TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
PHẠM THỊ PHƯƠNG HIỀN
HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI QUỸ TÍN DỤNG NHÂN DÂN Ở VIỆT
NAM
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ - TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐÀM VĂN HUỆ
HÀ NỘI - 2011
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “ Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với Quỹ tin dụng
nhân dân ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS Đàm Văn Huệ.
Các số liệu, kết quả nêu trong bài viết là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày tháng năm 2011
TÁC GIẢ
Phạm Thị Phương Hiền
MỤC LỤC
Một là: + Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho
việc thành lập QTDND cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật 29
Hai là:+ Xem xét đề án thành lập và phương án hoạt động QTDND cơ sở của các
sáng lập viên, căn cứ vào những quy định của pháp luật, trả lời bằng văn bản cho các
sáng lập viên về việc đồng ý hay không đồng ý thành lập QTDND cơ sở. Trường hợp
đồng ý phải có văn bản đề nghị ủy ban nhân dân cấp huyện về việc thành lập QTDND
cơ sở 29
Ba là: + Có trách nhiệm tham gia xem xét việc bố trí cán bộ quản trị, kiểm soát, điều
hành của QTDND cơ sở, tạo điều kiện cho cán bộ của QTDND cơ sở làm việc ổn
định, hiệu quả 30
Bốn là:+ Chỉ đạo các ban, ngành có liên quan trong việc xử lý những tồn tại, vướng
mắc trong hoạt động của QTDND cơ sở 30
Năm là: + Giám sát, giúp đỡ QTDND cơ sở triển khai thực hiện phương án củng cố,
chấn chỉnh hoạt động đồng thời thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước theo quy
định của pháp luật nhằm bảo đảm sự phát triển an toàn, hiệu quả của QTDND trên địa
bàn; chịu trách nhiệm về những hậu quả do tập thể hoặc cá nhân cấp mình quản lý gây
ra cho QTDND cơ sở 30
Thứ ba: Sau giai đoạn củng cố, chấn chỉnh hoạt động, hệ thống QTDND bước vào giai
đoạn hoàn thiện và phát triển. Một số dự án, tổ chức liên kết được thành lập như dự án
“Liờn kết nông thôn - thành thị góp phần chống đúi nghốo” giữa Cơ quan phát triển
Quốc tế Desjardins (DID) và QTDND Việt Nam, hợp đồng cung cấp giải pháp chuyển
mạch và quản lý giao dịch điện tử nhằm phục vụ dự án liên kết nông thôn, thành thị,
sẽ giúp cho sự hoạt động của QTDND ổn định, an toàn và phát triển bền vững; 82
Thứ tư: Sự tin tưởng của người dân vào hệ thống QTDND sau những thành tựu mà quỹ
đã đạt được; 83
Thứ năm: Năng lực, trình độ của đội ngũ QTDND ngày càng được nâng cao, đáp ứng tốt
hơn với như cầu và sự phát triển hoạt động của quỹ 83
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CQTTGSNH : Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NH HTX : Ngân hàng Hợp tác xã
TCTD : Tổ chức tín dụng
TDHT : Tín dụng hợp tác
QTDND : Quỹ tín dụng nhân dân
UBND : Uỷ ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Một là: + Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho
việc thành lập QTDND cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật 29
Hai là:+ Xem xét đề án thành lập và phương án hoạt động QTDND cơ sở của các
sáng lập viên, căn cứ vào những quy định của pháp luật, trả lời bằng văn bản cho các
sáng lập viên về việc đồng ý hay không đồng ý thành lập QTDND cơ sở. Trường hợp
đồng ý phải có văn bản đề nghị ủy ban nhân dân cấp huyện về việc thành lập QTDND
cơ sở 29
Ba là: + Có trách nhiệm tham gia xem xét việc bố trí cán bộ quản trị, kiểm soát, điều
hành của QTDND cơ sở, tạo điều kiện cho cán bộ của QTDND cơ sở làm việc ổn
định, hiệu quả 30
Bốn là:+ Chỉ đạo các ban, ngành có liên quan trong việc xử lý những tồn tại, vướng
mắc trong hoạt động của QTDND cơ sở 30
Năm là: + Giám sát, giúp đỡ QTDND cơ sở triển khai thực hiện phương án củng cố,
chấn chỉnh hoạt động đồng thời thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước theo quy
định của pháp luật nhằm bảo đảm sự phát triển an toàn, hiệu quả của QTDND trên địa
bàn; chịu trách nhiệm về những hậu quả do tập thể hoặc cá nhân cấp mình quản lý gây
ra cho QTDND cơ sở 30
Thứ ba: Sau giai đoạn củng cố, chấn chỉnh hoạt động, hệ thống QTDND bước vào giai
đoạn hoàn thiện và phát triển. Một số dự án, tổ chức liên kết được thành lập như dự án
“Liờn kết nông thôn - thành thị góp phần chống đúi nghốo” giữa Cơ quan phát triển
Quốc tế Desjardins (DID) và QTDND Việt Nam, hợp đồng cung cấp giải pháp chuyển
mạch và quản lý giao dịch điện tử nhằm phục vụ dự án liên kết nông thôn, thành thị,
sẽ giúp cho sự hoạt động của QTDND ổn định, an toàn và phát triển bền vững; 82
Thứ tư: Sự tin tưởng của người dân vào hệ thống QTDND sau những thành tựu mà quỹ
đã đạt được; 83
Thứ năm: Năng lực, trình độ của đội ngũ QTDND ngày càng được nâng cao, đáp ứng tốt
hơn với như cầu và sự phát triển hoạt động của quỹ 83
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) là sản phẩm của một quá trình vận động và
phát triển của mô hình tổ chức tín dụng hợp tác. Đó là tổ chức của nhóm những
người có cùng cảnh ngộ, muốn cùng thực hiện một công việc chung nhất định nào
đó vỡ chớnh những lợi ích, quyền lợi của họ. Cỏc nhúm tín dụng hợp tác ra đời từ
khi xã hội loài người chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng
hóa, khi sự phân công lao động và chuyên môn hóa bắt đầu được hình thành và
cũng là thời điểm con người dần được giải phóng khỏi chế độ nô lệ và được tự do
hành nghề, tự do kinh doanh sản xuất. Cỏc nhóm TDHT này có đặc điểm nổi bật là
tự hình thành do sự tự nguyện, tự phát nên có thể có từ 5-7 thành viên, cũng có thể
có tới hàng chục thành viên với các tên gọi khác nhau. Sự ra đời của cỏc nhúm
TDHT đã hỗ trợ rất nhiều cho các thành viên – chủ yếu là các hộ gia đình nghèo ở
nông thôn, hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ, và qua đó cũng đã hỗ
trợ cho sự phát triển của kinh tế địa phương nói chung, góp phần tạo công ăn việc
làm, ổn định an ninh chính trị và trật tự xã hội, phát huy nội lực tại chỗ cho tăng
trưởng kinh tế.
