TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP NHÓM 3
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH
DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
HÀ NỘI, 9/2013
A. KHÁI LƯỢC VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH
- "Hiệu quả sản xuất kinh doanh" là một phạm trù khoa học của kinh tế vi mô cũng
như nền kinh tế vĩ mô nói chung. Nó là mục tiêu mà tất cả các nhà kinh tế đều
hướng tới với mục đích rằng họ sẽ thu được lợi nhuận cao, sẽ mở rộng được doanh
nghiệp, sẽ chiếm lĩnh được thị trường và muốn nâng cao uy tín của mình trên
thương trường.
a, Hiệu quả xét ở góc độ kinh tế học vĩ mô
- Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng của một lượng
hàng hoá mà không cắt giảm sản lượng của một loại hàng hoá khác. Một nền kinh
tế có hiệu quả nằm trong giới hạn khả năng sản xuất của nó
b, Hiệu quả xét ở góc độ DN
- Hiệu quả kinh doanh là mức độ hữu ích của sản phẩm sản xuất tức là giá trị sử
dụng của nó (hoặc là doanh thu và nhất là lợi nhuận thu được sau quá trình sản
xuất kinh doanh).
- Là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu xác
định
- Hiệu quả kinh doanh được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ
ra.
=>Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị, vốn và các yếu tố khác) nhằm đạt được
mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp đã đề ra.
c, Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh :
* Các nhân tố bên trong
- Lực lượng lao động
- Công nghệ kĩ thuật và ứng dụng tiến bộ kĩ thuật
- Nhân tố quản trị doanh nghiệp
- Hệ thống trao đổi và xử lí thông tin
- Nhân tố tính toán kinh tế
- Môi trường pháp lí
* Các nhân tố bên ngoài
- Môi trường kinh tế
-Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng
B. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ KINH DOANH
I. CÁC NHÂN TỐ BÊN TRONG
1. Lực lượng lao động
a, Khái quát chung
Người ta nhắc đến luận điểm khoa học kỹ thuật công nghệ ngày càng hiện đại
đã trở thành lực lượng lao động trực tiếp, áp dụng kỹ thuật tiên tiến là điều kiện
tiên quyết để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp .Tuy nhiên,
cần thấy rằng:
- Thứ nhất, máy móc dù tối tân đến đâu cũng do con người chế tạo. Nếu không có
sự lao động sáng tạo của con người sẽ không thể có các máy móc thiết bị đó.
- Thứ hai, máy móc thiết bị có hiện đại đến đâu thì cũng phải phù hợp với trình độ
tổ chức kỹ thuật, trình độ sử dụng máy móc của người lao động. Thực tế do trình
độ sử dụng kém nên vừa không đem lại năng suất cao vừa tốn kém tiền bạc cho
hoạt động sửa chữa, kết cục là hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp.
Lực lượng lao động là nhân tố quan trọng liên quan trực tiếp đến năng suất lao
động, trình độ sử dụng các nguồn lực khác như vốn, máy móc thiết bị, nguyên vật
liệu nên tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động SXKD. Ngày nay hàm lượng
khoa học kỹ thuật kết tinh trong sản phẩm ngày càng lớn đòi hỏi người lao động
phải có mộ trình độ nhất định để đáp ứng được các yêu cầu đó, điều này phần nào
cũng nói lên tầm quan trọng của nhân tố lao động. Do vậy vai trò của con người là
vô cùng quan trọng và là yếu tố quyết định.
b, Thực trạng ở Việt Nam
*Chưa đáp ứng yêu cầu
- Đó là những yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, kỹ năng nghề
nghiệp của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng
các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề, có tay nghề
cao
- Thực tế cho thấy hiện chỉ có khoảng 30% lao động VN được qua đào tạo. Bên
cạnh đó, những lao động có trình độ cao đã được đào tạo hiện nay cũng chỉ đáp
ứng được 15-20% yêu cầu của DN, nhưng phải tiếp tục đầo tạo thêm 2-3 năm nữa.
Điều này dẫn đến việc nhiều DN đang thiếu lao động nhưng không sao tuyển được
đủ. Ngay như đội ngũ sinh viên cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của DN mà một
trong những nhược điểm lớn nhất của họ hiện nay là thiếu khả năng tư duy, sáng
tạo và tính chủ động trong công việc.
Bà Florance Marioranjtham - GĐ nhân sự Cty TNHH Panasonic VN cho biết:
Năm 2010, Cty có nhu cầu tuyển dụng trên 4.000 người trong đó có không ít kỹ sư
thuộc các ngành: điện, điện tử, cơ khí. Nguồn cung chủ yếu là tuyển dụng trực tiếp
từ các trường đại học trong nước. Thế nhưng dù đã có chương trình tuyển dụng rất
sớm, Cty vẫn gặp khó khăn do không có đủ lực lượng đáp ứng yêu cầu.
* Hai vấn đề tồn tại
- Theo các chuyên gia thì có hai vấn đề tồn tại song song từ lâu nhưng chưa có lời
giải căn cơ khiến chất lượng lao động VN chưa đáp ứng được nhu cầu, đó là : quy
mô đào tạo nghề và trình độ tay nghề của công nhân. Bản thân giáo trình, mô hình
đào tạo của các trường, trung tâm dạy nghề ở VN luôn “lệch pha” so với nhu cầu
của DN. Đấy là chưa kể công tác dự báo về nhu cầu lao động trên thị trường cũng
chưa tốt, chưa bài bản
Theo Tổng cục Dạy nghề, trong cơ cấu lực lượng lao động VN từ 2005-2020,
tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tuy có tăng qua các năm, từ 19% năm 2005 (dân
số 83 triệu người) đến 30-32% năm 2010 (dự kiến), 45% năm 2015 và ước tính đạt
55% (dân số ước 98,5 triệu) vào năm 2020, nhưng vẫn rất thấp so với quy mô dân
số và nhu cầu của thị trường.
c, Giải pháp
- Để có thể xây dựng được đội ngũ công nhân lao động lành nghề, đáp ứng được
nhu cầu thị trường hiện nay, DN đóng vai trò hết sức quan trọng. Cũng bởi điều
này mà đã có rất nhiều DN không tiếc tiền của, công sức để đầu tư đào tạo nâng
cao trình độ cho những lao động đang làm việc, mặt khác liên tục tuyển dụng với
mong muốn xây dựng được đội ngũ nhân sự trình độ cao.
Cuộc khảo sát mới đây của Cty Grant Thornton tiến hành trên 34 quốc gia
và vùng lãnh thổ cho thấy, nhiều DN hiện xem nguồn lao động là một tài sản quý
báu. Họ chú trọng đến công tác đào tạo và bồi dưỡng cho nhân viên nhiều hơn
bao giờ hết. 69% DN ở VN nói rằng họ chi cho công tác đào tạo với mức chi phí
nhiều hơn so với trước đây, trong khi trung bình của thế giới chỉ có 63% DN làm
việc này.
