Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận cao học môn quyền lực chính trị và cầm quyền cơ chế đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.61 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG..........................................................................................5
CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN.....................................................................5
1.1. Khái niệm, đặc điểm, chức năng và yêu cầu của quyền lực chính trị........5
1.2 Quyền lực chính trị trong lịch sử...............................................................11
CHƯƠNG 2: CƠ CHẾ ĐẢM BẢO QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ CỦA
NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM..........................................................................18
2.1. Bản chất của quyền lực chính trị..............................................................18
2.2. Cơ chế thực hiện quyền lực chính trị........................................................19
2.3. Nội dung quyền lực chính trị của nhân dân..............................................20
2.4 Thực thi quyền lực chính trị của nhân dân ở Việt Nam hiện nay..............21
2.5 Phương hướng và giải pháp về cơ chế đảm bảo quyền lực chính trị của
nhân dân ở Việt Nam.......................................................................................24
PHẦN KẾT LUẬN........................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................29


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi con người là vốn quý nhất, là
mục tiêu, động lực của cách mạng, là yếu tố quyết định sự thành bại của cách
mạng. Từ những văn kiện đầu tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ mục
tiêu cơ bản và lâu dài của cách mạng Việt Nam là bảo đảm quyền con người
(QCN) cho người dân Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
thông qua tại Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm
1930 đã vạch ra đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó nhấn
mạnh: Đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng người lao động, giải phóng
xã hội, để người cày có ruộng, người dân được tự do tổ chức, nam nữ bình
quyền.
Ngay từ khi khai sinh, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là


Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam) đã tiếp thu những
tư tưởng tiến bộ, vì con người của các nhà nước trong lịch sử thế giới; giá trị
vì con người mà Nhà nước Việt Nam xây dựng cũng là những giá trị chung
của nhân loại. Không những thế, các nhà nghiên cứu cịn cho rằng, bản Tun
ngơn Độc lập của Việt Nam cịn có hai điểm có tính đi trước, nổi trội hơn bản
Tuyên ngôn thế giới về QCN.
Các nghị quyết của Đảng về những vấn đề liên quan đến QCN được cụ
thể hóa trong pháp luật Việt Nam. Kế thừa các Hiến pháp Việt Nam (năm
1946, 1959, 1980, 1992), nhất là Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 2013
đã hoàn thiện, bổ sung những nội dung mới về QCN và quyền công dân, thể
hiện bước tiến lớn về tư duy nhà nước pháp quyền và thể chế hóa QCN ở Việt
Nam, phù hợp với các chuẩn mực được nêu trong các cơng ước quốc tế về
QCN. Nhằm cụ thể hóa các quy định mới của Hiến pháp, Nhà nước Việt Nam
đã và đang từng bước thực thi tổng thể những biện pháp về cải cách và hoàn

1


thiện hệ thống pháp luật và tư pháp về QCN, thể hiện qua Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020. Những quy định của pháp luật Việt Nam đã nói lên
rằng, tơn trọng và bảo đảm QCN thuộc bản chất, xuyên suốt lịch sử Việt Nam
đương đại (từ năm 1945 đến nay).
Từ thời kỳ đổi mới đến nay, công cuộc phát triển kinh tế, xây dựng đất
nước mang lại cho Việt Nam rất nhiều thành tựu, nhờ đó có điều kiện để bảo
đảm tốt QCN trên các mặt. Việt Nam được quốc tế đánh giá rất cao về các
thành tựu xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm cải thiện và nâng cao đời sống cho
người dân, tăng trưởng kinh tế ngày càng gắn với tiến bộ và công bằng xã hội.
Nhưng hiện nay, cơ chế đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân ở
Việt Nam nhiều người còn chưa nắm rõ được bản chất và nội dung quyền lực
chính trị của nhân dân. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, để đi sâu tìm hiểu

vấn đề cơ chế đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân ở Việt Nam hiện nay,
đó là lý do để em chọn đề tài cuối môn là “Cơ chế đảm bảo quyền lực chính
trị của nhân dân ở Việt Nam”.
2. Lịch sử nghiên cứu
Phạm Ngọc Quang, Đề tài khoa học cấp Bộ “Quyền lực chính trị và
việc thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp công nhân, nhân dân lao động.
Trong điều kiện Đảng cộng sản cầm quyền ớ Việt Nam”, 1993
Mạch Quang Thắng, Đề tài khoa học cấp Bộ “Bảo đảm và phát huy dân
chủ trong chế độ một Đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay”, 2000. Xác định
một số nội dung cơ bản thực hiện dân chủ trong chế độ một Đảng Cộng sản
cầm quyền ở nước ta. Đánh giá bước đầu thực trạng dân chủ và đề xuất một
số giải pháp nhằm bảo đảm, phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay.
Cuốn giáo trình nội bộ Quyền lực chính trị và cầm quyền, Võ Thị Hoa,
NXB Học viện Báo chí và Tuyên truyền, 2014
Lê Minh Quân, Lưu Minh Văn, Cuốn sách Giáo trình quyền lực chính
trị, 2017, Đại học Quốc gia Hà Nội. Giáo trình gồm 9 chương, các nội dung
được kết cấu theo lô-gic từ quyền lực đến quyền lực chính trị, quyền lực nhà
2


