Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Vai trò của sản xuất vật chất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.95 KB, 6 trang )

CÂU HỎI: VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT
PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT .
TRẢ LỜI:
 Sản xuất vật chất và vai trò của nó đối với sự tồn tại, phát triển của xã hội:
1) Sản xuất vật chất là hoạt động khi con người sử dụng công cụ lao động tác động (trực tiếp hay gián
tiếp) vào đối tượng lao động nhằm cải biến các dạng vật chất của tự nhiên, tạo ra của cải cần thiết mà
các dạng vật chất trong tự nhiên không có để thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển. Sản xuất vật chất
có tính khách quan, tính xã hội, tính lịch sử và tính sáng tạo. Bất kỳ một quá trình sản xuất nào cũng
được tạo nên từ ba yếu tố cơ bản là sức lao động của người lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao
động.
2) Phương thức sản xuất biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những
giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người; cách thức mà con người tiến hành sản xuất là sự
thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Mỗi
phương thức sản xuất đều có yếu tố kỹ thuật và kinh tế của mình; trong đó yếu tố kỹ thuật là thuật ngữ
dùng để chỉ quá trình sản xuất được tiến hành bằng cách thức kỹ thuật, công nghệ nào để tác động
biến đổi các đối tượng của quá trình đó; còn yếu tố kinh tế của phương thức sản xuất là thuật ngữ dùng
để chỉ quá trình sản xuất được tiến hành với những cách thức tổ chức kinh tế nào. Hai yếu tố trên của
phương thức sản xuất vận động theo hướng tách biệt và phụ thuộc lẫn nhau tạo ra vai trò của phương
thức sản xuất là quy định tính chất, kết cấu, sự vận động và phát triển của xã hội.
3) Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội
Sản xuất vật chất luôn giữ vai trò quy định sự tồn tại, phát triển của con người và xã hội loài người; là
hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội; là cơ sở của sự hình thành,
biến đổi và phát triển của xã hội loài người.
a) Mọi thành viên trong xã hội đều tiêu dùng (ăn, uống, ở, mặc v.v). Những thứ có sẵn trong tự nhiên
không thể thoả mãn mọi nhu cầu của con người, nên nó phải sản xuất ra của cải vật chất. Sản xuất vật
chất là yêu cầu khách quan cơ bản; là một hành động lịch sử mà hiện nay cũng như hàng ngàn năm
trước đây con người vẫn phải tiến hành. Cùng với việc cải biến giới tự nhiên, con người cũng cải biến
chính bản thân mình và cải biến cả các mối quan hệ giữa con người với nhau và chính việc cải biến đó
làm cho việc chinh phục giới tự nhiên đạt hiệu quả cao hơn.
b) Xã hội loài người tồn tại và phát triển được trước hết là nhờ sản xuất vật chất. Lịch sử xã hội loài
người, do vậy và trước hết là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất.


c) Sản xuất vật chất là cơ sở để hình thành nên các mối quan hệ xã hội khác. Xã hội loài người là một tổ
chức vật chất và giữa các yếu tố cấu thành nó cũng có những kiểu quan hệ nhất định. Các quan hệ xã
hội về nhà nước, chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, khoa học v.v (cái thứ hai) đều được hình
thành và phát triển trên cơ sở sản xuất vật chất (cái thứ nhất) nhất định. Trong quá trình đó, con người
đồng thời cũng sản xuất ra và tái sản xuất ra những quan hệ xã hội của mình.

d) Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tiến bộ xã hội. Sản xuất vật chất không ngừng được các thế hệ
người phát triển từ thấp đến cao. Mỗi khi phương thức sản xuất thay đổi, quan hệ giữa người với người
trong sản xuất cũng thay đổi; và do vậy, mọi mặt của đời sống xã hội đều có sự thay đổi theo sự tiến
bộ của phương thức sản xuất.
 Nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng
sản xuất, từ đó hãy rút ra ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu quy luật này?
Bất cứ phương thức sản xuất ở một giai đoạn phát triển lịch sử nào cũng đều bao gồm hai mặt:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất - là biểu hiện mối quan hệ giữa người và tự
nhiên trong quá trình sản xuất; quan hệ sản xuất - là biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất. C.Mác đã chỉ rõ: “Trong sản xuất, con người không chỉ có quan hệ với tự nhiên mà
còn phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau, và chỉ trong phạm vi những mối liên hệ và
quan hệ xã hội đó thì mới có tác động vào tự nhiên, vào sản xuất được”.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng phản ánh hai
mối quan hệ khác nhau, đặc trưng phát triển không giống nhau, nhưng chúng có mối liên hệ hữu cơ không
thể tách rời và tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật xã hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài
người: Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy
luật này vạch rõ sự quy định, phụ thuộc lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó
lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định.
- Kết cấu của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất bao gồm ba yếu tố cấu thành: Người lao động (lứa tuổi, sức khỏe, trình độ,
kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, năng lực), tư liệu sản xuất và khoa học kỹ thuật công nghệ. Trong đó người
lao động là nhân tố quyết định của lực lượng sản xuất.
- Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và của lao động, là kết tinh sức

