Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

VẬN DỤNG QUAN ĐiỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG VĂN HÓA TIÊN TiẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG XÂY DỰNG VĂN HÓA KINH DOANH Ở ViỆT NAM HiỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.08 KB, 29 trang )

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG VĂN HÓA
TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘCTRONG XÂY DỰNG VĂN
HÓA KINH DOANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước đảng ta luôn coi trọng yếu tố văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong
quan hệ giữa người với người, với xã hội và với thiên nhiên.văn hóa vừa là động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và là mục tiêu của chúng ta. Trong quá trình
chuyển từ nền kinh tế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự định
hướng của nhà nước. văn hóa càng đóng góp vai trò điều tiết tinh thần,góp phần
đắc lực vào việc khai thác những nhân tố tích cực hạn chế nhân tố tiêu cực của
mối quan hệ hàng hóa –tiền tệ trong xã hội ,văn hóa giữ vai trò góp phần hình
thành một con đường phát triển phù hợp với đặc điểm của dân tộc và xu hướng
phát triển của thế giới. Gần đây các học giả quốc tế nói nhiều ,nghiên cứu nhiều về
các yếu tố thành công của các nước có nền công nghiệp mới (wics) trong phát
triển trong khu vực Đông Á-Đông Nam Á (là những con rồng-con hổ trong phát
triển kinh tế). sự thành công và năng động đó được xác nhận là sự bắt nguồn từ
các yếu tố văn hóa truyền thống, trong đó tính cộng đồng,tính ý thức dân tộc thể
hiện rất cao trong quan hệ kinh doanh: sự ham học hỏi,sáng tạo,tính nghiêm túc, kỉ
luật cao trong công việc đã được nhấn mạnh và được coi là những nhân tố thúc
đẩy quá trình tăng kinh tế bền vững,cân đối của những nước này. Và đặc biệt trong
nên kinh tế thị trường kinh tế XHCN ở Việt Nam với rất nhiều các quan hệ kinh tế
đan xen nhau bên cạnh mặt tích cực,đã xuất hiện mặt tiêu cực làm nảy sinh các
hành vi kinh doanh thiếu đạo đức-phi văn hóa,chạy theo lợi nhuận ảnh hưởng đến
văn hóa kinh doanh,đến các giá trị kinh doanh nền tảng của kinh tế thị trường-làm
1
cho các giá trị đó bị đảo lộn,đe dọa đến sư bất ổn cho hoạt động kinh tế,chính vì
tính cấp thiết của sự xuống cấp thang giá trị đó.
Xây dựng văn hóa kinh doanh vừa là mục tiêu,vừa là thách thức lớn đối với
hầu hết các doanh nghiệp,doanh nhân Việt Nam trong xu hướng gia nhập WTO và
toàn cầu hóa hiện nay. Thách thức lớn nhất là nguy cơ tụt hậu, là hiệu quả kinh tế


và năng lực cạnh tranh thấp.Hơn lúc nào hết chúng ta cần nhận thức rõ những hạn
chế, bất cập trong văn hóa kinh doanh Việt Nam,từ đó tìm ra hướng đi cho các
doanh nghiệp,doanh nhân văn hóa kinh doanh Việt Nam tiên tiến đạm đà bẳn sắc
dân tộc, làm nền tảng cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam trong
thế kỉ XXI
Tuy nhiên, văn hóa kinh doanh là những trù phạm rộng lớn có nhiều mối quan
hệ tác động qua lại hết sức đa dạng và phức tạp đòi hỏi phải được tiếp tục đi sâu
nghiên cứu, thảo luận trong thời gian tới, cho nên bài thảo luận của chúng em còn
có thể có nhiều hạn chế nhất định. Em mong nhận được những ý kiến đóng góp
quý báu của các bạn cùng các thầy cô.
NỘI DUNG
I/ Cơ sở lý luận
Nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc và những quan điểm của Đảng
về xây dựng nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc
Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Quan điểm này của Đảng xác định phương hướng và đặc trưng của nền văn
hóa Việt Nam mà chúng ta tập trung xây dựng trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Trình độ tiên tiến của nền văn hóa phải thống nhất với bản sắc văn hóa dân tộc và
khẳng định tầm vóc, vị thế của văn hóa dân tộc trong giao lưu và hợp tác quốc tế.
2
Phương hướng xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa
Khái niệm văn hóa thường được tiếp cận ở hai cấp độ lý luận và thực tiễn. Ở
cấp độ lý luận, văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người
(cá nhân và cộng đồng) sáng tạo ra để phục vụ sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Bản chất của văn hóa là sự sáng tạo, vươn tới cái Chân - Thiện - Mỹ, vươn tới các
giá trị nhân văn đem lại hạnh phúc cho con người. Văn hóa là “thiên nhiên” thứ
hai do con người tạo ra để phục vụ con người. Ở cấp độ thực tiễn, văn hóa thể hiện
trong toàn bộ hoạt động sống của con người, từ hoạt động sản xuất vật chất đến
hoạt động tinh thần, phản ánh kiểu lựa chọn sáng tạo của cá nhân và cộng đồng.

Như vậy, văn hóa vừa là sản phẩm sáng tạo của con người, vừa là môi trường
nhân tạo để nuôi dưỡng đời sống vật chất và tinh thần của con người. Cùng với
thiên nhiên thứ nhất do tạo hóa tạo nên, văn hóa trở thành môi trường sống của
con người, văn hóa được nhìn nhận là động lực của sự tiến bộ xã hội. Cần phải
khắc phục nhận thức phiến diện về văn hóa, đồng nhất văn hóa với một vài hoạt
động thuộc lĩnh vực tinh thần và xem nhẹ vai trò, chức năng xã hội của nó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa”
3
. Người đã khẳng định: “Trong công cuộc kiến thiết nước
nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến và phải coi là quan trọng ngang nhau:
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, phương hướng xây dựng và phát triển văn
hoá đã được Đảng ta xác định là: “phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống
đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, tiếp thụ tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào
toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể
3
và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con
người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao,
khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc
lên chủ nghĩa xã hội”
4
.
Chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự

