Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Đề tài : Khai thác và phát triển nguồn gen cây nguyên liệu giấy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.82 MB, 85 trang )


Bộ công thơng
Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy








báo cáo tổng kết đề tài kh&cn cấp bộ

khai thác và phát triển nguồn gen
cây nguyên liệu giấy


chủ nhiệm đề tài: nguyễn đức thế














7111
17/02/2008

Phú thọ - 2008




BỘ CÔNG THƢƠNG
TỔNG CÔNG TY GIẤY VIỆT NAM
VIỆN NGHIÊN CỨU CÂY NGUYÊN LIỆU GIẤY
BÁO CÁO KẾT QUẢ NHIỆM VỤ CẤP BỘ NĂM 2008
Tên nhiệm vụ:
KHAI THÁC VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN GEN
CÂY NGUYÊN LIỆU GIẤY
Cơ quan chủ quản: BỘ CÔNG THƢƠNG
Cơ quan chủ trì: VIỆN N.C CÂY NGUYÊN LIỆU GIẤY
Chủ nhiệm: Th.S Nguyễn Đức Thế
Phú Thọ, 2008
i

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG iv
DANH MỤC HÌNH v
PHẦN 1. TỔNG QUAN 1
1.1. Cơ sở pháp lý của nhiệm vụ 1
1.2. Tính cấp thiết 2
1.3. Mục tiêu nhiệm vụ 4
1.4. Địa điểm, đối tƣợng và nội dung công việc 4
1.4.1. Địa điểm thực hiện 4

1.4.2. Đối tƣợng khai thác và phát triển 5
1.4.3. Nội dung nhiệm vụ 6
1.5. Tổng quan nhiệm vụ 7
1.5.1. Trên thế giới 7
1.5.2. Ở Việt Nam 17
PHẦN 2. THỰC NGHIỆM 23
2.1. Phƣơng pháp nghiên cứu 23
2.1.1. Phƣơng pháp khai thác nguồn gen 23
2.1.1.1. Khai thác hom giống Bạch đàn và Keo tai tƣợng 23
2.1.1.2. Khai thác hạt giống Keo tai tƣợng 24
2.1.2. Phƣơ 24
2.1.2.1. Phát triển cây giống Keo tai tƣợng 24
2.1.2.2. Phát triển cây giống Bạch đàn 27
2.1.3. Phƣơng pháp đánh giá hiệu quả rừng trồng giống mới 28
ii

2.1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu ảnh hƣởng của chiều cao tạo tán 30
2.1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu ảnh hƣởng của tỷ lệ phối trộn đất mùn 30
2.1.6. Phƣơng pháp nghiên cứu đa dạng hình thái lá Bạch đàn 32
2.2. Kết quả và thảo luận 33
2.2.1. Chọn lọc nguồn gen 33
2.2.2. Khai thác nguồn gen 35
2.2.3. Phát triển nguồn gen 37
2.2.4. Khảo nghiệm đánh giá rừng trồng giống mới 40
2.2.4.1. Địa điểm và quy mô khảo nghiệm 40
2.2.4.2. Đánh giá giống năm thứ nhất 41
2.2.5. Nghiên cứu hỗ trợ kỹ thuật khai thác phát triển nguồn gen 45
2.2.5.1. Nghiên cứu ảnh hƣởng của chiều cao tạo tán đến sản lƣợng hom
Keo tai tƣợng 45
2.2.5.2. Nghiên cứu ảnh hƣởng của một số nhân tố môi trƣờng đến sinh

trƣởng và phát triển cây hom Keo tai tƣợng: Nghiên cứu ảnh hƣởng của tỷ
lệ phối trộn mùn - đất 49
2.2.6. Nghiên cứu đa dạng hình thái lá Bạch đàn 53
PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 56
3.1. Kết luận 56
3.2. Kiến nghị 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO 58
Phụ lục 1. Sơ đồ rừng trồng khảo nghiệm giống 61
Phụ lục 2. Danh mục nguồn gen chọn lọc năm 2008 63
iii

Phụ lục 3. Danh mục vật liệu giống khai thác năm 2008 64
Phụ lục 4. Các bảng phân tích thống kê 65
Phụ lục 5. Các văn bản pháp lý 69
iv

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Tiêu chuẩn chọn lọc nguồn gen 6
Bảng 2. Danh sách giống trồng rừng khảo nghiệm 28
Bảng 3. Các công thức phối trộn mùn đất giâm hom Keo tai tƣợng 30
Bảng 4. Sản phẩm phát triển nguồn gen cây nguyên liệu giấy năm 2008 38
Bảng 5. Sinh trƣởng chiều cao, đƣờng kính gốc và đƣờng kính tán lá của
hậu thế cây trội Keo tai tƣợng tại Bắc Quang - Hà Giang (6 tháng tuổi) 41
Bảng 6. Tỷ lệ cây sống của hậu thế cây trội Keo tai tƣợng tại Bắc Quang -
Hà Giang (6 tháng tuổi) 44
Bảng 7. Tỷ lệ cây theo chất lƣợng sinh trƣởng của hậu thế cây trội Keo tai
tƣợng tại Bắc Quang - Hà Giang (6 tháng tuổi) 45
Bảng 8. Số lƣợng chồi của cây mẹ Keo tai tƣợng 18 tháng tuổi ở các cỡ
chiều cao tạo tán 20cm, 25cm và 30cm 46
Bảng 9. Tỷ lệ chồi phân theo 3 cấp chất lƣợng A, B, C của cây mẹ Keo tai

tƣợng 18 tháng tuổi ở các cỡ chiều cao tạo tán 20cm, 25cm và 30cm 48
Bảng 10. Tỷ lệ hom Keo tai tƣợng ra rễ ở các công thức phối trộn mùn đất
(hom cắm 45 ngày) 50
Bảng 11. Số lƣợng rễ, mắt rễ của hom Keo tai tƣợng (45 ngày) ở các công
thức phối trộn mùn đất 50
Bảng 12. Chiều dài bộ rễ và rễ cây hom Keo tai tƣợng (45 ngày) ở các công
thức phối trộn mùn đất 52
Bảng 13. Chiều dài, bề rộng, tỷ số dài/rộng của phiến lá và chiều dài cuống
lá 4 dòng Bạch đàn trồng ở khu bảo tồn gen Tiên Kiên - Phú Thọ (tuổi 44
tháng) 53
v


