





PHẠM TIẾN LỢI



NGHIÊN CỨU GÂY TẠO TRẦM HƢƠNG TRÊN CÂY DÓ
BẦU BẰNG PHƢƠNG PHÁP VI SINH VÀ HÓA HỌC




Luận văn kỹ sƣ
Chuyên ngành: CÔNG NGHỆ SINH HỌC







Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 08/2006



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
BỘ MÔN CÔNG NGHỆ SINH HỌC
***OOO***




NGHIÊN CỨU GÂY TẠO TRẦM HƢƠNG TRÊN CÂY DÓ
BẦU BẰNG PHƢƠNG PHÁP VI SINH VÀ HÓA HỌC


Luận văn kỹ sƣ
Chuyên ngành: Công Nghệ Sinh Học


Giáo viên hƣớng dẫn: Sinh viên thực hiện:
Th.S ĐINH TRUNG CHÁNH PHẠM TIẾN LỢI
Khóa: 2002 - 2006



Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 08/2006



MINISTRY OF EDUCATION AND TRAING
NONG LAM UNIVERSITY, HCMC

DEPARTMENT OF BIOTECHNOLOGY








INDUCTION OF AGARWOOD FORMATION ON AQUILARIA
CRASSNA PIERRE EX. LECOMTE TREES BY FUNGI
INNOCULATION AND CHEMICAL TREATMENTS




GRADUATIONTHESIS
Major: Biotechnology





Guide: Student:
B.a ĐINH TRUNG CHANH PHAM TIEN LOI
Term: 2002 – 2006







Ho Chi Minh City
08/2006




LỜI CẢM TẠ

 Chân thành cảm ơn!
Trường Đại Học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh.
Bộ Môn Công Nghệ Sinh Học Trường Đại Học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh.
Bộ Môn Cảnh Quan Hoa Viên Trường Đại Học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh.
Trung Tâm Phân Tích Thí Nghiệm Hoá Sinh Trường Đại Học Nông Lâm TP.
Hồ Chí Minh.
Trung Tâm Công Nghệ Quản Lý Môi Trường và Tài Nguyên Trường Đại Học
Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh.
Phòng Quản Trị Vật Tư Trường Đại Học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh.
Đã tạo mọi điều kiện cho chúng tôi học tập và hoàn thành luận án
tốt nghiệp đúng tiến độ!

 Chân thành cảm ơn!
Tất cả các Thầy Cô đã tận tình chỉ bảo, truyền đạt kiến thức mới cho chúng tôi
trong thời gian học tập!
 Chân thành cảm ơn!
ThS. Thầy. ĐINH TRUNG CHÁNH.
Đã luôn tận tình giúp đỡ, hướng dẫn, động viên và tạo mọi điều kiện
cho tôi trong suốt quá trình làm đề tài!
 Chân thành cảm ơn!

Tất cả các Anh, Chị vá các bạn, đã không ngừng động viên giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực hiên đề tài!

Xin chân thành bầy tỏ lòng biết ơn!
Sv: PHẠM TIẾN LỢI






DANH SÁCH HÌNH ẢNH
Tên hình Trang
H2.1 Cây Dó bầu được chọn làm thí nghiệm 4
H2.2 Tượng phật làm bằng Trầm 5
H2.3 Vòng đeo cổ bằng Trầm 5
H2.4 Vườn cây Dó bầu 6
H2.5 Quả cây Dó bầu còn non 7
H2.6 Quả cây Dó bầu khi chín 7
H2.7 Các mẫu tinh dầu Trầm 9
H2.8 Trầm hình thành ngoài tự nhiên 10
H3.1 Lỗ khoan làm thí nghiệm trên cây 27
H3.2 Một nghiệm thức 1 khi hoàn tất 27
H4.1 Phản ứng của cây quanh nghiệm thức 28
H4.2 Trầm hương hình thành trong lõi cây 29
H4.3 Vùng gỗ biến đổi màu và chỉ chạy dọc theo sớ gỗ 30
H4.4 Chỉ Trầm chạy dọc theo sớ gỗ 30
H4.5 Bào tử nấm Trichoderma 34
H4.6 Bào tử nấm Trichoderma đối chứng 34
H4.7 Bào tử nấm Macrophoma 34

H4.8 Bào tử nấm Macrophoma đối chứng 34
H4.9 Bào tử nấm Botriodiphodia 34
H4.10 Bào tử nấm Botriodiphodia đối chứng 34
H4.11 Bào tử nấm Diplodia 35
H4.12 Bào tử nấm Diplodia đối chứng 35







DANH SÁCH CÁC BẢNG

Tên bảng Trang

Bảng3.1 Bảng đo cây Dó bầu làm thí nghiệm tại
Thảo Cầm Viên tp HCM 18
Bảng 3.2 Bảng đo cây Dó bầu làm thí nghiệm tại
đảo Phú Quốc 18
Bảng3.3 Sơ đồ bố trí nghiệm thức trên
cây Dó bầu Ở Thảo Cầm Viên tp HCM 25
Bảng3.4 Sơ đồ bố trí thí nghiệm ở Phú Quốc 26
Bảng 4.1 Bảng đo diện tích vùng gỗ biến đổi màu 31
Bảng 4.2 Bảng đánh giá cảm quan 32




















DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. Bo Botryodiplodia sp
2. Di Diplodia sp
3. Rh Rhyzoctonia sp
4. Ma Macrophoma sp
5. Pe Penicillium sp
6. Tu Tuyến Trùng
7. Th Thermomycce sp
8. STT Số thứ tự
9. NT Nghiệm thức
10. H Hình
11. DC Đối chứng
12. CV Chu vi




























PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1. Đặt vấn đề
Cây Dó bầu còn gọi là cây Trầm hương, hay cây Kỳ nam, trong gỗ của nó có
khả năng sinh ra một loại sản phẩm đặc biệt gọi là Trầm hương hay là Kỳ nam. Trầm

hương có rất nhiều công dụng đã được biết và được sử dụng từ hàng ngàn năm qua, ở
nhiều nước trên thế giới. Từ xưa đến nay Trầm hương và Kỳ nam là loại sản phẩm đặc
biệt quý hiếm của rừng mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho con người. Chính vì vậy
mà Trầm hương có giá trị kinh tế rất cao trên thị trường. Điều này đã làm cho cây Dó
bầu trở thành loài thực vật đặc biệt được nhiều nhà khoa học và người dân chú ý, có
giá trị đặc biệt về mặt nghiên cứu khoa học ở Việt Nam nói riêng và các nước trên thế
giới nói chung.
Tuy nhiên, những nghiên cứu có tính hệ thống về sự hình thành Trầm hương
trên cây Dó bầu chỉ mới bắt đầu từ vài thập niên gần đây. Hầu hết các kết quả nghiên
cứu được công bố đều chưa đưa ra được các quy trình tối ưu cũng như là cơ chế hình
thành Trầm hương để có thể áp dụng rộng rãi ra sản xuất đại trà.
Trong khi đó cùng với sự mất rừng thì nguồn Trầm hương tự nhiên cũng ngày
càng cạn dần. Các loài thuộc chi Aquilaria có khả năng cho Trầm bị khai thác cạn kiệt.
Ở Việt Nam những người khai thác Trầm chặt đốn bừa bãi những cây Dó bầu ở bất kỳ
độ tuổi nào. Với cách khai thác như vậy thì chỉ trong một thời gian ngắn những cây
thuộc họ Dó bầu gần như bị diệt chủng. Trước tình hình đó Hội Đồng Bộ Trưởng (Nay
thuộc Chính Phủ) Đã ban hành Nghị Định số 18-HDBT ngày 17 tháng 1 năm 1992
quy định danh mục thực vật rừng, động vật rừng quý hiếm và có chế độ bảo vệ, đã xếp
cây Dó bầu vào danh mục nhóm 1A, tức là được bảo vệ nghiêm ngặt.
Trước tình hình đó hiện nay ở nước ta đã và đang có rất nhiều các tổ chức, cơ
quan, cá nhân trồng cây Dó bầu đại trà, nhằm mục đích cải thiện kinh tế, phủ xanh đất
trống đồi trọc, góp phần xoá đói giảm nghèo v.v… Tuy nhiên, phần lớn các dự án đó
mới đang ở giai đoạn trồng và thử nghiệm gây tạo Trầm bằng các phương pháp khác
nhau và các kết quả thu được đều chưa được khả quan lắm.
Mặt khác nếu để cây Dó bầu mọc ngoài tự nhiên (ở rừng tự nhiên) thì khả năng
cho Trầm hương của cây Dó bầu rất hạn chế (khoảng 10%). Chỉ một số cây vì lý do
nào đó các tác nhân từ bên ngoài tác động đến cây Dó bầu như mưa, gió, sét đánh làm
gẫy thân, cành… chiến tranh vi sinh vật làm tổn thương, xâm nhiễm vào cây. Từ đó
qua quá trình thời gian thì Trầm hương được hình thành dần dần theo thời gian.
Vì những lý do kể trên đồng thời dưới sự phân công của bộ môn Công Nghệ

Sinh Học và dưới sự hướng dẫn của Th.S Đinh Trung Chánh chúng tôi đã thực hiện đề
tài “Nghiên cứu gây tạo Trầm hương bằng phương pháp vi sinh và hoá học”.

1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
 Xây dựng qui trình kỹ thuật gây tạo Trầm hương nhân tạo bằng phương pháp vi
sinh và hoá học có hiệu quả
 Tạo ra được Trầm hương hàng hoá, tức Trầm hương có chất lượng và có giá trị
thương phẩm cao.
 Bước đầu dùng sắc ký khí GC/MS để xác định thành phần hoá học trong tinh
dầu Trầm từ các mẫu Trầm có được từ quá trình gây tạo.
 Hoàn thiện quy trình công nghệ cũng như chế phẩm gây tạo Trầm hương để
chuyển giao cho người trồng Dó bầu.

1.3. Giới hạn của đề tài.
Do quỹ thời gian và kinh phí còn hạn chế nên chúng tôi mới chỉ dừng lại ở việc
nghiên cứu các vấn đề liên quan đến việc hình thành Trầm hương trên cây Dó bầu ở
các nghiệm thức đã bố trí thí nghiệm. Ngoài ra chúng tôi nghiên cứu đánh giá kết qủa
sản phẩm Trầm hương tạo được bằng cảm quan. Cũng như xác định thành phần hoá
học thông qua chạy sắc ký khi kết hợp khối phổ GC/MS.









PHẦN 2. TỔNG QUAN


2.1. Tổng quan về cây Dó bầu
Cây Dó bầu thuộc:
Lớp (Class): Magnoliopsida
Bộ (Order): Myrtales
Họ (Family):Thymelaeaceae
Giống Aquilaria có tất cả 24 loài (Species) khác nhau gồm:
01. Aquilaria beccariana van Tiegh
02. Aquilaria hirta Ridl
03. Aquilaria microcarpa Baill
04. Aquilaria cumingiana (Decne) Ridl
05. Aquilaria filaria (Oken) Merr
06. Aquilaria brachyantha (Merr.) Hall.f
07. Aquilaria urdanetensis (Elmer) Hall.f
08. Aquilaria citrinaecarpa (Elmer) Hall.f
09. Aquilaria apiculata Elmer
10. Aquilaria parvifolia (Quis.) Ding Hou
11. Aquilaria rostrata Ridl
12. Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte
13. Aquilaria banaense Pham-hoang-Ho
14. Aquilaria khasiana H. Hallier
15. Aquilaria subintegra Ding Hou
16. Aquilaria grandiflora Bth
17. Aquilaria secundana D.C
18. Aquilaria moszkowskii Gilg
19. Aquilaria tomentosa Gilg
20. Aquilaria baillonii Pierre ex Lecomte
21. Aquilaria sinensis Merr
22. Aquilaria apiculata Merr
23. Aquilaria acuminate (Merr.)Quis
24. Aquilaria yunnanensis S.C. Huang
































