Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Tiểu luận: Điều tiết và giám sát hệ thống tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.47 KB, 39 trang )

Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 1 -











Tiểu luận

Điều tiết và giám sát hệ thống tài chính
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 2 -
LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay vấn đề phát triển kinh tế là một vấn đề rất cần thiết, tất yếu của mỗi quốc
gia. Nhưng mỗi quốc gia khác nhau thì phát triển kinh tế khác nhau do dựa vào tiềm lực
của chính mình. H ệ thống tài chính phát triển lành mạnh, bền vững, ổn định – đảm bảo
quyền lợi của nhà đầu tư và người gửi tiền là mục tiêu chính của nhiều quốc gia. Để đạt
được mục tiêu này, hệ thống giám sát tài chính đóng một vai trò hết sức quan trọng trong
việc tạo môi trường phát triển thuận lợi và lành mạnh cho các định chế tài chính.
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, thì sự điều tiết và giám sát hệ thống tài
chính phải được hình thành cùng với sự phát triển của xã hội để tránh xảy ra sự cố khủng
hoảng tài chính. Chính vì vậy mà sự điều tiết và giám sát hệ thống tài chính của quốc gia
phải được hoàn thiện theo xu hướng năng động, tích cực, phù hợp với xu thế phát triển
của nền kinh tế. Xuất phát từ những nguyên nhân trên nhóm đã tiến hành tìm hiểu và
nghiên cứu sự điều tiết và giám sát hệ thồng tài chính


Lý do chọn đề tài
Bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính gần đây cũng đã cho thấy những hệ lụy to
lớn khi hệ thống thanh tra giám sát thất bại trong việc điều tiết, giám sát hệ thống tài
chính, chia sẻ thông tin và phối hợp công tác giữa các cơ quan giám sát quốc gia. Cái giá
phải trả cho sự thất bại này không đơn thuần chỉ là các gói giải cứu các định chế tài chính
lớn, các gói kích cầu nhằm ngăn chặn suy giảm kinh t ế và nạn thất nghiệp, mà nghiêm
trọng hơn là khủng hoảng lòng tin và bất ổn xã hội. Do đó nhóm chọn đề tài “Điều tiết và
giám sát hệ thống tài chính” để nghiên cứu nhằm tìm hiểu rõ hơn tầm quan trọng của sự
điều tiết và giám sát hệ thống tài chính.
Đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hệ thống tài chính và một số khái niệm cơ bản về điều
tiết và giám sát hệ thống tài chính.
Chương 2: Nội dung về hoạt động điều tiết và giám sát hệ thống tài chính.
Chương 3: Nhận xét và một số kiến nghị.




Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 3 -
Chương 1: Tổng quan về hệ thống tài chính và m ột số khái niệm cơ bản về điều tiết
và giám sát hệ thống tài chính
1.1 Tổng quan về hệ thống tài chính.
1.1.1 Khái niệm về tài chính và hệ thống tài chính.
1.1.1.1 Tài chính.
a. Khái niệm.
Tài chính là phạm trù kinh tế, phản ánh các quan hệ phân phối của cải xã hội dưới
hình thức giá trị. Phát sinh trong quá trình hình thành, tạo lập, phân phối các quỹ tiền tệ
của các chủ thể trong nền kinh tế nhằm đạt mục tiêu của các chủ thể ở mỗi điều kiện nhất
định.

b. Các mối quan hệ tài chính.
Căn cứ vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể có các mối
quan hệ tài chính sau:
+ Mối quan hệ tài chính gi ữa doanh nghiệp với ngân sách Nhà nước
Mối quan hệ này thể hiện ở chỗ Nhà nước cấp phát, hỗ trợ vốn và góp vốn cổ phần theo
những nguyên tắc và phương thức nhất định để tiến hành sản xuất kinh doanh và phân
chia lợi nhuận. Đồng t hời, mối quan hệ tài chính này cũng phản ánh những quan hệ kinh
tế dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình phân phối và phân phối lại tổng sản
phẩm xã hội và thu nhập quốc dân giữa ngân sách Nhà nước với các doanh nghiệp được
thể hiện thông qua các khoản thuế mà doanh nghiệp phải nộp vào ngân sách Nhà nước
theo luật định.
+ Mối quan hệ tài chính gi ữa các doanh nghiệp với thị trường tài chính
Các quan hệ này được thể hiện thông qua việc tài trợ các nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
Với thị trường tiền tệ thông qua hệ thống ngân hàng, các doanh nghiệp nhận được các
khoản tiền vay để tài trợ cho các nhu cầu vốn ngắn hạn và ngược lại, các doanh nghiệp
phải hoàn trả vốn vay và tiền lãi trong thời hạn nhất định. Với thị trường vốn, thông qua
hệ thống các tổ chức tài chính trung gian khác, doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ
khác để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn bằng cách phát hành các chứng khoán. N gược lại,
các doanh nghiệp phải hoàn trả mọi khoản lãi cho các chủ thể tham gia đầu tư vào doanh
nghiệp bằng một khoản tiền cố định hay phụ thuộc vào khả năng kinh doanh của doanh
nghiệp. (Thị trường chứng khoán) Thông qua thị trường tài chính, các doanh nghiệp cũng
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 4 -
có thể đầu tư vốn nhàn rỗi của mình bằng cách kí gửi vào hệ thống ngân hàng hoặc đầu
tư vào chứng khoán của các doanh nghiệp khác.
+ Mối quan hệ tài chính gi ữa doanh nghiệp với các thị trường khác
Các thị trường khác như thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường sức lao động, Là chủ
thể hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải sử dụng vốn để mua sắm các
yếu tố sản xuất như vật tư, máy móc thiết bị, trả công lao động, chi trả các dịch vụ Đồng
thời, thông qua các thị trường, doanh nghiệp xác định nhu cầu sản phẩm và dịch vụ mà

doanh nghiệp cung ứng, để làm cơ sở hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất,
tiếp thị nhằm làm cho sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp luôn thỏa mãn nhu cầu của
thị trường.
+ Mối quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệ p
Đây là mối quan hệ tài chính khá phức tạp, phản ánh quan hệ tài chính giữa các bộ phận
sản xuất kinh doanh, giữa các bộ phận quản lý, giữa các thành viên trong doanh nghiệp,
giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn.
1.1.1.2 Hệ thống tài chính.
Hệ thống tài chính là tổng thể các hoạt động tài chính trong các lĩnh vực khác
nhau của nền kinh tế quốc dân, nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau về việc hình thành và
sử dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể kinh tế - xã hội hoạt động trong lĩnh vực đó. Hệ
thống tài chính bao gồm:

Tài chính công (gồm ngân sách nhà nước và các quỹ ngoài ngân sách).

Tài chính doanh nghiệp.

Thị trường t ài chính (gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn).

Tài chính quốc tế.

Tài chính hộ gia đình, cá nhân.

Tài chính các tổ chức xã hội.

Tài chính trung gian (bao gồm tín dụng, bảo hiểm).
Các thành phần này có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển
của tài chính.
1.1.2 Chức năng của hệ thống tài chính.
1.1.2.1 Chức năng huy động.