nước; từ quan niệm, khái niệm, phân loại đến chức năng, kết cấu và đặc trưng
của quyền lực chính trị; từ phương thức thực thi đến nhân tố bảo đảm thực thi
và kiểm sốt quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước và con người với tính
cách chủ thể của quyền lực chính trị; từ việc tổ chức và thực thi quyền lực
chính trị, quyề lực nhà nước ở một số nước trên thế giới hiện nay đến việc tổ
chức và thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện
nay; từ những vấn đề có tính truyền thống của quyền lực chính trị đến những
vấn đề mới của quyền lực chính trị trong xã hội hiện đại...
Đặng, Minh Tuấn, Các cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước
trên thế giới và ở Việt Nam, 2019, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. Cuốn

sách tập hợp các bài tham luận về một số vấn đề lý luận cơ chế pháp lý kiểm
soát quyền lực nhà nước, cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt
Nam
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hoá lý luận về cơ chế đảm bảo quyền lực chính trị
của nhân dân ở Việt Nam., phân tích nội dung từ đó đề tài đề xuất phương
hướng và giải pháp nhằm tăng cường cơ chế đảm bảo quyền lực chính trị của
nhân dân ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về cơ chế đảm bảo quyền lực
chính trị của nhân dân ở Việt Nam.
- Phân tích Bản chất của quyền lực chính trị, cơ chế thực hiện quyền
lực chính trị, nội dung quyền lực chính trị của nhân dân Việt Nam
- Đề xuất phương hướng và giải pháp về cơ chế đảm bảo quyền lực
chính trị của nhân dân ở Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu cơ chế đảm bảo quyền lực chính trị của
nhân dân ở Việt Nam và đề xuất hướng giải quyết vấn đề này.
3


5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp cụ thể: Phân tích, tổng hợp

4


PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, chức năng và yêu cầu của quyền lực
chính trị
1.1.1 Khái niệm quyền lực chính trị
Cho đến nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về quyền lực chính trị. Tiêu
biểu là các khái niệm sau:
- Quyền lực chính trị là quyền sử dụng sức mạnh cho mục đích chính
trị.[4]
- Quyền lực chính trị là quyền lực xã hội nhằm giải quyết lợi ích giai
cấp, dân tộc, nhân loại.
Quyền lực chính trị là quyền lực của một hay liên minh giai cấp Quyền lực chính trị là quyền lực của các giai cấp, các nhóm xã hội, các lực
lượng xã hội dùng để chi phối, tác động đến quá trình tổ chức và thực thi
quyền lực nhà nước nhằm tối đa hóa lợi ích của mình.[7]
- Quyền lực chính trị là quyền lực của nhà nước, các đảng chính trị, các
tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức bầu cử, các cơ quan tự quản địa
phương”.[2]
- Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, quyền lực chính trị là quyền lực của một
hay liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội hoặc của nhân dân (trong điều kiện
chủ nghĩa xã hội); nó nói lên khả năng của một giai cấp nhằm thực hiện lợi
ích khách quan của mình. Quyền lực chính trị theo đúng nghĩa của nó, là bạo
lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai cấp khác.[1]
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, quyền lực chính trị là quyền quyết
định, định đoạt những vấn , công việc quan trọng về chính trị, tổ chức và hoạt
động để bảo đảm sức mạnh thực hiện quyền lực ấy của một giai cấp, một
chính đảng, tập đồn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền lãnh đạo; định
đoạt, điều khiển bộ máy nhà nước; xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội trong
5


một quốc gia và quan hệ chính trị - kinh tế - ngoại giao với các nhà nước khác

và tổ chức quốc tế khu vực và thế giới, bảo đảm chiều hướng phát triển quốc
gia phù hợp với lí tưởng giai cấp.
Từ những cách tiếp cận nêu trên, có thể hiểu một cách chung nhất:
Quyền lực chính trị là quyền sử dụng sức mạnh của một hay liên minh giai
cấp, tập đoàn xã hội nhằm thực hiện sự thống trị chính trị; là năng lực áp đặt
và thực thi các giải pháp phân bổ giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình - chủ
yếu thơng qua đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm của quyền lực chính trị
a. Quyền lực chính trị mang bản chất giai cấp
Quyền lực chính trị chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp. Cùng
với sự phát triển của lực lượng sản xuất, tư liệu sản xuất tập trung trong tay
một nhóm thiểu số người, hình thành những tầng lớp, giai cấp đầu tiên trong
xã hội. Sự xuất hiện của nhà nước không làm mất đi mâu thuẫn giai cấp và
đấu tranh giai cấp, mà đó chỉ là sự đánh dấu cuộc đấu tranh chính trị chuyển
sang giai đoạn mới: diễn ra xoay quanh vấn đề giành - giữ - thực thi quyền
lực nhà nước. Từ đó, nhà nước thực sự trở thành trung tâm, vũ đài của cuộc
đấu tranh chính trị. Cuộc đấu tranh đó địi hỏi các giai cấp phải tổ chức ra sức
mạnh của mình là quyền lực chính trị. Như vậy ngay từ đầu, yếu tố giai cấp
đã quyết định nội dung của quyền lực chính trị.
Trong đời sống xã hội, lợi ích của các giai cấp thường mâu thuẫn với
nhau. Quyền lực chính trị tồn tại trong mối liên hệ lợi ích khi đặt nó trong
quan hệ với giai cấp khác. Tuỳ thuộc vào tương quan, so sánh lực lượng mà
các giai cấp ở vào vị thế khác nhau trong quan hệ với việc sử dụng quyền lực
chính trị. Vì vậy, mỗi giai cấp khác nhau có quyền lực chính trị khác nhau.
Như vậy, chừng nào cịn giai cấp thì cịn chính trị, cịn quyền lực chính
trị. Giai cấp nào cũng thống nhất trong việc bảo vệ lợi ích của mình, trong đấu
tranh giành quyền lực chính trị.