H2.1 Cây Dó bố trí thí nghiệm
H2.2 Tượng phật
H2.3 Vòng cổ
2.2. Công dụng và việc sử dụng Trầm hƣơng
Cây Dó bầu và sản phẩm chính của nó là Trầm hương đã có lịch
sử từ lâu đời, và là một trong những sản vật luôn góp mặt trong cuộc
sống tinh thần của người dân Việt Nam ta nói riêng và trên thế giới nói
chung. Đó là việc Trầm hương thường có mặt trong các tác phẩm văn
học, trong tín ngưỡng tôn giáo, trong các đền đài.v.v…(theo Nguyễn
Hiền và Võ Văn Chi -1991). Theo tài liệu khảo cổ học thì từ thời cổ đại
xa xưa ông cha ta đã biết khai thác và sử dụng Trầm hương. Đời nhà
Hán (206-220 TCN) nhiều nước trên thế giới đã đến Giao Châu để
mua bán mà chủ yếu mua các sản vật từ Phương Nam đặc biệt quý
hiếm như sừng Tê Giác, Ngà Voi, Trầm hương Từ thế kỷ thứ X, thời vua Đinh Tiên
Hoàng đã biết dùng Trầm hương để đóng những chiếc rương đựng gia bảo như Long
Bào của Hoàng Đế.
Trầm hương còn là sản vật dùng để cống nộp hoặc là tặng phẩm của vua chúa ở
nhiều nước trên thế giới. Như là ở các nước Đông Nam Á, Ấn Độ, IRan, IRắc, Hy
Lạp.v.v… Những người theo đạo Phật, đạo Hồi, đạo Ky Tô… đều tôn sùng Trầm
hương trong những buổi cúng lễ. Hầu hết các tín đồ theo các đạo kể trên đều coi Trầm
hương là vật linh thiêng, giao lưu truyền cảm giữa
người sống và cõi tâm linh.
Trầm hương đã được đề cao đặc biệt trong văn
học Phương Đông cũng như trong nền văn học Việt
Nam, cả văn học dân gian cũng như văn học chính
thống. Như Nguyễn Du đã nói đến Trầm hương trong
Truyện Kiều, Nguyễn Gia Thiều trong “Cung Oán
Ngâm Khúc” v.v… và cả trong tục ngữ ca dao.
Ngày nay cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật con người không ngừng
tôn vinh giá trị của Trầm hương. Đó là việc chiết xuất tinh dầu Trầm để làm nước hoa

đã và đang được rất nhiều phụ nữ trên thế giới ưa chuộng. Việc chiết xuất các chất thứ
cấp có trong tinh dầu Trầm để làm dược liệu.v.v… Chính vì những vấn đề đó mà Trầm
hương ngày càng có giá trị kinh tế cao.

Hình 2.1 Cây Dó bầ u đ ược chọ n làm thí nghiệ m

H2.4 Vườn cây Dó bầu
2.3. Đặc điểm thực vật của cây Dó bầu.
Dó bầu còn có các tên gọi khác nhau dựa vào những sản phẩm của chúng như
cây Tok, cây Trầm, cây Trầm hương, cây Kỳ nam.v.v… Theo Nguyễn Hiền và Võ
Văn Chi (1991) cây Dó bầu được chính thức đặt tên khoa học và công bố dựa vào
những mẫu vật do nhà thực vật học người Pháp là Pierre thu nhập tại đảo Phú Quốc
(Việt Nam) và núi Aral tỉnh Samrongtong (Cambodia) vào tháng 5 – 1870. Pierre đã
dựa vào tên Cambodia là Krasna để đặt cho cây Dó bầu là Aquilaria crassna nhưng đó
chỉ là tên trần chưa có bảng mô tả và việc công bố chưa được hợp thức hoá. Sau đó
Henri Lecomte trong bộ sách Thực Vật Chí Đông Dương lần đầu tiên mô tả các loài
thuộc chi Aquilaria ở Đông Dương và công bố chính thức trong thực vật học của Pháp
năm 1914 và xếp chi này vào họ Trầm. Phạm Hoàng Hộ (1992) trong công trình gần
đây nhất xác nhận ở Việt Nam, chi Aquilaria thuộc họ Trầm hương có ba loài được
định danh là:
Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte: Dó bầu, Trầm ; ghi nhận ở Phú Khánh,
Bảo Lộc và Phú Quốc.
Aquilaria baillonii Pierre ex Lecomte Dó baillon; ghi nhận ở rừng dầy ẩm Bình
Trị Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng.
Aquilaria banaensae PhạmHoàng: Dó Bà Na; ghi nhận ở rừng dầy ẩm Quảng
Nam, Đà Nẵng.
Các tác giả khác như GS. Lê Văn Ký (1993), các
tác giả trong quyển “Cây Gỗ Rừng Việt Nam Tập
IV” (1991); “Phân Loại Thực Vật” (Nxb Giáo dục,
1972” và “Danh Mục Thực Vật Tây Nguyên” của