Đây là chức năng tạo lập các nguồn tài chính, thể hiện khả năng tổ chức khai thác
các nguồn tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 5 -
Việc huy động vốn phải tuân thủ cơ chế thị trường, quan hệ cung cầu và giá cả của
vốn.
1.1.2.2 Chức năng phân phối.
Chức năng phân phối của tài chính là một khả năng khách quan của phạm trù tài
chính. Con người nhận thức và vận dụng khả năng khách quan đó để tổ chức việc phân
phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Khi đó, tài chính được sử dụng với tư cách một
công cụ phân phối.
1.1.2.3 Chức năng giám sát.
Đây là chức năng kiểm tra sự vận động của các nguồn tài chính trong quá trình tạo
lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Thông qua chức năng này để kiểm tra và điều chỉnh các quá trình phân phối tổng
sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi thời kỳ, kiểm tra các chế độ tài chính của Nhà nước
1.1.3 Cấu trúc của hệ thống tài chính.
Hệ thống t ài chính bao gồm 4 tụ điểm vốn và 1 bộ phận dẫn vốn:
1.1.3.1 Các tụ điểm vốn.
Là bộ phận mà ở đó nguồn tài chính được tạo ra, đồng thời cũng là nơi thu hút trở
lại các nguồn vốn, tuy nhiên ở các mức độ phạm vi khác nhau, bao gồm:
+ Tài chính doanh nghiệp.
+ Ngân sách nhà nước.
+ Tài chính dân cư (tài chính hộ gia đình) và các tổ chức xã hội khác.
+ Tài chính đối ngoại.
+ Thị trường TC và các tổ chức TC trung gian.
a. Tài chính doanh nghiệp.
- Đây là nơi nguồn tài chính xuất hiện và đồng thời cũng là nơi thu hut trở lại các
nguồn tài chính quan trọng trong nền kinh tế. Trong hệ thống tài chính, tài chính doanh

nghiệp được coi như những tế bào có khả năng tái tạo ra các nguồn tài chính.
Do vậy nó có khả năng tác động rất lớn đến đời sống xã hội, đến sự phát triển hay suy
thoái của nền sản xuất. Tài chính doanh nghiệp có quan hệ mật thiết với tất cả các bộ
phận của hệ thống tài chính trong quá trình hình thành và sử dụng vốn cho các nội dung
khác nhau.
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 6 -
- Đặc trưng của bộ phận tài chính doanh nghiệp: gồm những quan hệ tài chính vận
hành theo cơ chế kinh doanh hướng tới lợi nhuận cao.
b. Ngân sách nhà nước.
- Đây là khâu tài chính giữ vị trí trung tâm và chủ đạo trong toàn bộ hệ thống tài
chính bởi vì nó chi phối và điều chỉnh các bộ phận tài chính khác.
- Ngân sách Nhà nước ngắn liền với các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, đồng
thời là phương tiện vật chất cần thiết để hệ thống chính quyền nhà nước thực hiện được
nhiệm vụ của mình. Trong điều kiện của nền Kinh tế thị trường, ngân sách Nhà nước còn
có vai trò to lớn trong điều tiết vĩ mô của nền kinh tế - xã hội. Đó là vai trò định hướng
phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội Để
thực hiện được các vai trò đó, ngân sách nhà nước phải có các nguồn vốn được tập trung
từ các tụ điểm vốn thông qua các chính sách thu nhập( thuế ) thích hợp.
c. Tài chính hộ gia đình và các tổ chức XH khác.
- Đây là một tụ điểm vốn quan trọng trong hệ thống tài chính. Nếu có những biện
pháp thích hợp, chúng ta có thể huy động được một khối lượng vốn đáng kể từ các hộ gia
đình để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, đồng thời còn góp phần to lớn vào việc
thực hiện các chính sách về định hướng tích lũy và tiêu dùng của nhà nước.
- Việc huy động và sử dụng quỹ tích lũy trong các hộ gia đình là dựa trên nguyên
tắc tự nguyện.
d. Tài chính đối ngoại.
- Trong nền kinh tế thị trường, khi các quan hệ kinh tế đã quốc tế hoá thì hệ thống
tài chính cũng là một hệ thống mở với những quan hệ tài chính đối ngoại hết sức phong
phú. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù và vị trí đặc biệt quan trọng của quan hệ tài chính

đối ngoại cho nên người ta thừa nhận nó hình thành một bộ phận tài chính có tính chất
độc lập tương đối.
- Những kênh vận động của tài chính đối ngoại:
+ Nhận viện trợ, vay vốn nước ngoài.
+ Tiếp nhận vốn đầu tư.
+ Thanh toán XNK.
+ Thực hiện các hợp đồng tái bảo hiểm, chuy ển phí bảo hiểm, thanh toán bảo hiểm
hoặc nhận phí bảo hiểm, nhận bồi thường từ các tổ chức nước ngoài.
+ Quá trình chuyển tiền, tài sản của cá nhân trong và ngoài nước
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 7 -
e. Thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian.
- Đây là bộ phận luân chuyển vốn trong nền kinh tế, là cầu nối trung gian giữa
nhứng người cần vốn và những người có vốn nhàn rỗi thông qua hoạt động tài chính
trung gian hoặc hoạt động trực tiếp trên thị trường tài chính.
- Trong hệ thống t ài chính, các trung gian tài chính thực hiện việc dẫn vốn thông
qua hoạt động tài chính gián tiếp. Trước hết các trung gian tài chính huy động vốn từ
những người có vốn (người tiết kiệm) bằng nhiều hình thức để tạo thành vốn kinh doanh
của mình. Sau đó, sử dụng vốn kinh doanh này để cho người cần vốn vay lại hoặc thực
hiện các hình thức đầu tư khác. Bằng cách này, các trung gian tài chính đã tập trung được
các nguồn vốn nhỏ, từ các hộ gia đình các tổ chức kinh tế thành một lượng vốn lớn, đáp
ứng nhu cầu của người cần vốn từ những khối lượng vay nhỏ đến những khối lượng vay
lớn, từ những cá nhân chưa từng ai biết đến tới những Công ty lớn có t iếng trên thị
trường.
1.1.3.2 Bộ phận dẫn vốn:
Đây là bộ phận thực hiện chức năng truyền dẫn vốn giữa các tụ điểm vốn trong hệ
thống tài chính, bao gồm: thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian.
a. Các tổ chức tài chính trung gian: Có nhiệm vụ tiết kiệm cho nền kinh tế các
chi phí giao dịch và chi phí thông tin, bao gồm các tổ chức tài chính chính thức và các tổ
chức tài chính không chính thức.

b. Các tổ chức tài chính chính thức.
- Các Ngân hàng thương mại:
Trong số các tổ chức tài chính trung gian, hệ thống các ngân hàng thương mại
chiếm vị trí quan trọng nhất cả về quy mô và về thành phần các nghiệp vụ (có và nợ).
Hoạt động của NHTM bao gồm 3 lĩnh vực nghiệp vụ: nghiệp vụ nợ ( huy động vốn),
nghiệp vụ có (cho vay vốn), nghiệp vụ mô giới trung gian (dịc vụ thanh toán, đại lý, tư
vấn, thông tin, giữ hộ chứng từ và vật quý giá…).
Ở nước ta hiện nay, đa số các Ngân hàng hiện nay là Ngân hàng chuyển doanh do
Nhà nước cấp vốn hoạt động (NH Nông nghiệp, NH công thương, NH ngoại thương… ),
hệ thống các chi nhánh của chúng lại được bố trí theo địa giới hành chính nên chưa phát
huy được vai trò của mình do nọi dung hoạt đọng bị hạn chế, chất lượng và kỹ thuật phục
vụ thấp, không có yếu tố cạnh tranh và không bám sát được sự phát triển của thị trường.
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 8 -
Để khắc phục cần sớm hình thành và phát triển các NH cổ phần đặc biệt là các NH kinh
doanh tổng hợp.
- Các Công ty tài chính:
Các công ty tài chính thu hút vốn bằng cách phát hành thương phiếu hoặc cổ
phiếu, trái phiếu và dùng tiền thu được để cho vay, đặc biệt thích hợp với các nhu cầu của
các doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Quá trình trung gian tài chính của các CTTC có thể được mô tả bằng cách nói rằng
họ vay những món tiền lớn nhưng lại thường cho vay những món tiền nhỏ - một quá trình
hoàn toàn khác với quá trình của những ngân hàng thương mại, các NH này phát hành
các món tiền gửi với số lượng tiền nhỏ và sau đó thường cho vay với món tiền lớn.
- Các quỹ tín dụng:
Các quỹ tín dụng là tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể, được thành lập chủ yếu
theo nguyên t ắc góp cổ phần.
c. Các tổ chức tài chính không chính thức:
Các tổ chức tài chính không chính thức tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau mà
trước hết và quan trọng nhất là các công ty bảo hiểm.