6



b. Quyền lực chính trị có tính xã hội
Quyền lực chính trị nảy sinh và phát triển trong lịng xã hội. Nó là sản
phẩm của xã hội phân chia giai cấp. Xã hội là cơ sở tồn tại của các giai cấp, vì
vậy quyền lực chính trị khơng thể tách rời hay vượt ra ngồi xã hội mà nó
đang tồn tại.
Chủ thể và khách thể quyền lực chính trị đều là những thành phần tạo
nên chỉnh thể xã hội, đều nằm trong một điều kiện tồn tại xã hội. Trong sự
vận động và phát triển của xã hội, một phương thức sản xuất lỗi thời sẽ bị
thay thế bởi một phương thức sản xuất tiên tiến để phù hợp với điều kiện tồn
tại của chế độ xã hội mới. Tương ứng với nó, các giai cấp mới xác lập hệ
thống tổ chức quyền lực chính trị để bảo vệ lợi ích giai cấp và đấu tranh giai
cấp trong hoàn cảnh, điều kiện mới. Như vậy, trong lịch sử xã hội khơng có
một giai cấp nào tồn tại vĩnh hằng, cũng khơng có một hệ thống quyền lực
chính trị nào tồn tại vĩnh viễn. Các giai cấp và hệ thống quyền lực của giai
cấp chỉ được xác lập trong điều kiện tồn tại cụ thể của xã hội. Các điều kiện
xã hội đó quy định hình thức, nội dung, bản chất của các giai cấp cũng như hệ
thống quyền lực mà các giai cấp đã xác lập trên nền tảng của xã hội đó, do đó
quyền lực chính trị mang đậm tính xã hội.
c. Quyền lực chính trị có tính lịch sử
Sự ra đời, tồn tại, phát triển và tiêu vong của quyền lực chính trị mang
tính khách 1 quan trong một giai đoạn lịch sử nhất định - giai đoạn có giai
cấp. Sự tồn tại một cách khách quan của giai cấp quy định tính khách quan
của quyền lực chính |trị. Các giai cấp, lực lượng xã hội chỉ có quyền lực chính
trị khi nó giành và giữ s được quyền lực công, mà biểu hiện tập trung nhất là
ở quyền lực nhà nước. Quyền lực chính trị tồn tại cùng với giai cấp và nhà
nước.
d. Quyền lực chính trị có tính thống nhất
Quyền lực chính trị là quyền lực của giai cấp, được thiết lập và duy trì
để bảo vệ lợi ích giai cấp nên về nguyên tắc và từ trong bản chất của nó,

7


quyền lực chính trị là thống nhất. Tuy nhiên, sự thống nhất thường chỉ biểu
hiện ở lợi ích cơ bản, cịn lợi ích cục bộ thì chưa hẳn, thậm chí còn mâu thuẫn
gay gắt. ở các nước tư bản chủ nghĩa, các đảng phái, phe nhóm đấu tranh với
nhau để giành quyền lực chính trị, dường như quyền lực giai cấp tư sản bị
phân chia, tuy nhiên đó chỉ là hình thức. Đấu đá giữa các phe nhóm, đảng
phái của giai cấp tư sản chỉ mang tính chất mâu thuẫn nội bộ. Về nguyên tắc,
chúng vẫn thống nhất bởi lợi ích cơ bản của chúng là giống nhau - đó là bóc
lột giai cấp vơ sản và các tầng lớp lao động khác. Vì vậy, dù đảng nào cầm
quyền cùng vậy, chỉ khác nhau về hình thức, cịn bản chất khơng bao giờ thay
đổi.
đ. Quyền lực chính trị có tính tập trung
Trong quan hệ quyền lực ở xã hội dân chủ, một cá nhân hay tổ chức
được bầu ra, đại diện cho quyền lực của tập thể, cộng đồng. Quyền lực có
được do các thành viên thừa nhận, họ bầu ra để lãnh đạo chính họ, làm cho
hoạt động của họ được phối hợp chặt chẽ, tạo nên sức mạnh lớn hơn. Theo
Rutxô, con người không thể tạo ra lực mới mà chỉ kết hợp và điều khiển
những lực sẵn có, cho nên phương pháp duy nhất để con người tự bảo vệ là họ
phải kết hợp lại với nhau thành một lực lượng chung, được điều khiển bằng
một động cơ chung, khiến cho mọi người đều hành động một cách hài hồ.
Q trình hình thành quyền lực là q trình tập trung, tập hợp ý chí
chung, tạo nên sự đồng lịng nhất trí trong tổ chức, cộng đồng. Đây là hình
thức phổ biến của con đường hình thành quyền lực, từ thị tộc, bộ lạc đến đảng
phái, nhà nước. Nếu thiếu tập trung thì khơng thể tạo ra quyền lực, mức độ
tập trung càng cao, tổ chức càng chặt chẽ, gắn bó thì quyền lực của ổ chức
càng mạnh. Tập trung là một tính chất cơ bản của quyền lực.
e. Quyền lực chính trị có tính tha hố
Do tính chất tập trung mà quyền lực được tập trung vào tay một người

hay nhóm người nắm giữ. Ý chí chung của tập thể được một người hay nhóm
người điều khiển nên họ dễ dàng sử dụng cho mục đích riêng dẫn đến tha hoá
8