DANH MỤC HÌNH
Hình 1. Cây trội Keo tai tƣợng chọn ở rừng giống Quốc gia Hàm Yên -
Tuyên Quang 34
Hình 2. Cây mẹ đem trồng bổ sung nguồn gen Vƣờn vật liệu giống. Bạch
đàn (trái) và Keo tai tƣợng (phải) 36
Hình 3. Ken vỏ tạo chồi trên cây mẹ Bạch đàn urophylla để dẫn giống về
Vƣờn vật liệu 36
Hình 4. Cắt chồi tạo hom giống Bạch đàn 37
Hình 5. Cây hom Keo tai tƣợng dòng AH.07.09 giâm ở giá thể cát chuyển
sang nuôi dƣỡng ở bầu đất lớn hơn 39
Hình 6. Cắt chồi tạo hom Keo tai tƣợng dòng AH.07.08 và AH.07.11 39
Hình 7. Bản đồ khu trồng rừng khảo nghiệm hậu thế 5 cây trội Keo tai
tƣợng 40
Hình 8. Gốc cây con gia đình Keo tai tƣợng AH.07.10 (6 tháng tuổi,
D
max
=3cm) 42

Hình 9. Cây con của gia đình Keo tai tƣợng AH.07.10; AH.07.03;
AH.07.07 và AH.07.09 trồng ở Đội Sông Bạc Công ty Lâm nghiệp Cầu
Ham - Hà Giang (6 tháng tuổi) 43
Hình 10. Chồi Keo tai tƣợng có giai đoạn lá thật (trái) và không qua giai
đoạn lá không lá thật (phải) sau tạo tán 30 ngày (Cỡ chiều cao tạo tán
30cm) 48
Hình 11. Lá của 4 dòng Bạch đàn CT
IV
, PN14, PN3d và PN2 ở khu bảo tồn
gen Tiên Kiên - Phú Thọ 55

1

PHẦN 1. TỔNG QUAN
1.1. Cơ sở pháp lý của nhiệm vụ
Năm 2008 nhiệm vụ khoa học công nghệ: “Khai thác và phát triển nguồn
gen cây nguyên liệu giấy” đƣợc triển khai thực hiện dựa trên các căn cứ
pháp lý sau (chi tiết xem phụ lục 5):
- Quyết định số 1999/QĐ-BTC ngày 03/12/2007 của Bộ trƣởng Bộ Công
nghiệp về việc giao kế hoạch khoa học và công nghệ năm 2008 cho Viện
Nghiên cứu Cây Nguyên liệu Giấy.
- Hợp đồng Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ số
03.08.QG/HĐ-KHCN ký ngày 28/01/2008 giữa Bộ Công thƣơng và Viện
Nghiên cứu Cây Nguyên liệu Giấy.
- Quyết định số 17/QĐ-KHTH ngày 28/01/2008 của Viện trƣởng Viện
Nghiên cứu Cây Nguyên liệu Giấy về việc giao nhiệm vụ nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ.
2

1.2. Tính cấp thiết

Trồng rừng sản xuất kinh doanh gỗ nguyễn liệu giấy trong những năm vừa
qua đã vấp phải nhiều khó khăn. Thực tế cho thấy giống cây trồng là một
trong những rào cản lớn nhất đối với những kế hoạch, dự án trồng rừng quy
mô lớn. Rất nhiều nơi đã không thể trồng rừng thành công vì đã sử dụng
cây giống đƣợc phát triển từ những nguồn gen kém chất lƣợng (Lê Đình
Khả và Dƣơng Mộng Hùng, 2003).
Trong khi đó, diện tích đất trồng rừng của các công ty lâm nghiệp liên tục
giảm bởi các nguyên nhân nhƣ chuyển đổi mục đích sử dụng, lấn chiếm trái
phép, tranh chấp đất đai (Tổng công ty Giấy Việt Nam, 2005).
Vì vậy một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay đối với trồng rừng
nguyên liệu giấy là tạo ra những rừng có hiệu quả sản xuất gỗ cao, chu kỳ
kinh doanh ngắn và đồng thời phải đảm bảo đƣợc tính ổn định, bền vững,
chống thoái hoá đất đai và đặc biệt phải đảm bảo đƣợc sự đa dạng sinh học.
Để thoả mãn những yêu cầu nói trên, việc khai thác và phát triển nguồn gen
của các giống đã đƣợc cải thiện di truyền (về năng suất và chất lƣợng rừng)
luôn đƣợc coi là một trong những giải pháp quan trọng, góp phần đa dạng
hoá tập đoàn giống (Đoàn Thị Thanh Nga, 2005; Đoàn Thị Thanh Nga,
2006; Đoàn Thị Thanh Nga, 2007).
Trong những năm gần đây, nhiều giống cây trồng mới của Bạch đàn
(Eucalyptus spp) và Keo (Acacia spp) đã đƣợc chọn lọc và lai tạo. Viện
Nghiên cứu Cây Nguyên liệu Giấy đã chọn lọc đƣợc 15 dòng vô tính bạch
đàn và keo lai, 2 xuất xứ Keo tai tƣợng (Acacia mangium Wild), 2 biến
chủng Thông caribê đạt tiêu chuẩn giống Quốc gia và giống Tiến bộ kỹ
thuật.
3

Giống mới chọn lọc có năng suất rừng trồng cao hơn giống chƣa cải thiện
vài ba lần, có sức chống chịu với điều kiện bất lợi của môi trƣờng, có khả
năng kháng nhiều loại sâu bệnh hại. Đặc biệt, trong điều kiện khảo nghiệm,
có những giống mới sau trồng 54 tháng tuổi có thể tích thân cây vƣợt giống