Bản báo cáo về tình hình lao động, nguồn nhân lực mới đây của VCCI cũng
chỉ ra rằng, cần tăng cường hơn nữa sự hợp tác chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo và
DN để thực hiện chủ trương đào tạo theo nhu cầu xã hội mà Chính phủ và Bộ GD
- ĐT đề ra. Các hiệp hội DN và các DN cũng đã có những ký kết cụ thể với cơ sở
giáo dục đào tạo. Tức là DN đặt hàng ngành giáo dục đào tạo trong việc cung ứng
lao động chất lượng cao. Các DN không thể đứng ngoài hệ thống giáo dục đào
tạo, chỉ đòi hỏi, yêu cầu, đặt hàng, mà họ phải trở thành một trong những chủ thể
quan trọng nhất của đào tạo, chủ động tổ chức đào tạo để đáp ứng nhu cầu của
chính mình và của xã hội.
- Để nâng cao trình độ người lao động, không còn cách nào khác, chính các DN
phải chủ động và có những giải pháp cụ thể. Chẳng hạn, các DN cần có những
chính sách ưu đãi riêng để “chiêu mộ” người lao động có trình độ chuyên môn cao,
tay nghề vững về làm việc trong đơn vị mình. Ngoài việc chiêu mộ lao động có tay
nghề cao, từng DN cần phối hợp với các trường kỹ thuật tiến hành đào tạo, đào tạo
lại để người lao động có điều kiện hoàn thiện tay nghề và đáp ứng tốt hơn nhu cầu
của công việc. Các chuyên gia cũng cảnh báo rằng: Nếu lãnh đạo DN không bắt
tay vào việc phát triển nhân tài cho chính DN của mình thì sẽ phải trông chờ vào
nơi khác, hoặc phải dùng lương cao và phúc lợi hấp dẫn hơn để thu hút những
người mà chưa chắc kiến thức và kỹ năng của họ khiến bạn hài lòng 100%.
- Có thể thấy, nâng cao trình độ cho người lao động, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
người lao động và thường xuyên chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho họ là một
cách thiết thực, cụ thể và nó đang là những nhiệm vụ hàng đầu của cộng đồng DN.
Bởi ai cũng hiểu rằng, chăm lo tốt cho người lao động chính là nghĩa vụ trước pháp
luật, là tố chất nhân văn của chủ DN đối với người lao động và là đạo đức kinh
doanh, văn hóa - văn minh của doanh nghiệp VN trong giai đoạn hiện nay.
2. Công nghệ kĩ thuật và ứng dụng tiến bộ kĩ thuật
a, Khái quát chung
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay công nghệ là yếu tố quyết định cho sự phát
triển của sản xuất kinh doanh, là cơ sở để doanh nghiệp khẳng định vị trí cảu mình
trên thương trường. Chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đảng và nhà
nước chính là để khuyến khích các doanh nghiệp thích ứng tốt hơn với những thay
đổi trong môi trường công nghệ. Sự thay đổi của công nghệ tác động tới doanh
nghiệp theo nhiều khía cạnh khác nhau, đặc biệt nó không tách rời khỏi yếu tố con
người. Hơn nữa yếu tố con người còn quyết định sự thành công hay thất bại của
những thay đổi lớn trong công nghệ.
Công nghệ và đổi mới công nghệ là động lực là nhân tố của phát triển trong các
doanh nghiệp. Đổi mới công nghệ là yếu tố là biện pháp cơ bản giữ vai trò quyết
định để doanh nghiệp giành thắng lợi trong cạnh tranh .Công nghệ lạc hậu sẽ tiêu
hao nguyên vật liệu lớn, chi phí nhân công và lao động nhiều, do vậy và giá thành
tăng.
- Công nghệ quyết định năng suất lao động và chất lượng sản phẩm
+ Trong cùng một khoảng thời gian nhưng nhờ những tiến bộ khoa học công nghệ
không những làm tăng số sản phẩm mà còn tăng về cả chất lượng.
Ví dụ: khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra, trong thời kì này nền
kinh tế giản đơn, quy mô nhỏ dựa trên lao động chân tay là chủ yếu, được thay thế
bằng công nghiệp và chế tạo máy móc quy mô lớn.
Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên trên thế giới diễn ra ở nước Anh ( 1870),
sau đó lan sang Pháp, Đức, Nga, Mỹ, Nhật Càng về sau do điều kiện học hỏi được
kinh nghiệm của các nước đi trước và thành quả mà nó đem lại càng rõ rệt.
Tuy nhiên công nghệ ở trình độ nào lại chịu ảnh hưởng của các nhân tố
• Khả năng sáng tạo của lực lượng lao động
• Hoạt động chuyển giao công nghệ
Điều này làm ảnh hưởng đáng kể đến năng suất và chất lượng sản phẩm.
- Công nghệ quyết định khả năng về chi phí kinh doanh: ảnh hưởng tới mức độ tiết
kiệm hay tăng phí nguyên vật liệu, mức độ sử dụng, sự hao mòn vô hình của máy
móc thiết bị.
+ NVL chiếm tỷ trọng cao trong giá thành:
Nhiều DN chế biến, NVL chiếm tới 70% - 80%. Công nghệ liên quan đến mọi
khâu trong quá trình kinh doanh: từ việc sản xuất đến việc đưa hàng hóa đến tay
người tiêu dùng.
+Ứng dụng công nghệ kỹ thuật giúp cho doanh nghiệp lợi dụng các nguồn lực để
đạt được các mục tiêu xác định, quản lí tốt hơn về các tài sản của công ty, tránh sự
hao phí không đáng có
=> Nếu doanh nghiệp có trình độ kỹ thuật sản xuất còn có công nghệ sản xuất tiên
tiến và hiện đại sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu,
nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, còn nếu trình độ kỹ thuật sản xuất của
doanh nghiệp thấp kém hoặc công nghệ sản xuất lạc hậu hay thiếu đồng bộ sẽ làm
cho năng suất, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp rất thấp, sử dụng lãng phí
nguyên vật liệu.
* Nhân tố này tác động vào hiệu quả kinh doanh theo các hướng sau:
- Sự phát triển của công nghệ kỹ thuật tạo ra cơ hội để nắm bắt thông tin trong quá
trình hoạch định kinh doanh cũng như trong quá trình điều chỉnh, định hướng lại
hoặc chuyển hướng kinh doanh:
Công nghệ ngày càng phát triển, con người có thể ngồi ở nhà và biết rõ thông tin
cần thiết phục vụ lợi ích của mình, hay những ứng dụng mang tính đột phá thay
đoiỉ hoàn toàn kế hoạch kinh doanh…
- Công nghệ kỹ thuật sẽ tác động đến việc tiết kiệm chi phí vật chất trong quá trình
kinh doanh làm cho chúng ta sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm chi phí vật chất
trong quá trình kinh doanh.