Bờn cạnh những lợi ích mà cỏc nhóm tín dụng hợp tác đem lại, cỏc nhúm này
cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro trong quá trình hoạt động. Do đó, cần phải có sự quản lý,
giám sát chặt chẽ của các cơ quan nhà nước để hoạt động của cỏc nhúm này lành
mạnh, an toàn và phát triển hơn. Sự phát triển của các tổ chức TDHT là một sự phát
triển từ từ, có tiến trình, từ nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến đồ sộ, phức tạp, từ tổ chức
cá lẻ đến hệ thống liên kết hoàn chỉnh. Trong quá trình phát triển đó, Nhà nước của
các quốc gia này đã đóng góp một phần đáng kể để vun đắp và nâng đỡ cho hệ
thống các tổ chức TDHT.
Ở mỗi nước trên thế giới, cỏc nhúm tín dụng hợp tác này lại được quản lý với
những mô hình đặc thù khác nhau, tên gọi khác nhau tùy theo bối cảnh ra đời, điều
kiện kinh tế xã hội ở mỗi nước (Ở Đức là các Ngân hàng hợp tác xã hoặc ngân hàng
Raiffeisen; Ở Philipin là các HTX tín dụng; Ở Canada là QTD Dejardins).
Ở Việt Nam, các tổ chức tín dụng hợp tác tồn tại với mô hình QTDND.
i
QTDND ở Việt Nam được thành lập năm 1993 sau Nghị quyết Hội nghị lần thứ
năm của Ban chấp hành Trung ương khoá VII về tiếp tục đổi mới, phát triển kinh tế
- xã hội nông nghiệp, nông thôn. Khi bắt đầu thí điểm mô hình này, QTDND đã
được xác định cụ thể là loại hình TCTD hợp tác hoạt động theo nguyên tắc tự
nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động, thực hiện mục tiêu chủ
yếu là tương trợ giữa các thành viên, nhằm phát huy sức mạnh của tập thể và của
từng thành viên giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống. Hoạt động của QTDND phải bảo đảm bù đắp
chi phí và có tích lũy để phát triển.
Quá trình hoạt động của QTDND góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh
tế xã hội, ngoài ra còn giải quyết hài hoà mối quan hệ phân phối giữa nhà nước,
QTDND và các thành viên; góp phần hình thành quan hệ sản xuất mới ở nông thôn,
đẩy lùi suy nghĩ thiếu tin tưởng trong dân cư đối với loại hình TCTD hợp tác do sự
đổ vỡ HTX trước đây; khôi phục lòng tin của thành viên và nhân dân cũng như tạo
sự đồng tình ủng hộ của cấp uỷ, chính quyền các cấp đối với mô hình QTDND. Với
kết quả kinh doanh có lãi, QTDND đã đóng góp một phần nhất định vào Ngõn sách
Nhà nước, ngoài ra còn dành một phần tích luỹ để phát triển và chia cho thành viên
theo vốn góp đảm bảo hài hoà nghĩa vụ với Nhà nước và quyền lợi của thành viên.
Hệ thống QTDND của Việt Nam bao gồm QTDND Trung ương và các
QTDND cơ sở (Theo Luật các TCTD năm 2010 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01
năm 2011 thì hệ thống QTDND gọi chung là TCTD là HTX, không còn tên gọi
QTDND Trung ương và QTDND cơ sở mà thay vào đó là khái niệm NH HTX và
QTDND). Thành viên của NH HTX bao gồm tất cả các QTDND và các pháp nhân
góp vốn khác; thành viên của QTDND bao gồm các cá nhân, hộ gia đình và các
pháp nhân góp vốn khác.
Ngân hàng Hợp tác xã có những đặc trưng cơ bản của QTDND Trung ương
trước đây. Hoạt động chủ yếu của NH HTX là điều hòa vốn và thực hiện các hoạt
động ngân hàng đối với thành viên là QTDND. Ngoài ra, Ngân hàng Hợp tác xã còn
được thực hiện một số hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác sau khi
ii
được NHNN chấp thuận. So với mô hình QTDND Trung ương trước đây, NH HTX
đã được phép thực hiện một số nghiệp vụ của một ngân hàng, đó là cơ hội đối với
sự phát triển và lớn mạnh của loại hình TCTD này.
Giới hạn hoạt động của QTDND hẹp hơn so với mô hình NH HTX. Hoạt động
chủ yếu của QTDND là nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam, cho vay bằng đồng Việt
Nam và cung ứng dịch vụ chuyển tiền, thực hiện các nghiệp vụ thu hộ, chi hộ cho
các thành viên.
Tuy không được thực hiện nhiều nghiệp vụ ngân hàng và không có một số lợi
thế như các ngân hàng thương mại nhưng vai trò của QTDND vẫn vô cùng quan
trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Với tính chất là một loại hình
TCTD được tổ chức và hoạt động theo mô hình kinh tế hợp tác, lại được liên kết
chặt chẽ hỗ trợ nhau trong hoạt động, QTDND là loại hình TCTD rất phù hợp với
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội khu vực nông nghiệp và nông thôn trong điều
kiện kinh tế thị trường ở cả các nước đã phát triển và các nước đang phát triển. Hơn
nữa, với cơ chế tổ chức quản lý dân chủ, quy mô nhỏ, các QTDND là loại hình kinh
doanh năng động, dễ thích nghi với sự thay đổi môi trường hoạt động; cùng với cơ
chế liên kết chặt chẽ trong hệ thống, mô hình QTDND nói riêng và TCTD hợp tác
nói chung (trong đó thị phần của hệ thống QTDND ngày càng lớn) ngày càng trở
thành một bộ phận kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển
thành công mô hình QTDND Desjardins ở Canada, mô hình Ngân hàng HTX ở
Cộng hoà liên bang Đức và đặc biệt những kết quả đạt được qua quá trình thí điểm
QTDND ở Việt Nam trong thời gian qua là những minh chứng hết sức rõ ràng về
vai trò quan trọng của QTDND.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động và sự phát triển của QTDND.