đại trà hơn 350% (65,3dm
3
/cây so với 14,4dm
3
/cây). Trong điều kiện trồng
rừng nguyên liệu giấy hiện nay, đó là những nguồn gen quý hiếm, cần sớm
đƣa vào phục vụ sản xuất (Huỳnh Đức Nhân, Nguyễn Quang Đức, 1992;
Huỳnh Đức Nhân, Nguyễn Quang Đức, Nguyễn Sỹ Huống, Nguyễn Đức
Thế, 2007).
Mặc dù có nhiều giống mới chọn tạo, có triển vọng nâng cao năng suất
rừng trồng, nhƣng cơ cấu cây nguyên liệu hiện nay chủ yếu vẫn là các dòng
vô tính Bạch đàn PN2, PN14 và Keo lai BV10, BV32 (Tổng công ty Giấy
Việt Nam, 2005). Phần lớn các nguồn gen quý hiếm của Bạch đàn và Keo
tai tƣợng sau khi chọn lọc, lai tạo đƣợc vẫn chỉ đƣợc lƣu giữ thông qua
hoạt động bảo tồn, chúng chƣa đƣợc sử dụng rộng rãi trong trồng rừng.
Do số lƣợng giống trồng rừng còn quá ít đã góp phần hình thành nên những
vùng rừng trồng nguyên liệu thuần loại rộng lớn. Điều này đã dẫn đến hình
thành những điều kiện thuận lợi (nguồn thức ăn dồi dào) cho nguy cơ phát
sinh sâu bệnh hại và đồng thời gây ra nguy cơ mất nguồn gen, mất đi
những vốn biến dị di truyền có lợi.
Một trong những khó khăn trong việc khai thác và phát triển các nguồn gen
quý hiếm của Bạch đàn và Keo tai tƣợng là do vật liệu di truyền ban đầu
(hạt, hom, mô) chƣa có nhiều, các kỹ thuật dẫn giống, nhân giống chƣa
đƣợc hoàn thiện (Viện Nghiên cứu Cây Nguyên liệu Giấy, 2007).
Vì những lý do trên, cần thiết phải thực hiện việc khai thác và phát triển
nguồn gen cây nguyên liệu giấy.
4

1.3. Mục tiêu nhiệm vụ
(1) Khai thác và phát triển đƣợc các nguồn gen cây nguyên liệu giấy chất

lƣợng cao phục vụ nghiên cứu và sản xuất cây giống đáp ứng yêu cầu trồng
rừng năng suất chất lƣợng cao;
(2) Bổ sung các nguồn gen chất lƣợng cao vào tập đoàn giống cây nguyên
liệu giấy;
(3) Tăng cƣờng năng lực kỹ thuật sản xuất cây giống chất lƣợng cao.
1.4. Địa điểm, đối tƣợng và nội dung công việc
1.4.1. Địa điểm thực hiện
Năm 2008, nhiệm vụ khai thác và phát triển nguồn gen đƣợc triển khai thực
hiện ở 3 địa điểm sau:
(1) Viện Nghiên cứu Cây Nguyên liệu Giấy:
Giâm hom, gieo ƣơm tạo cây giống, xây dựng vƣờn vật liệu giống và các
nghiên cứu ở vƣờn ƣơm đƣợc thực hiện tại Viện Nghiên cứu Cây Nguyên
liệu Giấy, thuộc địa bàn xã Phù Ninh, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
Vƣờn ƣơm của Viện đƣợc xây dựng hệ thống cung cấp nƣớc tƣới và các bể
ƣơm để sản xuất cây giống lâm nghiệp. Trong khuôn viên của vƣờn ƣơm
còn có quỹ đất dành cho việc xây dựng vƣờn vật liệu giống.
Đất đai trong khu vực chủ yếu là đất feralit nâu vàng phát triển trên đá mẹ
phiến thạch sét, thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến trung bình. Nhiệt độ
không khí trung bình năm vào khoảng 22-26
0
C, nhiệt độ các tháng mùa
Đông vào khoảng 12-15
0
C. Mùa mƣa từ tháng 4 đến tháng 10, lƣợng mƣa
5

bình quân khoảng 1200-1300mm/năm. Gió mùa Đông Bắc thƣờng xuất
hiện từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
(2) Xã Tiên Kiên, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ:
Nghiên cứu đa dạng hình thái lá Bạch đàn đƣợc thực hiện ở khu rừng trồng

bảo tồn nguồn gen 15 dòng vô tính Bạch đàn. Điểm Tiên Kiên cách Viện
Nghiên cứu Cây Nguyên liệu Giấy khoảng từ 8-10km về phía Tây Bắc, có
các điều kiện tự nhiên về đất đai và khí hậu tƣơng tự nhƣ ở Phù Ninh.
(3) Đội Sông Bạc - Công ty Lâm nghiệp Cầu Ham
Rừng trồng đánh giá hậu thế cây trội Keo tai tƣợng đƣợc triển khai tại Đội
Sông Bạc của Công ty Lâm nghiệp Cầu Ham, thuộc địa bàn xã Tân Trịnh,
huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Tọa độ địa lý: 22
0
24’33’’ vĩ độ Bắc và
104
0
44’08,4’’ kinh độ Đông.
Khu vực Đội Sông Bạc có độ cao so với mực nƣớc biển khoảng từ 100-
300m. Đất đai chủ yếu là đất feralit nâu vàng phát triển trên đá mẹ phiến
thạch sét. Lƣợng mƣa từ 1.600-1.700mm/năm, mùa mƣa từ tháng 4-10.
Sƣơng muối xuất hiện từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau.
1.4.2. Đối tƣợng khai thác và phát triển
Mục đích trồng rừng nguyên liệu giấy là để lấy gỗ làm bột giấy. Cây trồng
có tốc độ sinh trƣởng càng nhanh càng tốt và đồng thời phải có khả năng
chống chịu sâu bệnh hại.
Cụ thể, các nguồn gen đƣợc chọn lọc theo Tiêu chuẩn công nhận giống cây
trồng lâm nghiệp số hiệu 04TCN 147-2006 ban hành kèm theo quyết định
số 4108/QĐ-BNN-KHCN ngày 29/12/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn. Để phù hợp với mục đích cải thiện giống cây trồng rừng
6

lấy gỗ nguyên liệu, các tiêu chuẩn chọn lọc đối với Bạch đàn và Keo tai
tƣợng đã đƣợc áp dụng với các mức độ trình bày ở Bảng 1.1 dƣới đây.
Bảng 1. Tiêu chuẩn chọn lọc nguồn gen
TT