quyền lực. Tha hoá nghĩa là một sự vật, hiện tượng bị biến đổi, trở thành cái
khác, đối lập với cái ban đầu đã sinh ra nó. Do tính chất tập trung của quyền
lực nên nó dễ bị tha hố. Từ chỗ là quyền lực của số đông, đem tập trung lại
để cho một người hay một nhóm người nắm giữ và điều khiển nên càng tập
trung, càng thống nhất ý chí thì quyền lực càng mạnh. Nhưng mức độ tập
trung càng cao thì quyền lực lại càng xa với cái gốc rễ ban đầu và trở thành
cái đối lập với nền tảng đó. Đây là một mẫu thuẫn trong tính tập trung của
quyền lực: quyền lực càng tập trung càng dễ bị biến dạng và tha hoá.
1.1.3. Yêu cầu cơ bản trong thực thi quyền lực chính trị
a. Quyền lực chính trị phải có tính chính đáng
Quyền lực chính trị khơng bao giờ là tuyệt đối, vì ln cần sự chấp
nhận của đối tượng. Một giai cấp để có thể thực thi quyền lực chính trị cần tạo
ra cho mình tính chính đáng, tức tạo được sự thừa nhận rộng rãi trong xã hội
về sự xứng đáng lãnh đạo của mình. Tính chính đáng càng cao càng cần ít
“chi phí cưỡng chế”, và mục đích càng đạt được nhanh và chính xác hơn.
Tính chính đáng được thừa nhận dựa trên ba yêu tố: tính đại diện, tính hợp lý,
tính hợp pháp.
- Đại diện lợi ích cho người dân: Thể hiện ở tính dân chủ trong hoạt
động chính trị, dựa trên uy tín của người đứng đầu, năng lực và phẩm chất của
đội ngũ hoạt động chính trị, sự tham gia tích cực của đơng đảo quần chúng
nhân dân.
- Tính hợp lý: chủ yếu thể hiện ở tính khoa học trong việc tổ chức hệ
thống chính trị, thể hiện trước hết ở Hiến pháp và pháp luật, sau đó là ở các
hoạt động chính trị thực tiễn. Phần này có thể coi là phần các tri thức có tính
kỹ thuật (về quản lý nhà nước, lãnh đạo chính trị v.v.) trong việc tổ chức xã

hội để đạt được các mục tiêu chính trị (phát triển, giàu có, cơng bằng, dân chủ
...) một cách hiệu quả nhất.
Tính hợp pháp của các cơ quan quyền lực: biểu hiện chủ yếu ở các hình
thức lựa chọn người, cơ quan lãnh đạo và ra quyết định, trong đó hệ thống
9


bầu cử có vai trị trung tâm. Từ đây xuất hiện các vấn đề liên quan đến “quyền
lực liên tục” và “quyền lực gián đoạn” (nhiệm kỳ của người lãnh đạo).
Những nhân tố trên có quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau
trong quá trình phát triển và hồn thiện hệ thống tổ chức quyền lực chính trị.
Mức độ hồn thiện các nhân tố đó biểu hiện sự trưởng thành của giai cấp
trong đời sống chính trị - xã hội.
b. Quyền lực chính trị phải được tổ chức chặt chẽ
Khơng có tổ chức quyền lực chính trị thì khơng thể có quyền lực chính
trị. Tập trung là nguyên tắc cơ bản của tổ chức quyền lực chính trị. Nó được
biểu hiện bằng một cấu trúc hình chóp, trong đó có ba phần cơ bản liên hệ
chặt chẽ với nhau tạo thành hệ thống quyền lực. Phần đáy là các chủ thể, cá
nhân có quyền chính trị là nền tảng của quyền lực. Tương ứng với nó trên
thực tế là những người ủng hộ hay những cử tri đi bỏ phiếu. Phần trung gian
là hệ thống tổ chức liên hệ, tập hợp các thành viên thành nhóm và liên hệ các
nhóm với nhau. Tương ứng trong thực tế là các đảng phái, các nhóm lợi ích,
có chức năng liên hệ giữa phần đáy và phần chóp. Phần đỉnh là đầu não, tổ
chức lãnh đạo của hệ thống, đây là phần có quyền lực thực tế nhất, là trung
tâm định hướng, tổ chức điều hành các hoạt động, là trung tâm phát động
quyền lực trong toàn hệ thống.
Như vậy, quyền lực qua q trình tổ chức đã cơ đọng lại, dồn vào nhóm
nhỏ lãnh đạo và cao hơn hết là một cá nhân. Quyền lực đó vận hành, chi phối
các hoạt động của nội bộ tổ chức hoặc vận hành trong hệ thống các quan hệ
với chủ thể khác.