1.2 Một số khái niệm cơ bản trong điều tiết và giám sát hệ thống tài chính
1.2.1 Khái niệm về giám sát tài chính:
Giám sát tài chính là hoạt động giám sát đối với các định chế tài chính, thị trường
tài chính, công cụ tài chính và hạ tầng cơ sở tài chính được thực hiện bởi các cơ quan
quản lý nhà nư ớc. Hoạt động này được thực hiện nhằm đảm bảo việc tuân thủ các quy
định quản lý hiện hành đối với khu vực tài chính, với mục đích cuối cùng là để duy trì
tính ổn định của thị trường tài chính.
1.2.2 Mục đích của việc giám sát tài chính bao gồm 3 mục đích chính:
- Thứ nhất, nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển của k hu vực tài chính: Mục
đích của giám sát tài chính nhằm đảm bảo các định chế tài chính tuân thủ các chuẩn mực
an toàn do các chủ thể giám sát đặt ra. Bằng cách đó hệ thống định chế tài chính (khu vực
tài chính) có đủ sứ c chống đỡ các cú sốc bên ngoài cũng như các tác động t iêu cực từ các
thị trường khác trong và ngoài nước. Điều này cũng có nghĩa là đảm bảo cho các định chế
tài chính đủ sức tham gia thị trường và cạnh tranh một cách bình đẳng, đồng thời loại bỏ
các định chế không đủ điều kiện tham gia và cạnh tranh cung ứng dịch vụ tài chính trên
thị trường.
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 9 -
- Thứ hai, nhằm đảm bảo sự hiệu quả vận hành của thị trường tài chính: M ột
trong những yêu cầu của giám sát tài chính là đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa
những chủ thể cung cấp sản phẩm, dịch vụ tài chính trên thị trường, giám sát yêu cầu
minh bạch thông tin và tạo cơ chế khai t hác và công bố thông tin, giám sát tiêu chí gia
nhập thị trường, hạn chế tình trạng độc quyền và sự chi phối của các chủ thể điều tiết có
nguy cơ làm suy giảm mức độ cạnh tranh của khu vực tài chính. Cạnh tranh sẽ làm tăng
hiệu quả của thị trường tài chính thông qua việc cải thiện khả năng tiếp cận và định giá
các dịch vụ tài chính, hạn chế các hoạt động làm tổn thương đến thị trường tài chính,
phân bổ hợp lý nguồn lực đối với các tổ chức trên thị trường.
- Thứ ba, nhằm bảo vệ người tiêu dùng: Các quy định quản lý đối với khu vực tài
chính được thiếp lập thông qua các quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động của các
định chế tài chính cũng như các quy định về đạo đức kinh doanh để bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của người tiêu dùng trên thị trường tài chính (người gửi tiền, các nhà đầu tư
nhỏ lẻ trên thị trường chứng khoán, những người tham gia/ mua bảo hiểm). Bảo vệ người
tiêu dùng là điều chỉnh những sự không hoàn hảo của thị trường (tình trạng thông tin bất
cân xứng, năng lực tư vấn khách hàng yếu kém, xử lý tranh chấp không công bằng, ) gây
ra và do đó cho phép người tiêu dùng có thể tiếp cận với các dịch vụ, sản phẩm tài chính
với mức giá tương xứng với chất lượng dịch vụ, sản phẩm và được xử lý tranh chấp,
khiếu kiện một cách công bằng.
1.2.3 Đôí tượng của hoạt động giám sát tài chính bao gồm:
- Các định chế tài chính: là các trung gian tài chính thực hiện việc kết nối các nhu
cầu giao dịch các công cụ tài chính trên thị trường. Vai trò trung gian này được thực hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau; nó có thể là vai trò trung gian đầu tư (vừa đi vay - bán
công cụ nợ, vừa cho vay - mua công cụ nợ), thuộc về nhóm này là các ngân hàng, công ty
bảo hiểm; có thể là tổ chức môi giới cung cầu và hưởng hoa hồng, thuộc nhóm này là các
công ty chứng khoán, có thể là quỹ đầu tư - với chức năng tập trung vốn của các nhà đầu
tư cá thể và tổ chức và chuy ên nghiệp hóa hoạt động đầu tư này.
- Thị trường tài chính: là nơi thực hiện việc phát hành và mua bán các công cụ tài
chính bằng cách đó mà vốn được di chuyển từ những nơi dư thừa (t heo những thời hạn
khác nhau) sang nơi có nhu cầu sử dụng vốn. Bằng cơ chế giá và quan hệ cung cầu, thị
trường tài chính còn cho phép vốn được di chuyển đến những nơi được sử dụng hiệu quả
nhất. Thị trường tài chính được phân thành 2 thị trường: thị trường tiền tệ (vốn ngắn hạn:
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 10 -
thị trường liên ngân hàng, thị trường hối đoái,…) và thị trường vốn (vốn trung và dài hạn:
thị trường chứng khoán, thị trường tín dụn trung và dài hạn,…).
- Hạ tầng cơ sở tài chính: là hệ thống pháp luật tài chính (bao gồm cả cơ chế phá
sản, quy ền chủ nợ,…), mạng lưới an toàn tài chính, cơ sở hạ t ầng thanh khoản hệ thống;
các hệ thống thanh toán bù trừ và hỗ trợ giao dịch; tính minh bạch và quản trị, cơ sở hạ
tầng thông tin,…
1.2.4 Nội dung của giám sát tài chính bao gồm:
- Giám sát sự an toàn, lành mạnh tài chính của các định chế tài chính, đặc biệt là

của các ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm nhân thọ vì nếu xảy ra việc phá sản
của các định chế này sẽ gây ra hiệu ứng lan truyền và t ạo ra sự bất ổn cho khu vực tài
chính.
- Giám sát các hành vi giao dịch của các định chế t ài chính trên thị trường tài
chính (đặc biệt là hành vi giao dịch của các công ty môi giới chứng khoán, các quỹ đầu
tư,…trên thị trường chứng khoán) nhằm đảm bảo môi trường giao dịch tài chính lành
mạnh, minh bạch, bình đẳng đối với tất cả người tiêu dùng tham gia trên thị trường tài
chính.
- Giám sát diễn biến của thị trường tài chính (lãi suất, tỷ giá, giá cả các công cụ
tài chính, khối lượng giao dịch, tính thanh khoản,…) nhằm đảm bảo phát hiện, giảm thiểu
những bất cập, rủi ro của thị trường, góp phần thúc đẩy sự vận hành hiệu quả của thị
trường tài chính đối với việc phân bổ hợp lý các nguồn vốn cho nền kinh tế.
- Giám sát hạ tầng cơ sở tài chính (hệ thống pháp lý về hoạt động t ài chính, về
hoạt động giám sát tài chính, hệ thống hỗ trợ thanh khoản, hệ thống bảo hiểm tiền gửi,…)
nhằm đảm bảo các điều kiện thuận lợi cho sự vận hành hiệu quả của thị trường tài chính
đối với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.






Chương 2: Nội dung về hoạt động điều tiết và giám sát hệ thống tài chính
2.1. Thất bại của thị trường tài chính và điều tiết khu vực.
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 11 -
2.1.1 Thất bại của thị trường tài chính:
Thất bại của thị trường tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của
nền kinh tế trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình dấu hiệu
của sự thất bại đó là:

- Các ngân hàng thương mại không hoàn trả lại các tiền tiết kiệm của người gởi tiền.
- Các khách hàng vay vốn cũng không hoàn trả lại các khoản vay cho ngân hàng.
- Thất bại của thị trường chứng khoán là do tác động của sự suy thoái kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường thì sự quy định điều tiết khu vực tài chính trên thị
trường tài chính là do chính phủ phân công cho các ngân hàng trung ương hay Ngân
hàng nhà nước thực hiện. Các ngân hàng trung ương hay Ngân hàng nhà nước sử dụng
hệ thống các công cụ dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở.
Thị trường tài chính được coi là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường. Việc
hình thành và phát triển thị trường t ài chính góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy kinh
tế - xã hội phát triển. Tuy nhiên chính vì tầm quan trọng này nên khi thị trường tài chính
thất bại sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh tế - xã hội của một quốc gia, có nhiều
yếu tố ảnh hưởng đến sự thất bại của thị trường tài chính như:
- Sự thu hút, huy động các nguồn tài chính nhãn rỗi trong xã hội để tài trợ cho nhu
cầu phát triển kinh tế của đất nước là không cao hay không hiệu quả. Điều này làm
cho người cần vốn và người có vốn không thể gặp nhau từ đó không tạo ra được giá
trị tăng t hêm trong nên kinh tế. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng
nhất ảnh hưởng đến sự thất bại của thị trường tài chính.
- Hiệu quả sử dụng của nguồn tài chính huy động được cũng là một yếu tố cần phải
quan tâm. Nếu có vốn mà sử dụng không hợp lý sẽ làm cho thị trường tài chính trở
nên trì truệ, kém hiệu quả và gây ra lãng phí tài chính.
- Ngoài ra một vấn đề cũng góp phần không nhỏ gây cản trở cho sự hoạt động hữu
hiệu của thị trường tài chính, là một trong những nguyên nhân gây ra sự khủng
hoảng kinh tế đó là thông tin không cân xứng trên thị trường dẫn đến hai vấn đề cơ
bản:
+ Sự chọn lựa đối nghịch: là vấn đề nảy sinh trước cuộc giao dịch, xảy ra khi
những trường hợp vay tín dụng có triển vọng xấu là những trường hợp dễ
có khả năng được vay nhất
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 12 -
+ Rủi ro đạo đức: là vấn đề nảy sinh sau cuộc giao dịch, xảy ra khi người cho