Công nghệ kỹ thuật giúp doanh nghiệp quản lí được nguyên vật liệu cũng như
thời gian hoạt động dây chuyền…nhằm giúp doanh nghiệp đạt lợi nhuận tối đa
- Ứng dụng của tiến bộ khoa học kỹ thuật: Ứng dụng của tiến bộ khoa học kỹ thuật
sẽ tạo ra đa ngành nghề kinh doanh:
Doanh nghiệp có thể sử dụng máy móc thiết bị hay chung hơn là công nghệ để
phát triển một số ngành nghề tương tự và liên quan đến nhau.
=> Công nghệ kỹ thuật và ứng dụng tiến công nghệ kỹ thuật sẽ đem lại cho doanh
nghiệp một tài sản rất lớn đó là lợi thế kinh doanh đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh có hiệu quả cao.
b, Thực trạng ở Việt Nam
Nước ta đã và đang thúc đẩy nghiên cứu, làm chủ và tạo ra công nghệ cao; ứng
dụng hiệu quả công nghệ cao trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội; sản xuất sản
phẩm, hình thành doanh nghiệp và phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ
cao; xây dựng hạ tầng kỹ thuật và phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao.
Thời gian qua, nước ta đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức KH&CN với
trên 1.100 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó
có gần 500 tổ chức ngoài nhà nước; 197 trường đại học và cao đẳng, trong đó có
30 trường ngoài công lập. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các viện, trung tâm nghiên
cứu, các phòng thí nghiệm, các trung tâm thông tin KH&CN, thư viện, cũng được
tăng cường và nâng cấp. Đã xuất hiện một số loại hình gắn kết tốt giữa nghiên cứu
khoa học, phát triển công nghệ với sản xuất - kinh doanh.
Mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nhưng với sự nỗ lực rất lớn của Nhà
nước, từ năm 2000 tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho KH&CN đã đạt 2%, đánh dấu
một mốc quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách đầu tư phát triển
KH&CN của Đảng và Nhà nước.
Khoa học và công nghệ đã góp phần quan trọng trong việc tiếp thu, làm chủ, thích
nghi và khai thác có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài. Nhờ đó, trình độ
công nghệ trong một số ngành sản xuất, dịch vụ đã được nâng lên đáng kể, nhiều
sản phẩm hàng hoá có sức cạnh tranh cao hơn. Đặc biệt, trong lĩnh vực nông
nghiệp KH&CN đã tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng và năng
suất cao, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa nước ta từ chỗ là
nước nhập khẩu lương thực trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo, cà phê,
v.v hàng đầu trên thế giới.
Các chương trình nghiên cứu trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu, tự động hoá, công nghệ cơ khí - chế tạo máy, đã góp phần
nâng cao năng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nâng cao
năng suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều ngành kinh tế.
Khoa học và công nghệ trong những năm qua đã góp phần đào tạo và nâng cao
trình độ nhân lực, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc
và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc.
Ví dụ :
- Tại tỉnh Gia Lai, thông qua mô hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nuôi ong, người
dân đã phát triển nghề nuôi ong trở thành một ngành sản xuất hàng hóa và đã
xuất 450 tấn mật ong sang thị trường một số nước khối EU và Mỹ, thu 13 tỷ
đồng/năm.
- Tại Quảng Ninh, việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đã giúp một đơn vị tiếp nhận,
làm chủ được công nghệ sản xuất giống và nuôi tu hài thương phẩm. Trước khi
thực hiện dự án doanh thu công ty chỉ đạt hai tỷ đồng/năm, sau khi triển khai thực
hiện dự án một năm (năm 2007) doanh thu của công ty đã tăng lên 10 tỷ đồng, đến
năm 2009 đạt 150 tỷ đồng và dự kiến năm 2010 đạt 200 tỷ đồng. Ðến nay, việc
nhân giống và nuôi thương phẩm tu hài đã được nhân rộng ra toàn huyện đảo Vân
Ðồn (Quảng Ninh) và các tỉnh Hải Phòng, Nghệ An, Thanh Hóa
3. Nhân tố quản trị doanh nghiệp
a, Khái quát chung
Các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường, bộ máy quản trị doanh nghiệp
có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp, bộ máy
quản trị doanh nghiệp phải đồng thời thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau.
- Nhiệm vụ đầu tiên của bộ máy quản trị doanh nghiệp và xây dựng cho doanh
nghiệp một chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp. Nếu xây dựng được
một chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp hợp lý (phù hợp với môi
trường kinh doanh, phù hợp với khả năng của doanh nghiệp) sẽ là cơ sở là định
hướng tốt để doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu
quả.
- Xây dựng các kế hoạch kinh doanh, các phương án kinh doanh và kế hoạch hoá
các hoạt động của doanh nghiệp trên cơ sở chiến lược kinh doanh và phát triển
doanh nghiệp đã xây dựng.
- Tổ chức thực hiện các kế hoạch, các phương án và các hoạt động sản xuất kinh
doanh đã đề ra.
- Tổ chức kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh các quá trình trên.
Với chức năng và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của bộ máy quản trị doanh nghiệp,
ta có thể khẳng định rằng chất lượng của bộ máy quản trị quyết định rất lớn tới
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu bộ máy quản trị được tổ chức
với cơ cấu phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, gọn nhẹ
linh hoạt, có sự phân chia nhiệm vụ chức năng rõ ràng, có cơ chế phối hợp hành
động hợp lý, với một đội ngũ quản trị viên có năng lực và tinh thần trách nhiệm
cao sẽ đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu
quả cao. Nếu bộ máy quản trị doanh nghiệp được tổ chức hoạt động không hợp lý
(quá cồng kềnh hoặc quá đơn giản), chức năng nhiệm vụ chồng chéo và không rõ
ràng hoặc là phải kiểm nhiệm quá nhiều, sự phối hợp trong hoạt động không chặt
chẽ, các quản trị viên thì thiếu năng lực và tinh thần trách nhiệm sẽ dẫn đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không cao.