C. Quyền lực chính trị phải được tập trung đủ mức và phải được kiểm
soát
Sự tập trung quyền lực quá mức hay phân tán đều có tác động tiêu cực
đến sự phát triển. Người (nhóm người) có quyền lực thường có xu hướng tha
hoá, lạm quyền, dẫn đến quan liêu, chuyên quyền độc đốn, quyết định cơng
việc theo ý chí chủ quan, kìm hãm tự do sáng tạo. Đây là căn bệnh phổ biến
10


của tập trung quyền lực. Ngược lại, nếu dân chủ thái quá, người đứng đầu, cơ
quan quyền lực trung ương khơng có đủ sức mạnh, quyền lực phân tán ở các
cá nhân, các địa phương thì dẫn đến hỗn loạn, vô tổ chức, vô kỷ luật. Cả hai
thái cực đều là kẻ thù của nền tự do chân chính, vì vậy cần tôn trọng nguyên
tắc tập trung dân chủ.
Khi trao quyền lực cho các chủ thể thì đồng thời cũng phải có cơ chế
kiểm tra, giám sát một cách chặt chẽ, để đảm bảo quyền lực được thực thi
đúng đắn và hiệu quả. Trong các giai đoạn lịch sử, có cơ chế kiểm tra, giám
sát quyền lực khác nhau: từ thành lập Hội đồng nguyên lão thời Hy Lạp - La
Mã cổ đại đến tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tạm quyền phân
lập, thành lập các ban thanh tra, uỷ ban kiểm tra, phát huy vai trò của các
đảng phái đối lập, các tổ chức chính trị - xã hội, của báo chí... trong giai đoạn
ngày nay.
1.2 Quyền lực chính trị trong lịch sử
1.2.1. Trong chế độ chiếm hữu nơ lệ
Trong xã hội có giai cấp, sự biến đổi của cơ sở kinh tế và cùng với nó
là sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp cũng như vị trí lịch sử của các tầng
lớp, giai cấp mà quyền lực chính trị cũng khơng ngừng biến đổi. Quyền lực
chính trị được tập trung chủ yếu vào quyền lực nhà nước, nghĩa là chủ yếu là
quyền lực của giai cấp thống trị. Sự phân chia và đối kháng giai cấp đã làm
cho các tổ chức của cộng đồng dần thoát khỏi chức năng ban đầu. Từ chỗ là

cơng cụ của nhân dân, nó trở thành cơ quan đối lập và áp bức nhân dân. Các
thiết chế trước đây bảo vệ lợi ích chung đã trở thành cơng cụ bảo vệ lợi ích
của một giai cấp - giai cấp chủ nô. Ăngghen chỉ rõ: “Lúc đầu xã hội, bằng sự
phân công giản đơn trong lao động, thiết lập ra những cơ quan đặc thù để bảo
vệ lợi ích chung của mình. Nhưng với thời gian, các cơ quan ấy, mà cơ quan
chủ chốt là chính quyền nhà nước, do phục vụ lợi ích riêng của mình, đã từ
chỗ là tôi tớ của xã hội biến thành chủ nhân của xã hội”.

11


Trong chế độ chiếm hữu nơ lệ, mà điển hình nhất là ở phương Tây, chủ
nô là giai cấp thống trị đầu tiên trong lịch sử. Quyền lực chính trị của chủ nô
chủ yếu được thực hiện bằng nhà nước chủ nơ, dưới hình thức qn chủ, cộng
hồ dân chủ chủ nơ hoặc cộng hồ q tộc chủ nơ. Cơ sở xã hội cho sự thống
trị đó là xã hội chiếm nô, cơ sở kinh tế là tư liệu sản xuất cơ bản nằm trong
tay giai cấp chủ nô. Nô lệ là lực lượng lao động chính trong xã hội, nhưng
khơng có bất cứ quyền lực gì. Tầng lớp bình dân khá đơng đảo nhưng khơng
có quyền quyết định các vấn đề cơ bản của xã hội. Mọi quyền hành đều tập
trung vào tay giai cấp chủ nô. Bộ máy nhà nước lúc đầu còn đơn giản, chức
năng chủ yếu là cơng cụ trấn áp. Chủ nơ nắm tồn bộ quyền lực, vừa tự đặt ra
pháp luật, vừa tổ chức thực hiện, vừa xét xử các hành vi vi phạm pháp luật.
Chỉ đến giai đoạn phát triển cao, lực lượng vũ trang và cơ quan xét xử mới
được thành lập.
Công cụ để điều hành và quản lý xã hội của nhà nước chủ nô chủ yếu là
bạo lực để trấn áp nơ lệ. Tính chất qn phiệt, tàn bạo với đại bộ phận dân cư
là đặc trưng phổ biến. Một số nhà nước có hình thức dân chủ (dân chủ Aten,
dân chủ La Mã...), nhưng mới chỉ phản ánh cách thức tổ chức quyền lực nhiều
hơn là cách thức cai trị xã hội bằng con đường dân chủ.
Nhìn chung, quyền lực chính trị của chủ nơ được thiết lập trên nền tảng

xã hội ở trình độ thấp, lực lượng sản xuất chưa phát triển, các mối quan hệ xã
hội còn đơn giản, nên hình thức tổ chức quyền lực nhà nước chưa chặt chẽ,
phạm vi tác động và điều chỉnh còn hạn hẹp. Tuy nhiên, trong tổ chức quyền
lực nhà nước đã có cơ chế phân quyền và kiểm sốt quyền lực, mặc dù còn sơ
khai (nhà nước Hy La Mã).
1.2.2. Trong chế độ phong kiến
Trong chế độ phong kiến. cấu trúc xã hội phức tạp hơn. Ngoài hai giai
cấp chính là địa chủ và nơng dân cịn có tầng lớp thương nhân, thợ thủ công
và quý tộc đang sa sút. Đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế là sản xuất nông
nghiệp tự cung tự cấp, ruộng đất là tư liệu sản xuất lớn nhất. Chủ sở hữu
12