vay phải chịu một rủi ro là người vay có ý muốn thực hiện những hoạt động
không tốt (thiếu đạo đức) xét theo quan điểm của người cho vay, bởi vì
những hoạt động này khiến ít có khả năng để món vay này sẽ hoàn trả.
- Khả năng quản lý tài chính của các trung gian tài chính cũng là một yếu tố dẫn đến
sự thất bại trong thị trường tài chính như: Sự sàng lọc và giám sát các đối tượng
được vay không tốt sẽ làm thiệt hại vốn trên thị trường, khi mà các chủ thể này kinh
doanh hay sử dụng vốn với những mục đích không tốt hoặc không hiệu quả, chính
điều này sẽ làm gia tăng những khoản nợ xấu, khoản tín dụng tồi trong các tổ chức
trung gian tài chính.
- Mối quan hệ giữa ngân hàng – khách hàng: nếu mối quan hệ này tốt đây sẽ là kênh
thông tin rất hữu hiệu cho ngân hàng trong việc thu thập thông tin về những người
vay tiền. Đồng thời mối quan hệ này cũng giúp cho các tổ chức tài chính giảm được
một khoản chi phí về việc giám sát hơn là khách hàng mới. tuy nhiên nếu ngược lại
thì ngân hàng sẽ chịu những rủi ro về tài chính rất lớn.
- Vấn đề về rủi ro lãi suất cũng là một trong những yếu tố tiềm ẩn trong sự thất bại
của thị trường tài chính đặc biệt trong thời buổi kinh tế khó khăn như hiện nay thì
rủi ro lãi suất cũng là sự quan tâm của các chủ thể cho vay và đi vay.
- Vấn đề về sự biến động tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối cũng là một yếu tố
góp phần trong sự thất bại trong thị trường tài chính.
2.1.2 Sự điều tiết khu vực tài chính.
2.1.2.1 Các công cụ sử dụng trong điều tiết và giám sát khu vực.
- Dự trữ bắt buộc
- Tái cấp vốn
- Nghiệp vụ thị trường mở
- Lãi suất cơ bản: Lãi suất cơ bản của ngân hàng trung ương là một công cụ không
thể thiếu trong việc thực thi chính sách tiền tệ nhằm vào các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Điều
9 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có quy định nội dung này. Tuy nhiên, một vấn
đề đang gây tranh luận là điều 476 Luật Dân sự có quy định một mức trần lãi suất trong
mối quan hệ vay mượn giữa dân cư là không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản, và lãi
suất cơ bản ở đây được hiểu là lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước).

Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 13 -
Trong nền kinh tế thị trường, để kiểm soát và điều tiết tiền tệ, ngân hàng trung
ương các nước thường sử dụng hệ thống các công cụ như dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn,
nghiệp vụ thị trường mở. Đối với Việt Nam, hệ thống các công cụ kiểm soát và điều t iết
tiền tệ đã được hình thànhvà phát triển cùng với quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng.
Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, ngân hàng nhà nước đã thực hiện việc kiểm soát,điều
tiết tiền tệ thông qua việc sử dụng các công cụ trực tiếp như: hạn mức tín dụng, lãi suất,
tỷ giá, đồng thời thiết lập và bước đầu sử dụng các công cụ gián tiếp như dự trữ bắt buộc,
tái cấp vốn, ngiệp vụ thị trường mở.
Tăng cường phạm vi và hiệu quả điều tiết, kiểm soát thị trường tiền tệ của ngân
hàng nhà nước là mục tiêu đặt ra trong quá trình cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Những đổi mới trong quá trình điều tiết, kiểm soát tiền tệ trong nhiều năm qua của ngân
hàng nhà nước đã có những đóng góp nhất định đối với quá trình cải cách hệ thống ngân
hàng, góp phần quan trọng trong ổn định hệ thống tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo
vốn cho quá trình tăng trưởng kinh tế và tạo điều kiện phát triển thị trường tiền tệ. Thực
tế, hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ đã phát huy tác dụng, ngày càng nâng cao vai
trò điều tiết t iền tệ của ngân hàng nhà nước. Điều này có thể thấy được thông qua việc
đánh giá các bước đổi mới căn bản đối với các công cụ dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, tỷ
giá, lãi suất, việc ra đời của nghiệp vụ thị trường mở tháng 7/2000 và việc thực hiện
nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ từ tháng 7/2001.
Đối với công cụ dự trữ bắt buộc, từ năm 1995 đến nay, việc quy định hệ thống
nhất là tài khoản tiền gửi thanh toán và tiền gửi dự trữ bắt buộc vào một tài khoản, từng
bước mở rộng đối tượng áp dụng cự trữ bắt buộc và tỷ lệ dự trữ bắt buộc được áp dụng
linh hoạt đối với từng loại hình tổ chức tín dụng đã góp phần nâng cao khả năng dự đoán
được nhu cầu dự trữ của các tổ chức tín dụng, qua đó tăng cường vai trò kiểm soát thị
trường tiền tệ của ngân hàng nhà nước. Bên cạnh đó, việc quy định số tiền dự trữ bắt
buộc được tính bình quân thay cho quy định khống chế theo ngày đã thực sự tạo điều
kiện cho các ngân hàng sử dụng vốn linh hoạt hơn trước đây. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã
liên tục được điều chỉnh bám sát diễn biến thị trường, nhất là việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ

bắt buộc bằng ngoại tệ và VND gần đây đã phát huy tác dụng trong việc khắc phục tình
trạng khan hiếm VND, hạn chế dòng chuyển đổi từ VND sang USD, góp phần ổn định
tiền tệ và tạo điều kiện sử lý mối quan hệ giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ, giữa lãi
suất và tỷ giá trên thị trường.
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 14 -
Đối với công cụ tái cấp vốn. Có thể thấy rằng cùng với việc đổi mới điều hành
chính sách tiền tệ, công cụ tái cấp vốn đã được từng bước đổi mới theo hướng thực hiện
vai trò là công cụ tín dụng ngắn hạn của ngân hàng nhà nước, và ngân hàng nhà nước
thực hiện vai trò “người cho vay cuối cùng”. Cho đến nay, việc vay tái cấp vốn theo chỉ
định đã ngày càng hạn chế. Thay vào đó, tái cấp vốn thường thông qua các hình thức
khác nhau như cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn
hạn, chiết khấu , tái chiết khấu thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn…đã ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng mức tái cấp vốn từ ngân hàng nhà nước cho các ngân hàng.
Từ năm 1997 đến nay, lãi suất tái cấp vốn đã được xác định mức cụ thể thay cho việc quy
định theo tỷ lệ phần trăm trên lãi suất cho vay áp dụng đối với các dự án cho vay của các
tổ chức tín dụng trước đây. Từ năm 1999, lãi suất tái cấp vốn đã được điều chỉnh linh
hoạt cung cấp tín hiệu về điều hành chính sách tiền tệ và phù hợp với diễn biến trên thị
trường.
Bên cạnh việc cung ứng vốn ngắn hạn cho các ngân hàng qua các hình thức tái cấp
vốn, từ tháng 7/2000, nghiệp vụ thị trường mở chính thức hoạt động đã mở ra một kênh
cung ứng, điều tiết vốn khả dụng mới cho các tổ chức tín dụng. N gân hàng nhà nước
bước đầu có t hêm một công cụ mới để thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ. Tuy đến
nay mặc dù quy mô hoạt động nghiệp vụ thị trường mở còn hạn chế, nhưng việc đưa nó
đi vào hoạt động đã tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng thành viên sử dụng linh hoạt
các giấy tờ có giá ngắn hạn, góp phần nhất định đối với việc điều chỉnh vốn khả dụng cho
các tổ chức tín dụng t hành viên, đặc biệt khi t hiếu hụt khả năng thanh toán.
Gần đây, việc ngân hàng nhà nước đưa ra thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ đã góp
phần quan trọng trong việc giúp các ngân hàng thương mại khắc phục tình trạng khan
hiếm tiền Đồng. Sự ra đời của công cụ này đã mở đường cho các tổ chức tín dụng thường