b, Thực trạng ở Việt Nam
Thời gian qua, các doanh nghiệp Việt Nam mặc dù có sự tăng trưởng mạnh về số
lượng, tuy nhiên chất lượng doanh nghiệp còn thấp, năng lực cạnh tranh yếu.Một
trong những nguyên nhân cơ bản là năng lực quản trị, đặc biệt là quản trị công ty
còn hết sức hạn chế.Sau hơn 20 năm đổi mới thực hiện chính sách kinh tế nhiều
thành phần, hệthống doanh nghiệp ở Việt Nam đã hình thành và phát triển rộng
khắp trên cả nước ở tất cả các ngành kinh tế. Cùng với sự phát triển nhanh chóng
về số lượng, sự xuất hiện của các công ty lớn, quản trị công ty (QTCT) đang ngày
càng thu hút sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp và các nhà xây dựng pháp
luật về doanh nghiệp. Sau gần 20 năm đổimới, cùng với quá trình hoàn thiện môi
trường kinh doanh cho các doanh nghiệp, khung quản trị về công ty cũng đã từng
bước xây dựng, bổ sung và hoàn thiện. Cho đến nay, khung QTCT ở Việt Nam
được đánh giá là phù hợp với các yêu cầu và nguyên tắc quản trị phổbiến được
thừa nhận trên thế giới. Tuy nhiên, hoạt động QTCT ở Việt Nam vẫn còn nhiều
điểm hạn chế và yếu kém. Khái niệm “QTCT” vẫn còn rất mới mẻ. Theo một điều
tra trên
các doanh nghiệp lớn ở Việt Nam do IFC-MPDF (Dự án Nâng cao năng lực quản
lý cho các doanh nghiệp) thực hiện, chỉ có 23% số người được hỏi cho rằng các
doanh nhân ở Việt Nam đã hiểu khái niệm và nguyên tắc cơ bản của QTCT. Nhiều
lãnh đạo doanh nghiệp còn lẫn lộn giữa QTCT với quản lý tác nghiệp. Theo kết
quả khảo sát thực tiễn về QTCT ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên năm 2009
có tới 95.6% số doanh nghiệp được điều tra chưa thực hiện đầy đủ công tác QTCT.
Thực hành quản lý theo kiểu thuận tiện, thiếu vắng các yếu tố của QTCT làm cho
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gặp nhiều hạn chế, doanh nghiệp lúng túng
và chậm
phản ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh, đặc biệt là trong bối cảnh
khủng
khoảng tài chính. Sự yếu kém về quản trị cũng làm cho doanh nghiệp Việt Nam
“chậm
lớn”, đông về số lượng, tuy nhiên yếu kém về chất lượng.
- Về quản trị chiến lược: Đại bộ phận doanh nghiệp đều không xác định rõ ràng
sứmệnh tồn tại, không có mục tiêu dài hạn và không xác định được mô hình chiến
lược phát triển (trên 95%). Hoạt động của doanh nghiệp chủ yếu được xác lập
thông qua các kế hoạch vận hành ngắn hạn, phần lớn là kế hoạch tháng, thậm chí
ngắn hơn. Có thể nói, tư duy ngắn hạn, thiếu phương hướng hoạt động dài hạn
đang là một đặc điểm lớn chi phối quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Tuổi thọ
bình quân của doanh nghiệp rất ngắn, chỉ khoảng 3,4 năm. Rất nhiều doanh nghiệp
được thành lập chỉ nhằm mục đích khai thác một cơ hội kinh doanh nào đó, khi cơ
hội đó không còn nữa, doanh nghiệp cũng kết thúc hoạt động.
- Về quản trị tài chính và kế toán: Đặc điểm chung là các doanh nghiệp của Việt
Nam chưa thực sự vận hành hệ thống quản trị tài chính một cách khoa học và minh
bạch, phần lớn chỉ mới chú trọng chức năng kế toán, đặc biệt là kế toán thuế nhằm
ứng phó với cơ quan Thuế. Quản trị dòng tiền đang là một khái niệm khá mới mẻ,
phần lớn chỉ mới chú trọng việc hạch toán đúng doanh thu và chi phí để xác định
lợi nhuận trong từng năm hoạt động hoặc từng tác nghiệp riêng rẽ. Nhiều doanh
nghiệp doanh thu tăng nhưng luồng tiền vào và ra doanh nghiệp vẫn bị ách tắc,
lúng túng trong huy động và sửdụng nguồn vốn. Chưa thiết lập kế toán quản trị
hoặc kế toán quản trị chưa cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin kế toán, tài chính
phục vụ ra quyết định quản lý của lãnh đạo đơn vị. Về hoạt động kiểm soát của kế
toán, nhiều khoản chi chứng từ không hợp pháp, hợp lệ; kế toán chỉ tập hợp chứng
từ quyết toán, chưa thực hiện kiểm soát hoặc kiểm soát không đầy đủ; không kiểm
soát được hoặc kiểm soát không chặt chẽ tiêu hao vật tư, nguyên liệu, chi phí sửa
chữa máy móc, thiết bị, công cụ, dụng cụ; kế toán không tham gia kiểm soát vật
chất, kiểm soát trực tiếp các hoạt động quan trọng của đơn vị.
- Về quản trị nguồn nhân lực: Nhân lực là một yếu tố căn bản quyết định năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp, tuy nhiên tình hình chung của các doanh nghiệp
Việt Nam là chất lượng nguồn nhân lực thấp và rất thiếu ổn định. Bên cạnh các
nguyên nhân về hệthống đào tạo quốc gia, một trong những lý do chính của tình
trạng này là cách quản trịcông ty của doanh nghiệp. Cách quản trị ấy không đáp
ứng những nhu cầu nhân bản của người lao động là: công việc phù hợp khả năng,
phân công hợp lý, phát huy được khảnăng, thù lao tương xứng và cơ hội thăng tiến.
Do đó doanh nghiệp không sản sinh ra những quản trị viên có khả năng, nhiều
nhân viên chủ động thôi việc nhưng doanh nghiệp rất lúng túng trong việc bố trí
nhân sự thay thế cho những vị trí nghỉ việc. Động cơ làm việc của nhân viên chủ
yếu là thu nhập để đảm bảo cuộc sống, làm việc theo kiểu “tháo khoán”, hết giờ
hoặc hết nhiệm vụ là nghỉ, ít sáng tạo và ít sáng kiến cải tiến công việc.
Nhân viên không biết hoặc không hiểu thấu đáo định hướng, chiến lược phát triển
củadoanh nghiệp. Mức độ gắn bó giữa nhân viên và doanh nghiệp rất thấp, họ khá
thờ ơ với những thành công hay thất bại của doanh nghiệp, xem đó như là vấn đề
của chủ doanh nghiệp. Đối với giới chủ, vấn đề quan tâm lại là chính là sự giàu có
và thành đạt của chính bản thân mình hơn là vì doanh nghiệp trong đó họ cũng chỉ
là một bộ phận.