đoàn điều tra thực vật (1984) đã ghi nhận cây Dó
bầu với tên khoa học Aquilaria agallocha Roxb.
Tuy nhiên, theo Vũ Văn Chiên (1976) trong “Tóm
tắt đặc điểm họ cây thuốc” thì Aquilaria agallocha
Roxb chỉ có ở Ấn Độ không có ở Việt Nam, không ghi nhận trong quyển “Thực vật chí
Đông Dương” của Henri Lecomte. Một số công trình nghiên cứu khác như: “Định
danh Dược thảo và Dược liệu Đông Y” của đoàn Dược sĩ Việt Nam (xuất bản ở Sài
Gòn, 1973” và “Những cây Thuốc vị thuốc Việt Nam” (Nxb. Khoa học và Kỹ thuật Hà
Nội 1981) lại cho rằng Aquilaria agallocha Roxb là đồng danh của Aquilaria crassna
Pierre. Ngoài ra những đặc điểm quan trọng về thực vật học của cây Dó bầu được
nhiều tác giả ghi nhận như sau:
Dó bầu là một loại cây gỗ lớn, tán thưa, cao khoảng 20m (cũng có thể đạt 40m).
Đường kính ngang ngực 40-50cm (có thể đạt 80cm). Vỏ mỏng khoảng 2- 4mm, trong
Vỏ có nhiều sợi dài, bền. Lá đơn, mọc cách, hình ngọn giáo, dài 6-15cm, rộng 2-3cm,
đầu mũi nhọn. Hoa tự hình tán, mầu trắng. Quả mang hình trứng ngược, dài 3-5cm,
rộng 2-3cm, có nhiều lông. Khi chín khai thành hai mảnh, và có từ một đến hai hạt
mầu đen. Trái chín vào khoảng tháng 7- 8. Gỗ có mầu trắng hoặc vàng nhạt, không
phân biệt rác lõi, gỗ nhẹ, mềm. Trong gỗ có cấu tạo đặc biệt là Libe xen gỗ (Đây là
một trong những hiện tượng đặc biệt để nghiên cứu sự tạo Trầm).







2.4. Đặc điểm sinh thái.

Trong những năm gần đây, một số tác giả đã đề cập rải rác trong nhiều báo cáo
nghiên cứu các vấn đề sinh thái và phân bố của cây Dó bầu (Vũ Văn Cầu và Vũ Văn

Dũng ,1987). GS. Lê Văn Ký cho biết Dó bầu phân bố ở nhiều nơi trên lãnh thổ Việt
Nam, và nhiều nước Châu Á nhiệt đới khác như Lào, Cambodia, Ấn Độ v.v… Ở Việt
Nam cây Dó bầu mọc rải rác ở nhiều tỉnh từ Bắc đến Nam như: Lạng Sơn, Quảng
Ninh, Hà Tuyên, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Quảng
Nam, Đà Nẵng. và hầu hết các tỉnh phía Nam. Nhưng tập trung nhiều nhất là ở các tỉnh
Duyên hải và huyện đảo Phú Quốc.
Nhìn chung, Dó bầu là loài thực vật ưa sáng, mọc rải rác trong các khu rừng
nhiệt đới, mọc ở độ cao từ 50-1200m. Nơi cao nhất được tìm thấy ở núi ChuYang Sinh
thuộc tỉnh Daklak của Việt Nam. Thường thì cây Dó bầu mọc riêng lẻ nhưng cũng có
khi tìm thấy được một nhóm 5-6 cây mọc gần nhau. Theo Lê Mộng Châu và ctv
H2.5 Quả Dó bầu còn non
H2.6 Quả Dò bầu khi chín
(1995), Dó bầu là loại cây mọc nhanh, lượng tăng trưởng được ghi nhận là 1-
1.2m/năm về chiều cao, và 1.2-1.5cm/năm về đường kính. Cây được 8 tuổi trở lên có
khả năng cho hoa kết quả. Dưới tán rừng thứ sinh cây Dó bầu tái sinh kém. Thường thì
gặp cây Dó bầu tái sinh ở những khoảng trống trong rừng như bìa rừng ven những con
đường mòn… Ngoài ra thì Dó bầu cũng có khả năng tái sinh bằng chồi rất tốt. Việc
nhân giống bằng phương pháp chiết cành, ghép cành, có tác động của thuốc kích thích
cũng được thực hiện, nhưng cho đến nay vẫn chưa có công trình nào được công bố.

2.5. Tình hình khai thác Trầm hƣơng trong thiên nhiên.
Trầm hương, Đinh hương, Nhục quế, Dầu thơm, Thuốc xức… xuất hiện rất
sớm trên thị trường cùng với muối ăn. Trong đó Trầm hương được xem là mặt hàng
quí giá nhất do có những công dụng đặc biệt trong đời sống cũng như trong các tín
ngưỡng tôn giáo.
Ở Việt Nam, việc khai thác và sử dụng Trầm hương đã có từ rất lâu đời. Vào
thời Bắc thuộc, nhà nước phong kiến phương Bắc hàng năm buộc nhân dân ta phải
cống nạp các sản vật quí giá như Ngà Voi, Sừng Tê Giác, Ngọc Trai, Yến Sào…
Trong đó có cả Trầm hương.
Dưới triều nhà Nguyễn, việc khai thác Trầm hương được nhà nước quản lý hết

sức chặt chẽ. Đối với những vùng có nguồn Trầm hương để khai thác, triều đình cắt
đặt các đội canh tuần và buộc những người đi điệu vào rừng lấy Trầm về cống nạp.
Vào thời Pháp thuộc, lệ bắt dân lấy Trầm nạp cho vua quan được bãi bỏ, nhưng
bù vào đó chính quyền thực dân Pháp tăng cường kiểm soát việc chặt đốn cây Dó bầu
để khai thác Trầm.
Sau năm 1975, do trải qua mấy chục năm chiến tranh, các khu rừng gỗ quý bị
bom đạn tàn phá nặng, nhiều cây Dó bầu bị bệnh, bị bom đạn hủy hoại lại sản sinh ra
những loại Trầm kỳ rất tốt. Các địa phương có trữ lượng Trầm hương tương đối tập
trung như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Đắc Lắc, Gia
Lai, Kontum và đảo Phú Quốc được chính phủ cho phép khai thác và xuất khẩu Trầm
hương để thu hút ngoại tệ và đổi một số máy móc thiết bị mà địa phương đang cần.
Những đội công nhân chuyên nghiệp được thành lập để khai thác Trầm hương, nhưng
thực tế số lượng những đội khai thác lâm sản của nhà nước tại các địa phương lại quá
ít ỏi so với nhu cầu. Trong thời kỳ này, sự khai thác Trầm hương phần lớn qua đường
dây của thương buôn cá thể.
Trầm hương của nhà nước thu mua, một phần được sử dụng để sản xuất dược
liệu, phần khác thì xuất khẩu qua Singapore, Hồng Kông, Nhật Bản…
Đến cuối thập niên 1990, nguồn Trầm hương tự nhiên ở Việt Nam gần như cạn
kiệt và để bảo vệ nguồn tài nguyên quốc gia, Chính phủ đã cấm hẳn việc khai thác,
mua bán Trầm hương và xem đó là hàng quốc cấm.
Trong tự nhiên, không phải bất kỳ cây Dó bầu nào cũng có Trầm và Kỳ. Thông
thường chỉ có 1/10 những cây trưởng thành có đường kính thân trên 20cm là có khả
năng tạo Trầm, đó là những cây bị bệnh sau một thời gian từ 10 đến 20 năm hoặc lâu
hơn. Do đó, từ xưa đến nay, công việc tìm kiếm Trầm hương và Kỳ nam là một công
việc nhiều khó khăn gian khổ. Những người đi tìm Trầm phải mất nhiều tháng trời
luồn rừng lội suối vào tận rừng sâu núi thẳm để tìm Trầm. Đôi khi họ trở về tay không
hoặc phải bỏ mạng ở nơi thâm sơn cùng cốc.
Gần đây con người đã chủ động trồng cây Dó bầu để khai thác Trầm hương và
chưng cất tinh dầu Trầm. Nhiều công trình khoa học đã nghiên cứu thành công các
phương pháp cấy tạo Trầm trên thân gỗ của cây Dó bầu từ đầu những năm 80 của thế