chủ, tự cường, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc là những giá trị tinh thần cao đẹp của
dân tộc Việt Nam. Những giá trị này đã được giữ gìn, bảo lưu sáng tạo, và phát
huy qua các thế hệ trở thành truyền thống văn hóa dân tộc, là cơ sở để liên kết xã
hội và liên kết các thế hệ, tạo nên sức sống bất diệt của dân tộc Việt Nam.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược,
dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã phát huy
cao độ truyền thống yêu nước chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, tạo nên chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, đánh bại mọi kẻ thù cướp nước và bán nước. Ngay từ Đề
cương văn hóa năm 1943, Đảng ta đã đề ra ba nguyên tắc vận động văn hóa là dân
tộc, khoa học, đại chúng để phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, chống lại
các xu hướng phản dân tộc, phản khoa học, phản lại nhân dân lao động. Chủ tịch
Hồ Chí Minh xác định văn hóa là một mặt trận để kháng chiến và kiến quốc. Tư
tưởng văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa của Hồ Chí Minh đã
thực sự trở thành động lực thúc đẩy cuộc kháng chiến chống xâm lược thắng lợi.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, truyền thống yêu nước và đại đoàn kết dân
tộc đóng vai trò nền tảng và là động lực để chúng ta xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vì vậy, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa tiêu biểu, truyền thống lịch sử
tốt đẹp của dân tộc, bổ sung vào đó những nội dung mới, đáp ứng yêu cầu phát
triển của đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và
văn minh là yêu cầu hàng đầu đối với việc xây dựng nền văn hóa hiện nay.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một
yêu cầu cần thiết trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
4
và hội nhập quốc tế. Phương hướng phát triển này vừa giữ gìn và phát huy được
bản sắc và bản lĩnh văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để
phát triển không ngừng, đạt tới trình độ tiên tiến của các nước trong khu vực và
thế giới.
Để xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cần
phải tập trung sức mạnh của toàn Đảng, của bộ máy nhà nước, các đoàn thể chính
trị - xã hội và toàn thể các tầng lớp nhân dân, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn

bộ đời sống và hoạt động của cá nhân và cộng đồng, phản ánh chất lượng và trình
độ sống của xã hội, xây dựng đời sống tinh thần cao đẹp, khoa học phát triển, phục
vụ đắc lực cho sự nghiệp đổi mới đất nước, làm cho văn hóa thực sự trở thành môi
trường nhân văn, trở thành động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc là nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại có sự thống nhất hữu cơ
giữa tính tiên tiến và tính đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là kết quả của việc tổng kết
kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hóa mới của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong gần 80 năm qua. Trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, Đảng ta đều
đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển văn hóa, phù hợp với yêu cầu và nhiệm
vụ cách mạng. Trong thời kỳ đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc
tế, Đảng ta đã xác định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trình độ tiên tiến của nền văn hóa không mâu thuẫn
với bản sắc văn hóa dân tộc, ngược lại, hai đặc tính thống nhất biện chứng với
nhau, tác động qua lại và quy định lẫn nhau. Tuy nhiên, để tìm hiểu đặc trưng của
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta có thể cần làm rõ từng nội
dung “tiên tiến” và “đậm đà bản sắc dân tộc”.
Nền văn hóa tiên tiến trước hết là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội
dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dựa trên cơ sở của
5
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con
người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người
trong mối quan hệ hài hoà giữa tự nhiên với cá nhân và cộng đồng, giữa tự nhiên
với xã hội.
- Chủ nghĩa yêu nước là hệ thống quan niệm, tư tưởng, lý luận về địa vị và sự
tồn tại của đất nước, về độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, về tinh thần yêu nước
và truyền thống đại đoàn kết dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về trách
nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của người dân đối với đất nước…, trong đó, lý tưởng

độc lập dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Đây là chủ nghĩa yêu nước chân chính,
hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc chủ nghĩa sôvanh nước lớn.
Chủ nghĩa yêu nước là giá trị cao nhất trong thang bậc giá trị của văn hóa Việt
Nam. Nó là cơ sở để liên kết cộng đồng và liên kết thế hệ tạo thành sức sống liên
tục của truyền thống văn hóa dân tộc. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam phải được nâng lên tầm cao của thời đại và phải được
bổ sung những nội dung mới gắn liền với lý tưởng tiến bộ và cách mạng của thời
đại, thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, lý tưởng độc lập dân tộc phải gắn
liền với lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đó là con đường phát triển vững chắc của dân
tộc, con đường đảm bảo hạnh phúc của toàn thể nhân dân. Vì vậy, độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi của nền văn hóa Việt Nam hiện đại.
- Nền văn hóa tiến bộ là nền văn hóa thúc đẩy sự phát triển của đất nước dựa
trên tư tưởng cách mạng và khoa học dẫn đường. Đó là chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Nền văn hóa tiến bộ cũng là nền văn hóa thể hiện tinh
thần nhân văn và dân chủ sâu sắc.
Tính nhân văn thể hiện ở ngay trong mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ xây dựng
nền văn hóa mà Đảng ta đã đề ra. Đây là nền văn hóa hướng tới đấu tranh, giải
phóng cho con người, trước hết là nhân dân lao động khỏi sự áp bức, bóc lột về
phương diện giai cấp, dân tộc và xã hội; phấn đấu để không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân; tạo điều kiện để nhân dân tham gia sáng
6
tạo, hưởng thụ nhiều hơn những thành tựu văn hóa của dân tộc và nhân loại. Văn
kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Mọi hoạt động văn hóa nhằm
xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ,
đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan
dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình,
cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện
nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu
nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
5

.
Tính nhân văn của nền văn hóa mà chúng ta xây dựng không phải là sự quan
tâm đến con người một cách chung chung trừu tượng mà là sự quan tâm cụ thể,
thiết thực, toàn diện và sâu sắc đối với con người, đối với các tầng lớp xã hội và
các thành phần dân cư khác nhau “nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh
phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ
hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên”
6
.
Tính dân chủ của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là dân chủ xã
hội chủ nghĩa, gắn liền với chế độ chính trị - xã hội tiến bộ “của dân, do dân và vì
dân”. Nền văn hóa này khai thác động lực dân chủ trong nhân dân, tạo điều kiện
để phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân và cộng đồng, đề cao trách nhiệm của
công dân trước nhân dân, dân tộc và thời đại. Tính chất dân chủ của nền văn hóa
thống nhất với việc đề cao ý thức công dân, đề cao trật tự kỷ cương xã hội và
thống nhất giữa quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân trước pháp luật.
Đồng thời phát huy dân chủ phải gắn liền với việc nâng cao ý thức chính trị, đạo
đức xã hội và trình độ dân trí, tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng bộ
máy nhà nước, chống lãng phí, tham nhũng, quan liêu và các tiêu cực khác trong
bộ máy nhà nước và ngoài xã hội. Phát huy dân chủ phải đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng và quản lý của Nhà nước, chống tư tưởng tự do vô chính phủ, tự do vô kỷ
luật.
7
Nền văn hóa tiên tiến phản ánh trình độ phát triển cao mang tính hiện đại, cập
nhật với thành tựu văn hóa chung của khu vực và cộng đồng quốc tế. Bên cạnh hệ
tư tưởng tiên tiến là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các thành tố
khác của nền văn hóa Việt Nam cũng phải được hiện đại hóa. Cần phải phát triển
giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, nâng cao trình độ dân trí, khả năng
chiếm lĩnh và sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nền văn