Chỉ tiêu chọn lọc
Giá trị chọn lọc
1
Đƣờng kính ngang ngực
Vƣợt quần thể gốc 25%
2
Chiều cao
Vƣợt quần thể gốc 10%
3
Thân cây
Thẳng, đơn trục
4
Sâu, bệnh hại
Không bị
5
Tán lá
Cân đối
1.4.3. Nội dung nhiệm vụ
(1) Khai thác các nguồn gen chọn lọc đƣợc ;
(2) Phát triển nguồn gen chất lƣợng cao vào sản xuất cây con;
(3) Đánh giá hiệu quả rừng trồng bằng giống mới;
(4) Nghiên cứu hỗ trợ khai thác và phát triển nguồn gen gồm:
(4.1) Nghiên cứu ảnh hƣởng của một số nhân tố đến sản lƣợng hom Keo tai
tƣợng;
(4.2) Nghiên cứu ảnh hƣởng của một số nhân tố môi trƣờng đến sinh
trƣởng và phát triển của cây hom Keo tai tƣợng;
(4.3) Nghiên cứu đa dạng hình thái lá của các giống Bạch đàn phục vụ công
tác cải thiện giống và sản xuất cây giống trồng rừng.
7


1.5. Tổng quan nhiệm vụ
1.5.1. Trên thế giới
Bạch đàn là loài cây gỗ, phân bố tự nhiên ở châu Úc và một số nƣớc Đông
Nam Á. Theo Rolo, năm 1906 lần đầu tiên gỗ Bạch đàn đƣợc Công ty
Caima (Bồ Đào Nha) sử dụng làm bột giấy sunfite và kể từ đó nó ngày
càng có vai trò quan trọng đối với ngành chế biến bột giấy trên thế giới
(Turnbull.J.W, 1991). Do có vai trò quan trọng trong trồng rừng, nghiên
cứu cải thiện nguồn gen Bạch đàn đã thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều
nhà khoa học trên thế giới.
Cải thiện nguồn gen Bạch đàn mà trong đó bao gồm cả việc lựa chọn loài
và xuất xứ đã đƣợc khoảng 50 quốc gia thực hiện vào những năm 1980
thông qua một khảo nghiệm xuất xứ quốc tế do FAO tài trợ, hạt giống của
gần 100 xuất xứ thử nghiệm đƣợc CSIRO của Australia và CTFT của
Indonesia hợp tác thu hái.
Brazil và Công gô là hai nƣớc có nhiều thành công trong việc cải thiện
nguồn gen Bạch đàn. Năm 1971 Công ty Acacruz của Brazil bắt đầu thực
hiện chiến lƣợc cải thiện giống Bạch đàn bằng việc chọn lọc các cây trội
theo các đặc tính sinh trƣởng nhanh, chống chịu đƣợc sâu bệnh hại. Kết quả
đã góp phần tăng năng suất rừng trồng từ 28m
3
/ha/năm lên đến
45m
3
/ha/năm (Campinhos.E, 1993). Tại Công gô thời kỳ 1963-1971 chọn
lọc đƣợc 5 dòng vô tính Bạch đàn cho trồng rừng (Martin.B, 1989), đến
nay đã chọn đƣợc cả những giống Bạch đàn lai tự nhiên nhƣ giống lai Bạch
đàn urophylla x Bạch đàn alba và Bạch đàn tereticoniss x Bạch đàn
grandis (Martin.B, 1991) và giống lai nhân tạo: Bạch đàn urophylla x Bạch
đàn grandis và Bạch đàn urophylla x Bạch đàn pellita (CIRAD, 1992).
Bằng những giống Bạch đàn đã chọn lọc đƣợc, thông qua các công nghệ

8

nhân giống vô tính nhƣ giâm hom, nuôi cấy mô các quốc gia này đã trồng
đƣợc hàng triệu héc-ta rừng Bạch đàn vô tính.
Trung Quốc cũng là một trong những quốc gia có nhiều thành công trong
lĩnh vực cải thiện giống Bạch đàn. Chỉ tính riêng Công ty Stora Enso ở
miền Nam tỉnh Quảng Tây cũng chọn lọc và lai tạo đƣợc hàng chục dòng
vô tính có năng suất bột giấy cao nhƣ U6, DH201-2, DH32-13, SH1. Nhờ
đó mỗi năm Công ty sản xuất đƣợc khoảng 1 triệu tấn bột giấy các loại (Bai
Jiayu, Xu Jianmin, Gan Siming, 2003).
Keo tai tƣợng có nguồn gốc ở Australia, Papua New Guinea và Indonesia.
Sử dụng Keo tai tƣợng trồng rừng cung cấp gỗ công nghiệp đã đƣợc nhiều
nƣớc thực hiện từ rất sớm và công tác cải thiện giống cũng đƣợc chú trọng
ngay từ đầu.
Các nghiên cứu ban đầu tập trung vào việc tìm ra những xuất xứ, dòng vô
tính có năng suất, chất lƣợng rừng cao. Điển hình nhƣ ở Công gô, diện tích
rừng trồng Keo bằng cây hom từ 1978-1986 khoảng 23.407ha, ở tuổi 6 của
các dòng vô tính có tăng thu di truyền từ 40%-192%, năng suất bình quân
35m
3
/ha/năm so với 12m
3
/ha/năm của giống chƣa đƣợc cải thiện (Nguyễn
Hoàng Nghĩa, 2003).
Keo tai tƣợng đƣợc đƣa vào Trung Quốc từ những năm 1960, đến năm
1997 đã có khoảng 200.000 ha rừng đƣợc trồng ở các tỉnh phía Nam Trung
Quốc. Dựa vào sinh trƣởng và dạng thân, Trung Quốc đã chọn đƣợc các
xuất xứ có triển vọng là Abergowie (Qld), Claudie River (Qld), Oriomo
(PNG). 40 ha rừng giống, vƣờn giống đã đƣợc Trung Quốc xây dựng ở
Quảng Đông và Hải Nam, bao gồm cả vƣờn giống thế hệ 1 và 1,5 (Nguyễn