kỷ trước và đã mở ra một hướng đi mới cho thị trường Trầm hương trong nước cũng
như trên thế giới.




2.6. Trầm và sự tạo Trầm.
Mặc dầu số lượng cá thể các loài Aquilaria spp, cũng như nguồn cung cấp đã bị
cạn kiệt, nhưng nhu cầu về Trầm hương trong nền thương mại thế giới lại gia tăng
đáng kể. Hiện nay các nước tiêu thụ Trầm hương mạnh là Trung Cận Đông và Châu Á,
và ngay cả ở Mỹ và châu Âu (TRP, 1997).
H2.7 Tinh dầu Trầm

H2.8 Trầm hương hinh thành ngoài tự nhiên

Theo Vũ Văn Cần và Vũ Văn Dũng (1978) có thể phân loại nguồn gốc hai loại
Trầm là Trầm sinh (Trầm lấy từ cây sống) và Trầm rục (Trầm lấy từ cây đốn hay cây
chết đổ lâu ngày). Trầm sinh từ cây còn sống thường có mầu sáng. Ngược lại Trầm rục
thì thường có mầu cánh dán, hay đen xỉ. Thường người ta lấy Trầm rục từ gốc hoặc rễ.
Giá Trầm sinh thường cao hơn Trầm rục từ 2-3 lần và trên mỗi cây có Trầm có thể thu
hoạch được từ 5-10kg Trầm. Ngoài ra phần gỗ xung quanh khối Trầm kỳ cũng bị biến
đổi ít nhiều với sự xuất hiện rải rác các chỉ Trầm xen kẽ với sớ gỗ, thường gọi là Tok
trong tiếng Khmer. Tok khi cháy cho mùi hương thơm và được dùng làm Nhang
Trầm.Theo Phillips (1997), các dạng Trầm và sản phẩm của Trầm được ghi nhận trên
thị trường là: Trầm mảnh, Trầm bóng, Trầm vụn và bột Trầm, Trầm bánh, tinh dầu
Trầm (Dùng làm hương liệu và dược liệu).
Việc phân tích Trầm và tinh dầu Trầm đã được Erhartdt, Lê Công Thuân và
Hopwood (1997) thực hiện bằng phương pháp sắc ký khí kết hợp với khối phổ (Gas
Chromatography/Mass Spectrometry). Ghi nhận có hai sesquiterpen tồn tại phổ biến
trong gỗ cũng như trong tinh dầu, đó là (+) –Aromadendrene và –Selinene. Tuy nhiên,

Selinene không xuất hiện trong mẫu gỗ Trầm chất lượng thấp. Một mặt khác, Guaiene,
một Sesquiterpene khác có trong mẫu gỗ Trầm tự nhiên nhưng chỉ gặp trong mẫu tinh
dầu, trong khi Guriunene, một đồng phân của Aromadendrene có nhiều trong các mẫu
tinh dầu nhưng không thấy trong mẫu gỗ tự nhiên.
Cho đến hiện nay
có một vài công trình
nghiên cứu về sự tạo
Trầm, tuy nhiên, việc vận
dụng các hiểu biết một
cách chắc chắn về cơ chế
tạo Trầm để sản xuất
Trầm một cách bền vững
vẫn đang là thử thách đối
với các nhà khoa học. Lý
do là cho đến nay, chưa có thực nghiệm hoàn chỉnh nào, mặc dù có rải rác vài công
trình đã được tiến hành trên những cây Dó bầu còn non trồng trong môi trường được
kiểm soát. Theo Phạm Hoàng Hộ (1985) Dó bầu có Trầm là cây Dó bầu bị bệnh.
Nguồn gốc của bệnh đó chỉ mới được biết trong những năm gần đây. Khảo sát của
Julaluddin (1977) cho rằng vùng Tok Trầm chứa một loại nấm được xác định là
Cryptosphaeria mangifera. Ông đã xác định bằng cách cho những cây Dó bầu lành
mạnh nhiễm nấm. Sau một thời gian, vùng bị nhiễm trở nên sẫm màu và trở thành Tok
rõ rệt và khi đốt cũng toả mùi Trầm rõ rệt. Tuy nhiên đó chỉ là những tín hiệu bước
đầu của sự hình thành Trầm. Việc nghiên cứu này còn quá ngắn để đi đến giai đoạn
Trầm kỳ.
Trầm có thể xuất hiện trên cây Dó bầu đã to hay còn nhỏ. Trong thực tế, có
nhiều cây Dó bầu đã to, với đường kính 50-60cm nhưng không có Trầm. Ngược lại, có
những cây Dó bầu đường kính mới chỉ có 15cm đã có Trầm. Các thí nghiệm gần đây
cho thấy có thể kích thích tạo Trầm ở những cây Dó bầu trồng ở 4-5 năm tuổi. Tuy
nhiên, trên những cây Dó bầu to, già cỗi Trầm xuất hiện nhiều hơn. Theo kinh nghiệm
dân gian, có thể phân biệt cây đã có Trầm qua một số đặc điểm hình thái của cây và