lao động xã hội trong từng đơn vị sản phẩm do quá trình sản xuất tạo ra. Nếu công cụ thủ công thì lực
lượng sản xuất có tính chất cá nhân, nếu công cụ là máy móc thì lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội
hóa.
Trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của công cụ lao động, của kỹ thuật, trình độ
kinh nghiệm, kỹ năng lao động của người lao động, qui mô sản xuất, trình độ phân công lao động xã
hội…
- Quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi và phát triển dưới ảnh hưởng quyết định của lực lượng
sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng sự thay đổi và phát triển của bất cứ một phát triển sản
xuất nào bao giờ cũng bắt đầu bằng sự thay đổi và phát triển của các lực lượng sản xuất.
Trong quá trình sản xuất để đạt được năng suất lao động cao hơn, con người luôn luôn tìm cách
cải tiến công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động mới tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi và
phát triển của công cụ lao động, kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng lao động, kiến thức khoa học,.. của người
lao động cũng không ngừng tăng lên.
Mặt khác, trong cấu trúc của phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là nội dung còn quan hệ
sản xuất là hình thức xã hội của nó, trong mối quan hệ đó nội dung là quyết định. Nội dung biến đổi kéo
theo sự biến đổi của hình thức.
Do đó lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, không ổn định nhất, yếu tố cách mạng nhất của quá
trình sản xuất vật chất. Sự biến đổi của lực lượng sản xuất, trước hết là sự biến đổi của công cụ sản xuất
đã dẫn đến sự biến đổi trong các quan hệ sản xuất giữa người và người. Điều đó cho thấy công cụ sản
xuất không những là thước đo trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất, mà còn là dấu hiệu báo trước
quan hệ xã hội, quan hệ kinh tế giữa người với người cũng biến đổi theo. C.Mác viết: “Phương thức sản
xuất, những quan hệ trong đó các lực lượng sản xuất phát triển, đều không phải là những quy luật vĩnh
viễn, mà chúng thích ứng với sự phát triển nhất định của con người và của những lực lượng sản xuất của
con người, và một sự thay đổi trong lực lượng sản xuất của con người tất phải dẫn đến một sự thay đổi
trong những quan hệ sản xuất của con người” (C.Mác, Ăngghen tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980,
T.1, tr.396).
Điều đó chứng tỏ sự phát triển của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất cũng phát triển theo
cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó là động lực nội tại thúc đẩy
lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, lực lượng sản xuất có xu hướng phát triển nhanh hơn,