- Về quản trị thương hiệu và marketing: Điểm hạn chế lớn của các doanh nghiệp
là chưa quan quan tâm đến công tác xây dựng thương hiệu. Một số doanh nghiệp
mới chỉ hướng tới định vị sản phẩm của mình là “Hàng Việt Nam chất lượng cao”
chưa nghĩđến chuẩn quốc tế hoặc thấp hơn là khu vực, thừa nhận sản phẩm mình là
sản phẩm nội địa, thể hiện sự tự ti nếu so với thị trường thế giới. Những sản phẩm
chất lượng cao theo chuẩn quốc tế không bao giờ tự quảng cáo là hàng Mỹ chất
lượng cao hay hàng Nhật chất lượng cao. Công tác marketing chủ yếu chỉ tiến hành
các hoạt động quảng cáo, một chiến lược marketing mang tính hệ thống còn vắng
bóng trong các doanh nghiệp.
4. Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin
a, Khái quát chung
- Thông tin là gì?
Thông tin là những dữ liệu có ý nghĩa được sử dụng để biểu thị những vấn đề cụ
thể, giúp cho đối tượng tiếp nhận thông tin có được những quyết định nhằm đạt
mục đích mong muốn.
- Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - kỹ thuật đang làm thay đổi
nhiều lĩnh vực sản xuất, trong đó công nghệ tin học đóng vai trò rất quan trọng.
- Thông tin được coi là một hàng hoá, là đối tượng kinh doanh và nền kinh tế thị
trường hiện nay được coi là nền kinh tế thông tin hoá.
* Những thông tin cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
- Để đạt được thành công khi kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ngày
càng quyết liệt, các doanh nghiệp rất cần nhiều thông tin chính xác về cung cầu thị
trường hàng hóa, về công nghệ kỹ thuật, về người mua, về các đối thủ cạnh
tranh,
- Ngoài ra, doanh nghiệp còn rất cần đến các thông tin về kinh nghiệm thành công
hay thất bại của các doanh nghiệp ở trong nước và quốc tế, cần biết các thông tin
về các thay đổi trong các chính sách kinh tế của Nhà nước và các nước khác có liên
quan,
* Tầm quan trọng của thông tin đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp
V.I.Lê nin đã khẳng định: "Không có thông tin thì không có thắng lợi trong bất cứ
lĩnh vực nào, cả khoa học, kỹ thuật và sản xuất". Binh pháp Tôn Tủ cũng có nói:
"Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng" Thông tin có vai trò quan trọng trong mọi
lĩnh vực và đặc biệt là trong kinh doanh.
- Trong kinh doanh nếu biết mình biết người và nhất là hiểu rõ được các đối thủ
cạnh tranh thì mới có đối sách giành thắng lợi trong cạnh tranh, có chính sách phát
triển mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau.
- Kinh nghiệm thành công của nhiều doanh nghiệp cho thấy nắm được các thông
tin cần thiết và biết xử lý và sử dụng các thông tin đó kịp thời là một điều kiện rất
quan trọng để ra quyết định kinh doanh có hiệu quả cao, đem lại thắng lợi trong
cạnh tranh.
- Những thông tin chính xác được cung cấp kịp thời sẽ là cơ sở vững chắc để
doanh nghiệp xác định phương hướng kinh doanh, xây dựng chiến lược kinh doanh
dài hạn cũng như hoạch định các chương trình sản xuất ngắn hạn.
- Nếu không được cung cấp thông tin một cách thường xuyên và liên tục, không có
trong tay các thông tin cần thiết và xử lý một cách kịp thời doanh nghiệp không có
cơ sở để ban hành các quyết định kinh doanh dài và ngắn hạn và do đó dễ dẫn đến
thất bại.
=>Thông tin quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
* Sự vận dụng của các doanh nghiệp
- Trong bất cứ một lĩnh vực kinh tế nào đều cần có thông tin. Thông tin là một
công cụ hữu hiệu có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Nếu chúng ta biết cập nhật thông tin kịp thời, đúng lúc sẽ đem lại hiệu quả
rất lớn cho doanh nghiệp. Ví dụ như do thiếu thông tin về diễn biến của thị trường
lúa gao, hạt điều, cà phê thế giới nên các doanh nghiệp xuất khẩu của ta bị thua lỗ.
- Mọi doanh nghiệp đều cần cập nhật thông tin hàng ngày về đối tác, cổ đông, tiếp
thị quảng cáo, bán hàng, nhân viên, đối thủ cạnh tranh và nhu cầu của khách hàng
trên thị trường. Đó là những thông tin rất quan trọng mà cá doanh nghiệp cần phải
biết
Nhu cầu về thông tin của các doanh nghiệp đòi hỏi phải phát triển mạnh mẽ hệ
thống thông tin dưới nhiều hình thức khác nhau trong đó đặc biệt là hệ thống thông
tin nối mạng trong nước và quốc tế.
- Nhiệm vụ quan trọng của công tác QTDN hiện nay là tổ chức một cách khoa học
hệ thống thông tin nội bộ. Khi hệ thống thông tin nội bộ được tổ chức tốt sẽ vừa
đáp ứng được nhu cầu thông tin kinh doanh lại vừa đảm bảo giảm thiểu chi phí
kinh doanh cho quá trình thu thập, xử lý, lưu trữ và sử dụng thông tin.
- Phù hợp với xu thế phát triển hệ thống thông tin nội bộ phải là hệ thống thông tin
nối mạng cục bộ, mạng trong nước và quốc tế
b, Thực trạng ở Việt Nam
Ban chỉ đạo công nghệ thông tin quốc gia đã làm một cuộc khảo sát việc ứng dụng
công nghệ
thông tin tại 217 doanh nghiệp và những con số có được đã khiến mọi người khôn
g khỏi bất
ngờ.Hiện các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ đầu tư khoản chi phí rất nhỏ
bé là 0,05- 0,08% doanh thu cho công nghệ thông tin, trong khi ở Mỹ con số trun
g bình là 1,5%. Chính sách đầu tư cho công nghệ thông tin của doanh nghiệp còn
nhiều bất cập. Đa phần doanh nghiệp chỉ đầu tư một lần cho hệ thống thông t
in và nâng cấp các ứng dụng, do đó đầu tư đã thấp và hiệu quả của nó còn thấp hơn
.
Cuộc khảo sát còn cho Việc nhanh chóng đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào q
uá trình tự động hoá trong sản xuất kinh doanh thấy đến thời điểm này vẫn có nhữn
g doanh nghiệp chưa có một ứng dụng công nghệ thông tin nào. Khối doa
nh nghiệp nhà nước còn 10%, trong khi các thành phần doanh nghiệp khác thì có đ
ến 60% chưa đưa CNTT vào công việc của mình, 40% DN chưa dám
đầu tư mạnh vào công nghệ thông tin vì không đủ nhân viên có trình độ để quản lí
và khai thác.