điều kiện hoàn cảnh nơi mọc như sau:
 Cây đã lớn đường kính trên 20cm.
 Thân cành có u bướu, cây nhiều mắt, cây bị bệnh hoặc bị thương.
 Lá cằn cỗi, màu xanh vàng.
 Vỏ khó bóc hơn những cây bình thường.
 Gỗ màu vàng.
 Cây mọc trên đất xấu nhiều sỏi đá.
Trong cây Trầm hương xuất hiện ở ba nơi: rễ, gốc, đoạn thân, cành ở độ cao
trên 60cm so với mặt đất rất hiếm khi có Trầm hương. Phần nhiều Trầm hương nằm
nhiều ở quanh gốc, nhất là ở rễ. Chính vì thế, khi tìm Trầm hương, rễ mọc tới đâu phải
đào tới đó. Người tìm Trầm không sợ bị rắn rết cắn vì họ tin rằng khi có Trầm thì rắn
rết đã bị đuổi đi hết. Ở Ba Rền (Bình Trị Thiên) đôi khi người ta chặt ngọn cành để
cho Trầm hình thành thấp.
Gần đây nhất, nhóm nghiên cứu Rừng Mưa Nhiệt Đới Châu Âu kết hợp với
trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên và hai tỉnh Kiên Giang và An Giang đã tiến hành
một chương trình nghiên cứu nhằm gây tạo Trầm hương trên cây Dó bầu trồng từ hạt ở
Phú Quốc.
Huỳnh Văn Mỹ (1997) cho biết ở Tiến Phước (Quảng Nam), nông dân đã tự
nghiên cứu xử lý kỹ thuật để tạo Trầm trên cây Dó bầu từ 10 năm tuổi trở lên kết Trầm
theo ý muốn. Đây là một trong những vần đề mà các nhà khoa học cần nghiên cứu,
tổng kết, đánh giá và nhân rộng.

2.7. Tình hình trồng và phát triển cây Dó bầu trong nƣớc.
Đã từ lâu chất lượng Trầm hương của Việt Nam nổi tiếng trên thế giới, đây là
loại Trầm được hình thành từ thân gỗ của cây Dó bầu (Aquilaria Crassna Pierre ex
Lecomte) vốn chỉ có ở Việt Nam và Campuchia. Trầm hương Việt Nam được thị
trường thế giới ưa chuộng và mua với gía rất cao trong khi đó nguồn khai thác Trầm
hương trong tự nhiên đã cạn kiệt.
Kỹ thuật cấy tạo Trầm nhân tạo ngày nay đã trở nên phổ biến với chất lượng
không thua kém Trầm trong tự nhiên nhưng với thời gian nhanh hơn (Cây Dó bầu chỉ

sau trồng từ 6-7 năm là có thể cấy tạo Trầm và sau thời gian từ 24 – 36 tháng kể từ khi
cấy hóa chất là khai thác Trầm).
Mặt khác, điều kiện tự nhiên của Việt Nam rất thích hợp để cây Dó bầu sinh
trưởng và phát triển.
Những nguyên nhân trên đã làm động lực thúc đẩy cho sự phát triển vườn cây
Dó bầu ở Việt Nam.
Ngày nay nhiều nông dân ở Việt Nam đã làm giàu nhờ vào việc trồng và cấy
tạo Trầm hương trên cây Dó bầu (Trung bình, lợi nhuận thu được từ 50 – 150
triệu/ha/năm).
Theo số liệu thống kê của “Hội Trầm hương Việt Nam“ tính đến cuối năm 2004
có khoảng 22 tỉnh trong cả nước đã trồng cây Dó bầu với diện tích trên 7.000 hecta
trong đó diện tích có thể khai thác Trầm hương vào khoảng 190 hecta.
Ở phía Bắc, một số tỉnh như Thái Nguyên, Phú Thọ…vừa bắt đầu trồng trong
năm 2004 do đó diện tích chưa cao.
Các tỉnh Miền Trung từ Hà Tỉnh cho đến Khánh Hòa đã trồng trên 3.240 hecta,
trong đó nhiều nhất là Hà Tỉnh (840 hecta), Quảng Bình (740 hecta), kế đến là Quảng
Nam (425 hecta), và còn lại các tỉnh khác.
Tây Nguyên tổng diện tích trồng khoảng 1.700 hecta bao gồm các tỉnh Kon
Tum (325 hecta), Gia Lai (225 hecta), Đắc Lắc (615 hecta), Đắc Nông (226 hecta) và
Lâm Đồng (265hecta).
Các tỉnh Miền Đông Nam Bộ trồng được khoảng 1.743 hecta bao gồm Đồng
Nai (345 hecta), Tây Ninh (218 hecta), Bình Dương (230 hecta), và nhiều nhất là Bình
Phước (950 hecta).
Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long gồm có 2 tỉnh An Giang và Kiên Giang (kể cả
đảo Phú Quốc) với diện tích trồng khoảng 387 hecta.
Theo ước tính, đến năm 2010 diện tích trồng Dó bầu trên cả nước vào khoảng
30.000 hecta, trung bình hàng năm diện tích tăng từ 2.500 – 4.000 hecta.

2.8 Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc.
2.8.1 Trong nƣớc.