hóa mới phải tập trung xây dựng những phẩm chất mới, xây dựng đạo đức, lối
sống của con người Việt Nam hiện đại ngang tầm với công cuộc đổi mới. Mặt
khác, nền văn hóa Việt Nam phải tham gia cùng cộng đồng quốc tế giải quyết
những vấn đề đặt ra trong xu thế toàn cầu hóa, khẳng định bản lĩnh và bản sắc dân
tộc trong giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế.
Nền văn hóa tiên tiến thể hiện ở nội dung phản ánh, đó là toàn bộ sự nghiệp
đổi mới vĩ đại của dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Nền văn hóa hướng tới
đấu tranh để khẳng định cái đúng, cái tốt, cái đẹp, phủ nhận cái xấu, cái ác, cái giả;
góp phần xây dựng con người phát triển toàn diện và tạo lập môi trường văn hóa
lành mạnh cho quá trình phát triển bền vững của đất nước. Đây cũng là nền văn
hóa có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền văn
hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở rộng giao lưu, hợp
tác quốc tế.
Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị đặc trưng tiêu biểu phản ánh diện mạo,
cốt cách, phẩm chất và bản lĩnh riêng của mỗi quốc gia, dân tộc; là dấu hiệu cơ
bản để phân biệt nền văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa
dân tộc thể hiện tập trung trong truyền thống văn hóa dân tộc. Truyền thống văn
hóa là các giá trị do lịch sử truyền lại, được các thế hệ sau kế thừa gìn giữ và phát
huy trong thời đại của mình, tạo nên dòng chảy liên tục của lịch sử văn hóa. Bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng
8
đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước. “Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân
tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ
quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo
trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”
7
. Bản sắc văn
hóa dân tộc là cơ sở để liên kết xã hội và liên kết các thế hệ, tạo nên sức mạnh tinh

thần của dân tộc. Vì vậy, bản sắc văn hóa dân tộc vừa được coi là “căn cước”, vừa
được coi là “bộ gien” di truyền văn hóa dân tộc. Đứng trước sự bùng nổ của cách
mạng khoa học - công nghệ và sự tác động của xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa,
các quốc gia, dân tộc, nhất là các nước đang phát triển đều ý thức sâu sắc việc bảo
vệ, giữ gìn các giá trị đặc sắc và đa dạng của văn hóa dân tộc, chống nguy cơ bị
đồng hóa. Vì vậy, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trở thành yêu cầu
khách quan và là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam hiện nay.
Bản sắc văn hóa dân tộc là một khái niệm “động” và “mở”, mang tính lịch sử
cụ thể và vận động, đổi mới không ngừng trên cơ sở loại bỏ những yếu tố bảo thủ
và tiêu cực, tiếp thu và phát huy những yếu tố tích cực và tiến bộ, đồng thời tạo
lập các giá trị mới để đáp ứng với yêu cầu phát triển của thời đại. Không nên đồng
nhất bản sắc dân tộc với “cái cũ”, với quá khứ, với cái “nguyên gốc” do dân tộc
mình tạo ra. Bản sắc văn hóa dân tộc vừa bao hàm các giá trị do dân tộc mình sáng
tạo ra trong quá khứ và hiện tại, vừa bao hàm các giá trị tinh hoa của văn hóa nhân
loại được dân tộc tiếp nhận một cách sáng tạo, biến nó thành nguồn lực bên trong
để xây dựng và bảo vệ đất nước. Cũng không nên đồng nhất bản sắc văn hóa dân
tộc với một số yếu tố hình thức bên ngoài của nền văn hóa, mà đây là sự thống
nhất giữa nội dung và hình thức, thống nhất giữa trình độ tư duy, tinh thần độc lập
tự cường, ý chí và bản lĩnh dân tộc với các hình thức biểu hiện bên ngoài của nó.
Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể chế xã hội
và thể chế chính trị của các quốc gia. Nó cũng phát triển theo quá trình hội nhập
9
kinh tế thế giới, quá trình giao lưu văn hóa với các quốc gia khác và sự tiếp nhận
tích cực văn hóa, văn minh nhân loại. Vì vậy, chúng ta chủ trương xây dựng và
hoàn thiện các giá trị và nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế.
Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm
trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học

– công nghệ, giáo dục và đào tạo , sao cho trong mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta
có cách tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam. Đi
vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước phải tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, song phải luôn luôn phát huy
những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc.
Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta chủ
trương vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại. Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế,
tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác để
bắt kịp sự phát triển của thời đại. Chủ động tham gia hội nhập và giao lưu văn hóa
với các quốc gia để xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương đại.
Xây dựng Việt Nam thành một địa chỉ giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế.
Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống những cái lạc hậu, lỗi thời trong
phong tục, tập quán và lề thói cũ.
Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trước hết cần bảo vệ và phát huy
truyền thống yêu nước và đại đoàn kết dân tộc, khẳng định ý chí và bản lĩnh của
con người Việt Nam hiện đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời bảo vệ
và phát huy các tài sản văn hóa vật thể và phi vật thể, các giá trị tinh hoa của văn
hóa dân tộc, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh để làm động lực thúc đẩy sự
phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.
10
2 .Văn hóa kinh doanh và nền văn hóa kinh doanh
a.Văn hóa kinh doanh
Văn hóa kinh doanh là những giá trị văn hóa gắn liền với hoạt động kinh
doanh (mua ,bán khâu gạch nối liền giữa sản xuất và tiêu dùng) một món hàng cụ
thể trong toàn cảnh mọi mối quan hệ văn hóa-xã hội khác nhau của nó . Đó là hai
mặt mâu thuẫn (văn hóa :giá trị><kinh doanh; lợi nhuận ) nhưng thống nhất :giá
trị văn hóa thể hiện trong hình thức mẫu mã và chất lượng sản phẩm ,trong thông
tin quảng cáo về sản phẩm ,trong cửa hàng bày bán sản phẩm ,trong phong cách
giao tiếp ứng xử của người bán đối với người mua, trong tâm lí và thị yếu tiêu