Việc đầu tư chưa được chú trọng. 91,9% doanh nghiệp không quan tâm tới việc
thiết kế, xây dựng website để quảng bá, giới thiệu về chính mình ứng dụng các
phần mềm trong quản lí, nâng cao hiệu quả điều hành sản xuất cũng không đực chú
trọng. Ngay tại những thành phố lớn như TPHCM cũng chỉ có chưa đầy 30% DN
xây dựng website của mình. Con số này ở các thành phố lớn khác như: Hà Nội,
Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ lần lượt là 31,6%; 22,6%; 11,3% và 14,1%. Điều
đáng kinh ngạc là có tới 70% DN hầu như không sử dụng dịch cụ web mặc dù là
hạ tầng về công nghệ có sẵn. Hiện vẫn còn 33,9% DN tại 5 TP nói trên vẫn sử
dụng dial-up để kết nối internet. Những trường hợp này có nhiều ở các thành phố
lớn như Đà Nẵng, Cần Thơ, nơi mà ADSL đã được rất nhiều hộ gia đình sử dụng.
5. Nhân tố tính toán kinh tế
Đối với doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh không chỉ là thước đo chất lượng phản
ánh trình độ tổ chức quản lí kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của doanh
nghiệp. Trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng mở rộng, muốn tồn tại và
phát triển thì đòi hỏi doanh nghiệp kinh doanh phải có hiệu quả. Hiệu quả kinh
doanh càng cao, doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng và phát triển hoạt động
kinh doanh, đối với doanh nghiệp hiệu quả kinh tế chính là lợi nhuận thu được trên
cơ sở không ngừng mở rộng sản xuất, tăng uy tín và thế lực của doanh nghiệp trên
thương trường
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại là vấn đề phức tạp có quan hệ
đến toàn bộ các yếu tố của quá trình kinh doanh. Doanh nghiệp chỉ có thể đạt được
hiệu quả kinh doanh khi sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có
hiệu quả.
Hiệu quả kinh doanh = Kết quả thu được – Chi phí bỏ ra
.+ Kết quả thu về: Doanh số bán: tiền thu được từ bán hàng hóa và dịch vụ
+ Chi phí bỏ ra: Vốn sản xuất và chi phí sản xuất.
Vốn sản xuất bao gồm giá trị của tài sản hữu hình và tài sản vô hình, tài sản cố
định, tài sản lưu động và tiền mặt dùng cho sản xuất
Chi phí sản xuất: chi phí cố định và chi phí biến đổi
Trong thực tế hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp đạt được trong các
trường hợp sau:
• Kết quả tăng, chi phí giảm
• Kết qủa tăng, chi phí giảm nhưng tốc độ tăng của chi phí nhỏ hơn tốc độ
tăng của kết quả.
Hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ các
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở so sánh lợi ích thu được với chi
phí bỏ ra trong suốt qúa trình kinh doanh của doanh nghiệp. Dưới giác độ này thì
chúng ta có thể xác định hiệu quả kinh doanh một cách cụ thể bằng các phương
pháp định lượng thành các chỉ tiêu hiệu quả cụ thể và từ đó có thể tính toán so sánh
được, lúc này phạm trù hiệu quả kinh doanh là một phạm trù cụ thể nó đồng nhất
và là biểu hiện trực tiếp của lợi nhuận, doanh thu Ngoài ra nó còn biểu hiện mức
độ phát triển doanh nghiệp theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn
lực trong quá trình sản xuất nhằm thực hiện được mục tiêu kinh doanh. Lúc này thì
phạm trù hiệu quả kinh doanh là một phạm trù trừu tượng và nó phải được định
tính thành mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh. Nói một cách khác, ta có thể hiểu hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu phản ánh
trình độ và khả năng quản lý của doanh nghiệp. Lúc này hiệu quả kinh doanh thống
nhất với hiệu quả quản lý doanh nghiệp. Dưới góc độ này thì hiệu quả kinh doanh
phản ánh trình độ và khả năng kết hợp các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất.
Để đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ta chia làm 2 nhóm: hiệu quả
tuyệt đối và hiệu quả tương đối.
Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tuyệt đối :( hiệu quả hoạt động = kết quả thu được
– chi phí bỏ ra để thu được kết quả đó ) cho phép đánh giá hoạt động của doanh
nghiệp theo cả chiều sâu và chiều rộng.
Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tương đối ( hiệu quả hoạt động = kết quả kinh
tế/chi phí bỏ ra để đạt được kết qủa đó) hoặc ( hiệu quả hoạt động = mức tăng kết
quả kinh tế/ mức tăng chi phí). Những chỉ tiêu này rất thuận tiện cho việc so sánh
theo thời gian và không gian như cho phép so sánh hiệu quả giữa các doanh
nghiệp có quy mô khác nhau, các thời kỳ khác nhau
Nói tóm lạị xác định và tính toán một cách chi tiết và chính xác 2 yếu tố kết quả
thu được và chi phí bỏ ra là rất khó và phức tạp. Vì thế ta có các hệ thống chỉ tiêu
hiệu quả kinh doanh để có thế đánh giá và tính toán một cách chính xác hiệu quả
của doanh nghiệp
II. CÁC NHÂN TỐ BÊN NGOÀI
1. Môi trường pháp lý
a, Những vấn đề chung
* Khái niệm môi trường pháp lí trong hoạt động kinh doanh
- Là sự thể chế hóa thanh quyên và nghĩa vụ pháp lý đối với cả hai phía chủ thể
kinh doanh và cơ quan nhà nước.
+ Đối với các chủ thể kinh doanh đó là những quyền và nghĩa vụ trong việc thực
hiện quyền tự do kinh doanh .
+ Đối với cơ quan nhà nước đó là nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của từng
cơ quan nhà nước
- Môi trường pháp lý bao gồm hai mặt: Quy định pháp luật trong các văn bản và
chất lượng hoạt động tổ chức thực hiện các quy định pháp luật.
- Môi trường pháp lý gồm hệ thống các văn bản pháp luật do nhà nước đặt ra - thể
hiện vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế và các thông lệ và luật lệ
quốc tế - đối với các doanh nghiệp xuất khẩu.
* Pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh
Bao gồm những lĩnh vực chủ yếu:
+ Pháp luật về hành lang tổ chức quản lí các chủ thể doanh nghiệp
+ Pháp luật về hợp đồng trong kinh doanh
+ Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
+ Pháp luật về tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp.
* Đặc điểm của môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động, mọi
doanh nghiệp đều nằm trong hành lang đó nếu lệch ra ngoài là phạm luật và bị xử
lý.Vì vậy, trong hoạt động kinh doanh của mình doanh nghiệp phải chấp hành mọi
quy định của Nhà nước và nếu doanh nghiệp hoạt động liên quan đến thị trường
nước ngoài thì doanh nghiệp không thể không nắm chắc và tuân thủ pháp luật nước
đó và thông lệ quốc tế.