sở hữu ít các giấy tờ có giá ngắn hạn trong việc tiếp nhận kênh hỗ trợ vốn từ ngân hàng
nhà nước khi cần thiết.
Ngoài ra có thể thấy rằng mặc dù chưa thực sự hoàn thiện, nhưng công cụ lãi suất
và tỷ giá đã phát huy tác dụng nhất định trong việc thực hiện vai trò điều tiết, kiểm soát
tiền tệ của ngân hàng nhà nước trong những năm qua. Trên thực tế, việc điều hành lãi
suất của ngân hàng nhà nước không ngừng được hoàn thiện theo hướng tiến t ới “tự do
hoá lãi suất” với những bước đi thận trọng, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội, xu thế
phát triển của thị trường tiền tệ, mức độ hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào thị
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 15 -
trường tài chính và khu vực thế giới. Từ tháng 8/2000 với việc thực hiện lãi suất cơ bản,
cơ chế lãi suất dã được điều hành linh hoạt, gắn chặt với yếu tố thị trường hơn so với cơ
chế “trần lãi suất cho vay”. Nếu như trước đây quy định trần lãi suất cho vay còn dựa vào
ý muốn chủ quan của ngân hàng nhà nước, thì lãi suất cơ bản đã được xác định trên cơ sở
lãi suất thị trường với mức độ rủi ro thấp nhất. Lãi suất cơ bản đã đước coi là lãi suất định
hướng, trên cơ sở đó các tổ chức tín dụng có điều kiện chủ động, linh hoạt trong việc xác
định lãi suất phù hợp với cung cầu về vốn trên thị trường.
Một mốc quan trọng đánh dấu bước tiến trong điều hành lãi suất đó chính là việc
ngân hàng nhà nư ớc thực hiện tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ từ 6/2001 trong bối
cảnh lãi suất trên thế giới giảm thấp, các điều kiện kinh tế – tiền tệ trong nước đã được
nâng cao. Cho đến nay, việc tự do hoá lãi suất này đã có tác dụng khuyến khích cho vay
ngoại tệ, giúp cho mối quan hệ tỷ giá - lãi suất được xác lập hợp lý hơn, cũng như tạo
điều kiện cho việc ngân hàng nhà nước thực hiện vai trò điều tiết tiền tệ thông qua các
công cụ chính sách tiền tệ khác.
Về công cụ tỷ giá. Cùng với sự ra đời và phát triển của thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng, ngân hàng nhà nước đã thực hiện đổi mới mạnh mẽ cơ chế điều hành tỷ giá.
Đặc biệt trong các năm 1997 – 1998, việc ngân hàng nhà nước chủ động điều chỉnh biên
độ giao dịch và sau đó ấn định tỷ giá chính thức trên cơ sở tỷ giá mua bán trên thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng, khiến cho tỷ giá phù hợp hơn với tương quan nhu cầu ngoại tệ
trên thị trường và khả năng tăng điều tiết thị trường của tỷ giá do ngân hàng nhà nước

công bố. Thực tế, việc điều hành tỷ giá của ngân hàng nhà nước đã góp phần hạn chế ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đến kinh tế Việt Nam, góp phần
ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định tiền tệ. Từ năm 1999 đến nay, bên cạnh việc can thiệp kịp
thời của ngân hàng nhà nước trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, việc thực hiện cơ
chế điều hành tỷ giá theo các nguyên tắc thị trường (thông qua hình thức hàng ngày ngân
hàng nhà nước công bố tỷ giá chính thức là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó, quy định tỷ giá giao dịch giữa VND
và U SD của các tổ chức tín dụng không vượt quá 0,1% so với tỷ giá do ngân hàng nhà
nước và điều chỉnh linh hoạt với mức trần gia tăng tỷ giá đối với các giao dịch kỳ hạn,
hoán đổi…) đã phát huy tác dụng, góp phần ổn định thị trường tiền tệ.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan có thể thấy rằng, việc sử dụng các
công cụ chính sách tiền tệ để thực hiện vai trò điều tiết tiền tệ của ngân hàng nhà nước
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 16 -
còn có một số hạn chế nhất định. Cho đến nay, về cơ bản những quy định hiện tại về dự
trữ bắt buộc nhằm đảm bảo tính linh hoạt trong việc sử dụng vốn của các ngân hàng
thương mại. Tuy nhiên tiền gửi dự trữ bắt buộc còn quy định hạn hẹp ở loại tiền gửi có
kỳ hạn 12 tháng trở xuống nên khả năng kiểm soát và điều tiết khối tiền tệ M2 của ngân
hàng nhà nước còn hạn chế. Ngân hàng nhà nước trả lãi cho tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc
đã không khuyến khích các ngân hàng thương mại tận dụng tối đa nguồn vốn, dẫn đến
tình trạng có thời kỳ các ngân hàng thương mại để dự trữ dư thừa nhiều, hạn chế các hoạt
động cho vay ngắn hạn, nhất là cho vay qua đêm trên thị trường tiền t ệ.
Trong quá trình kiếm soát và điều tiết tiền tệ, vai trò của công cụ tái cấp vốn vẫn
còn hạn chế. Mặc dù cơ chế tái cấp vốn không có sự phân biệt đối với các ngân hàng
khác nhau, nhưng thực tế tái cấp vốn vẫn chủ yếu thực hiện đối với các ngân hàng thương
mại quốc doanh, các ngân hàng thương mại cổ phần ít được tái cấp vốn do thường không
đủ các điều kiện tái cấp vốn. Lãi suất tái cấp vốn chưa gây tác dụng hiệu ứng với lãi suất
thị trường và chưa phát huy tốt vai trò kích thích tăng giảm nhu cầu tiền tệ. Đối với
nghiệp vụ thị trường mở, do hàng hoá trên thị trường hạn hẹp về chủng loại, thời gian
cũng như số lượng và số tín phiếu kho bạc là công cụ chủ yếu trên thị trường lại tập trung

vào các ngân hàng thương mại quốc doanh, nên thực tế số thành viên tham gia các phiên
giao dịch rất hạn chế. Điều này dẫn đến t ác động của hoạt động thị trường mở đến vốn
khả dụng của các tổ chức tín dụng và các điều kiện thị trường tiền tệ nói chung là chưa
đáng kể. Lãi suất trên thị trường mở chưa phản ánh sát thực quan hệ cung cầu về vốn trên
thị trường. Cũng như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất trên thị trường mở
chưa phát huy vai trò lãi suất định hướng, chỉ đạo thị trường, tác động đến các nhu cầu về
dự trữ của các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất này chưa có mối quan hệ chặt chẽ với
lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Và hạn chế đã nêu của thị trường tiền t ệ, nhất là
thị trường nội tệ liên ngân hàng ở một chừng mực nhất định đã có ảnh hưởng ngược trở
lại đến việc thực hiện vai trò kiểm soát thị trường tiền tệ của ngân hàng nhà nước.
2.1.2.2 Đối tượng được điều tiết.
- Các định chế tài chính: là các trung gian tài chính thực hiện việc kết nối các nhu
cầu giao dịch các công cụ tài chính trên thị trường. Vai trò trung gian này được thực hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau; nó có thể là vai trò trung gian đầu tư (vừa đi vay - bán
công cụ nợ, vừa cho vay - mua công cụ nợ), thuộc về nhóm này là các ngân hàng, công ty
bảo hiểm; có thể là tổ chức môi giới cung cầu và hưởng hoa hồng, thuộc nhóm này là các
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 17 -
công ty chứng khoán, có thể là quỹ đầu tư - với chức năng tập trung vốn của các nhà đầu
tư cá thể và tổ chức và chuy ên nghiệp hóa hoạt động đầu tư này.
- Thị trường tài chính: là nơi thực hiện việc phát hành và mua bán các công cụ tài
chính bằng cách đó mà vốn được di chuyển từ những nơi dư thừa (t heo những thời hạn
khác nhau) sang nơi có nhu cầu sử dụng vốn. Bằng cơ chế giá và quan hệ cung cầu, thị
trường tài chính còn cho phép vốn được di chuyển đến những nơi được sử dụng hiệu quả
nhất. Thị trường tài chính được phân thành 2 thị trường: thị trường tiền tệ (vốn ngắn hạn:
thị trường liên ngân hàng, thị trường hối đoái,…) và thị trường vốn (vốn trung và dài hạn:
thị trường chứng khoán, thị trường tín dụn trung và dài hạn,…).
- Hạ tầng cơ sở tài chính: là hệ thống pháp luật tài chính (bao gồm cả cơ chế phá
sản, quy ền chủ nợ,…), mạng lưới an toàn tài chính, cơ sở hạ t ầng thanh khoản hệ thống;
các hệ thống thanh toán bù trừ và hỗ trợ giao dịch; tính minh bạch và quản trị, cơ sở hạ