Ngoài các nhân tố nội tại của QTNDN như: Năng lực tài chính, cơ sở vật chất, đội
ngũ cán bộ, , các chính sách của Nhà nước và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước,
cũng có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động và sự phát triển của chớnh cỏc Quỹ
này.
Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với QTDND đã được xác định ngay từ khi
iii
tổ chức này mới được thành lập; Đó là phát huy những mặt tích cực và hạn chế
những điểm yếu của QTDND, đảm bảo cho QTDND hoạt động ổn định và phát
triển, bám sát mục tiêu, tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của mô hình TCTD hợp
tác.
Để có thể đạt được mục tiêu đó, quản lý nhà nước đối với hệ thống QTDND
phải do rất nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện, bao gồm: Ngân hàng
Nhà nước các Bộ, ngành liên quan, Ủy ban nhân dân các cấp. Các cơ quan này sử
dụng các phương thức quản lý là các công cụ quản lý (gồm pháp luật, kế hoạch phát
triển, chính sách) tác động lên hệ thống QTDND bằng các phương pháp như:
Phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế, phương pháp giáo dục.
Phương pháp hành chính là cách thức tác động trực tiếp của Nhà nước thông
qua các quyết định dứt khoát có tính bắt buộc lên QTDND; trong khi đó Phương
pháp kinh tế lại là cách thức tác động gián tiếp của Nhà nước, dựa trên những lợi
ích kinh tế có tính chỉ đạo lên QTDND nhằm làm cho hệ thống QTDND quan tâm
đến hiệu quả cuối cùng. Khác với hai phương pháp nêu trên, Phương pháp giáo dục
là cách thức tác động của Nhà nước vào nhận thức và tình cảm của những con
người làm việc tại QTDND, nhằm nâng cao tính tự giác, tích cực và nhiệt tình lao
động của họ, đồng thời động viên, khuyến khích người dân tham gia là thành viên
của QTDND.
Tuy nhiên, dù quản lý theo phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế hay
phương pháp giáo dục thì sự quản lý của nhà nước cũng bị ảnh hưởng bởi rất nhiều
nhân tố khách quan cũng như chủ quan. Đó là xu hướng phát triển của nền kinh tế,
xu hướng phát triển của QTDND và nhận thức của chính người dân về các quỹ này.
Nắm được các nhân tố ảnh hưởng này, cùng với bài học rút ra từ kinh nghiệm quản
lý nhà nước đối với QTDND của các quốc gia trên thế giới như Đức và Canada,
Việt Nam sẽ cú thờm những đối sách phù hợp để quản lý mô hình này ngày càng tốt
hơn, hoàn thiện hơn.
Bộ máy quản lý của QTDND ở Việt Nam khá đặc thù, do đó thực trạng của
việc quản lý nhà nước đối với loại hình này cũng mang những đặc trưng riêng.
iv
Quản lý theo phương pháp hành chính, kinh tế, giáo dục đều cần những biện pháp
phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam. Trong
những năm qua, việc quản lý nhà nước đã góp phần giỳp cỏc QTDND có những
thành tựu đáng kể về tổng tài sản, huy động vốn, kết quả kinh doanh, Ngoài ra,
việc quản lý nhà nước còn thu được một số kết quả sau:
Một là: Đã xây dựng nên hệ thống QTDND và chỉ đạo các QTDND hoạt động
đúng mục tiêu đặt ra, đạt được một số kết quả đáng chú ý.
Hai là: Đã tạo dựng môi trường và khuôn khổ pháp lý tương đối đồng bộ.
Ba là: Đã xây dựng được các điều kiện cơ sở vật chất ban đầu phục vụ cho
hoạt động của QTDND một cách an toàn.
Bốn là: Đã tạo dựng một đội ngũ cán bộ QTDND có năng lực, có trình độ
chuyên môn nhất định đủ đảm đương công tác quản trị, điều hành, kiểm soát hoạt
động của Quỹ.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được, việc quản lý nhà nước đối với
QTDND còn một số hạn chế như:
Thứ nhất: Ban hành các quy định cũn cú những điểm bất cập về tổ chức hoạt
động của QTDND.
Thứ hai: Chưa khai thác và phát huy hiệu quả tính liên kết của hệ thống
QTDND.
Thứ ba: Một số vấn đề còn chưa được giải quyết dứt điểm, một số vấn đề còn
giải quyết chưa thỏa đáng như: Việc thanh lý QTDND; Chế độ bảo hiểm xã hội đối
với cán bộ của Quỹ, Ngoài ra, tại một số nơi, các cấp ủy, chính quyền còn thiếu
quan tâm, chưa có sự nhận thức đúng đắn đối với hoạt động của QTDND, cho rằng
QTDND chỉ thuộc trách nhiệm của NHNN, dẫn đến thực trạng các cấp ủy này
không nắm được hoạt động của QTDND trên địa bàn và thờ ơ, thiếu trách nhiệm
trong việc giải quyết các vấn đề của quỹ. Bên cạnh đó, tại một số địa phương khác
lại có tình trạng can thiệp quỏ sõu vào nội bộ QTDND, biến các Quỹ này thành
công cụ của mình như: Can thiệp vào vấn đề nhân sự của quỹ, yêu cầu quỹ cho
UBND xã vay với mục đích không chính đáng,
v
Nguyên nhân của những hạn chế trên có rất nhiều. Ngoài những nguyên nhân
khách quan như: Các QTDND không thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp
luật, do đó đã làm giảm hiệu lực của việc quản lý nhà nước, hay mụ hình QTDND
chưa hoàn chỉnh, cũn cú cỏc nguyên nhân chủ quan khác. Đó là:
Cơ chế chính sách chung của Nhà nước chưa đồng bộ, chưa tạo môi trường
pháp lý và kinh tế đầy đủ cho QTDND hoạt động an toàn như đã đề ra trong Đề án
thí điểm; hệ thống cơ chế chính sách mới chỉ tập trung điều chỉnh về tổ chức và
hoạt động của bản thân hệ thống QTDND mà chưa có cơ chế chính sách quan tâm
hỗ trợ một cách đầy đủ, toàn diện và có hiệu quả đối với các đối tượng vay vốn của
QTDND.