Hoàng Nghĩa, 2003).
9

Ở Philipine, Keo tai tƣợng đƣợc đƣa vào khảo nghiệm và gây trồng những
năm 1980. Tuổi 10 Keo tai tƣợng ở Talogon có năng suất đạt 32m
3
/ha/năm.
Qua khảo nghiệm, Philipine đã xác định đƣợc bốn (4) xuất xứ tốt nhất là
Kini, Bensbeach, Wipim (PNG), Claudie River (Qld).
Theo Khamis bin Selamat (1991), khảo nghiệm xuất xứ Keo tai tƣợng ở
Malaysia cho thấy ở tuổi 6, xuất xứ Broken Pole Creke (Qld), Oliver River
(Qld) và Abergowie (Qld) đƣợc xác định là 3 xuất xứ có nhiều triển vọng
nhất (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2003).
Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu cải thiện nguồn gen Bạch đàn và Keo tai
tƣợng trên thế giới đã cơ bản thực hiện xong giai đoạn khảo nghiệm loài và
xuất xứ, một số nƣớc đang triển khai giai đoạn chọn lọc cây trội, khảo
nghiệm dòng vô tính và lai tạo giống mới.
Khai thác nguồn gen là tiến hành các hoạt động để thu lấy những nguồn
gen hữu ích có sẵn trong thiên nhiên. Khai thác nguồn gen giống cây trồng
bao gồm khai thác hạt giống và các vật liệu sinh dƣỡng nhƣ mô, tế bào,
phôi, hom, cành, lá, rễ thu hái từ các bộ phận của cây.
Hoạt động khai thác nguồn gen cây trồng đã đƣợc con ngƣời thực hiện từ
xa xƣa. Thời kỳ đầu tập trung chủ yếu vào các giống cây lƣơng thực.
Ngày nay, để đảm bảo mở rộng diện tích, nâng cao năng suất và chất lƣợng
rừng trồng cung cấp gỗ cho các ngành công nghiệp chế biến, việc sử dụng
nguồn giống cây rừng chất lƣợng cao đã đƣợc nhiều quốc gia quan tâm.
Quả Keo tai tƣợng thuộc nhóm quả đậu, khi chín vỏ tách đôi. Ở Australia,
Keo tai tƣợng ra hoa tháng Năm và quả chín vào cuối tháng Mƣời đến
tháng Mƣời hai. Keo tai tƣợng ra hoa quả sớm hơn ở những vùng khác, ở
Indonesia là tháng Bảy và ở Papua New Guinea là tháng Chín. Ở nơi

10

nguyên sản, quả Keo tai tƣợng dài từ 7-8 cm và rộng 3-5 mm, hạt hình elip
dài, vỏ hạt chín màu đen, bóng, có tinh dầu. Vào khoảng cuối những năm
1990, dựa trên các kết quả khảo nghiệm, nhiều khu rừng ở các nƣớc
Malaysia, Philipine, Australia, Papua New Guinea, Indonesia, Việt Nam
đã đƣợc chuyển hóa thành rừng giống lấy hạt (J.W.Turnbull,
H.R.Crompton, K.Pinyopusarerk, 1998).
Tóm lại, hạt giống Keo tai tƣợng phục vụ nghiên cứu cải thiện giống ở các
nƣớc chủ yếu đƣợc thu hái từ các khu rừng tự nhiên và rừng giống (bao
gồm cả rừng giống trồng và chuyển hóa).
Do cây rừng thƣờng có kích thƣớc to lớn hơn cây nông nghiệp, trên một
cây có cả hoa cái và đực, khó kiểm soát việc thụ phấn lấy hạt, nên để duy
trì đƣợc những đặc tính ƣu việt của cây mẹ cho đời sau, ngƣời ta thƣờng sử
dụng chồi bên để lấy hom và mẫu nuôi cấy invitro.
Để khai thác đƣợc chồi cần tiến hành xây dựng vƣờn giống vô tính. Diện
tích vƣờn giống phụ thuộc vào nhu cầu cây giống của các chƣơng trình
trồng rừng vô tính, tỷ lệ hom ra rễ và các điều kiện tự nhiên ở nơi thiết lập.
Nhƣng nhìn chung tỷ lệ diện tích vƣờn giống với diện tích dự kiến trồng
rừng nên là 1/100. Khoảng cách trồng cây trên mỗi luống trong vƣờn giống
vô tính Bạch đàn ở điểm thí nghiệm của ACFTSC ở Thái Lan là 0,5m và
kích thƣớc luống cây cho mỗi dòng là 1,2 x 8 m. Sau 3 tháng, lứa hom đầu
tiên đã đƣợc thu hoạch, 4 lần thu hoạch hom tiếp theo, mỗi lần cách nhau
28 ngày và sau đó mỗi lần cắt hom cách nhau 1 tháng. Tổng cộng cả năm
đã cắt đƣợc 200.000 hom từ vƣờn giống có diện tích 960 m
2
của 10 dòng
Bạch đàn (Somyos Kijkar 1991). Làm cỏ, bón phân, tƣới nƣớc, phun
hormon và thuốc trừ sâu bệnh là những hoạt động chính nhằm thu đƣợc
nhiều hom ở vƣờn giống.

11

Việc làm cỏ rất quan trọng, nhất là ở những nơi lƣợng mƣa lớn thƣờng làm
cỏ dại phát triển nhanh. Cỏ dại phải đƣợc nhổ thƣờng xuyên.
Việc bón phân chỉ đƣợc làm sau mỗi lần thu hom. Nên tiến hành phân tích
thành phần dinh dƣỡng của đất để quyết định loại phân bón cho cây mẹ.
Trong trƣờng hợp không làm đƣợc, nên bón bằng phân NPK 15:15:15 cho
Bạch đàn.
Hệ thống tƣới nƣớc ở vƣờn giống Bạch đàn nên lắp đặt sẵn. Mùa khô có
thể 2 ngày tƣới một lần, mỗi lần 30 phút (cho vƣờn 960 m
2
).
Phát triển nguồn gen là tiến hành các hoạt động nhằm biến đổi nguồn gen
từ ít thành nhiều, từ dạng này sang dạng khác. Phát triển nguồn gen với
những vật liệu giống ở các dạng nhƣ hom, mô, tế bào đƣợc thực hiện
bằng phƣơng pháp giâm hom, nuôi cấy mô; với hạt giống phát triển bằng
gieo ƣơm hạt thành cây.
So với cây mọc từ hạt, cây mô - hom cho phép tạo ra những khu rừng có tỷ
lệ gỗ thành thục công nghệ chế biến với độ đồng đều cao và hơn nữa chúng
duy trì đƣợc những phẩm chất quý hiếm từ cây mẹ.
Nhân giống từ vật liệu sinh dƣỡng của cây trồng thƣờng đƣợc thực hiện
theo các hình thức chủ yếu nhƣ chiết, ghép, giâm hom và nuôi cấy mô - tế
bào.
Năm 1902, Haberlandt dựa trên thuyết tế bào của Schleiden và Schwann đề
xuất phƣơng pháp nuôi cấy tế bào thực vật, nhƣng phải đến khoảng những
năm 1960 phƣơng pháp này mới đƣợc ứng dụng nhiều vào công tác giống
và nghiên cứu di truyền. Ngày nay nuôi cấy mô - tế bào trở thành công cụ
quan trọng trong chọn tạo và nhân giống.
12