dùng ,rộng ra là trong cả quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh với toàn bộ các
khâu ,các điều kiện liên quan của nó …nhằm tạo ra những chất lượng –hiệu quả
kinh doanh nhất định
b.nền văn hóa kinh doanh
Xét về bản chất kinh doanh không chỉ gói gọn trong khâu lưu thông phân phối
chiến lược “thâm nhập thị trường “ của các doanh nghiệp đối với các sản phẩm
của mình mà nó còn phải bao quát các khâu có quan hệ hữu cơ nhau tính từ sản
xuất cho tới tiêu dùng.Có nghĩa rằng xây dựng nền văn hóa kinh doanh là một việc
làm có tính thực tế mà mục tiêu cụ thể là nhằm làm cho toàn bộ quá tình sản xuất
kinh doanh ,tức yếu yếu tố đóng vai trò quyết định đối với nền sản xuất của đấy
nước trở nên ngày càng mang tính chất văn hóa thể hiện trên cả 3 mặt :
(1) Văn hóa doanh nhân :văn hóa thể hiện ở đội ngũ những con người
(gồm cả các cá nhân và các tập thể) tham gia sản xuuats kinh doanh chủ yếu thể
hiện ỏe trình độ khoa học kĩ thuật ,công nghệ và vốn tri thức tổng hợp .ở kinh
nghiệm thực tiễn và kĩ năng ,phương pháp tác nghiệp ,ở năng lực tổ chức sản xuất
11
kinh doanh và sự nhạy bán với thị trương ,ở đạo đức nghề nghiệp và phẩm hạnh
làm người ,ở ý thức công nhân và sự giác ngộ về chính trị xã hội
(2) Văn hóa thương trường :văn hóa thể hiện trong cơ cấu tổ chức hệ
thống pháp chế .các chính sách chế đọ ,trong mọi hình thức hoạt động liên quan
quá trình sản xuất kinh doanh gồm cả sự cạnh tranh…tất cả nhằm tạo ra một môi
trường kinh doanh thuận lợi tốt đẹp
(3) Văn hóa doanh nghiệp : Văn hóa tập trung và tỏa sáng trong các
thiết chế . các đơn vị tổ chức và sản xuất kinh doanh thể hiện qua những đặc trưng
chung thuộc hình thức cùng các yếu tố tạo nên thương hiệu của daonh nghiệp ,qua
năng lực phẩm chất ,trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh tạo ra chất lượng sản
phẩm và những thành tích truyền thống qua phong cách giao tiếp ứng xử thống
nhất của của toàn đơn vị ( đối với nội bộ ,đối với khách hàng ) trong mọi quá trình
sản xuất kinh doanh
Ba mặt trên là ba mặt ,ba bộ phận hợp thành một nền văn hóa kinh doanh theo

đúng nghĩa vẹn nhất. trong đó văn hóa doanh nghiệp có thể xem là bộ phận có vai
trò vị trí quan trọng mang tính quyết định ,là đầu mối trung tâm của cả quá trình
xây dựng nền văn hóa kinh doanh hiện nay.
II/ Vận dụng quan điểm của Đảng về xậy dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân
tộc trong văn hóa kinh doanh ở Việt Nam
Tại sao phải xây dựng văn hóa kinh doanh?
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế như nước ta hiện nay thì văn hóa
kinh doanh đối với mỗi doanh nhân cũng như đối với mỗi doanh nghiệp là điều
thực sự rất cần thiết, bởi vì :
Một là, văn hóa kinh doanh là phương thức phát triển kinh doanh bền vững
Hoạt động kinh doanh được thúc đẩy bởi nhiều động cơ khác nhau, trong đó
12
có thể nói tối đa hóa lợi nhuận là động cơ quan trọng nhất. Nhưng bên cạnh những
lợi ích về kinh tế các doanh nghiệp hiện nay họ còn rất chú trọng tới lợi ích xã hội.
Kinh doanh không còn đơn thuần chỉ tìm kiếm lợi nhuận để thỏa mãn nhu cầu vật
chất của con người mà để có thể phát triển kinh doanh bền vững doanh nghiệp còn
hướng tới sự tôn trọng từ phía người tiêu dùng, khách hàng, nhà cung cấp và sự
công nhận của pháp luật nhà nước, bên cạnh đó kinh doanh còn phải gắn với bảo
vệ môi trường.
Lối kinh doanh phi văn hóa có thể đem lại lợi nhuận kinh tế cao, đem đến sự
giàu có cho chủ doanh nghiệp tuy nhiên nó lại không thể phát triển lâu dài, bền
vững bởi lẽ họ dùng mọi thủ đoạn để trốn tránh pháp luật, hoặc đưa ra những sản
phẩm hàng giả kém chất lượng làm mất lòng tin từ phía người tiêu dùng
Vì thế, làm ăn chân chính, giữ chữ tín, tạo được lòng tin đối với người tiêu
dùng, thân thiện với môi trường sẽ giúp cho doanh nghiệp phát triển bền vững
hơn.
Hai là, văn hóa kinh doanh là nguồn lực phát triển kinh doanh.
- Trong tổ chức và quản lý kinh doanh : Vai trò văn hóa thể hiện ở sự lựa
chọn phương hướng kinh doanh, sự hiểu biết về sản phẩm, dịch vụ, về những mối
quan hệ giữa người với người trong tổ chức; về việc biết tuân theo các quy tắc và

quy luật của thị trường; ở việc phát triển và bảo hộ những văn hóa mang bản sắc
dân tộc Khi tất cả những yếu tố đó kết tinh vào hoạt động kinh doanh tạo thành
phương thức kinh doanh có văn hóa thì đây là một nguồn lực rất quan trọng để
phát triển kinh doanh.
Nếu không có yếu tố văn hóa trong sản xuất kinh doanh, tức là không có
những giá trị vật chất và tinh thần vào hoạt động kinh doanh thì không thể sử dụng
các tri thức đã được tích lũy, những kinh nghiệm đã được rút ra từ những bài học
kinh doanh của người xưa thì khó có thể tạo ra hiệu quả sản xuất và phát triển kinh
doanh.
- Trong giao lưu, giao tiếp kinh doanh : đặc biệt là trong mối quan hệ giữa
mua và bán, khi giao tiếp với khác hàng phải làm sao để họ có lòng tin khi sử
13
dụng sản phẩm với phương châm " vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi " .
Trong thái độ với đối tác kinh doanh, với đối thủ cạnh tranh nếu biết ứng xử, giao
tiếp có văn hóa sẽ tạo nên một môi trường cạnh tranh lành mạnh và tạo ra những
cơ hội lớn về thu hút đầu tư phát triển kinh doanh.
- Trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của chủ thể kinh doanh : Cùng với
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, sự thành công trong việc đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế đang đặt ra cho đất nước nhiều vấn đề về môi trường và xã hội
bức xúc. Chính những vấn đề đó đang đòi hỏi các chủ thể kinh tế, trong đó có cả
các doanh nghiệp, phải có trách nhiệm để góp phần giải quyết, nếu không bản thân
sự phát triển kinh tế sẽ không bền vững và sẽ phải trả giả quá đắt về môi trường và
những vấn đề xã hội.Việc các doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội
không chỉ giúp bản thân doanh nghiệp phát triển bền vững, mà còn góp phần vào
sự phát triển bền vững của xã hội.
Ba là, văn hóa kinh doanh là điều kiện đẩy mạnh kinh doanh quốc tế : Khi
trao đổi thương mại quốc tế sẽ tạo ra cơ hội tiếp xúc giữa các nền văn hóa khác
nhau và việc hiểu biết các phong tục tập quán của các nước sẽ giúp doanh nghiệp
có những chiến lược đúng đắn khi tìm kiếm thị phần tại nước ngoài. Hơn thế nữa,
thông qua việc tìm kiếm và cung cấp hàng hóa ra thị trường thế giới sẽ là cơ hội để