Sự phối hợp quản lý còn chưa chặt chẽ, thống nhất giữa các bộ, ban ngành
quản lý và giữa các Vụ, Cục trong chính Ngân hàng Nhà nước – Cơ quan quản lý
chịu trách nhiệm chính đối với hoạt động quản lý QTDND.
Nghiên cứu cơ sở lý luận và về thực trạng của QTDND ở Việt Nam hiện nay
để nhằm đưa ra các giải pháp hữu hiệu trong việc quản lý nhà nước đối với loại
hình tổ chức tín dụng này. Trong bối cảnh kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt
Nam nói riêng đang đứng trước nhiều biến chuyển khôn lường, thuận lợi có và khó
khăn cũng chồng chất, việc quản lý nhà nước đối với QTDND trước hết phải xác
định được phương hướng, mục tiêu rõ ràng. Đó là phát triển hệ thống QTDND theo
định hướng chuyển sang giai đoạn hoàn thiện và phát triển, mục tiêu là nâng cao
hiệu quả, năng lực tài chính, hoạt động và trình độ quản lý của các QTDND nhằm
đảm bảo an toàn hoạt động của QTDND, hoàn thiện mô hình tổ chức hệ thống
QTDND. Để đạt được mục tiêu đó, Luận văn đưa ra một số giải pháp, cụ thể là:
Đối với nhóm giải pháp vĩ mô: Cần xây dựng định hướng chiến lược và ban
hành các cơ chế chính sách đồng bộ; Tăng cường công tác tuyên truyền về QTDND
trong giai đoạn mới; Bổ sung, hoàn chỉnh đồng bộ hệ thống cơ chế, chính sách;
Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư nhằm nâng cao năng lực sản xuất hàng hoá ở khu vực
nông nghiệp và nông thôn.
Đối với nhóm giải pháp vi mô, Ngân hàng nhà nước cần sớm ban hành, sửa
vi
đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách phù hợp, tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho
hoạt động của QTDND; Sớm hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của
QTDND, các Đề án, như: Đề án thành lập Quỹ an toàn hệ thống, Đề án kiểm toán
QTDND, nhất là thành lập các tổ chức liên kết; Thay đổi cơ chế điều hòa vốn trong
hệ thống QTDND theo hướng điều tiết tốt nhất nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu
trong cùng hệ thống QTDND trên cơ sở nhu cầu của bên nhận vốn và bên điều
chuyển vốn; Cho phép QTDND cũng được hưởng chính sách miễn lãi như các ngân
hàng khỏc trờn địa bàn; Xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý,
thanh tra hệ thống QTDND,
Bên cạnh những giải pháp cụ thể, Luận văn cũng đưa ra một số kiến nghị đối
với Chính phủ và đối với các cấp ủy chính quyền địa phương như: Đề nghị Chính
phủ tiếp tục tăng nguồn vốn hỗ trợ cho hệ thống QTDND thông qua việc bổ sung
vốn điều lệ cho QTD Trung ương; Đề nghị Chính phủ điều chỉnh vốn pháp định đối
với QTDND cơ sở lên tối thiểu 1 tỷ đồng thay vì 100 triệu đồng theo quy định tại
Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006; Đề nghị Chính phủ giảm thuế thu
nhập đối với các QTDND cơ sở; Đề nghị Nhà nước dành một tỷ lệ nhất định trong
lợi tức cổ phần hàng năm thuộc vốn của nhà nước tại QTD Trung ương để lập quỹ
đào tạo cán bộ cho hệ thống QTDND; Đề nghị các cấp ủy chính quyền địa phương
tăng cường chức năng quản lý nhà nước đối với QTDND theo quy định của pháp
luật, không can thiệp vào hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của QTDND, khụng ộp
QTDND trong vấn đề nhân sự
Với những đặc điểm phù hợp với Việt Nam, cùng với sự quản lý nhà nước
chặt chẽ, hợp lý của các cơ quan quản lý nhà nước nói chung và của Ngân hàng Nhà
nước nói riêng, QTDND sẽ ngày càng hoạt động an toàn, bền vững, phát triển và
khẳng định được vị thế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
vii
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu:
Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) ở Việt Nam là một loại hình TCTD được
thành lập năm 1993 theo Quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 27/7/1993 của Thủ
tướng Chính phủ, của Chính phủ nhằm phát huy tinh thần tương trợ cộng đồng
để khai thác triệt để nguồn vốn nhàn rỗi tại chỗ, đáp ứng các nhu cầu tín dụng nhỏ
tại làng, xã một cách kịp thời. Hiệu quả hoạt động của hệ thống QTDND chính là ý
nghĩa to lớn về mặt xã hội của những đồng vốn tương trợ trong nội bộ dân cư, nhờ
đó mà xoá dần các tệ nạn cho vay nặng lãi, cải thiện đời sống kinh tế của các hộ
thành viên, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở những địa bàn có QTDND được
thành lập; đồng thời thắt chặt thêm mối giao lưu tình làng, nghĩa xóm giữa các
thành viên QTDND. Ngay từ khi mới thí điểm thành lập QTDND, các tầng lớp
nhân dân trong địa bàn đã tự nguyện tham gia và nhiệt tình hưởng ứng, tham gia
thành lập Quỹ (sửa lại), bước đầu đáp ứng kịp thời các nhu cầu về vốn sản xuất,
kinh doanh và phục vụ đời sống cho các thành viên, t và dần từng bước xoá đi mặc
cảm về sự đổ vỡ HTX tín dụng của những năm 1989, 1990. Hoạt động của hệ thống
QTDND đã góp phần tích cực vào công cuộc xúa đúi, giảm nghèo, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn nông nghiệp - nông thôn.
Những kết quả đạt được đã khẳng định QTDND là một mô hình kinh tế hợp tác
kiểu mới trong lĩnh vực hoạt động tiền tệ, tín dụng ngân hàng đã được xây dựng và
phát triển thành công tại Việt Nam.