Khi nuôi cấy mô - tế bào thực vật, quá trình hình thành cây con chịu sự chi
phối bởi 2 nhân tố đó là bản chất vật liệu (mẫu) nuôi cấy và môi trƣờng
nuôi cấy (bao gồm môi trƣờng vật lý và hoá học). Trên cơ sở các nghiên
cứu nuôi cấy mô - tế bào với cây Thuốc lá (Nicotina tabacum L) và cây
Thông radiata (Pinus radiata) Thorpe đã rút ra kết luận trong mối quan hệ
tƣơng tác giữa nhân tố bản chất vật liệu và môi trƣờng nuôi cấy, mẫu nuôi
cấy trải qua những thay đổi sinh lý, sinh hoá phức tạp dẫn đến sự hình
thành các cơ quan. Nguyên nhân sâu xa của những hiện tƣợng đó là do tế
bào sống có tính toàn năng. Haberlandt cho rằng đó là bởi mỗi tế bào bất
kỳ của cơ thể sinh vật nào cũng đều mang toàn bộ thông tin di truyền cần
thiết và đầy đủ cho cả loài sinh vật đó. Khi gặp những điều kiện thích hợp,
mỗi tế bào đều có thể phát triển thành một cá thể hoàn chỉnh.
Vấn đề then chốt khi nuôi cấy mô - tế bào là phải tiến hành hàng loạt thí
nghiệm để xác định đƣợc môi trƣờng (vật lý và hoá học) thuận lợi, phù hợp
với mỗi loại tế bào khác nhau (tế bào của các cơ quan, bộ phận khác nhau
trong cây, của các loài, giống khác nhau ) để chúng thực hiện đƣợc sự
phân hoá tế bào, hình thành cây con hoàn chỉnh trẻ nhƣ cây hạt. Khi áp
dụng công nghệ nhân giống bằng phƣơng pháp nuôi cấy mô tế bào đòi hỏi
cán bộ kỹ thuật phải có trình độ và đủ trang thiết bị, máy móc thí nghiệm
và hơn nữa là những đặc tính sinh vật học rất khác nhau giữa các loài cây,
giữa các cá thể là những rào cản lớn, không dễ vƣợt qua.
Hơn nữa sản xuất cây giống bằng nuôi cấy mô - tế bào chỉ có ý nghĩa khi
sử dụng vật liệu giống đã đƣợc cải thiện di truyền.
So với nhân giống bằng phƣơng pháp nuôi cấy mô - tế bào, cây con đƣợc
sản xuất bằng phƣơng pháp giâm hom vẫn giữ đƣợc các đặc tính di truyền
mong đợi từ cây mẹ và thƣờng có giá thành rẻ hơn. Theo Tewari (1993),
nhân giống bằng hom là một trong những công cụ có hiệu quả nhất cho
13

chọn giống cây rừng. Một số nƣớc có chƣơng trình trồng rừng dòng vô tính

trên quy mô lớn nhƣ ở Công Gô đến cuối năm 1984 đã có 20 ngàn héc-ta
Bạch đàn đƣợc trồng bằng các dòng vô tính với năng suất trong 6 năm đầu
là 35m
3
/ha/năm. Ở Brazil cũng có 5 triệu cây hom Bạch đàn đƣợc trồng
năm 1980 (Tewari, 1994).
Nghiên cứu giâm hom Keo tai tƣợng cũng đã đƣợc một số tác giả nghiên
cứu. C.Y.Wong và R.J.Haines cho rằng việc giâm hom các cây mẹ trẻ tuổi
của Keo tai tƣợng có thể sử dụng công nghệ đơn giản và có thể tiến hành
giâm hom quanh năm, tuy nhiên giá thành cây hom cao hơn cây hạt.
Ngoài Bạch đàn, một số loài cây khác đƣợc gây trồng bằng cây hom ở quy
mô lớn là Dƣơng (Populus tremula), Liễu (Salix sp), Vân sam (Picea
abies), Thiết sam (Sequoia sp) Hiện nay, nhân giống bằng hom là phƣơng
thức đang đƣợc áp dụng phổ biến để nhân giống các dòng vô tính có năng
suất cao.
Cây hom không những giữ đƣợc các đặc trƣng hình thái giải phẫu của cây
mẹ, giữ đƣợc các biến dị di truyền mong muốn đƣợc thể hiện trong các
kiểu hình của cây mẹ lấy hom, mà còn giữ đƣợc các biến dị di truyền về
sinh trƣởng nhanh và cho năng suất cao của chúng. Trong lâm nghiệp, một
số giống lai xa khác loài có ƣu thế lai rõ rệt, nhờ nhân giống hom không
những giữ đƣợc ƣu thế lai của đời F
1
mà còn khắc phục đƣợc hiện tƣợng
phân ly ở đời F
2
. Nhân giống hom còn làm rút ngắn đƣợc rất nhiều thời
gian từ khảo nghiệm loài đầu tiên đến trồng rừng sản xuất. Chaperon
(1984) cho rằng chiến lƣợc cải thiện giống cây rừng phải tính tới việc sử
dụng thành thạo nhân giống hom mà ảnh hƣởng của nó sẽ thay đổi theo
mức độ cải tiến kỹ thuật giâm hom.