tầng thông tin,…
2.1.2.3 Phương pháp điều tiết.
Có 2 phương pháp đó là: Chính sách thận trọng vĩ mô và vi mô.
Theo các chuyên gia, việc sử dụng phương pháp thận trọng vĩ mô khi hoạch định
chính sách sẽ hiệu quả hơn so với phương pháp vi mô vì chính sách thận trọng vĩ mô đã
xem xét một số yếu tố mà chính sách vi mô bỏ qua, như: ảnh hưởng mang tính hệ thống,
mối tương quan và nguy cơ rủi ro giữa các bên liên quan.
Trong khi công cụ của chính sách tiền tệ được sử dụng thống nhất trên toàn hệ
thống ngân hàng trung ương thế giới, nhiều công cụ của chính sách thận trọng vĩ mô cũng
đã được đề xuất nhưng đến nay vẫn không có được một công cụ hoặc một tập hợp các
công cụ chủ đạo nào. Bên cạnh đó, trong quá trình hoạch định chính sách thận trọng vĩ
mô, một khía cạnh nữa cần tính tới là phân biệt giữa chính sách thận trọng vĩ mô và chính
sách kinh tế vĩ mô (ví dụ như chính sách tài chính). Dưới đây là bảng tóm tắt một số điểm
cơ bản về một loạt các chính sách bảo đảm năng lực ổn định của hệ thống tài chính.
Từ những phân tích trên, có thể thấy nội dung của chính sách thận trọng vĩ mô còn
nhiều điểm phải bàn trước khi đi đến thống nhất giữa các quốc gia. Có 3 nguyên nhân
chính giải thích cho tình trạng này: một là, phương pháp thận trọng vĩ mô gần đây mới
được chú ý, định nghĩa về ổn định tài chính và mục tiêu của chính sách vĩ mô thận trọng
chưa rõ ràng; hai là, thiếu sự hiểu biết đầy đủ và thiếu mô hình xây dựng về mối tương
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 18 -
quan giữa hệ thống tài chính và nền kinh tế vĩ mô; ba là, quan điểm về chính sách thận
trọng vi mô và vĩ mô, quan hệ giữa chúng vẫn còn nhiều khác biệt.
2.2 Những bất cập của hệ thống giám sát tài chính hiện nay.
Điểm y ếu thứ nhất là sự thiếu phối hợp điều tiết giữa các cơ quan chức năng trong
việc xử lý các vấn đề tài chính.
Điểm y ếu thứ hai là sự yếu kém trong quá trình theo dõi và giám sát, bao gồm tính
thiếu minh bạch và chất lượng các báo cáo. Sự phát triển, đổi mới của hệ thống tài chính
tạo ra những sản phẩm lai ghép, do đó, công t ác giám sát cũng gặp khó khăn hơn. Sự
không tương thích giữa các tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn thế giới trong việc giám

sát dựa trên rủi ro đã góp phần làm bộc lộ tính yếu kém của công tác điều tiết và giám sát.
Ngoài ra, cơ chế cảnh báo và giám sát hệ thống sớm cũng là một điểm yếu của hệ thống
điều tiết hiện nay.
Điểm yếu thứ ba là yếu kém trong việc quản lý các công ty tài chính có vốn nước
ngoài.
Điểm thứ tư là yếu kém trong việc giám sát dòng vốn đầu tư trực tiếp.
Ngoài ra, việc giám sát cơ sở hạ tầng và đội ngũ nhân viên cũng chưa được hiệu
quả.
 Những bất cập của hệ thống giám sát tài chính hiện nay.
* Chưa có những quy định rõ ràng về quyền hạn và chức năng xử lý của
từng bộ phận.
- M ục tiêu của hệ thống thanh tra giám sát là nhằm đảm bảo cho sự duy trì ổn
định, phát triển lành mạnh của hệ thống tài chính và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư và
người gửi tiền. Để đạt được các mục tiêu này, các cơ quan thanh tra, giám sát thường sử
dụng các công cụ như: Công cụ quản lý, công cụ giám sát, công cụ “kỷ luật thị trường”,
…Các công cụ, chức năng và phạm vi hoạt động của từng cơ quan giám sát phải được
quy định rõ trong luật, tạo tiền đề cho hoạt động giám sát có hiệu quả, không chồng chéo.
- Thực tế hiện nay, khung pháp lý cho hoạt động thanh tra giám sát chủ yếu dựa
trên các luật sau:
o Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các TCTD.
o Luật thanh tra.
o Luật chứng khoán.
o Luật kinh doanh bảo hiểm.
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 19 -
o Hệ thống văn bản dưới luật, quy định cụ thể các hoạt động giám sát cho
từng lĩnh vực: ngân hàng, chứng khoán, Bảo hiểm.
- Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khu vực tài chính ngân hàng, những
nguồn luật trên t hể hiện những bất cập, cần phải được bổ sung, làm mới nhằm đảm bảo
hiệu quả hoạt động thanh tra giám sát. Cụ thể là:

+ Chưa có một luật thanh tra giám sát chuyên ngành quy định rõ chức năng,
nhiệm vụ và cách thức hoạt động các các cơ quan giám sát. Và đặc biệt để làm rõ cơ chế
phối hợp hoạt động và trao đổi thông t in giữa các cơ quan chủ chốt: NHNN, Bộ Tài
chính, Bảo hiểm tiền gửi, và Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia (UBG STCQG).
+ Các cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra truyền thống bỏ sót nhiều lĩnh vực
hoạt động, dịch vụ, sản phẩm mới của các tổ chức tài chính, đặc biệt là những sản phẩm
dịch vụ ngân hàng có sự kết hợp giữa các lĩnh vực kinh doanh khác nhau.
+ Kiểm soát rủi ro các t ập đoàn tài chính, cho đến thời điểm này, chưa có một
quyết định rõ ràng cho phép một cơ quan có thẩm quyền tiến hành thanh tra các tập đoàn
tài chính trên cơ sở hợp nhất. Thực tế, nhiệm vụ kiểm soát rủi ro chung này, tạm thời
được coi là thuộc chức năng của UBGSTCQG. Tuy nhiên cơ quan này lại không có chức
năng giám sát từng định chế tài chính mà chỉ là tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ trong
giám sát tổng thể thị trường tài chính.
* Hiệu quả giám sát của các cơ quan thanh tra giám sát còn thấp.
- Ngoài những bất cập về cơ sở pháp lý cho hệ thống thanh tra giám sát, hoạt
động thanh tra, cả giám sát từ xa và thanh tra t ại chỗ, có hiệu quả rất thấp bởi nhiều
nguyên nhân:
+ Một là, công nghệ thu thập thông tin để phục vụ cho hoạt động giám sát từ xa
rất lạc hậu. Trong khi, hoạt động giám s át tài chính lại phụ thuộc rất nhiều về khả năng
thu thập thông tin. Để hoạt động giám sát có hiệu quả hơn, ít nhất phải có một hệ thống
thông tin quản lý có khả năng cập nhật thông tin từ cơ sở đến cơ quan giám sát một cách
nhanh chóng và chính xác.
+ Hai là, chưa có một quy định chung về cách thức giám sát cho cả hệ thống t ài
chính. Hiện nay, Cơ quan thanh tra giám sát đã áp dụng chỉ tiêu CAM ELS trong hoạt
động giám sát từ xa. Tuy nhiên, các chỉ tiêu này chỉ mang tính định lượng chỉ áp dụng
cho khu vực ngân hàng.
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 20 -
+ Ba là, chưa thiết lập các công cụ phục vụ cho giám sát an toàn vĩ mô (cho cả hệ
thống) và giám sát an toàn vi mô (cho từng định chế tài chính) một cách có hiệu quả, nhất