Tuy nhiên, hiện nay, đứng trước những biến chuyển khôn lường của nền kinh
tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng, QTDND cũng đang phải chịu
sức ép cạnh tranh rất lớn. Mặt khác, bên cạnh những kết quả bước đầu đã đạt được,
hoạt động của các QTDND trong thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế, tồn tại cần
khắc phục như: Trình độ cán bộ quản lý, điều hành còn yếu kém, một số cán bộ lợi
dụng, tham ô trục lợi làm thất thoát tài sản của Quỹ, chất lượng hoạt động còn nhiều
hạn chế, dẫn đến một số QTDND bị bắt buộc phải giải thể đã phần nào ảnh hưởng
1
đến uy tín của cả hệ thống. Ngoài ra, trong thời gian thí điểm, mô hình tổ chức hệ
thống chưa hoàn thiện, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và ổn định, cách thức quản
lý của các cơ quan nhà nước chưa sát sao, triệt để cũng đã ảnh hưởng đến hiệu quả
hoạt động của các QTDND và không kiểm soát được tình trạng một số QTDND đã
hoạt động không còn đúng với mục tiêu ban đầu mà Đảng và Chính phủ đã đặt ra.
Chính vì thế, vai trò quản lý của nhà nước đối với hoạt động của QTDND là
rất cần thiết và cần phải được nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện. Đó là lý do tác giả
chọn đề tài “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với Quỹ tin dụng nhân dân ở Việt
Nam” làm đề tài cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Đưa ra những giải pháp thiết thực cho việc quản lý nhà nước đối với hệ
thống QTDND
,
giúp các QTDND hoạt động an toàn,
bền vững, hiệu quả, đúng
tôn chỉ đề ra
.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Hệ thống QTDND tại Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu công tác quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
đối với tổ chức và hoạt động của QTDND.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử và phương pháp logic; ngoài ra còn sử dụng các phương
pháp khác như: Thu thập tài liệu, thống kê, phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tế, từ
đó đánh giá, đối chiếu, so sánh.
6. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn được trình bày theo kết cấu gồm có 3 chương, cụ thể như sau:
- Nguồn dữ liệu thứ cấp:
- Nguồn dữ liệu sơ cấp:
Chương 1: Một số vấn đề chung về quản lý nhà nước đối với Quỹ tín dụng
2
nhân dân.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với Quỹ tín dụng nhân dân ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với Quỹ tín dụng nhân dân.
Trong quá trình hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt
tình, sự chỉ bảo kỹ lưỡng của thầy giáo – PGS.TS Đàm Văn Huệ - Giảng viên
trường Đại học Kinh tế quốc dân, Ths. Lê Thị Bích Ngọc – giáo viên chủ nhiệm lớp
Cao học K18P cùng sự hướng dẫn, góp ý tận tình của các thầy cô trong Hội đồng
bảo vệ luận văn cơ sở, Hội đồng bảo vệ luận văn chính thức. Tác giả(Xem lại)
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô đã giúp đỡ tác giả em hoàn thành đề
tài này!
3
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI QUỸ TÍN DỤNG NHÂN DÂN
1.1. Tổng quan về Quỹ tín dụng nhân dân:
1.1.1 Nguồn gốc ra đời của Quỹ tín dụng nhân dân:
Xã hội loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội. Khi chuyển từ nền
kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa cũng là lúc trong xã hội, sự phân
công lao động và chuyên môn hóa bắt đầu được hình thành. Đây cũng là thời điểm
con người dần được giải phóng khỏi chế độ nô lệ và được tự do hành nghề, tự do
kinh doanh sản xuất. Tuy nhiên, khi sự phân công lao động trong xã hội ngày càng
rõ nét, thì việc kinh doanh sản xuất cũng có khoảng cách rõ rệt giữa những người
làm ăn được và những người làm ăn thua lỗ. Những người làm ăn thua lỗ có thể do
rất nhiều nguyên nhân: thiếu kinh nghiệm, thiếu vốn, và nhiều người đã phải rơi
vào tình trạng đi vay nặng lãi, phá sản
Để thoát khỏi thực trạng nghèo khó, khốn khổ, tưởng chừng như không có lối
thoát đó, những người này đã đoàn kết lại và hợp tác với nhau tạo ra sức mạnh
chung lớn hơn. Chính việc nhóm những người có cùng cảnh ngộ, muốn cùng thực
hiện một công việc chung nhất định nào đó vỡ chớnh những lợi ích, quyền lợi của
họ hình thành nờn cỏc tổ, nhóm hợp tác. Cỏc nhúm tín dụng hợp tác (TDHT) theo
đú đó ra đời, giúp cho các thành viên tiếp cận được với đồng vốn để thực hiện các
hoạt động đầu tư, mua bán, sản xuất, kinh doanh hay tiêu dùng của họ. Khi từng
thành viên đứng riêng lẻ, họ không thể tiếp cận hay tiếp cận một cách không thỏa
đáng với nguồn vốn, do uy tín và khả năng vay vốn hạn chế của họ cũng như sự
cung cấp tín dụng chưa nhiệt tình hoặc không nhiệt tình, đầy đủ của hệ thống các
TCTD hoạt động chính thức. Cỏc nhúm TDHT này do đặc điểm nổi bật là tự hình
thành do sự tự nguyện, tự phát nên có thể có từ 5-7 thành viên, cũng có thể có tới
hàng chục thành viên với các tên gọi khác nhau như: nhóm tín dụng, hội tiết kiệm,
hội cho vay, hội tiết kiệm và cho vay, hội tạm ứng, hội tín dụng và tạm ứng
4
Đó là hình thức sơ khai của cỏc nhóm TDHT. Hình thức này còn được gọi là
chơi hụi, chơi tổ. Thời kỳ này, các thành viên trong nhóm sẽ cùng nhau góp vốn tạo
thành một khoản lớn và có thể cho các thành viên có nhu cầu vay vốn vay. Ban đầu,
cỏc nhúm này huy động vốn từ chính trong nội bộ các thành viên của mình để cho
vay lẫn nhau nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn một cách nhanh chóng, thuận tiện với
giá cả hợp lý. Sau này, các hoạt động và hình thức huy động, góp vốn, cho vay
được mở rộng, phát triển hơn cả về hình thức, quy mô, số lượng, địa bàn và ngày
càng trở nên đa dạng, phong phú. Chẳng hạn nhóm TDHT cũng có thể huy động
vốn ở ngoài thành viên, cho vay ngoài thành viên, đứng ra bảo lãnh cho thành viên,
thực hiện dịch vụ chi trả hộ giúp cho thành viên Khi số lượng thành viên nhiều
hơn, quy mô, địa bàn hoạt động, đối tượng phục vụ lớn hơn, cỏc nhóm TDHT trở
thành cỏc nhúm hoạt động có tổ chức hơn với bộ máy quản lý lớn hơn, chặt chẽ hơn
với số lượng thành viên lên tới hành trăm, hàng nghìn thành viên.