14

Trong nhân giống cây rừng, các loại hom thân, cành, lá, rễ có thể đƣợc sử
dụng. Hom thân và hom cành đƣợc cắt từ một phần của thân cây non, từ
chồi vƣợt hoặc từ cành non của cây. Một số loài nhƣ Luồng
(Dendrocalamus membranaceus), Tre (Bambusa sp) hom giâm có thể là
một đoạn thân, đoạn thân có gốc, đoạn cành hoặc đoạn cành sát thân. Hom
của các loài cây gỗ đều đƣợc lấy từ thân cây non hoặc cành non của cây
(bao gồm cả chồi vƣợt). Các loại cành giâm thƣờng gặp là cành non, cành
hoá gỗ yếu, cành nửa hoá gỗ và cành hoá gỗ. Một số loài cây có thể dùng rễ
để giâm hom nhƣ Xoan (Melia azedarach), Long não (Cinnamomum
camphora), Acacia dealbata, Acacia melanoxylon v.v (Longman, 1993).
Khi nhân giống bằng giâm hom, ngƣời ta chia các nhân tố ảnh hƣởng đến
khả năng ra rễ của hom giâm thành hai nhóm là nhóm nhân tố nội sinh và
nhóm các nhân tố ngoại sinh. Nhóm nhân tố nội sinh bao gồm đặc điểm di
truyền của loài, của xuất xứ và của cá thể, vai trò của tuổi cây (mẹ), tuổi
cành, vị trí cành, pha phát triển của cành và các chất điều tiết sinh trƣởng.
Nhóm nhân tố ngoại sinh là các loại hoá chất kích thích ra rễ và các nhân tố
hoàn cảnh nhƣ độ ẩm, ánh sáng, nhiệt độ v.v
Không phải tất cả các loài đều có khả năng ra rễ nhƣ nhau khi giâm hom.
Nandan (1970) đã dựa theo khả năng ra rễ chia các loài cây lấy gỗ thành ba
nhóm chính là nhóm (1) dễ ra rễ gồm 29 loài thuộc các chi Ficus sp, Morus
sp, Populus sp, Salix sp v.v ; nhóm (2) khó ra rễ gồm 26 loài thuộc các chi
Malus sp, Prunus sp, Pyrus sp thuộc họ Rosaceae, một số chi khác nhƣ
Aesculus sp, Bauhinia sp, Sapindus sp v.v ; nhóm (3) có khả năng ra rễ
trung bình gồm 65 loài thuộc các chi Eucalyptus sp, Quercus sp, Grewilia
sp, Taxus sp v.v Sự phân chia này chỉ có ý nghĩa tƣơng đối vì một số loài
đƣợc xếp ở nhóm (2) và (3) vẫn dễ ra rễ nhƣ Gạo (Bombax ceiba), Liễu
sam (Cryptomeria japonia), Vân sam (Picea abies) v.v
15


Komisarov khi nghiên cứu giâm hom Vân sam đã thấy rằng cây non không
những có tỷ lệ ra rễ lớn mà thời gian ra rễ cũng ngắn hơn. Hom lấy từ cây
30 đến 35 tuổi phải sau 150 ngày mới ra rễ, trong lúc lấy hom từ cây 6 - 8
tuổi thì sau 60 - 70 ngày đã ra rễ. Sở dĩ cây nhiều tuổi ra rễ kém là do tính
mềm dẻo của chúng bị giảm đi (Komisarov, 1964), song cũng có ý kiến
giải thích khả năng ra rễ giảm xuống ở hom giâm của cây nhiều tuổi là do
tỷ lệ đƣờng tổng số trên đạm tổng số cao ở thân cây nhƣ trƣờng hợp ở
Quercus robur (Liubinskii, 1957).
Vị trí cành và tuổi cành cũng có ảnh hƣởng đến khả năng ra rễ của hom
giâm. Thông thƣờng, hom lấy từ cành ở tầng dƣới và cành chồi vƣợt dễ ra
rễ hơn ở tầng trên và cành lấy từ tán cây. Cành nửa hoá gỗ (cành bánh tẻ) là
loại cành có tỷ lệ ra rễ cao hơn cành đã hoá gỗ hoặc hoá gỗ yếu. Thí
nghiệm cho các loại cành giâm hom ở cây Bulô đã nhận đƣợc kết quả tỷ lệ
ra rễ nhƣ sau: cành nửa hoá gỗ 84%, cành hoá gỗ yếu 33% và cành đã hoá
gỗ 3,2%. Tuy vậy, ảnh hƣởng của mức độ hoá gỗ đến tỷ lệ ra rễ cũng thay
đổi tuỳ theo loài cây. Trong lúc cành hoá gỗ yếu ở Bulô cho tỷ lệ ra rễ
33%, thì ở Quercus robur cho tỷ lệ ra rễ 90 - 98% (Dansin, 1983).
Sự ra rễ của hom giâm không chỉ phụ thuộc vào đặc điểm di truyền của loài
mà còn phụ thuộc vào đặc điểm di truyền của từng xuất xứ, từng cá thể.
Hạt giống đƣợc con ngƣời sử dụng gieo ƣơm cây con phổ biến hơn các vật
liệu nhân giống khác. Ban đầu, trong số các cây trồng, một số cây ngẫu
nhiên đƣợc giữ lại lấy hạt cho mùa vụ kế tiếp, nhƣng sau đó với mong
muốn có năng suất thu hoạch ngày càng cao, việc chọn ra những cây tốt
nhất để lấy hạt giống đã đƣợc thực hiện.
Đối với cây rừng, do đặc tính lâu ra hoa kết quả và hơn nữa kích thƣớc cây
rừng thƣờng to lớn hơn cây nông nghiệp nhiều lần, nên rất khó kiểm soát
16