Hệ thống luật pháp yêu cầu phải động bộ, nhất quán và phù hợp với thông lệ quốc
tế.
* Ảnh hưởng của môi trường pháp lý đến hiệu quả kinh doanh
- tích cực : Môi trường pháp lý lành mạnh vừa giúp cho doanh nghiệp tiến hành
hoạt động kinh doanh thuận lợi, vừa điều chỉnh kinh tế vi mô theo hướng không
phải chỉ chú ý đến kết quả và hiệu quả của riêng mình, mà còn phải chú ý đến đảm
bảo lợi ích kin tế của mọi thành viên trong xã hội.
- tiêu cực : Môi trường pháp lý không ổn định sẽ gây cho doanh nghiệp nhiều khó
khăn, trở ngại và những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.
b, Thực trạng ở Việt Nam
Hiện nay môi trường pháp lý của nước ta chưa tạo ra động lực để các doanh
nghiệp phải quan tâm tới việc nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, hướng tới
những chuẩn mực về quản trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế.
Trước hết, doanh nghiệp sinh ra là để kinh doanh và săn tìm lợi nhuận. Để đạt
được mục đích đó, các doanh nghiệp có nhiều cách khác nhau, ít nhất có thể nêu ba
cách sau đây:
- Lách luật để trốn thuế, gian lận thuế, trốn tránh các nghĩa vụ đối với người lao
động và bảo vệ môi trường;
- Liên kết và hoạt động dưới sự bảo kê của cá nhân hoặc những nhóm quyền lực để
thu được những khoản lợi nhuận siêu ngạch;
- Nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp để tăng năng suất lao động, tăng chất
lượng, hạ giá thành sản phẩm và chiếm lĩnh thị trường.
Trong ba cách đã nêu trên, cách thứ ba phức tạp hơn, đòi hỏi những điều kiện
khắt khe hơn và với một thời gian dài. Vì vậy, chỉ khi nào môi trường pháp lý
không cho phép hoặc bản thân chủ doanh nghiệp không đủ điều kiện để áp dụng
cách thứ nhất và thứ hai, thì doanh nghiệp mới tìm đến cách thứ ba. Đáng tiếc là,
môi trường pháp lý ở nước ta hiện nay đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho khá
nhiều doanh nghiệp áp dụng cách thứ nhất và thứ hai. Hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật của chúng ta rất đồ sộ nhưng thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, rất
dễ bị vô hiệu bằng những công văn – một trong những văn bản dưới luật – và việc
thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt hiện nay là môi trường vô cùng thuận lợi cho
những hành vi trốn thuế, gian lận thuế. Còn vi phạm nghĩa vụ nộp các loại bảo
hiểm bắt buộc cho người lao động và xả thải ra môi trường thì gần như các doanh
nghiệp đang vô tư thực hiện mặc dù văn bản cấm thì không ít! Liên kết và hoạt
động dưới sự bảo kê của cá nhân hoặc những nhóm quyền lực để thu được những
khoản lợi nhuận siêu ngạch cũng là phương thức rất hữu hiệu (và cũng không ít)
của các doanh nghiệp hiện nay.
Thứ hai, dấu ấn của cơ chế quản lý hành chính, tập trung quan liêu, bao cấp
trước đây vẫn còn rất nặng nề trong mối quan hệ giữa cơ quan công quyền thuộc
bộ máy Nhà nước. Cho đến nay, Nhà nước ta vẫn chưa thực sự là “Nhà nước dịch
vụ” với nhiệm vụ cung cấp cho nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp những dịch
vụ công thuận tiện nhất. Ngược lại, các cơ quan công quyền vẫn chủ yếu thực hiện
việc kiểm tra, giám sát với tư cách của một “Nhà nước cai trị”. Điều đó thể hiện ở
hệ thống khổng lồ những thủ tục hành chính, giấy phép con vô lý…gây khó khăn
cho hoạt động kinh doanh. Đề án 30 về đơn giản hóa thủ tục hành chính đã triển
khai khá rầm rộ và cho biết, với 258 thủ tục ưu tiên cắt giảm đợt đầu, người dân và
cộng đồng doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được khoảng 30.000 tỷ đồng/năm. Song, con
số đó mới chỉ là “tính cua trong lỗ”. Bởi lẽ, để kết quả của Đề án đi vào thực tế
phải sửa trực tiếp 14 luật, 3 pháp lệnh, 44 nghị định, 8 quyết định của Thủ tướng
và gần 100 quyết định cấp bộ.Ông Daniel Trnka, chuyên gia phân tích của Tổ chức
Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), người chấp bút bản Báo cáo đánh giá về Đề
án 30, theo yêu cầu của Chính phủ Việt Nam, nói “Người dân và giới doanh
nghiệp đòi hỏi phải cụ thể hóa các tính toán này bằng các thực thi thực tế”. Điều đó
có nghĩa là, việc đơn giản hóa thủ tục hành chính chưa có kết quả trên thực tế. Hệ
thống các thủ tục hành chính nhiêu khê, phiền hà và thiếu tính khả thi đã bắt buộc
nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp phải “đối phó” bằng nhiều cách để được
việc. Và, tất nhiên, những “bài đối phó” đó không bao giờ trở thành chuẩn mực của
quản trị doanh nghiệp tiên tiến.
Thứ ba, tham nhũng – một trong những “ kẻ thù” của việc nâng cao năng lực
quản trị doanh nghiệp – vẫn đang là quốc nạn của nước ta. Dự thảo Báo cáo chính
trị sẽ được trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhận
định: "Nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát
hiện; chưa ngăn chặn, đẩy lùi được tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí…. ". Tham
nhũng là vật cản vô cùng lớn đối với việc thiết lập một hệ thống quản trị doanh
nghiệp tiến tiến theo thông lệ quốc tế. Bởi lẽ, tham nhũng sẽ thủ tiêu sự công khai,
minh bạch; làm rối loạn sổ sách kế toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp;
tham nhũng “cạnh tranh” gay gắt với các Nhà tư vấn – vốn được coi là “Bác sĩ”
của doanh nghiệp; tham nhũng cũng có thể đưa một số doanh nghiệp vi phạm pháp
luật một cách nghiêm trọng thành những gương điển hình với những danh hiệu cao
quý; tham nhũng có thể tôn vinh một số cá nhân vi phạm pháp luật đến mức truy
cứu trách nhiệm hình sự thành anh hung lao động, v.v… Với những tác động như
trên của tham nhũng thì việc cải tiến, áp dụng những biện pháp cần thiết để nâng
cao năng lực quản trị doanh nghiệp là một thách thức lớn.