Cỏc nhóm TDHT tự phát như vậy ra đời đó giỳp cỏc thành viên giải quyết
được một khó khăn lớn của họ là tiếp cận với vốn vay để đầu tư, sản xuất, kinh
doanh, tiêu dùng , đẩy lùi thị trường tín dụng đen với lãi suất cho vay “cắt cổ”.
Kèm theo đú, cỏc nhúm này cũng huy động vốn, đặc biệt là huy động từ các thành
viên và trả lãi cho họ, do đó đã khuyến khích họ tích lũy tài sản, dần dần thoát khỏi
cảnh nghèo đói. Như vậy, sự ra đời của cỏc nhúm TDHT đã hỗ trợ rất nhiều cho các
thành viên – chủ yếu là các hộ gia đình nghèo ở nông thôn, hỗ trợ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của họ, và qua đó cũng đã hỗ trợ cho sự phát triển của kinh tế địa
phương nói chung, góp phần tạo công ăn việc làm, ổn định an ninh chính trị và trật
tự xã hội, phát huy nội lực tại chỗ cho tăng trưởng kinh tế. Đõy chính là nguồn gốc
ra đời của QTDND.
1.1.2 Sự hình thành và phát triển của Quỹ tín dụng nhân dân:
1.1.2.1 Trên thế giới:
Sự ra đời của cỏc nhúm TDHT mang lại nhiều lợi ích to lớn. Song bên cạnh
những lợi ích mà nó đem lại, cỏc nhúm TDHT cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro trong quá
trình hoạt động. Khi cỏc nhúm này huy động vốn (cả trong và ngoài thành viên), có
5
thể phát sinh rủi ro không hoàn trả được tiền gửi của người dân trong trường hợp
nhóm hoạt động bị thua lỗ, phá sản. Do đó, cần phải có sự quản lý, giám sát chặt
chẽ của các cơ quan nhà nước để hoạt động của cỏc nhúm này lành mạnh, an toàn
và phát triển hơn.
Ngày nay, nhiều nước trên thế giới đó cú những định hướng rõ ràng đối với sự
tồn tại và phát triển của cỏc nhúm TDHT; Việc làm đầu tiên là đưa các nhóm này ra
hoạt động công khai, chính thức như các TCTD, tham gia vào thị trường tiền tệ, tín
dụng, ngân hàng. Theo thống kê của Liên minh Hợp tác xã (HTX) quốc tế, cỏc
nhúm TDHT xuất hiện ở trên 150 quốc gia và đã chính thức trở thành các tổ chức
TDHT ở trên 100 quốc gia. Tại mỗi quốc gia, các tổ chức TDHT này đều tồn tại ở
những mô hình đặc thù khác nhau với những tên gọi khác nhau tùy theo bối cảnh ra
đời, điều kiện kinh tế xã hội ở mỗi nước.
Ở Đức, các tổ chức TDHT được gọi chung là các Ngân hàng hợp tác xã (NH
HTX), trong đó ở vùng đô thị gọi là các NH nhân dân, còn ở nông thôn là các NH
Raiffeisen; Ở Philipin là các HTX tín dụng; Ở Canada là QTD Dejardins; Ở Việt
Nam là các QTDND Các tổ chức này về cơ bản giống nhau về nguồn gốc hình
thành, nguyên tắc, cơ cấu tổ chức và hoạt động, tuy nhiên, mỗi loại hình ở các nước
lại có những đặc thù riêng gắn với những đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội ở từng
quốc gia đó. Tại các nước có lịch sử phát triển lâu đời, các tổ chức TDHT đã phát
triển thành một hệ thống các tổ chức TDHT có mặt ở khắp mọi nơi từ nông thôn
đến đô thị để cung cấp các dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ khác cho thành viên và
người dân.
Có thể nói, sự phát triển của các tổ chức TDHT là một sự phát triển từ từ, có
tiến trình, từ nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến đồ sộ, phức tạp, từ tổ chức cá lẻ đến hệ
thống liên kết hoàn chỉnh. Trong quá trình phát triển đó, Nhà nước của các quốc gia
này cũng đóng góp một phần đáng kể để vun đắp và nâng đỡ cho hệ thống các tổ
chức TDHT phát triển. Chính nhờ vậy mà các tổ chức TDHT đã có điều kiện phát
huy tiềm năng và đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế các nước đó.
6
1.1.2.2. Ở Việt Nam
Năm 1986 là một bước ngoặt đánh dấu sự khởi đầu quan trọng của nền kinh
tế đất nước khi chuyển mình từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là sự khởi đầu của nền kinh
tế hàng hóa cùng với sự xóa bỏ của cơ chế quản lý cũ và những mệnh lệnh kinh tế
từ trên xuống dưới. Cùng với cơ chế quản lý mới này, người dân được tự do hơn
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhu cầu vốn theo đó cũng tăng lên.
Ở Việt Nam lúc đó có 30 ngân hàng cổ phần nông thôn, ngoài ra có 20 ngân hàng
thương mại cổ phần lớn khác chỉ có mặt chủ yếu tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh. Với một số lượng hạn chế, các ngân hàng thương mại lúc đó chỉ đáp ứng
được khoảng 5% nhu cầu vay vốn của người dân và chỉ có 28,6% các hộ đi vay có
thể tiếp cận được với nguồn vốn vay từ ngân hàng nên không thể đáp ứng được nhu
cầu vốn của người dân. Hơn nữa, nước ta là một nước đi lên từ nông nghiệp với hơn
70% dân số sống ở vùng nông thôn, do đó, sự thiếu hiện diện của các TCTD tại
nông thôn là một thiếu sót lớn trong sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Chính vì thế, ngay từ những ngày đầu của thời kỳ đổi mới, Đảng và Chính phủ
Việt Nam đã dành nhiều sự quan tâm trong chỉ đạo, điều hành và hoạch định các cơ
chế, chính sách về nông nghiệp và phát triển nông thôn mà đỉnh cao của sự quan
tâm này là Quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 27/7/1993 của Thủ tướng Chính phủ
thành lập mô hình QTDND.
Chủ trương thí điểm thành lập mô hình QTDND được Ban Bí thư Trung ương
Đảng thực hiện từ giữa năm 1993, sau Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của Ban
chấp hành Trung ương khoá VII về tiếp tục đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội nông
nghiệp, nông thôn.