là trong điều kiện chuyển sang thanh tra giám s át dựa trên rủi ro trong thời gian tới. Các
mô hình phân tích, dự báo, kiểm định “độ căng” (stress test) của cả hệ thống và cho từng
định chế tài chính chưa được phát triển.
+ Bốn là, năng lực cán bộ của hệ thống thanh tra còn yếu so với yêu cầu đảm bảo
an toàn an toàn cho hoạt động khu vực tài chính. Về cơ bản, cán bộ thanh tra chưa có khả
năng sử dụng mô hình kiểm định và kiểm tra tính hiệu quả của mô hình quản trị rủi ro
của các tổ chức tài chính. Ngoài ra, theo như nhận định của một số chuyên gia trong
ngành tài chính ngân hàng, văn hóa giám sát cũng như động lực thanh tra tại chỗ của cán
bộ thanh tra còn y ếu.
* Sự khác biệt giữa các tiêu chuẩn an toàn hoạt động của Việt Nam với tiêu
chuẩn của quốc tế.
- M ỗi quốc gia có những tiêu chuẩn về hoạt động an toàn tài chính riêng phù hợp
với tình hình kinh tế và chính trị của mỗi nước. Không có một khuôn mẫu chuẩn nào cho
tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hệ thống kế toán Việt Nam và hệ thống
kế toán theo chuẩn quốc tế làm việc áp dụng các chỉ tiêu an toàn hoạt động tài chính theo
Basel không mang lại kết quả như ý muốn. Ví dụ như chỉ số về nợ xấu của hệ thông ngân
hàng sẽ thay đổi đáng kể khi chúng ta áp dụng hệ thống kế toán quốc t ế (IFRS).
- Ngoài ra, sự khác biệt này cũng gây ra một số khó khăn khi thực hiện giám sát
các tổ chức tài chính quốc tế có hoạt động tại Việt Nam. Như trường hợp của các ngân
hàng 100% vốn nước ngoài mới được cấp phép, hiện nay các hoạt động về an toàn tài
chính của họ thực chất là tuân theo các quy định của ngân hàng mẹ, có sự khác biệt với
quy định an toàn của Việt Nam.
2.3 Các mô hình khủng hoảng tài chính.
2.3.1 Một số m ô hình tiêu biểu.







Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 21 -
Lý thuyết khủng hoảng thế hệ thứ 1 (Krugman, 1979)

Mô hình thế hệ thứ nhất.
Mô hình này được Krugman giới thiệu vào năm 1979 và sau đó được Flood và
Garber hoàn thiện thêm vào năm 1984. Theo quan điểm của mô hình này, khủng hoảng
tiền tệ là do sự không nhất quán và mâu thuẫn giữa chính sách trong nước (đặc biệt gắn
với tình trạng thâm hụt ngân sách được tài trợ bằng in tiền trong thời gian dài) với chính
sách duy trì tỷ giá cố định. Sự không nhất quán này có thể tạm thời tồn tại khi ngân hàng
trung ương (NHTW) dùng dự trữ để giữ vững thị trường và an tâm nhà đầu tư. Tuy
nhiên, nó không thể tồn tại lâu dài do NHTW không có đủ dự trữ để giữ tỷ giá thị trường
ở mức đã ấn định, và khi đó các nhà đầu cơ sẽ gây ra đổ vỡ bằng việc ồ ạt bán nội tệ và
mua ngoại tệ. Như vậy, khủng hoảng tiền tệ theo quan điểm phái này là kết cục tự nhiên
và tất yếu (cạn kiệt dự trữ) chứ không phải là một hành vi bất hợp lý hay thao túng thị
trường. Mất niềm tin là có cơ sở do họ thấy được sự bất ổn trong các nhân tố kinh tế vĩ
mô căn bản: thâm hụt tài khóa, thâm hụt thương mại, tình trạng dự trữ liên tục giảm, và
nguy cơ NHTW không đủ sức bảo vệ mức tỷ giá đã cố định. Những nhà đầu cơ chỉ có
trách nhiệm đối với thời điểm đổ vỡ, đó là khi họ bắt đầu thực hiện hành động tháo chạy
khỏi thị trường.
Khủng hoảng tiền tệ ở các nước M ỹ Latin trong thập niên 80 và 90 có thể được
giải thích tương đối tốt bằng các mô hình này. Định giá quá cao nội tệ tại các quốc gia
như Argentina, Brazil, M êhicô khiến cho tiêu dùng hàng nhập khẩu tăng trong khi xuất
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 22 -
khẩu lại giảm đã gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai trầm trọng. Tiền lương thức tế tăng
do hàng tiêu dùng nhập khẩu giảm khiến cho tỷ lệ tiết kiệm trong nước giảm sút. Với
việc cam kết cố định tỷ giá và mức lãi suất khá cao, chính phủ các nước Mỹ Latin đã dễ
dàng huy động được các nguồn vốn nước ngoài để tài trợ chi tiêu. Các khoản nợ tích lũy
đã làm tăng dần tính rủi ro và giảm dần uy tín cam kết cố định tỷ giá của chính phủ.

Những bất ổn chính trị và ảnh hưởng lan truyền giữa các nước là những xúc tác để hiện
thực hóa khủng hoảng tiền tệ ở nhóm nước này. Chúng ta có thể xem các phân tích chi
tiết về diễn biến và nguyên nhân khủng hoảng tiền tệ của các nước Mỹ Latin trong nghiên
cứu của Calderon, Mulraine (2005), Evangelist và Sathe (2006).
Mô hình khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ hai.

Mô hình thế hệ thứ hai.
Mô hình thứ hai được Obstfeld đưa ra năm 1986, nó chú trọng đến các yếu tố kỳ
vọng, sự đồng thuận về kỳ vọng của các đối tượng tham gia thị trường, và một yếu tố
châm ngòi để hiện thực hóa các kỳ vọng này thành một hành động chung thống nhất. Mô
hình này cho rằng khủng hoảng vẫn có thể xảy ra ngay cả khi các yếu tố kinh tế vĩ mô
căn bản chưa đến mức đáng ngại. Mô hình cho rằng chính phủ sẽ theo đuổi chính sách tỷ
giá trong mối quan hệ đánh đổi với các lợi ích kinh tế khác (tối thiểu hóa hàm tổn thất
của Chính phủ). Nó sẽ theo đuổi chính sách tỷ giá cố định nếu lợi ích thu được lớn hơn
những tổn thất kinh tế khác bị mất đi, ngược lai nó cũng có thể từ bỏ nếu những tổn thất
phải bỏ ra để theo đuổi chế độ tỷ giá này lớn hơn những lợi ích thu lại được, dù rằng
chính phủ hay ngân hàng trung ương vẫn đủ sức duy trì mức tỷ giá đã cố định. Và như
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 23 -
vậy, có thể tồn tại nhiều trạng thái cân bằng khác nhau tùy thuộc vào lựa chọn của Chính
phủ. Với quan điểm như vậy, các thành viên tham gia thị trường sẽ kỳ vọng về lựa chọn
chính sách của Chính phủ. Nếu kỳ vọng của họ đều thống nhất cho rằng Chính phủ sẽ từ
bỏ chế độ giá cố định hay phá giá thì cuộc tấn công đầu cơ sẽ xảy ra. Tổn thất của việc
theo đuổi tỷ giá cố định sẽ lớn hơn và càng củng cố thêm động cơ từ bỏ cam kết trước đó
về tỷ giá của Chính phủ. Ngược lại, nếu kỳ vọng không thống nhất và trái ngược nhau thì
áp lực phải từ bỏ tỷ giá sẽ không lớn và có thể Chính phủ sẽ không, hoặc tạm thời chưa
từ bỏ tỷ giá đã cam kết. Như vậy, yếu tố kỳ vọng sẽ cùng với hàm t ổn thất quyết định
trạng thái cân bằng.
Vậy kỳ vọng được sinh ra từ đâu? Mô hình tâm lý bầy đàn cho rằng có những chi
phí để thu thập đầy đủ thông tin, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư nhỏ. Chính vì vậy, họ