giới thiệu những nét đẹp , tinh hoa văn hóa của dân tộc mình cho bạn bè thế giới.
Thực trạng nền văn hóa kinh doanh nước ta.
Văn hóa doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của mỗi
loại hình doanh nghiệp. Do đó, nếu thiếu yếu tố văn hóa thì doanh nghiệp khó có
thể đứng vững và tồn tại được trên thị trường ở bất kỳ thời điểm, hay hình thái
kinh tế xã hội nào. Ngày nay ở Việt Nam, cũng như trên thế giới, nguồn nhân lực
của doanh nghiệp là con người mà văn hóa doanh nghiệp là sự liên kết và nhân lên
nhiều lần các giá trị của từng nguồn nhân lực riêng lẻ tổng hợp lại. Không những
thế, văn hóa doanh nghiệp còn được thể hiện qua phong cách của người lãnh đạo
đứng đầu các vị trí của doanh nghiệp và tác phong làm việc của mọi nhân viên.
14
Bởi vậy, đối tác khi quan hệ thì ngoài việc quan tâm tới lợi nhuận của công ty họ
còn đánh giá doanh nghiệp qua văn hóa của doanh nghiệp đó.
Trong nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam
đã trưởng thành, trụ vững và phát triển mạnh mẽ. Ngày càng có nhiều doanh
nghiệp mới thành lập và nhiều doanh nhân văn hóa được vinh danh, tuy nhiên bên
cạnh sự phát triển đó vẫn còn tồn tại những mặt trái tác động không nhỏ tới kinh tế
xã hội của đất nước . Mặt trái ở đây có thể hiểu là những tiêu cực hay nói cách
khác là những biểu hiện kém văn hóa trong kinh doanh.
Từ thực tế cho thấy rằng, các doanh nghiệp nước ta vẫn chưa chú ý tới sự cần
thiết tất yếu của văn hóa kinh doanh trong hoạt động của mình. Những áp lực kinh
tế , nhất là áp lực chạy theo lợi nhuận không làm cho các doanh nghiệp chú ý tới
vấn đề văn hóa kinh doanh hoặc coi đó là yếu tố phụ trợ.
Dưới đây là một số bất cập chính của văn hóa kinh doanh Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay:
Cung cách làm ăn nhỏ lẻ, thói quen tùy tiện, thiếu chuyên nghiệp, thiếu sáng
tạo: Các doanh nghiệp Việt Nam vốn bị kém thế trên thương trường quốc tế do
cung cách làm ăn manh mún, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà ít nghĩ đến cục
diện chung. Việc liên kết để đáp ứng những đơn đặt hàng lớn chỉ thuận tiện ở
những bước đầu , sau đó, các doanh nghiệp thường tìm cách xé lẻ, giành riêng hợp

đồng cho mình để rồi dẫn đến tình trạng luông nghi kỵ, đối phó lẫn nhau. Nhiều
doanh nghiệp không có khả năng tổ chức thực thi sản xuất và kinh doanh ở quy
mô lớn để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Trong văn hóa kinh doanh Việt Nam nhiều thói quen, cung cách làm ăn cũ,
lạc hậu vẫn còn đang tồn tại; phong cách làm việc chuyên nghiệp,sáng tạo, sẵn
sàng hợp tác còn chưa định hình rõ nét. Sự gian dối trong kinh doanh vẫn còn tồn
tại như nạn sản xuất hàng giả, hàng nhái nhãn mác, hàng kém chất lượng, nấp
bóng lợi dụng những nhãn hiệu có uy tín trên thị trường và tìm cách trà trộn với
hàng thật để tiêu thụ, lừa bịp người tiêu dùng. Do kinh doanh quản lý kém , tổ
chức sản xuất không cạnh tranh được trên thị trường dẫn đến tình trạng thua lỗ,phá
15
sản, nhập hàng lậu vào trong nước để trốn thuế, gây thiệt hại cho ngân sách nhà
nước.
Tầm nhìn hạn hẹp, tư duy ngắn hạn: một hạn chế lớn trong văn hóa kinh
doanh của các doanh nghiệp nước ta khi hội nhập là sự hạn chế về tầm nhìn cũng
như khát vọng của các doanh nghiệp. Xuất thân từ nền kinh tế tiểu nông, con
người Việt Nam thường có tầm nhìn thấp, ngắn hạn, hay thay đổi và muốn đi
đường tắt,thay vì kiên nhẫn chờ đợi kết quả lâu dài. Cũng vì thế mà các doanh
nghiệp không đầu tư vào những vấn đề cốt lõi, lâu dài mà lao theo xu hướng, đầu
tư vào cả những lĩnh vực không thuộc chuyên môn của mình. Trong khi các doanh
nghiệp nước ngoài tìm kiếm những cơ hội đầu tư và lợi ích kinh doanh dài hạn tại
Việt Nam thì các doanh nghiệp Việt Nam lại đang tìm kiếm lợi nhuận từ các
khoản đầu tư mang tính đầu cơ như kinh doanh bất động sản, chứng khoán mà
quên đi các lĩnh vực kinh doanh cốt lõi.
Thiếu tính liên kết, cộng đồng : tính cộng đồng của doanh nhân Việt Nam còn
quá yếu , quá rời rạc và ở mức thấp, thể hiện ngay trong phạm vi một ngành nghề,
một địa phương. Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp không những không liên
kết với nhau thậm chí còn chơi xấu, cạnh tranh không lành mạnh. Hệ quả là việc
cạnh tranh không lành mạnh, tranh mua, tranh bấn, và hạ thấp uy tín của nhau.
Nặng về quan hệ, chạy chọt, dựa dẫm : phần lớn các công ty Việt Nam đều