Khi bắt đầu thí điểm mô hình này, QTDND đã được xác định cụ thể là loại
hình TCTD hợp tác hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về kết quả hoạt động, thực hiện mục tiêu chủ yếu là tương trợ giữa các thành
viên, nhằm phát huy sức mạnh của tập thể và của từng thành viên giúp nhau thực
hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống.
Hoạt động của QTDND phải bảo đảm bù đắp chi phí và có tích lũy để phát triển.
7
Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: "Tổ chức tốt hệ
thống QTDND, quản lý chặt chẽ hoạt động của các Ngân hàng Thương mại và các
chi nhánh Ngân hàng nước ngoài. Có biện pháp đồng bộ để giảm dần lãi suất, tạo
điều kiện cho đầu tư phát triển" (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII -
Mục Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế). Nghị quyết của Đảng cũng đã chỉ rõ:
Kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các HTX là hình thức liên kết tự nguyện của những
người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể
để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống.
Phát triển kinh tế hợp tác với nhiều hình thức đa dạng từ thấp tới cao, từ tổ nhóm
hợp tác đến HTX; tuân thủ nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý
dân chủ. Nhận thức rõ tầm quan trọng của QTDND trong hệ thống TCTD nói chung
và trong thành phần kinh tế HTX Việt Nam nói riêng đối với sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội đất nước, Bộ Chính trị đã khẳng định: "Thí điểm thành lập QTDND
là một chủ trương đúng đắn, phải quán triệt nhận thức việc xây dựng và phát triển
QTDND là một trong những giải pháp quan trọng để góp phần đáp ứng nhu cầu
vốn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông nghiệp - nông thôn" (Chỉ thị
số 57-CT/TW ngày 10/10/2000 của Bộ Chính trị về củng cố, hoàn thiện và phát
triển hệ thống QTDND).
Quá trình hoạt động của QTDND góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh
tế xã hội, ngoài ra còn giải quyết hài hoà mối quan hệ phân phối giữa nhà nước,
QTDND và các thành viên; góp phần hình thành quan hệ sản xuất mới ở nông thôn,
đẩy lùi suy nghĩ thiếu tin tưởng trong dân cư đối với loại hình TCTD hợp tác do sự
đổ vỡ HTX trước đây; khôi phục lòng tin của thành viên và nhân dân cũng như tạo
sự đồng tình ủng hộ của cấp uỷ, chính quyền các cấp đối với mô hình QTDND. Với
kết quả kinh doanh có lãi, QTDND đã đóng góp một phần nhất định vào Ngõn sách
Nhà nước, ngoài ra còn dành một phần tích luỹ để phát triển và chia cho thành viên
theo vốn góp đảm bảo hài hoà nghĩa vụ với Nhà nước và quyền lợi của thành viên
8
1.1.3. Những đặc trưng cơ bản của Quỹ tín dụng nhân dân:
1.1.3.1 Cơ cấu hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân
Trước đây, hệ thống QTDND bao gồm QTDND Trung ương và các QTDND
cơ sở.
Theo Luật các TCTD năm 2010 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 thì
hệ thống QTDND gọi chung là TCTD là HTX, không còn tên gọi QTDND Trung
ương và QTDND cơ sở mà thay vào đó là khái niệm NH HTX và QTDND. Thành
viên của NH HTX bao gồm tất cả các QTDND và các pháp nhân góp vốn khác;
thành viên của QTDND bao gồm các cá nhân, hộ gia đình và các pháp nhân góp
vốn khác.
1.1.3.2 Những đặc trưng cơ bản của TCTD là HTX
a. Ngân hàng HTX
Ngân hàng HTX có những đặc trưng cơ bản của QTDND Trung ương trước
đây. Hoạt động chủ yếu của NH HTX là điều hòa vốn và thực hiện các hoạt động
ngân hàng đối với thành viên là QTDND. Ngoài ra, NH HTX còn được thực hiện
một số hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác sau khi được NHNN chấp
thuận, cụ thể là:
Một là: Nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và
các loại tiền gửi khác
Hai là: Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu để huy động vốn
trong nước và nước ngoài
Ba là: Cấp tín dụng dưới các hình thức: Cho vay; chiết khấu, tái chiết khấu
công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác;.bảo lãnh ngân hàng; phát hành thẻ
tín dụng; bao thanh toán trong nước, bao thanh toán quốc tế với các ngân hàng được
phép thực hiện thanh toán quốc tế và các hình thức cấp tín dụng khác sau khi được
NHNN chấp thuận.
Bốn là: Mở tài khoản thanh toán cho khách hàng.
Năm là: Cung ứng các phương tiện thanh toán.
Sáu là: Cung ứng các dịch vụ thanh toán bao gồm: Dịch vụ thanh toán trong
nước (séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thư tín dụng, thẻ ngõn
9
hàng, dịch vụ thu hộ và chi hộ); Dịch vụ thanh toán quốc tế và các dịch vụ thanh
toán khác sau khi được NHNN chấp thuận.
Như vậy, so với mô hình QTDND Trung ương trước đây, NH HTX đã được
phép thực hiện một số nghiệp vụ của một ngân hàng, đó là cơ hội đối với sự phát
triển và lớn mạnh của loại hình TCTD này.
b. Quỹ tín dụng nhân dân:
Giới hạn hoạt động của QTDND hẹp hơn so với mô hình NH HTX. QTDND
chỉ được hoạt động một số nghiệp vụ dưới đây:
Một là: Nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam trong các trường hợp: tiền gửi của
thành viên, tiền gửi từ các tổ chức, cá nhân không phải là thành viên theo quy định
của NHNN.
Hai là: Cho vay bằng đồng Việt Nam trong các trường hợp: Cho vay đối với
khách hàng là thành viên và cho vay đối với khách hàng không phải là thành viên
theo quy định của NHNN.
Ba là: Cung ứng dịch vụ chuyển tiền, thực hiện các nghiệp vụ thu hộ, chi hộ
cho các thành viên.