ruộng đất là địa chủ, vì vậy họ đồng thời thống trị xã hội. Các quan hệ kinh tế
- xã hội phức tạp địi hỏi một thiết chế chính trị vững chắc hơn, chặt chẽ hơn
để ổn định xã hội. Quyền lực chính trị tập trung vào nhà nước quân chủ phong
kiến. Trong quá trình phát triển, hệ thống quyền lực phong kiến phương Tây
trải qua hai giai đoạn: cát cứ và tập quyền. Tuỳ theo điều kiện mỗi nước, các
chính thể và hình thức tổ chức có những biến dạng nhất định, so có điểm
khơng thay đổi là: ở đâu tồn tại hình thức cát cứ thì ơng vua chỉ nắm quyền
trên danh nghĩa, còn trong chế độ tập quyền, ơng vua có quyền lực tối cao,
nhân dân chỉ là thần dân, là con vua. Do vậy, vua có thể ban phát cho bất kỳ
ai và với mức độ nào theo ý mình. Hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước từ
trung ương đến địa phương được thiết lập chặt chẽ, chỉ đạo thống nhất. Giai
đoạn đầu phong kiến, quyền lực nằm trong tay các lãnh chúa phong kiến ở
các địa phương, trở thành các lực lượng cát cứ, gây cản trở cho sự phát triển
lực lượng sản xuất và làm suy yếu quyền lực trung ương. Đến giai đoạn sau,
tình trạng cát cứ được khắc phục, quyền lực được tập trung thống nhất, bộ
máy thống trị mà đứng đầu là vua trở nên độc đoán, chuyên quyền. Ở phương
Đơng trong suốt q trình phát triển chế độ phong kiến, quyền lực chính trị

tập trung cao độ vào bộ máy nhà nước trung ương, vua là “con trời”, “thế
thiên hành đạo”, bộ máy nhà nước do vua lập ra để bảo vệ chế độ chuyên chế.
Tuy nhiên, có nhiều ông vua cũng có tư tưởng thân dân, coi dân như con và
tạo điều kiện cho dân phát triển kinh tế- xã hội và được hưởng một số quyền
tự trị nhất định.
Để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hợp lý hoá sự thống trị, giai cấp
địa chủ phong kiến đã biết sử dụng pháp luật bên cạnh các quy phạm đạo đức
và uy lực tuyệt đối của nhà vua. Nét đặc trưng trong hệ thống quyền lực là
“thần quyền” được sử dụng như một công cụ quyền lực chính trị đắc lực bên
cạnh “thế quyền”. quyền lực nhà nước. Sự thống trị về tinh thần, tư tưởng đã
được xác lập bên cạnh sự cưỡng bức về thể xác của các công cụ bạo lực. Điều

13


đó cũng chứng tỏ thiết chế chính trị, tổ chức quyền lực của xã hội phong kiến
cao hơn một bước so với xã hội chiếm hữu nô lệ.
1.2.3. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
được xác lập, giai cấp tư sản thay thế giai cấp địa chủ phong kiến lên nắm
quyền lực nhà nước. Cơ sở xã hội của sự thống trị chính trị của giai cấp tư sản
là xã hội tư bản. Đặc điểm của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa trước đây là nền
sản xuất đại cơng nghiệp cơ khí và hiện nay là nền sản xuất dựa trên thành tựu
của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại. Trong xã hội có nhiều nhóm
lợi ích, nhiều tầng lớp, nhiều giai cấp và nhiều mối quan hệ đan xen phức tạp,
trong đó hai giai cấp cơ bản có lợi ích cơ bản đối lập nhau là giai cấp tư sản
và giai cấp vơ sản. Để đảm bảo sự thống trị chính trị của mình, giai cấp tư sản
đã thiết lập nên một hệ thống tổ chức quyền lực chính trị phù hợp với nhu cầu
phát triển xã hội để điều chỉnh các quan hệ xã hội, điều hoà các mâu thuẫn
giai cấp và khống chế sự phản kháng của các lực lượng đối lập, đặc biệt là đối

với giai cấp vô sản.
Quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền thành ba
quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các quyền này chế ước, kiểm soát lẫn
nhau tạo nên thế giằng co, hạn chế được sự tha hoá của quyền lực. Bên cạnh
đó, pháp luật cịn được sử dụng như một cơng cụ đắc lực của nhà nước. Nó
trở thành quyề lực tối thượng mà ngay cả hoạt động của nhà nước cũng đặt
dưới quyền kiểm sốt của nó. Với nhiều mơ hình tổ chức quyền lực nhà nước:
cộng hoà tổng thống, cộng hoà đại nghị, cộng hoà lưỡng tính, quân chủ lập
hiến, nhưng đều được xây dựng theo nguyên tắc “tam quyền phân lập”.
Trong giai đoạn đầu - chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, quyền lực nhà
nước đối với kinh tế hết sức to lớn, nó thực sự trở thành bộ máy bạo lực để
xâm lược mở rộng thị trường và khai thác thuộc địa. Trong nước, nó đã thừa
nhận một số quyền tự do, dân chủ đối với nhân dân, tạo điều kiện cho các
đảng chính trị, các nhóm lợi ích ra đời. Khi nền dân chủ tư sản được thiết lập,
14