Trước nhu cầu ngày càng cao trên thế giới về Trầm hương nguyên liệu, cộng
với giá cả ngày một tăng, thiên nhiên ưu đãi.v.v… Hiện nay có rất nhiều dự án của các
tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư vào trồng cây Dó bầu để tạo Trầm. Như
ông Nguyễn Ngọc Toàn , chủ tich Hội đồng quản trị công ty FongSan đã đầu tư trồng
60 hecta Dó bầu tại xã An Khương, huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước. Đến nay đã
được 5 năm tuổi. Hiện nay ông Toàn và ông Sơn đã và đang gây tạo Trầm hương trên
những cây Dó bầu này và bước đầu cũng đã thu được thành công. Chính vì vậy mà
công ty này đã nhân rộng mô hình này tại nhiều tỉnh thành trong cả nước như: Quảng
Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Phú Yên, Lâm Đồng, Gia Lai.vv…(theo tài liệu của sở
Lâm Nghiệm tỉnh Gia Lai).
Ngoài ra ở nhiều tỉnh thành khác trên cả nước nhiều bà con nông dân cũng phát
triển và trồng Dó bầu ngay tại những vùng đất của nhà mình. Theo kinh nghiệm dân
gian họ tự truyền nhau và mày mò tìm cách tạo Trầm sao cho hiệu quả. Như cấy bột
sắt vào cây, cấy mảnh bom, đạn, cho dầu vào các vết thương để dẫn dụ kiến. Khi kiến
lên ăn dầu vô tình làm tổn thương cây. Qua quá trình thời gian cây sẽ tạo ra Trầm mắt
kiến….
Đề tài điều tra số liệu khai thác Trầm ngoài tự nhiên của 59 cây Dó bầu của
Viện Khoa Học Lâm Việt Nam. Trong đó có 13 cây cho Trầm hương có khả năng xuất
khẩu chiếm 21%, 21 cây có dấu hiệu hình thành Trầm hương ở các vị trí khác nhau
trên cây chiếm 35.6% còn lại 25 cây không có Trầm hương.
Đề tài gây tạo Trầm hương bằng tác động cơ giới của Kỹ sư Nguyễn Hồng Lam
Trung Tâm Nghiên Cứu Lâm Đặc Sản. Đề tài đã thực hiện trên 54 cây Dó bầu ở độ
tuổi từ 6 đến 18 tuổi. Kết quả đối với 27 cây chỉ tác động cơ giới làm tổn thương cây
mà không gây tác động gì thêm. Và theo định kỳ 2 năm quan sát một lần. Đối với 27
cây còn lại thì sau khi tác động cơ giới gây tổn thương cho cây, sau đó ta tiến hành
phun dung dịch phòng bệnh Benlat 1%. Phun theo định kỳ 2 tháng một lần, và phun
trong 3 lần. Kết quả cho thấy đối với 27 cây chỉ tác động cơ giới làm tổn thương mà
không phun Benlat thì 2 năm đầu không thấy có dấu hiệu gì. 4 năm, 6 năm, 8 năm sau
thấy có 2 cây tạo Trầm hương. Còn 27 cây sau khi gây chấn thương có sử dụng Benlat
để phun thì không cho kết quả tạo Trầm hương. Vậy việc tạo Trầm có liên quan đến

bệnh lý của cây.
Đề tài nghiên cứu khả năng tạo Trầm bằng chế phẩm sinh học (Lt) (Viện Khoa
Học Lâm Nghiệp Việt Nam. Trung tâm nghiên cứu Lâm đặc sản). Sau khi gây chấn
thương bằng tác động cơ giới như đục khoan vào thân cây ở vị trí 0.8m, 1.2m, 1.5m so
với mặt đất. Sau đó đưa chế phẩm sinh học vào vết thương. Đề tài tiến hành trên 3
nhóm tuổi khác nhau của cây Dó bầu. Nhóm 1 từ 4-8 tuổi. Nhóm 2 từ 10-14 tuổi.
Nhóm 3 từ 16 đến 20 tuổi. Ngoài ra trong phạm vi đề tài còn đánh giá sự tạo Trầm ở
rừng trồng tập trung và phân tán.
Kết quả cho thấy sự hình thành Trầm ở các nhóm lứa tuổi là như nhau. Sự tạo
Trầm bằng chế phẩm sinh học không phụ thuộc vào độ tuổi. Tuy nhiên, với cây có độ
tuổi cao hơn đường kính gốc lớn hơn thì cho sản lượng Trầm nhiều hơn.
Từ năm 1996 đến năm 1998 GS.TS Trịnh Tam Kiệt (Đại Học Quốc Gia TP
HCM) đã phối hợp với tổ chức rừng mưa nhiệt đới quốc tế và các sở Lâm nghiệp các
tỉnh Kiên Giang, Lâm Đồng và Quảng Nam triển khai dự án gây tạo Trầm hương trên
cây Dó bầu. Dự án đã sử dụng một số chế phẩm sinh hoc, hoá học để gây tạo Trầm
hương trên cây Dó bầu trên cơ sở gây chấn thương cơ giới. Cho đến nay các tác giả
nay vẫn chưa công bố kết quả đạt được.
Từ năm 1996 đến nay, theo yêu cầu của Hội đồng khoa học Bộ Nông Nghiệp và
Phát Triển Nông Thôn. Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam. Trung tâm nghiên cứu
Lâm đặc sản thực hiện đề tài “Tiếp tục nghiên cứu kỹ thuật tạo Trầm hương trên cây
Dó bầu”.



2.8.2. Ngoài nƣớc.
Ở Ấn Độ TS. Shiva thì cho rằng kết quả hình thành Trầm hương trong tự nhiên
có liên quan đến bệnh lý của cây. Nhưng nguồn gốc gây bệnh thì tác giả chưa có kết
luận.
Ở Malaysia sau khi tìm hiểu và nghiên cứu về vấn đề tạo Trầm hương ngoài tự
nhiên thì tiến sĩ khoa học Julajudin đã đi đến kết luận. Quá trình hình thành Trầm

ngoài tự nhiên có liên quan đến bệnh lý của cây. Nguồn gốc hình thành Trầm là do sự
cộng sinh của loài nấm Criptophoerica Mangifera với thân gỗ mà thành. (1996)
Năm 1989 tiến sĩ Naiyna Thongijem và các cộng sự (Thái Lan) nghiên cứu về
vấn đề tạo Trầm cho rằng quá trình hình thành Trầm hương trên cây Dó bầu là kết quả
cộng sinh của các loài nấm sau đây Cephalos Potrium, Fusarium, Botriodiplodia,
Chactomium.
