còn quan hệ sản xuất lại tương đối ổn định. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới, quan
hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa, trở thành chướng ngại đối với sự phát triển của lực lượng sản
xuất, làm nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của phương thức sản xuất. Một cách tất yếu là quan hệ
sản xuất cũ bị xóa bỏ, quan hệ sản xuất mới hình thành phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất đã phát triển, mở đường cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
Quan hệ sản xuất cũ bị xóa bỏ, quan hệ sản xuất mới hình thành, cũng đồng thời sự diệt vong của
phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của phương thức sản xuất mới. Trong xã hội có giai cấp đối
kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở khách quan của cuộc
đấu tranh giai cấp, đồng thời là tiền đề của các cuộc cách mạng xã hội.
Sự tác động của quy luật nói trên trong lịch sử đã làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế-xã
hội thấp lên hình thái kinh tế-xã hội cao hơn một cách biện chứng.
- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:
Trong cấu trúc của phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng
sản xuất luôn luôn phải dựa vào để phát triển. Tất nhiên quan hệ sản xuất thường xuyên tác động trở lại
với lực lượng sản xuất: có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Theo tính tất
yếu khách quan, quan hệ sản xuất lỗi thời sẽ bị thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất có thể tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, bởi vì quan hệ sản xuất quy
định tính mục đích của quá trình sản xuất vật chất, quy định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý
xã hội, quy định phương thức phân phối của cải mà người lao động trực tiếp được hưởng. Tất cả những
yếu tố nói trên lại ảnh hưởng và quy định thái độ của quần chúng lao động - lực lượng sản xuất chủ yếu
của xã hội.
Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất theo chiều hướng tích cực, khi quan hệ sản
xuất là một hệ thống hoàn chỉnh gồm cả ba mối quan hệ: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức và quản lý sản
xuất, phân phối sản phẩm, đều phù hợp với tính chất (trình độ) của lực lượng sản xuất.
Sự tác động của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất vào lịch sử đã đưa xã hội loài người phát triển qua các phương thức sản xuất: công xã nguyên thủy,
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa trong tương lai.
- Ý nghĩa thực tiễn và liên hệ Việt Nam:
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ

biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế
độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến
xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
Lịch sử xã hội loài người nói chung phát triển tuần tự từ thấp lên cao, nhưng thực tiễn lịch sử đã
chứng minh rằng nhiều nước đã bỏ qua một số phương thức sản xuất để tiến lên phương thức sản xuất cao
hơn.
Mười năm sau ngày đất nước thống nhất, do chủ quan duy ý chí, làm trái quy luật này mà Việt
Nam đã lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện, khủng hoảng nghiêm trọng và khủng hoảng sâu sắc.
Từ khi bước vào công cuộc đổi mới đất nước (1986) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh
đạo dân tộc Việt Nam từng bước thực hiện nghiêm túc quy luật này.
Ở Việt Nam, để xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ trương phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Như vậy việc bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa về thực chất là bỏ qua chế độ
chính trị tư bản chủ nghĩa, nhưng chúng ta lại kế thừa những giá trị của chủ nghĩa tư bản với tư cách là
lực lượng sản xuất, để hướng nền sản xuất đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là tuân thủ quy luật về sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất. Nhờ đó Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng và trở thành
nước đang phát triển của thế giới.
CÂU HỎI: TỒN TẠI XÃ HỘI QUYẾT ĐỊNH Ý THỨC XÃ HỘI VÀ TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI
CỦA Ý THỨC XÃ HỘI.
TRẢ LỜI:
1. Tồn tại xã hội:
- Tồn tại xã hội là khái niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội, dùng để chỉ toàn bộ đời
sống vật chất cùng toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
- Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản là: hoàn cảnh địa lý, điều kiện dân số và phương thức
sản xuất, trong đó, phương thức sản xuất là yếu tố giữ vai trò quyết định tính chất, kết cấu của xã hội,
quyết định sự vận động và phát triển của xã hội.
2. Ý thức xã hội