nguyên tắc phổ thông đầu phiếu được ban hành và nó thừa nhận sự bình đẳng
của mọi người dân trước pháp luật. Nhưng khi áp lực của nhân dân lao động
tăng cao, ở một số nước chế độ quân phiệt dần dần lấn át, nhà nước tư sản đàn
áp dã man, khốc liệt các lực lượng chống đối.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản hiện đại, quyền lực chính trị và hệ
thống thực hiện nó có sự biến đổi về cơ cấu, phương thức tổ chức và cai trị.
Đó là: vai trị ngày càng tăng của các đảng chính trị; hình thành các liên minh,
các khối chính trị - kinh tế; khoa học và công nghệ tác động mạnh mẽ tới các
tổ chức quyền lực. Do áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào kinh
tế và xã hội đã làm giảm áp lực đấu tranh của giai cấp cơng nhân và nhân dân
lao động. Tuy nhiên, nó khơng thể triệt tiêu mâu thuẫn đối kháng trong xã
hội.
Trong xã hội tư bản, tồn tại hai cơ chế thực hiện quyền lực chính trị:

của giai cấp thống trị và của các giai cấp bị trị:
- Cơ chế thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp tư sản thống trị lấy
việc bảo đảm củng cố quyền lực của mình trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội nhằm củng cố, duy trì và phát triển chế độ xã hội đương thời,
buộc tất cả các giai cấp, tầng lớp khác phải thực hiện. Để hồn thành các
nhiệm vụ đó, cần có một cơ chế được tạo thành từ bốn khâu:
+ Hoạch định cương lĩnh, đường lối, thể hiện mục tiêu chính trị của
giai cấp tư sản. Đó là chức năng của đảng cầm quyền; + Ban hành Hiến pháp,
pháp luật, nhằm thể chế hố mục tiêu chính trị. Đó là chức năng của Nghị
viện;
+ Thiết lập hệ thống tổ chức thực hiện làm cho những quy định pháp lý
có được sức mạnh của hoạt động thực tiễn. Đó là chức năng của Chính
+ Thiết lập hệ thống kiểm tra, giám sát việc thực hiện và xét xử các
hành vi vi phạm Hiến pháp, pháp luật. Đó là chức năng của hệ thống toà án.
Đồng thời để thực hiện quyền lực chính trị của mình, giai cấp tư sản cũng rất
chú ý tới vai trị của các tổ chức chính trị - xã hội trong tham gia vào cả quá
15


trình hoạch định mục tiêu chính trị cho phát triển xã hội lẫn quá trình hình
thành hiến pháp, pháp luật cũng như quá trình thực hiện hiến pháp, pháp luật
và kiểm tra, giám sát việc thực hiện nó.
- Cơ chế thực hiện quyền lực chính trị của các giai cấp, tầng lớp khác
hướng - tới đấu tranh cho quyền lực chính trị của mình nhằm giành những lợi
ích kinh tế và lợi ích chính trị ngày càng lớn trong xã hội, đấu tranh để gây
ảnh hưởng đối với nhà nước; thậm chí đấu tranh để giành lấy quyền lực nhà
nước khi đủ mạnh. Trong cuộc đấu tranh đó, các tổ chức chính trị do các giai
cấp lập ra chiếm vai trò cực kỳ quan trọng. Trong cơ chế thực hiện quyền lực
chính trị này cũng có các nhân tố: đảng chính trị, các tổ chức chính trị - xã
hội, các tổ chức xã hội, sự tham gia của quần chúng. Để đạt được mục tiêu

của mình, các lực lượng xã hội này cũng phải hình thành chủ trương chính trị
và bằng những hình thức khác nhau đưa nó vào quần chúng, tổ chức quần
chúng đấu tranh.
1.2.4. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa
Từ sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, lần đầu tiên trong
lịch sử chính trị nhân loại, giai cấp vô sản đã giành được quyền lãnh đạo và tổ
chức xã hội. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, với sự ra đời của hàng loạt nước
xã hội chủ nghĩa từ châu Âu đến châu Á, châu Mỹ la tinh, chủ nghĩa xã hội đã
trở thành một hệ thống trên thế giới. Tuy nhiên, đến năm 1991, sau sự sụp đổ
của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, trên thế giới chỉ còn
tồn tại một số nước xã hội chủ nghĩa. Các nước đang trên đường tìm kiếm
một thiết chế chính trị phù hợp dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin,
bảo đảm quyền lực chính trị của nhân dân lao động.
Quyền lực chính trị của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động được
tổ chức thành nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cơ sở của nhà nước đó là khối đại
đoàn kết toàn dân dựa trên nền tảng liên minh cơng - nơng - trí thức. Khối đại
đồn kết này bao gồm đại đa số nhân dân lao động trong xã hội. Đây là đặc
điểm nổi bật - nhà nước của đại đa số nhân dân, khác với nhà nước của giai
16


cấp thiểu số bóc lột trước đó. Nhà nước lập ra bộ máy gồm cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp, nhưng dựa trên nguyên tắc tập quyền, quyền lực nhà
nước thống nhất, nhưng có sự phân cơng, phối hợp trong việc thực hiện mục
tiêu chung, điều đó tạo nên sự thống nhất, tập trung cao độ trong thực hiện
quyền lực của nhân dân. Bên cạnh nhà nước có các tổ chức đoàn thể nhân dân
như: mặt trận tổ quốc, cơng đồn, đồn thanh niên cộng sản, hội phụ nữ...
Đây là thiết chế để các tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình,
tham gia quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Đảng cộng sản là cơ quan lãnh
đạo, định hướng, tổ chức các hoạt động của nhà nước và các đoàn thể quần