PHẦN 3. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP TIẾN HÀNH

3.1. Vật liệu thí nghiệm.
 Khoan điện 01 cái.
 Mũi khoan gỗ có đường kính 10 - 12mm.
 Khoan tăng trưởng Pressler
 Hai chủng nấm đã được phân lập.
 Nấm trắng.

 Nấm đen.
 Bốn loại hoá chất đã được chuẩn bị từ trước.
 Dầu
 Cl
2

 NO
3

 SO
4

 Chất phụ gia (bột trơ) 0.5kg.
 06 Xilanh loại lớn.
 06 ly thuỷ tinh để đựng hoá chất.
 Nước cất vô trùng.
 Những cây Dó bầu đã được chọn để bố trí thi nghiệm.
 Thiết bị định vị toàn cầu GPS.
 Thước dây.

3.2. Phƣơng pháp tiến hành.
3.2.1 Khảo sát đo đạc.
Tiến hành khảo sát và đo đạc thực địa những cây Dó bầu để tiện cho việc chọn
ra những cây, những nhóm cây có đủ tiêu chuẩn để bố trí thí nghiệm như:
 Đường kính gốc.
 Đường kính thân cách mặt đất 1.3m.
 Đường kính của các nhánh cách mặt đất 1.3m.
 Chiều cao của cây.
 Chiều cao của phân nhánh đầu tiên.
 Chiều rộng và chiều dài của lá.

 Vị chí địa lý.
 Điều kiện thổ nhưỡng.
 Môi trường sinh sống.
 Nguồn gốc, xuất sứ của cây.
Mục đích của việc đo đạc và tuyển chọn một số cây Dó bầu để bố trí thí nghiệm
là để khảo sát, đánh giá mức độ tương tác, phản ứng của cây với các nghiệm thức. Kết
quả của việc tương tác, phản ứng đó là khả năng hình thành Trầm hương của từng
giống cây, từng điều kiện sinh sống, từng nghiệm thức cũng như là từng điều kiện thổ
nhưỡng… Để từ đó tìm ra được những giống cây Dó bầu, có khả năng cho Trầm hiệu
quả, cùng điều kiện sinh sống thích hợp.v.v…
Vì vậy chúng tôi đã tiến hành khảo sát những cây Dó bầu được trồng ở các địa
phương khác nhau như: Đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang., Đại Lãnh tỉnh Khánh Hoá, ở
Vỉnh Long và ở Thảo Cầm Viên thành phố Hồ Chí Minh. Ở từng địa điểm thí nghiệm
ta xác định điều kiện sống, vị trí của từng nhóm cây mà ta thực hiện thí nghiệm, cũng
như là nguồn gốc của từng nhóm cây.
Ngoài ra với những số liệu đo đạc ngoài thực tế đã giúp cho chúng tôi tính toán,
lập sơ đồ, chọn cây để bố trí thí nghiệm trên lý thuyết trước khi đưa ra bố trí ngoài
thực tế.

 Bảng số liệu khảo sát cây Dó bầu ở Thảo Cầm Viên.
Địa điểm: Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày lây nhiễm: 15/02/2003.
Ngày lấy mẫu: 13/04/2005.
Nguồn gốc: Cây có nguồn gốc từ An Giang.
Tuổi của cây: Trồng từ năm 1994.









Bảng 3.1 Đo số liệu cây ở Thảo Cầm Viên.
Tên
cây
Chiều cao
(m)
CV/Gốc
(cm)
CV/Các Nhánh 1.3m (cm)
Ghi chú
1
2
3
4
A
11

72
-
-
-

B
15

70
80
-

-

C
12

72

-
-



 Bảng số liệu khảo sát cây Dó bầu ở Phú Quốc.
Địa điểm: Ấp Suối Cát xã Cửa Dương, Phú Quốc.
Toạ độ: N 10
0
19’19.2’’ – E 103
0
58’31.6’’.
Ngày lây nhiễm: 07/08/2005.
Ngày lấy mẫu: 21/04/2006.
Nguồn gốc: Cây có nguồn gốc ở địa phương.
Tuổi của cây: Trồng từ năm 1999.

Bảng 3.3 Đo số liệu cây ở Phú Quốc.
Tên
cây
Chiều cao
(m)
CV/Gốc

(cm)
CV/ Các Nhánh 1.3m (cm)
Ghi chú
1
2
3
4
B
5
63
23
16
18
21

C
6
44
26
21
23
-

E
5
44
21
27
21
-



3.2.2. Phƣơng pháp xử lý mẫu để phân lập vi sinh.
Sau khi mẫu được đưa về phòng thí nghiệm thì chúng tôi tiến hành bảo quản
mẫu ở tủ mát, và tiến hành xử lý từng mẫu một. Mẫu là khối gỗ lớn, Trầm được hình
thành trong lõi của khối gỗ đó. Vì vậy để phân lập vi sinh trước hết phải chẻ khối gỗ
để lộ phần Trầm ra ngoài.
Khi phần Trầm đã lộ thì tiếp tục phẫu thuật vô trùng để loại bỏ hết phần mẫu
vật bị nhiễm từ bên ngoài bằng việc gọt bỏ hết lớp gỗ và lớp Trầm hình thành ở bề mặt
ngoài. Khi đã gọt sạch hết lớp gỗ bên ngoài thì tiến hành cắt mẫu bằng dao phẫu thuật
vô trùng. Khi cắt mẫu lưu ý cắt cả phần có Trầm và phần gỗ chưa hình thành Trầm.
Mẫu được cắt không nên quá lớn cũng không nên quá nhỏ, làm sao cho ta dễ thao tác
là được. Tiến hành cắt 10 miếng mẫu nhỏ trong một mẫu lớn có Trầm được lấy về.

×