thường lựa chọn đi theo những hình bóng lớn trên thị trường, những người được xem là
có một thông tin đầy đủ và một uy tín tốt trên thị trường, hoặc lựa chọn đi theo xu thế
chung của thị trường. Ở phương án thứ nhất, một nhà đầu tư lớn có thể gây ra sự đổ vỡ
của thị trường bằng việc đưa ra những thông điệp gây rối loạn thị trường nhằm trục lợi.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy điều này ngày càng khó khi thông tin được công bố rộng rãi
hơn và chi phí thu thập thông tin đã được giảm bớt đối với các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Do vậy,
kỳ vọng sẽ được căn cứ vào xu thế chung thị trường. Và nếu thi trường là hiệu quả thì xu
thế và kỳ vọng sẽ phản ánh một cách tương đối đúng đắn yếu tố kinh tế vĩ mô nền tảng.
Một yếu tố chi phối kỳ vọng khác là do tính lan truyền giữa các nước. Khủng hoảng tiền
tệ hoặc nợ ở một nước có thể ảnh hưởng tới niềm tin chung của nhà đầu tư và dẫn tới sự
rút vốn ồ ạt ở những quốc gia có thể vẫn đang hoạt động tương đối bình thường. Điều này
lý giải t ại sao các cuộc khủng hoảng ngày nay ít khi bó hẹp ở một quốc gia mà thường
xảy ra đồng loạt hoặc kế tiếp tại các quốc gia lân cận, thậm chí có thể giữa các quốc gia
rất khác nhau về vị trí địa lý và tính chất kinh tế như trường hợp Nga và Brazil năm
1998/99.
Khủng hoảng Chế độ tỷ giá châu Âu (ERM) với sự phá giá của bảng Anh và sau
đó là franc Pháp vào những năm đầu thập niên 1990 là những ví dụ tiêu biểu cho dạng
mô hình thế hệ thứ hai. Các nước này đều là những nền kinh tế mạnh, nguồn lực dự trữ
ngoại hối của quốc gia dư thừa để đối phó với những vấn đề này. Tuy nhiên, bài toán các
nước này phải đối mặt là lựa chọn giữa cố định tỷ giá với sản lượng và thất nghiệp. Sau
khi bức tường Berlin sụp đổ năm 1991, chính quyền Tây Đức đã phải thực hiện kết hợp
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 24 -
chính sách tài khóa mở rộng nhằm hỗ trợ miền Đông và chính sách tiền tệ thắt chặt để
ngăn chặn lạm phát. Lãi suất M ác Đức tăng lên, trong khi các nước khác neo t heo đồng
Mác Đức khiến cho lãi suất các nước này cũng tăng theo. Do các nước này không thể sử
dụng chính sách tài khóa mở rộng nên nền kinh tế bị suy thoái và thất nghiệp tăng.
George Soros đã dự tính được kết qua bài toán lựa chọn của chính phủ Anh nên đã quyết
định bán bảng Anh và mua đôla với trị giá 15 tỷ bảng Anh để đầu cơ, và điều này đã giúp
hiện thực hóa việc Anh phá giá đồng bảng và rút lui ra khỏi ERM . Để hiểu thêm chi t iết

cuộc đổ vỡ của ERM và Brazil trong thập niên 1990, những ví dụ tiêu biểu cho dạng mô
hình này, chúng ta có thể xem thêm Babic và Zigman (2001).
Mô hình khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ ba.

Mô hình thế hệ thứ ba
Mô hình này được đưa ra sau cuộc khủng hoảng châu Á 1997. Các nhà nghiên cứu
đã chỉ ra mối quan hệ khá chặt giữa những trục trặc trong khu vực ngân hàng tài chính
với khủng hoảng tiền tệ. Mô hình do Krugman đưa ra năm 1998 đã phân tích tình trạng
bong bóng trong đầu tư vào thị trường chứng khoán va bất động sản và việc quả bóng bị
nổ tung tức là sụt giảm giá của thị trường chứng khoán và bất động sản. M ô hình này mặc
dù phân tích các yếu tố thực của nền kinh tế, nhưng nó có thể giải thích được những vấn
đề về khủng hoảng tiền tệ và nợ nước ngoài ở Đông Á năm 1997.
Tiểu luận Tài Chính – Tiền Tệ GVHD: TS. Diệp Gia Luật
- 25 -
Trong một thị trường vốn vận động hoàn hảo, với sự bảo đảm chính thức hoặc
không chính thức của chính phủ, các ngân hàng trong nước đã cố gắng vay trên thị
trường vốn thế giới để tài trợ cho các công ty trong nước, hoặc các chi nhánh ngân hàng
nước ngoài đứng ra trực tiếp cho vay. Sự đảm bảo từ phía chính phủ đã khiến cho các tổ
chức tài chính trở nên lỏng lẻo trong khâu giám sát và tuân thủ các quy định, vấn đề rủi
ro đạo đức xảy ra. Họ vay vốn nước ngoài (chủ yếu là vốn ngắn hạn) với lãi suất cao để
cho vay lại trong nước với lãi suất cao hơn. Những luồng ngoại tệ chảy vào làm tăng mức
tín dụng và càng đẩy giá chứng khoán và bất động sản lên cao. Và nhận thức rủi ro theo
đó cũng tăng lên. Những nghi ngờ về lời đảm bảo của Chính phủ trở nên rộng rãi hơn khi
mức tín dụng tăng lên, nó cũng giống như việc dự trữ của NHTW giảm xuống. Các hoạt
động sản xuất sử dụng số vốn này lại tập trung vào lĩnh vực phi thương mại (ví dụ như
bất động sản, du lịch), và giá của các hàng hóa này tính theo ngoại tê thường giảm rất
mạnh khi phá giá. Những rủi ro về tính thanh khoản cũng tăng lên khi các dự án dài hạn
được tài trợ bằng những khoản vốn huy động ngắn hạn. Sự mất cân đối này đã diễn ra
khá phổ biến tại các nền kinh tế mới nổi. Khi niềm tin của phía cho vay nước ngoài giảm
xuống một ngưỡng nhất định, cộng hưởng thêm các yếu tố tâm lý hoặc hành động của

một vài nhà đầu cơ sẽ dẫn tới việc rút vốn ồ ạt ra khỏi đất nước. Khi đó khủng hoảng tiền
tệ sẽ xảy ra.
Khủng hoảng tiền tệ ở châu Á năm 1997 là ví dụ điển hình cho dạng khủng hoảng
mà mô hình thế hệ thứ ba đưa ra. Về cơ bản, các nền kinh tế Đông Á hoạt động tương đối
tốt, các nước này đều được đánh giá là các "con hổ" hoặc "con rồng" về kinh tế của châu
Á như Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc,… Các yếu tố kinh tế vĩ mô cơ bản cũng tương đối
vững vàng: tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư cao, độ mở và hội nhập vào thị trường thế giới với
tốc độ nhanh, chất lượng giáo dục và trình độ người lao động đã tăng lên nhanh chóng,
đầu tư nước ngoài đi vào khu vực này với tốc độ rất nhanh.
Nhiều quốc gia châu Á đã neo đồng tiền theo đôla M ỹ. Chính vì vậy, làn sóng đầu
tư nước ngoài đi vào trong nước trong thập niên 1980 và đầu 1990 đã khiến cho ngân
hàng trung ương phải mua đôla và bán ra nội tệ, điều này làm tăng mạnh cơ sở tiền tệ. Để
đối phó lại nguy cơ lạm phát, các ngân hàng trung ương đã phải sử dụng kết hợp chính
sách tiền tệ thắt chặt để hút bớt số tiền này về, và điều này đã làm tăng lãi suất và càng
khuyến khích các luồng vốn nước ngoài chảy vào, và đa phần là các nguồn vốn ngắn hạn.
Các trung gian tài chính trong nước kỳ vọng kiếm lời do chênh lệch lãi suất ngoại tệ và

×