2. Môi trường kinh tế
Ảnh hưởng của các yếu tố thuộc môi trường kinh tế và công nghệ đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp là rất lớn. Các yếu tố thuộc môi trường này quy định
cách thức doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế trong việc sử dụng tiềm năng của
mình và qua đó cũng tạo ra cơ hội kinh doanh cho từng doanh nghiệp, bao gồm:
- Tiềm năng của nền kinh tế, các thay đổi về cấu trúc, cơ cấu kinh tế của nền kinh
tế quốc dân, tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát, xu hướng mở/đóng của nền kinh
tế, tỷ giá hối đoái, mức độ thất nghiệp…
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật nền kinh tế, trình độ trang bị kỹ thuật/công nghệ, khả năng
nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong kinh tế/ngành
Môi trường kinh tế là nhân tố tác động rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của từng
doanh nghiệp
- Trước hết là chính sách đầ tư, chính sách phát triển kinh tế, chính sách cơ cấu…
+ Các chính sách này tạo ra sự ưu tiên hay kìm hãm sự phát triển của từng
ngành từng vùng kinh tế cụ thể
+ Đóng vai trò quyết định hướng và cách thức kinh doanh phù hợp nhất để đạt
hiệu quả cao nhất
+ Tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp
của từng ngành, từng vùng kinh tế cụ thể
- Tốc độ tăng trưởng, thu nhập của dân cư tăng …sẽ tạo đk thuận lợi cho hđ kinh
doanh( cung- cầu)
Cụ thể là Nếu tốc độ tăng trưởng nền kinh tế quốc dân cao, các chính sách của
Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, sự biến động
tiền tệ là không đáng kể, lạm phát được giữ mức hợp lý, thu nhập bình quân đầu
người tăng sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất, nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh
- Văn hóa xã hội, phong tục tập quán ảnh hưởng chậm chạp song chúng ảnh hưởng
sâu sắc tới hoạt động quản trị và kinh doanh của doanh nghiệp(quyết định dân cư
ưa chuộng mặt hang nào?)
- Các cơ quan nhà nước cần làm tốt công tác dự báo để điều tiết đúng đắn các hoạt
động đầu tư
3. Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng
a, Khái quát chung
* Khái niệm cơ sở hạ tầng
• Theo Các Mác: Hạ tầng cơ sở là khái niệm gồm nội hàm chứa đựng tất cả
các quan hệ sản xuất và hoạt động thức tiễn liên quan đến vất chất (làm ra, tiêu thụ,
vận chuyển, lưu thông, tàng trữ vv), các quan hệ và hoạt động mang tính vật chất)
• Theo wikipedia: Cơ sở hạ tầng có thể hiểu là hệ thống công trình hạ tầng
xã hội bao gồm các công trình như y tế, văn hóa, giáo dục, thể thao, thương
mại, dịch vụ công cộng,cây xanh, công viên, mặt nước, liên lạc viễn thông, hệ
thống cung cấp năng lượng, v.v… và các công trình khác.
Trên phương diện quản trị kinh doanh ta xét theo phương diện của ý thứ hai:
cơ sở hạ tầng có thể hiểu là hệ thống công trình hạ tầng xã hội bao gồm các công
trình như y tế, văn hóa, giáo dục, thể thao, thương mại, dịch vụ công cộng,cây
xanh, công viên, mặt nước, liên lạc viễn thông, hệ thống cung cấp năng lượng,
v.v… và các công trình khác.
* Tác động cơ sở hạ tầng tới hiệu quả kinh doanh
• Cơ sở hạ tầng tạo nền tảng để doanh nghiệp phất triển không những thế nó
còn thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển nâng cao cạnh tranh. Nó quyết định một
phần không nhỏ đén hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
các biểu hiện chính của cơ sở hạ tầng có tác động như sau
• Hệ thống giao thông phát triển sẽ giảm chi phí vận chuyển.
• Hệ thống thông tin liên lạc mà phát triển mạnh thì thời gian sẽ được tiết
kiệm và không mất công vận chuyển.
• Hệ thống y tế văn hóa giáo dục…phát triển tạo nguồn nhân lực dồi dào , tinh
thần làm việc sẽ cao.
• Bên cạnh đó các hệ thống khác cũng ảnh hưởng một phần không nhỏ tới
kinh doanh
è
Tóm lại một doanh nghiệp ở trong điều kiện cơ sở hạ tầng phát triển thì sẽ
nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đó phát triển là rất lớn và
ngược lại.
b, -Tác động cơ sở hạ tầng tới các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
* Tình hình cơ sở hạ tầng ở Việt Nam
- Điểm mạnh
+ Có các dự án đầu tư vào ngành năng lượng và giao thông. VD: dự án Phát điện
hỗn hợp Pin mặt trời- Diesel ở Quảng Nam với tổng vốn đầu tư 412.000USD,
Tuyến đường sắt nội thành Hà Nội….
+ Thu hút được nguồn đầu tư từ nước ngoài( chiếm 40% các dự án cơ sở hạ tầng)
+ Chính phủ có cách chính sách phát triển vào cơ sở hạ tầng: cơ sở hạ tầng của
Việt Nam trong những năm gần đây giữ ở mức 10% GDP, rất cao so với tiêu chuẩn
quốc tế. Chính vì vậy, mạng lưới đường bộ Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi chiều dài
so với năm 1990, và chất lượng đường cải thiện rõ rệt.
Điểm yếu
+ Các công ty nhà nước vẫn giữ vai trò thống lĩnh trong khu vực cơ sở hạ tầng.
Đặc biệt trong các lĩnh vực cơ bản, như điện lực, Điện lực Việt Nam (EVN) vẫn
giữ vai trò thống trị, phần nào gây ra những cản trở cho việc đầu tư trong lĩnh vực
này.
+ Các nước vẫn chưa công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường thật sự, ít
nhất là mãi cho đến năm 2018.
+ Việt Nam vẫn còn là một nước nhập siêu, hàng năm Việt Nam cần phải nhập
khoảng 2 triệu tấn thép thanh, chiếm hơn 80% nhu cầu hàng năm của quốc gia.
+ Xét về một số chỉ số tài chính, Việt Nam vẫn là một môi trường đầu tư khá liều
lĩnh cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng và cho sự vận hành tài
chính của dự án.
Cơ sở hạ tầng của Việt Nam đã được cải thiện rất rõ rệt và đạt được nhiều
thành tựu trong những năm gần đây. Tuy vậy,cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn còn
nhiều bất cập, đặc biệt cần phải sửa đổi và nâng cấp để đáp ứng được sự phát
triển của đất nước trong tương lai gần. Chẳng hạn như đường sá chật hẹp, kiến
trúc đô thị không hợp lý, các công ty xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng hầu hết
là cty nhà nước, khả năng quản lý kém.
è
Nhìn chung thì cơ sở hạ tầng ở việt nam còn yếu kém so với thế giới.
_________________________HẾT__________________________