chúng. Nhà nước dùng pháp luật để điều hành và quản lý xã hội, pháp chế xã
hội chủ nghĩa được tăng cường, việc tuyên truyền giáo dục pháp luật, đạo đức
được đề cao. Các thiết chế chính trị đó tạo cho xã hội sự ổn định, phát huy
được trí tuệ, sức sáng tạo của nhân dân, và điều đó tạo nên sức mạnh của các
nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, hình thức tổ chức quyền lực chính trị ở các nước xã hội chủ
nghĩa cũng cịn nhiều hạn chế. Mơ hình này đã tổng hợp và phát huy được sức
mạnh của toàn xã hội, nhưng chưa kích thích được sự phát triển của lực lượng
sản xuất, chưa có cơ chế thích hợp để phát triển kinh tế- xã hội, từ đó dẫn đến
sự tụt hậu về kinh tế. Mặt khác, quyền lực của nhân dân tập trung ở mức độ
cao nhưng chưa có cơ chế kiểm sốt thích hợp và có hiệu quả trên thực tế, vì
vậy tạo cho nhà nước trở thành bộ máy quan liêu, nặng nề, xa rời dân. Sự sụp
đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đơng Âu có nhiều ngun nhân,
nhưng xét dưới góc độ tổ chức quyền lực chính trị thì quyền lực của nhân dân
lao động được tập trung nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ, dẫn đến sự tha
hoá, suy yếu và mất quyền lực khi bị kẻ thù tấn cơng. Đó cũng là bài học kinh
nghiệm đối với các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay trong quá trình cải cách,
đổi mới hệ thống chính trị.

17


CHƯƠNG 2:
CƠ CHẾ ĐẢM BẢO QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ CỦA NHÂN DÂN Ở
VIỆT NAM
2.1. Bản chất của quyền lực chính trị
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, mọi
quyền lực chính trị đều thuộc về nhân dân. Nhân dân vừa là chủ thể của
quyền lực chính trị vừa là người thực hiện quyền lực chính trị. Nhân dân có
quyền có một nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo cho họ là chủ thể của quyền

lực chính trị nhằm thực hiện lợi ích khách quan của mình., đồng thời quyền
lực chính trị đó là một giá trị xã hội mang tính chất nhân văn, nó là thành quả
đấu tranh của con người cho sự hồn thiện của chính bản thân và cho sự tiến
bộ xã hội. Bản chất giai cấp của quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay thể
hiện:
- Quyền lực chính trị của nhân dân mang bản chất giai cấp công nhân.
Tổ chức quyền lực nhà nước của giai cấp cơng nhân là tiền đề chính trị bảo
đảm cho nhân dân thực sự trở thành chủ thể của quyền lực nói chung, quyền
lực chính trị nói riêng.
- Quyền lực chính trị của nhân dân mang tính đảng cộng sản. Đảng giữ
vững lập trường quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đại diện cho lợi ích
của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản đối với Nhà nước và xã hội là điều kiện tiên quyết để giữ
vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước và quyền lực chính trị của
nhân dân.
- Quyền lực chính trị của nhân dân mang tính chất dân tộc. Cuộc đấu
tranh giành quyền lực chính trị của nhân dân lúc đầu mang hình thức đấu
tranh dân tộc. Nhân dân lao động gắn những nhiệm vụ xã hội của mình với
các nhiệm vụ dân tộc: đem lại quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân
tộc
18


- Quyền lực chính trị của nhân dân mang tính nhân dân. Quyền lực này
là kết quả đấu tranh của quần chúng nhân dân, quyền lực chính trị của nhân
dân được thể hiện và thực thi đầy đủ trên cơ sở cơng nhận ngun tắc: tồn bộ
quyền lực thuộc về nhân dân.
2.2. Cơ chế thực hiện quyền lực chính trị
Trên thực tế, quyền lực chính trị của nhân dân rất rộng, vì vậy chính
bản thân họ khơng thể thường xun và trực tiếp thực hiện quyền lực chính trị

của mình và khơng phải bất cứ cơng việc gì của đời sống xã hội cũng có thể
đưa ra trước cộng đồng bàn bạc, quyết định, vì vậy phải có các cơ quan hoạt
động thường xuyên, là công cụ để nhân dân thực hiện quyền lực chính trị của
mình. Dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp là hai phương thức để nhân dân
thực hiện quyền lực chính trị của mình.
Hệ thống chính trị là cơ chế chủ yếu bảo đảm quyền lực chính trị của
nhân dân trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí
thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cơ chế vận hành nhằm đảm bảo quyền lực
chính trị của nhân dân ở nước ta hiện nay là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ. Nhân dân trao quyền lực của mình cho Đảng, hay nói
cách khác, Đảng được nhân dân uỷ1 quyền lãnh đạo đất nước. Đảng lãnh đạo
bằng cương lĩnh, đường lối; bằng công tác tư tưởng, công tác cán bộ, công tác
kiểm tra, bằng nêu cao vai trò tiên phong của đội ngũ cán bộ đảng viên.
Nhà nước quản lý là nhà nước thay mặt nhân dân quản lý các quá trình
kinh tế - xã hội theo đường lối chính trị của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, chức năng quản lý của Nhà nước là thể chế bằng pháp luật, quyền hạn,
lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp
luật. Quyền lực chính trị của nhân dân được hợp pháp hoá bằng Nhà nước và
Nhà nước là công cụ hữu hiệu để thực hiện quyền lực của nhân dân. Nhà
nước có đầy đủ sức mạnh, tổ chức vật chất, sức mạnh cưỡng chế, có đầy đủ
các phương tiện vật chất cần thiết để bảo đảm thực hiện quyền lực chính trị
của nhân dân.
19



×