coi trọng việc xây dựng quan hệ, xem đó là vũ khí cạnh tranh lợi hại bởi lẽ nhiều
doanh nghiệp thành công nhờ vào quan hệ hơn là nhờ vào năng lực. Xu hường nhờ
vào quan hệ, chạy chọt , dựa dẫm hiện đang tồn tại ở mức đáng kể. Những cái lợi
từ việc thân quen đem lại là một cám dỗ lớn hơn rất nhiều so với việc cực nhọc
phải đầu tư để đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh. Bởi thế mà người
Việt Nam giờ còn có câu " nhất quan hệ, nhì tiền tệ" .
Xem nhẹ chữ tín : buôn bán phải giữ chữ tín , đó là văn hóa kinh doanh bắt
nguồn từ khi hình thành thị trường. Theo nhiều nhà kinh doanh nước ngoài, các
doanh nghiệp Việt Nam không coi trọng chữ tín hay viện dẫn các lý do khách
quan để khước từ việc thực hiện cam kết, gây nhiều phiền toái trong quan hệ đối
16
với đối tác nước ngoài. Bản thân người Việt chưa tin người Việt, nếu có chọn lựa
thì sẽ chọn làm ăn với các công ty nước ngoài hơn là Việt Nam.
Ngoài ra , nhiều doanh nghiệp còn trốn lậu thuế, nợ đọng vốn, khai gian thu
nhập, thiếu quan tâm đến đời sống của nhân viên như nợ lương, không đóng bảo
hiểm cho nhân viên theo quy định Vì lợi nhuận mà không chú ý tới an toàn lao
động, tới ô nhiễm môi trường để ngày càng có nhiều người là nạn nhân của nhưgx
chất độc thải ra môi trường.
Để được xã hội chấp nhận, doanh nghiệp cần chú trọng tới việc xây dựng hình
ảnh của mình thành những biểu tượng bằng chính những viên gạch đạo đức trong
kinh doanh , đây là điều mà nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa làm
được vì thế mà họ không được người tiêu dùng thừa nhận, phát triển kinh doanh
không ổn định.
Mối quan hệ giữa văn hóa kinh doanh và văn hóa dân tộc.
Văn hóa kinh doanh được xây dựng trên nên tảng của văn hóa dân tộc, văn
hóa dân tộc tác động tới môi trường kinh doanh của doanh nghiệp.
Văn hóa dân tộc là những quan niệm, tập quán, thói quen, truyền thống , là
những giá trị nhân cách đã có từ lâu đời, đặc trưng cho mỗi dân tộc. Những đặc
điểm về văn hóa dân tộc chi phối tình cảm, lý trí cách suy nghĩ và hành vi ứng xử
của mỗi thành viên trong doanh nghiệp và trong cộng đồng doanh nghiệp với

người sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp.
Bản sắc dân tộc Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa
được vun đắp nên qua Lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước
tạo thành nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam.
Đó là lòng yêu nước nồng nàn , ý chí tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết; lòng
nhân ái ,bao dung, trọng nghĩa tình; đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, giản
dị trong lối sống.
Văn hóa kinh doanh là tổng hòa các quan niệm về giá trị được tạo ra từ đạo
đức, ý tưởng kinh doanh, triết lý kinh doanh, mục đích kinh doanh, phương pháp
17
kinh doanh, và hiệu quả phục vụ cho chính những con người cần cù lao động sáng
tạo để tạo ra của cải vật chất cho xã hội Dù diễn giải theo nhiều cách khác nhau
đi nữa thì văn hóa doanh nghiệp vẫn phải dựa trên cơ sở là cách ứng xử của mỗi
thành viên trong doanh nghiệp.
Chẳng hạn như, nền kinh tế nông nghiệp và thủ công lâu đời đã rèn đúc cho
nhân dân ta những đức tính kiên trì, cần cù, biết quý trọng tài nguyên thiên nhiên
nhưng đã kéo dài sự lạc hậu trong tư duy về kinh tế - quan niệm " lấy cần cù bù
thông minh" , " trời sinh voi sinh cỏ " . Điều này đã hạn chế rất nhiều vai trò của
trí tuệ, của khoa học công nghệ trong sản xuất . Chính vì thế mà người Việt Nam
thiếu tính sáng tạo trong kinh doanh, bảo thủ, tuy làm việc chăm chỉ nhưng hiệu
quả lại không cao.
Từ đó có thể thấy văn hóa kinh doanh bắt nguồn từ văn hóa dân tộc. Chính
những quan niệm, thói quen, cách ứng xử của mỗi thành viên trong doanh nghiệp
tạo nên văn hóa của doanh nghiệp. Đồng thời văn hóa dân tộc là một trong những
yếu tố tạo nên phong cách lãnh đạo, quan niệm về kinh doanh của người chủ
doanh nghiệp.
4.Quan điểm chủ đạo của đảng trong văn hóa kinh doanh
• Kết hợp giá trị truyền thống
Từ phê phán những quan điểm được cho là thấp kém của người kinh doanh đã
đặt nền tảng cho một quan điểm tiến bộ về doanh nhân như một lực lượng. DN

như một tổ chức và doanh trường như một hoạt động nằm trong khuôn khổ của
công cuộc Duy Tân cứu nước. Đó là sự kết hợp những giá trị truyền thống và
những quan điểm hiện đại tạo nên sự nhận thức về giá trị kinh doanh như một
“Đạo”.
Và cái “đạo làm giàu” vào thời điểm ấy lại hướng vào mục tiêu mà người VN
đang tìm kiếm sau những thất bại của phong trào yêu nước chống thực dân bằng
18
vũ trang bạo lực. Vì thế cái văn hoá cốt lõi của kinh doanh cũng là cái phẩm chất
cốt lõi của doanh nhân lại chính là tinh thần dân tộc, lòng yêu nước. Đó là nét đặc
sắc của “Văn hoá kinh doanh VN”. Nó hình thành muộn nhưng lại đúng vào thời
điểm mà tinh thần dân tộc trong hoàn cảnh mất nước có cơ hội được thể hiện.
Nhưng cũng chính dựa trên cái nhìn văn hóa ấy, cụ Lương Văn Can đã nhận ra
chân tướng sự hạn chế của người VN thời đó trên doanh trường: “Người mình
không có thương phẩm – không có kiên tâm – không có nghị lực – không biết
trọng nghề - không có thương học – kém đường giao thiệp – không biết tiết kiệm –
khinh nội hóa”.
Cho dù trên thực tế, các hoạt động kinh doanh của các tầng lớp doanh nhân
VN thời thuộc địa chịu sự chèn ép của thực dân, đôi lúc bị đánh lạc hướng vào
việc cạnh tranh với Hoa thương hay Ấn kiều và luôn bị xu hướng mại bản lôi kéo,
thì lòng khao khát muốn làm giàu như môt hành vi ái quốc vẫn ăn sâu trong “văn
hoá kinh doanh” của người VN, tuy còn nhỏ nhoi nhưng nó sẽ thể hiện khi có cơ
hội.
Cơ hội ấy đã đến khi nước VN trở thành một quốc gia độc lập sau Cách mạng
tháng Tám 1945. Và chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vị thế
và vai trò của một nền kinh tế quốc dân và lực lượng các doanh nhân trong xã hội
hiện đại (mà đương thời gọi là các nhà công thương) đã tạo ra một nền tảng nhận
thức cách mạng và rất tiến bộ cho “Đạo làm giàu” khi gắn số phận, tiền đồ của
doanh nhân, DN với số phận và tiền đồ của đất nước cùng với trách nhiệm và vai
trò của nhà nước đối với lực lượng xã hội và lĩnh vực kinh tế này.
Xuất phát từ nhận thức căn bản rằng tầng lớp doanh nhân là một bộ phận của