quá trình thụ phấn, việc tạo ra các dòng thuần đối với cây rừng gặp nhiều

trở ngại. Vì thế, lấy hạt làm nguồn giống phục vụ cho trồng rừng sản xuất
thƣờng đem lại hiệu quả không cao.
Tuy nhiên, để có đƣợc nền tảng di truyền đa dạng cho các hoạt động cải
thiện giống cây rừng, việc sử dụng hạt giống tạo cây trồng rừng lại là một
giải pháp hết sức quan trọng. Thông qua sinh sản hữu tính, nhờ có sự tái tổ
hợp của các kiểu gen khác nhau giữa bố và mẹ mà mỗi cây con (đƣợc phát
triển từ hạt) chứa đựng những tiềm năng di truyền rất khác nhau, làm cơ sở
phát sinh (xuất hiện) các biến dị di truyền mới cho chọn lọc.
Cũng giống nhƣ các loài cây rừng khác, trƣớc đây việc khai thác và phát
triển nguồn gen các giống Keo và Bạch đàn của các nƣớc trên thế giới chủ
yếu dựa vào các nguồn hạt thu hái từ nơi nguyên sản (châu Đại dƣơng và
một số nƣớc vùng Đông Nam Á). Sau một loạt các khảo nghiệm loài và
xuất xứ, một số quốc gia bắt đầu tiến hành giai đoạn thứ hai bằng cách thu
hái hạt từ những cây trội của những loài, xuất xứ thích hợp nhất để gieo
ƣơm khảo nghiệm hậu thế và đồng thời phục vụ những nhu cầu trồng rừng
trƣớc mắt (A.P.G.Shonau 1991; J.W.Turnbull và cộng sự 1998).
Những năm 1990, các nƣớc nhƣ Brazil, Indonesia, Trung Quốc, Malaysia,
Úc, Việt Nam bắt đầu xây dựng rừng giống lấy hạt Bạch đàn và Keo
bằng cách chuyển hoá các khu rừng khảo nghiệm. Khoảng năm 1994 -
1995 bắt đầu trồng rừng giống của những loài này, trong đó đáng kể nhất là
chƣơng trình cải thiện giống Bạch đàn (FORTIP) do Úc tài trợ, đã xây
dựng ở một số nƣớc Đông Nam Á các vƣờn giống lấy hạt Bạch đàn trắng,
Bạch đàn urophylla.
Nhƣ vậy có thể thấy rằng, giai đoạn đầu việc khai thác và phát triển nguồn
gen cây Bạch đàn và Keo tai tƣợng bằng nguồn hạt giống đƣợc thực hiện
17

chủ yếu là nhằm đáp ứng các nghiên cứu khảo nghiệm loài, xuất xứ và nhu
cầu trồng rừng trƣớc mắt, sau đó nó đƣợc sử dụng nhằm tạo ra nguồn biến
dị di truyền mới cho các hoạt động nghiên cứu chọn lọc giống.

1.5.2. Ở Việt Nam
Bạch đàn là một trong những loài cây trồng rừng chính ở nƣớc ta. Gỗ Bạch
đàn thƣờng đƣợc dùng để sản xuất bột giấy, ván dăm, ván thanh, gỗ xây
dựng Tính đến năm 2006, diện tích rừng trồng Bạch đàn ở Việt Nam ƣớc
tính khoảng 500.000 ha.
Những năm đầu thập kỷ 80, các khảo nghiệm loài và xuất xứ Bạch đàn mới
đƣợc xây dựng ở các vùng sinh thái khác nhau ở Việt Nam. Sự hạn chế
nguồn giống của các xuất xứ đã dẫn đến một số kết luận vội vàng từ các
thử nghiệm.
Nhằm tăng cƣờng năng lực sản xuất gỗ nguyên liệu cho công trình Nhà
máy giấy Bãi Bằng, hàng chục loài và xuất xứ của Bạch đàn đã đƣợc khảo
nghiệm ở vùng Trung tâm Bắc bộ. Thông qua khảo nghiệm cho thấy
Lewotobi và Egon Flores là hai xuất xứ của Bạch đàn urophylla có triển
vọng nhất cho vùng Trung tâm Bắc bộ. Khoảng đầu những năm 1990, Viện
Nghiên cứu Cây Nguyên liệu Giấy tiến hành chọn lọc cây trội và khảo
nghiệm dòng vô tính của Bạch đàn urophylla, có 444 cây trội đƣợc chọn
lọc từ 10 địa điểm thuộc tỉnh Phú Thọ và Tuyên Quang, đây là các khu
rừng sản xuất và rừng khảo nghiệm (Huỳnh Đức Nhân, Nguyễn Quang
Đức, Nguyễn Sỹ Huống, Nguyễn Đức Thế, 2007).
Thông qua khảo nghiệm dòng vô tính, đã có 11 dòng vô tính Bạch đàn
urophylla đã đƣợc công nhận là giống Quốc gia và giống Tiến bộ kỹ thuật.
18

Công tác cải thiện giống Keo tai tƣợng đƣợc tiến hành từ những năm 1980,
một loạt các xuất xứ đƣợc nhập nội phục vụ các nghiên cứu khảo nghiệm
giống ở hầu khắp các vùng sinh thái chính trong cả nƣớc. Nguồn giống chủ
yếu đƣợc tài trợ từ các dự án, tổ chức quốc tế nhƣ FAO, PAM, SIDA,
SAREC, CSIRO Cho đến nay, Keo tai tƣợng đã đƣợc gây trồng rộng rãi
ở nhiều vùng. Cải thiện giống Keo tai tƣợng ở Việt Nam có thể đƣợc chia
thành các giai đoạn chính nhƣ sau:

Giai đoạn 1980-1995, chủ yếu là khảo nghiệm loài và xuất xứ. Tại vùng
Trung tâm Bắc bộ, Keo tai tƣợng đƣợc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển
Kỹ thuật Lâm nghiệp Phù Ninh khảo nghiệm ở các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú
Thọ, Tuyên Quang. Khảo nghiệm năm 1990 ở Hàm Yên (Tuyên Quang),
Phong Châu (Phú Thọ) và Tam Đảo (Vĩnh Phúc) cho thấy Keo tai tƣợng có
lƣợng tăng trƣởng bình quân đạt khoảng 12m
3
/ha/năm (Huỳnh Đức Nhân,
Nguyễn Quang Đức, 1992). Năm 2000, các xuất xứ Pongaki, Iron Range và
Cardwell đã đƣợc công nhận là những giống Tiến bộ kỹ thuật và rừng
giống Keo tai tƣợng ở Hàm Yên đã đƣợc công nhận là rừng giống Quốc
gia. Báo cáo công nhận giống năm 2005 cho thấy ở địa điểm Hàm Yên
(Tuyên Quang) xuất xứ sinh trƣởng có triển vọng là Cardwell, SW Cairns,
Herbert River Valley. Ở địa điểm Phong Châu (Phú Thọ), các xuất xứ
Shelburne, Iron Range thuộc vùng cực Bắc Queensland và các xuất xứ
Dimisisi, Gubam, Pongaki, Cardwell, Herbert River Valley thuộc vùng
giữa Queensland là có triển vọng. Ở điểm Tam Đảo các xuất xứ có triển
vọng là Rex Cassowary, Herbert River Valley.
Giai đoạn 1996 đến nay, các nghiên cứu tập trung vào chọn lọc cây trội,
khảo nghiệm hậu thế, khảo nghiệm dòng vô tính, xây dựng rừng giống và
vƣờn giống.

×