- Ý thức xã hội là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Nó bao gồm tình
cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận,.. là sự phản ánh của tồn tại xã hội trong những
giai đoạn phát triển khác nhau.
- Ý thức xã hội gồm nhiều cấp độ khác nhau: Ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý luận, tâm
lý xã hội và hệ tư tưởng.
+ Ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý luận: sự phân chia này dựa vào sự khác nhau giữa
nhân sinh quan trong thực tiễn cuộc sống chưa được hệ thống hóa với tập hợp những tư tưởng đã nghiên
cứu một cách sáng tạo được hệ thống hóa thành lý luận thành học thuyết.
Ý thức sinh hoạt đời thường không có nghĩa là tầm thường tự phát, hoang dã hay ít có giá trị, mà
nó lại bao hàm nội dung rộng lớn của cuộc sống. Tuy nó chưa có tính hệ thống, tính hợp lý và tính khoa
học nhưng nó lại mang tính đầy đủ toàn vẹn của cảm giác sống, nó gắn với hiện thực trực tiếp của đời
sống, phản ánh được những chi tiết gần gũi của đời sống. Chính kinh nghiệm của ý thức đời thường là cái
kho để các khoa học tìm kiếm nội dung của mình.
Ý thức lý luận là toàn bộ tư tưởng, quan điểm của xã hội được hệ thống hóa thành hệ thống một
cách hợp lý, thành chỉnh thể trong những khoa học cụ thể, nghệ thuật, triết học… Đặc điểm của ý thức lý
luận là tính hệ thống, tính hợp lý, tính có hiểu biết về những mối liên hệ bản chất tất yếu của các hiện
tượng xã hội, tính phản ánh trừu tượng khái quát bằng các phạm trù khái niệm.
- Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
+ Tâm lý xã hội là một bộ phận ở cấp độ ý thức sinh hoạt đời thường, trong đó xuất hiện những
quan niệm và sự đánh giá đa dạng các hiện tượng xã hội, những lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ, những phong
tục truyền thống, những thiên hướng và những hứng thú, hình ảnh, ước mơ…
Đặc điểm của tâm lý xã hội phản ánh trực tiếp điều kiện sống hàng ngày, phản ánh bề mặt của tồn
tại xã hội, không có khả năng vạch ra bản chất và những nguyên nhân sâu xa các mối quan hệ vật chất xã
hội. Nó mang tính chất kinh nghiệm chưa được thể hiện về mặt lý luận, những yếu tố trí tuệ thường trộn
lẫn với những yếu tố tình cảm.
+ Hệ tư tưởng là bộ phận ở cấp độ ý thức lý luận, trong đó bao gồm sự đánh giá một cách có hệ
thống về hiện thực xã hội, trên lập trường, quan điểm của một giai cấp, một Đảng nhất định, nêu ra nhiệm
vụ và mục đích chính trị-xã hội: xây dựng hệ thống những quan điểm về quyền lực của giai cấp, của đảng
phái đó.
Hệ tư tưởng phản ánh một cách sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, nó là sự

nhận thức lý luận về tồn tại xã hội dựa trên cơ sở khái quát những kinh nghiệm xã hội đã được tích lũy
của những giai cấp, tập đoàn xã hội nhất định.
Hệ tư tưởng có thể là tư tưởng khoa học, cũng có thể phản khoa học tùy vào việc nó có phản ánh
đúng đắn các mối quan hệ vật chất của xã hội hay không.
+ Giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội có mối quan hệ tác động lẫn nhau, do có chung một
nguồn gốc là tồn tại xã hội và cùng phản ánh tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho việc
tiếp thu hệ tư tưởng xã hội. Ngược lại, hệ tư tưởng xã hội lại củng cố và phát triển tâm lý xã hội. Nhưng
hệ tư tưởng không nảy sinh trực tiếp từ tâm lý xã hội và cũng không là sự “cô đặc” của tâm lý xã hội.
- Ý thức xã hội là sự phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, vì thế, trong xã hội có giai
cấp, ý thức xã hội luôn mang tính giai cấp. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, tư tưởng thống trị của một
thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị của thời đại đó, các giai cấp
khác thường chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị. Ý thức xã hội, ý thức giai cấp, ý thức cá nhân
không phải bao giờ cũng là những khái niệm đồng nhất.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
Giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội có mối quan hệ biện chứng trong đó tồn tại xã hội giữ vai trò
quyết định và ý thức xã hội tác động trở lại đối với tồn tại xã hội.
Tính quyết định của tồn tại xã hội thể hiện ở: Tồn tại xã hội có trước, ý thức xã hội có sau; tồn tại
xã hội thế nào thì ý thức xã hội thế đó; tồn tại xã hội biến đổi, đặc biệt là sự biến đổi của phương thức sản
xuất dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội. Vì vậy, không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng lý luận trong óc
người mà phải tìm nó trong hiện thực vật chất. Không thể giải thích một cách đầy đủ sự biến đổi của một
thời đại nào nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại đó. Tuy vậy, không phải bất cứ ý thức xã hội nào cũng
trực tiếp phản ánh những quan hệ kinh tế của thời đại nó, mà chỉ xét đến cùng thì những quan hệ kinh tế
mới được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong những tư tưởng đó.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện những mặt sau:
- Ý thức xã hội thường có tính lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Thông thường đó là thói quen,
tập quán, truyền thống, niềm tin tôn giáo,.. Tính lạc hậu của ý thức xã hội bao giờ cũng cản trở đối sự phát
triển của tồn tại xã hội.
- Những tư tưởng tiến bộ, khoa học thường vượt trước tồn tại xã hội, nó có vai trò định hướng,
hướng dẫn cho hoạt động thực tiễn.

×