dân tộc, chịu sự chèn ép của chế độ thực dân nên có lòng yêu nước, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã định vị được tầng lớp này trong lực lượng dân tộc không những trong
lý luận nhận thức mà trong cả thực tiễn. Việc vị Chủ tịch nước cũng là người đứng
đầu Đảng Cộng sản khi trở về Hà Nội vào tháng 8/945 lại chọn nơi ở và làm việc
đầu tiên là ngôi nhà của một doanh nhân nổi tiếng cả về sự giàu có cũng như lòng
19
yêu nước cũng như việc gây dựng Quỹ Độc lập bắt đầu bằng sự đóng góp của
những người “có của” cho đến bức thư ngày 13/10/1945 đưa ra mối quan hệ
biện chứng giữa “dân giàu” với “nước mạnh”, giữa sự kinh doanh của các nhà
công thương với sự thịnh vượng của quốc gia, đồng thời xác định trách nhiệm của
Chính phủ là phải hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh. Cùng với quan điểm đó là
một “chính sách mở cửa” toàn diện với nền kinh tế thế giới trên nguyên tắc “làm
bạn với tất cả các nước dân chủ” , sẵn sàng chia sẻ lợi ích với các nhà từ bản kể cả
Pháp và đặc biệt là Hoa Kỳ và xác định sự mở cửa rất rộng trên mọi lĩnh vực “kể
cả hải cảng và sân bay”
Đó là một môi trường nhận thức và chính trị vô cùng thuận lợi cho “đạo làm
giàu” VN mà sự ra đời của Hội Công thương cứu quốc, sự tham dự của các tầng
lớp doanh nhân vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra không bao lâu
sau đó đã chứng minh tình hình thực tiễn của văn hoá doanh nhân, DN VN gắn
với sự nghiệp cứu nước.
Tuy nhiên, quan niệm về “đấu tranh giai cấp” và lý luận về nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa không những chỉ tác động vào chính các quốc gia ấy vừa tạo nên những
thay đổi to lớn trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực mà chắc chắn nó đã
làm thui chột những giá trị văn hoá của “đạo làm giàu” VN vừa được manh nha
trong công cuộc Duy Tân và khẳng định trong cao trào Cách mạng giành độc lập
dân tộc.
Những cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa công thương nghiệp tư bản tư doanh,
quan điểm đấu tranh giai cấp cùng với các cuộc chiến tranh giải phóng diễn ra sau
đó đã buộc VN sau khi hoàn thành cuộc kháng chiến giải phóng và thống nhất đất
nước, sau khi đã vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng bởi các chính sách kinh

tế trên căn bản không chấp nhận kinh tế thị trường cũng như sự đổ vỡ của nền
kinh tế cùng thể chế trong hệ thống các nước XHCN phải tiến hành công cuộc
Đổi Mới.
• Mở cửa và đổi mới
20
Công cuộc đổi mới thực chất là trở lại với những giá trị phổ quát mà hạt nhân
là chấp nhận nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập toàn cầu trên cơ sở tiếp tục
duy trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã tạo ra những thành tựu to lớn nhưng
cũng chỉ là bước đầu. Nó bắt nguồn trước hết là sự nhân thức và đổi mới tư duy
lãnh đạo đất nước, xây dựng những giá trị mới vừa truyền thống vừa hiện đại.
Chính công cuộc đổi mới mà hạt nhân là đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa, đã
đảo ngược mối tổng quan giữa hai nhân tố dân giàu và nước mạnh thay vì một thời
chỉ coi nước mạnh là làm nên quyền lực mạnh. Nói cách khác trong sự nghiệp
kiến quốc, dân giàu nước mạnh chính là trở về với nguyên lý muôn thuở của “lấy
dân làm gốc”. Công cuộc đổi mới chỉ bắt đầu, xây dựng văn hóa trong đời sống
các DN mà lấy doanh nhân làm trung tâm cũng mới chỉ bắt đầu. Nó chỉ mạnh khi
gắn với quá trình dân chủ hóa. Nói cách khác xây dựng văn hóa doanh nhân chính
là đẩy mạnh dân chủ trong đời sống của hoạt động DN. Nó không chỉ là việc riêng
của doanh nhân mà của toàn xã hội khi mà ý chí làm giàu trở thành ý chí chung
của toàn dân và là cơ hội cho mọi người… Hướng tới một văn hóa doanh nhân
hiểu như một đạo làm giàu phải là một cuộc đấu tranh thực sự không chỉ là một
thiện ý phấn đấu của những người dám dấn thân vào thương trường, lại ở vào thời
điểm đầy thử thách và cũng nhiều cơ hội này…
Và trung tâm của cuộc đấu tranh ấy là thúc đẩy toàn diện quá trình dân chủ
hóa, trong đó có dân chủ hóa trong đời sống kinh tế. Chính quá trình ấy sẽ tạo môi
trường cho sự hình thành tầng lớp hữu sản, tầng lớp trung lưu trong xã hội. Và
tầng lớp này sẽ là nền tảng hạ tầng của xã hội của nền dân chủ hiện đại. Cuộc đấu
tranh thông qua hệ thống chính sách của nhà nước trong đó có vai trò của tầng lớp
doanh nhân có tinh thần trách nhiệm với dân tộc sẽ góp phần điều chỉnh quá trình
phân phối các lợi ích sẽ làm cho mục tiêu “công bằng và văn minh” là những tiêu

chí phản ánh mục tiêu mang tính “định hướng XHCN” của chúng ta trở thành hiện
thực.
21
Hơn một phần tư thế kỷ “đổi mới” là một khoảng thời gian rất ngắn đối với
lịch sử, những thành tựu là to lớn, những thách thức cũng rất to lớn, nhất là giữa
thời kỳ kinh tế thế giới cũng đang đối mặt với thử thách như chưa từng có nhưng
xu thế không thể đảo ngược. Đạo làm giàu với cốt lõi là tinh thần yêu nước và chí
khí vưon lên hội nhập với kinh tế thế giới vẫn là những nội hàm căn bản về “văn
hoá doanh nhân, DN” VN. Kinh nghiệm của bạn bè quốc tế vẫn là những giá trị
quý báu để V
4.Quy trình áp dụng quan điểm trong xây dựng văn hóa doanh nghiệp
- Xây dựng chương trình tuân thủ đạo đức có hiệu quả.
Doanh nghiệp lập ra 1 ban chịu trách nhiệm xây dựng chương trình đạo đức
cho doanh nghiệp theo sự chỉ dẫn của quan điểm về văn hóa của Bác với hoàn
cảnh cụ thể trong doanh nghiệp về quy mô, ngành nghề, mục tiêu tổng quát của
doanh nghiệp,…
+ thiết lập hệ thống các chuẩn mực hành vi đạo đức: là những hướng dẫn quy
định tiêu chuẩn về hành vi đạo đức được biên soạn thanh tài liệu chính thức và sử
dụng để các thành viên trong doanh nghiệp ra quyết định khi hành động và giúp
doanh nghiệp đánh giá hành vi các thành viên.
+ Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn giao ước về đạo đức: là các chuẩn mực
đạo đức của doanh nghiệp trong từng nhiệm vụ, công việc cụ thể.
+ Xây dựng các chương trình đạo đức gồm các hoạt động, kế hoạch hay
chương trình hành động.
+ Xây dựng hệ thống thanh tra đạo đức như thiết lập hệ thống giám sát, thanh
tra và trình báo về các hành vi sai trái.
- Xây dựng và truyền đạt hiệu quả các tiêu chuẩn đạo đức
22
Doanh nghiệp phổ biến quy định về đạo đức cho tất cả các nhân viên, các
doanh nghiệp con, doanh nghiệp liên doanh, đảm bảo mọi thành viên trong doanh