Ngoài ra, QTDND được thực hiện một số nghiệp vụ khác như:
+ Tiếp nhận vốn ủy thác cho vay của Chính phủ, tổ chức, cá nhân; vay vốn của
các TCTD, tổ chức tài chính khác;
+ Tham gia góp vốn thành lập ngân hàng HTX;
+ Mở tài khoản tiền gửi tại NHNN; Mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng
thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
+ Nhận ủy thác và làm đại lý một số lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân
hàng, quản lý tài sản theo quy định của NHNN; Làm đại lý kinh doanh bảo hiểm;
+ Cung ứng dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính cho các thành viên.
1.1.4 Vai trò của Quỹ tín dụng nhân dân đối với nền kinh tế:
1.1.4.1 Vai trò của hệ thống trung gian tài chính đối với nền kinh tế thị trường.
a. Vai trò hệ thống trung gian tài chính trong nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại các chủ thể có nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi và muốn đầu tư để sinh lời mà người ta thường gọi là người tiết kiệm và
10
các chủ thể có nhu cầu tiêu dùng vốn được gọi chung là người đầu tư. Về phía
người tiết kiệm, đầu tiên có thể kể đến đó là các hộ gia đình, kế đến là cỏc hóng
kinh doanh và cuối cùng là Chính phủ. Ở vế ngược lại, về phía người đầu tư, đối
tượng đầu tiên phải kể đến là cỏc hóng kinh doanh, thứ hai là Chính phủ và cuối
cùng là các gia đình.
Tuy nhiên giữa người tiết kiệm và người đầu tư rất khó gặp nhau trực tiếp để
có thể thoả mãn nhu cầu của phía đối tác; vì vậy họ phải nhờ đến thị trường tài
chính là nơi mua bán các công cụ tài chính, nhờ đó vốn được chuyển giao một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp từ phía người tiết kiệm đến người đầu tư. Như vậy, thị
trường tài chính cho phép chuyển vốn từ những người có vốn nhàn rỗi nhưng lại
không lại không có cơ hội đầu tư sinh lời tới những người có cơ hội đầu tư sinh lời
nhưng lại thiếu vốn thông qua hai hình thức đầu tư tài chính trực tiếp và đầu tư tài
chính gián tiếp.
Trong hình thức đầu tư tài chính trực tiếp, vốn được chuyển giao trực tiếp từ
người tiết kiệm đến người đầu tư thông qua các thị trường tài chính trực tiếp. Hình
thức chuyển giao vốn này phần lớn thông qua vai trò người môi giới là người chỉ
được hưởng lợi dưới hình thức hoa hồng cho việc kết nối cung cầu vốn mà không
có quyền thực hiện giao dịch cho bản thân. Như vậy, trong hình thức tài chính tài
chính trực tiếp này, người tiết kiệm (người cho vay) sở hữu các công cụ tài chính do
người đầu tư (người đi vay) phát hành, hưởng toàn bộ lợi nhuận cũng như chịu
đựng toàn bộ rủi ro mang lại từ các công cụ tài chính đó.
Hình thức đầu tư tài chính trực tiếp có những bất lợi mà mà bản thân từng
người cho vay cá nhân không có khả năng khắc phục hoặc gặp nhiều khó khăn
trong quá trình đầu tư như sau:
Thứ nhất: Người cho vay phải trả chi phí cao cho việc thu thập và phân tích
thông tin cũng như việc kiểm tra, giám sát hoạt động của người đi vay vốn. Vì lý
do trên những người cho vay cá nhân thường bỏ qua giai đoạn này hoặc nhờ các kết
quả phân tích thị trường của người khác. Do thiếu sự phân tích thông tin một cách
kịp thời, thường xuyên và có hiệu quả hoặc do “thụng tin bất cân xứng” nên quá
11
trình đầu tư vốn của người cho vay trực tiếp trở nên kém hấp dẫn vì rủi ro cao.
Thứ hai: Do sự hạn chế về “tính lỏng" của các công cụ tài chính đang nắm giữ
(các chứng khoán dài hạn do phía người đi vay phát hành không phải lúc nào cũng
dễ dàng chuyển sang tiền mặt) nên những người cho vay cá nhân không thật sự bị
lôi cuốn hấp dẫn bởi hình thức đầu tư tài chính trực tiếp, vì trong quá trình đầu tư
họ luôn mong muốn có thể chuyển đổi nhanh chóng các công cụ tài chính nói trên
thành tiền mặt khi có nhu cầu chi tiêu cần thiết.
Thứ ba: Mức độ rủi ro trong quá trình đầu tư tài chính trực tiếp thường cao,
chủ yếu do biến động giá chứng khoán trên thị trường khi người sở hữu các công
cụ tài chính thực hiện sự chuyển hoán nó sang tiền mặt hoặc sang các công cụ tài
chính khác.
Tuy nhiên, sự xuất hiện của các trung gian tài chính đã khắc phục được những
hạn chế nói trên của hình thức đầu tư tài chính trực tiếp và kích thích nhu cầu đầu tư
vốn của những người cho vay vỡ cỏc trung gian tài chính có lợi thế hơn hẳn so với
những người cho vay cá nhân trong việc thu thập và phân tích thông tin liên quan
đến đối tượng đầu tư (người đi vay); vì vậy, các trung gian tài chính có khả năng
đảm bảo an toàn cho các khoản đầu tư vốn cao hơn rất nhiều và với chi phí rẻ hơn
rất nhiều so với người cho vay trực tiếp. Mặt khác, với chức năng biến đổi tài sản,
các trung gian tài chính phát hành các công cụ tài chính thứ cấp với “tính lỏng" cao,
rủi ro thấp, cung cấp cho những người tiết kiệm nhằm thay thế cho các công cụ tài
chính sơ cấp do những người đi vay trực tiếp phát hành. Ở đây, thay vì giữ các
chứng khoán sơ cấp do những người đi vay trực tiếp phát hành, người tiết kiệm
được nắm trong tay các chứng khoán thứ cấp do các trung gian tài chính phát hành
dưới dạng tiền gửi, các hợp đồng bảo hiểm hoặc chứng chỉ tiền gửi. Thông qua
chức năng biến đổi tài sản, các trung gian tài chính đã biến đổi cả mức rủi ro đi kèm
công cụ tài chính mà người cho vay đang nắm giữ. Nếu nắm giữ các chứng khoán
sơ cấp do người đi vay phát hành, người cho vay sẽ được hưởng toàn bộ lợi nhuận,
đồng thời cũng phải chịu toàn bộ những rủi ro phát sinh từ phía người đi vay hoặc
do ảnh hưởng của thị trường; đây là điều mà bản thân từng người cho vay khó mà
12