nghiệp đều chấp nhận và thực hiện theo.
- Thiết lập hệ thống diều hành thực hiện, kiểm tra, tăng cường tiêu chuẩn và
việc tuân thủ đạo đức
Trước hết bản thân ban giám đốc, lãnh đạo phải là người thực hiện những quy
định về đạo đức đầu tiên, họ phải có 1 cái nhìn chính xác và đúng đắn về văn hóa
kinh doanh. Nếu những người đứng đầu doanh nghiệp hành động vô đạo đức thì
rất khó tạo ra và phát triển một môi trường đạo đức trong doanh nghiệp .
Doanh nghiệp hướng dẫn nhân viên thực hiện theo những quy định đã được đề
ra
Doanh nghiệp kiểm tra đánh giá xem việc thực hiện các nguyên tắc quy định
của các thành viên đạt tới đâu. Trong quá trình đánh giá, cần có mức thưởng công
bằng đối với những người làm tốt và nhắc nhở kịp thời những người làm chưa tốt.

Một ví dụ thực tế về áp dụng quan điểm của đảng về việc xây dựng nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong công ty Công nghệ thông tin và viễn
thông FPT. Văn hóa FPT là chất keo gắn kết người FPT , thúc đẩy mỗi người FPT
làm việc hăng say và cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển của công ty.
- Xây dựng văn hóa doanh nghiệp là vấn đề được FPT đặc biệt quan tâm.
- Thông qua các hoạt động văn hóa được tổ chức thường xuyên, không
những các giá trị truyền thống được duy trì và phát huy mà nhu cầu đời sống tinh
thần của CBNV cũng được đáp ứng, tạo cho họ sự phấn khởi trong công việc kinh
doanh ngày càng áp lực hơn.
23
- Văn hóa FPT trước hết là văn hóa ứng xử FPT , là tinh thần mà người FPT
hướng tới: người FPT cần “Tôn trọng cá nhân – Đổi mới – Đồng đội”, lãnh đạo
FPT cần “Chí công – Gương mẫu – Sáng suốt”.
- FPT là một trong số ít các công ty Việt Nam duy trì các ngày truyền thống
của dân tộc nhiều năm nay, đó là:
- Ngày Vì cộng đồng (13/03). Ngày Thể thao FPT (26/03.Ngày Hướng về
Cội nguồn (Dịp 10/03 âm lịch). Ngày Văn nghệ FPT (19/05. Ngày thành lập FPT

(13/09)…
- FPT Software tri ân phụ huynh trong Ngày Phụ huynh hằng năm.
- Và rất nhiều những hoạt động văn thể mỹ ở các cấp nhỏ hơn được triển
khai đều đặn trong năm; các câu lạc bộ sở thích, nhóm, hội còn rủ nhau giao lưu,
chơi thể thao, văn nghệ,
1. Thành tựu đạt được
- Đã xóa bỏ dần những mặt lạc hậu, lỗi thời trong văn hóa phong kiến, nô
dịch của chủ nghĩa thực dân trong doanh nghiệp
- Bước đầu xây dựng được môi trường văn hóa hiện đại, vă minh trong
doanh nghiệp
- Thực hiện được các giao dịch kinh doanh thành công dựa trên sự hiểu biết
về văn hóa của quốc gia, doanh nghiệp của đối tác.
- Thực hiện được mục tiêu doanh nghiệp dựa trên sự đồng tâm hợp sức của
các thành viên trong doanh nghiệp một cách có hiệu quả,hiểu biết và giúp đỡ nhau
trong môi trường làm việc có văn hóa doanh nghiệp đạt chuẩn.
2. Biện pháp nâng cao hiệu quả
- Văn hóa kinh doanh trong doanh nghiệp:
24
Xây dựng môi trường văn hóa doanh nghiệp phù hợp với quy mô ngành nghề
theo quy trình như trên.
- Văn hóa kinh doanh với sự hợp tác quốc tế:
Để những chuyến giao dịch kinh doanh ở nước ngoài thành công, người kinh
doanh cần tìm hiểu về lịch sử, văn hóa và phong tục tập quán của những nước sẽ
lui tới. Sự linh hoạt và thích ứng văn hóa chính là những nguyên tắc mang tính
định hướng cho những chuyến đi vì mục tiêu kinh doanh. Phương pháp và cách
thức kinh doanh, phong tục tôn giáo, chế độ ăn uống, sự hài hước và y phục bề
ngoài có sự khác biệt lớn giữa các quốc gia. Một số yếu tố cần cân nhắc dưới đây:
+ Không bao giờ chạm vào đầu hoặc ném vật gì qua đầu của người Thái, cái đầu
được coi là rất linh thiêng ở cộng đồng người Thái Lan.
+ Tránh sử dụng hình tam giác ở Hồng Kông, Triều Tiên và Đài Loan, hình tam

giác được cho là hình khối kiêng kỵ ở đây.
+ Số 7 bị coi là con số không may mắn ở Kê-ny-a nhưng lại được coi là may mắn
ở Sec-Slovakia và nó có ý nghĩa kỳ diệu ở Bê-nanh. Số 10 là con số không may
mắn ở Triều Tiên và số 4 có nghĩa là chết chóc ở Nhật Bản.
+ Màu đỏ là màu có ý nghĩa tích cực ở Đan Mạch nhưng nó lại là biểu tượng của
yêu thuật hay sự chết chóc ở các nước Châu Phi.
+ Một cái gật đầu nghĩa là không ở Bun-ga-ri và bắt tay từ phía này sang phía
khác có nghĩa là đồng ý/có.
+ Ký hiệu "okay" (đồng ý/tán thành) thường được sử dụng ở Mỹ (ngón cái và
ngón trỏ tạo thành một hình tròn và những ngón khác giơ lên, tuy nhiên, ký hiệu
này lại có nghĩa là con số không (không tán thành) ở Pháp, và nó lại là biểu tượng
về tiền bạc ở Nhật bản và lại có nghĩa là thô tục ở Bờ-ra-din.
+ Người ta thường có hành động như giơ cánh tay với lòng bàn tay ngửa và ngón
trỏ ra dấu "lại đây" ở Mỹ và ở một số nước, tuy nhiên, ở một số quốc gia khác nó
lại biểu hiện sự thô tục.
25

×