Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

hội chứng đau thần kinh tọa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.11 KB, 8 trang )

HỘI CHỨNG ĐAU THẦN KINH TỌA
BS. LÊ TỰ PHƯƠNG THẢO
MỤC TIÊU
Biết rõ các phương pháp khám LS.
Chẩn đoán được các trường hợp TK tọa theo rễ L5 và rễ S1.
Hiểu rõ ý nghĩa các xét nghiệm cận lâm sàng.
I. NHẮC LẠI GIẢI PHẪU SINH LÝ
Dây TK tọa là dây TK lớn nhất trong cơ thể
Nó xuất phát trong khung chậu nhờ sự hợp nhất của các rễ L4, L5, S1, S2, S3
Thần kinh tọa từ chậu hông chạy ra đi xuống ở mông, đùi và đến khoeo chân chia ra hai
nhánh tận :
**Thần kinh mác chung (hông khoeo ngoài) : là nhánh ngoài
**Thần kinh chày (TK hông khoeo trong) : là nhánh trong
Đau TK tọa (sciatic neuropathy hoặc sciatica) là danh từ dùng rộng rãi ám chỉ tình trạng đau
ở chi dưới thường đi kèm với đau lưng.
Thông thường khi nói đến “Đau TK tọa” người ta có thể nghĩ đến bệnh lý ở bất cứ phần nào
của các rễ L4, L5, S1 và S2. Nó có thể do các tổn thương tại dây tọa, tại màng tủy, tại cột
sống, tại khung chậu hoặc thường gặp nhất là do thoát vị đĩa đệm (TVĐĐ). TVĐĐ L4-L5,
L5-S1 gặp trong 90% trường hợp TVĐĐ cột sống thắt lưng.
Rễ L5 là rễ hay bị tổn thương nhất. Một trong những lý do là do khít chặt rễ L5 trong lỗ liên
hợp: rễ L5 có đường kính to nhất và lỗ liên hợp lại nhỏ hơn các lỗ liên hợp khác ở vùng thắt
lưng
II. CÁC PHƯƠNG PHÁP THĂM KHÁM LÂM SÀNG
Triệu chứng của tổn thương rễ nổi bật nhất là triệu chứng về cảm giác.
A. Triệu chứng chủ quan:
1) Đau thắt lưng (đau lưng dưới):
Khoảng 95% BN đau thần kinh tọa có biểu hiện đau thắt lưng (đau lưng dưới) từng đợt kéo
dài nhiều ngày hoặc nhiều tháng trong tiền sử của bệnh. Người ta nghĩ rằng có thể những đợt
đau lưng hoặc “căng lưng” này tương ứng với những tổn thương cấp tính của đĩa đệm.
Đau lưng do tổn thương đĩa đệm có thể thoái lui sau nhiều ngày, nhiều tuần, nhưng nó cũng
có thể chuyển sang đau thần kinh tọa (đau lan xuống chân) trong vòng vài giờ hoặc vài ngày.


Điều cần lưu ý rằng không phải tất cả bệnh nhân đau lưng đều đau dây tọa. Trong tổng số các
bệnh nhân đau lưng, chỉ có khoảng 1-12% BN đau dây tọa mà thôi.
2) Đau theo rễ TK tọa: đau lưng lan xuống chân đúng theo vị trí các rễ được gọi là đau
theo rễ TK tọa. Đau theo rễ TK tọa hầu như lúc nào cũng có đi cùng với đau lưng
hoặc xuất hiện trước đau lưng.
1
Một số tác giả cho rằng đau ở chân nhiều hơn ở lưng trong đau TK tọa do tổn thương
rễ S1, ngược lại trong tổn thương rễ L5 thì đau ở lưng nhiều hơn đau ở chân.
Các tính chất của đau TK tọa:

**Vị trí : vị trí đau tùy theo rễ bị tổn thương.
BN sẽ mô tả lộ trình đau hết sức chính xác theo phân bố rễ TK (theo
dermatome của rễ TK)
+ Đau TK tọa phía sau : tổn thương các rễ L5 hoặc S1
Đau theo rễ L5 : đau mặt sau ngoài đùi, mặt ngoài cẳng chân, mu bàn chân,
đôi khi lan đến ngón cái và ngón thứ 2
Đau theo rễ S1: đau mặt sau mông, mặt sau đùi, mặt sau ngoài cẳng chân
đến gót chân, lòng bàn chân và hai ngón 4,5.
+ Đau TK tọa trước: hiếm gặp hơn ; do tổn thương rễ L4 gây ra: đau mặt
ngoài đùi (hoặc mặt trước giữa đùi), mặt trước cẳng chân lan đến mắt cá trong và ngón cái.
**Cường độ : Cường độ thay đổi từ đau nhẹ đến đau dữ dội. Có bệnh nhân
mô tả đau cường độ cực kỳ lớn: đau như dao cắt, như bị xé nát, như cháy bỏng, tăng lên ngay
cả khi sờ nhẹ vào da. Hoặc có người đau mức độ nhẹ hơn, dần dần thành mãn tính với tính
chất như bị khoét thủng hoặc bóp nát. Chồng trên nền đau dai dẳng này là một kiểu đau mang
tính chất mơ hồ như bị cắn nát. Đó là do co thắt quá mức các cơ cạnh sống và cơ cẳng chân.
**Cách khởi phát : khởi phát đau rễ do thoát vị đĩa đệm thường là đột ngột
nhưng cũng có thể từ từ, xuất hiện sau đau lưng nhiều giờ hoặc nhiều ngày.
Bệnh sử đau rễ xuất hiện vào sáng hôm sau, sau khi khiêng vật nặng ngày
hôm trước lại không gặp nhiều (mặc dù trong bệnh sử ta luôn chú ý hỏi: đau xảy ra trong tình
huống nào, có phải do gắng sức quá mức, do khiêng vật nặng, do té ngã hoặc do tư thế sai?).

Đợt đau theo rễ có thể xảy ra sau khi khiêng vật nặng hoặc làm những công việc bình thường
hoặc chẳng do nguyên nhân nào cả.
**Các yếu tố làm tăng hoặc làm giảm đau : đau tăng lên khi cử động, khi
xoay người đột ngột, khi đứng dậy, khi đi lại. Tư thế gây ra đau thường là gập người ra trước
hoặc gập người sang bên và trong tình trạng gắng sức (rặn). Ho hoặc hắt hơi thường làm tăng
đau. Chính vì vậy bệnh nhân có khuynh hướng tránh các cử động đột ngột và chọn tư thế
giảm đau thích hợp (ví dụ như khi đứng bệnh nhân dồn sức nặng lên chân bên lành, chân bên
bệnh hơi gập lại, cột sống có thể vẹo sang một bên).
Đa số BN giảm đau ở tư thế nằm và tăng đau ở tư thế đứng.
Đau ban đêm có thể là một triệu chứng nổi bật ở những BN đau TK tọa mãn tính.
***Đau rễ do thoát vị sau bên thường là nguyên nhân hay gặp nhất và do đó đau TK tọa
thường là một bên.
*** Đau rễ do thoát vị trung tâm (giữa) có thể là đau rễ hai bên, thường là một bên nặng
hơn, nhưng đau có thể thay đổi bên này bên kia và có thể kèm theo đau sâu vùng chậu và đau
tinh hoàn.
2
3) Dị cảm, loạn cảm : dị cảm và loạn cảm có phân bố giống như cảm giác đau
(nhưng khó xác định vị trí phân bố chính xác) và tăng lên khi ho, rặn, hắt hơi.
4) Rối loạn tiêu tiểu :
+Rối loạn tiểu tiện thường hiếm gặp. Nếu có hỏi kỹ thì một số BN có thể cho biết có
dòng tiểu bị yếu hoặc có khó khăn trong lúc bắt đầu đi tiểu.
Bí tiểu có thể là giai đoạn cuối của đau TK tọa tiến triển hoặc xảy ra khi có TVĐĐ
cấp tính, thường xảy ra trong vòng 48 giờ. Trong một vài trường hợp hiếm gặp bí tiểu là triệu
chứng duy nhất của TVĐĐ giữa, chẩn đoán có thể bị sai lạc trong một thời gian dài. Đau bộ
phận sinh dục có thể đi kèm với bí tiểu.
Mất cảm giác vùng hoành chậu cũng hay gặp (do các rễ cùng (sacral roots) chi phối). Tiên
lượng của bàng quang ở những BN này phụ thuộc vào tốc độ chèn ép rễ hơn là mức độ nhanh
chóng giải ép (mặc dù giải phẫu trễ thường rất khó hồi phục). Sự hồi phục xảy ra từ từ sau 2-
3 năm (khoảng 80% BN hồi phục hoàn toàn).
+BN có đau dây tọa cấp thường bị bón do đi cầu gây đau.

B. Khám lâm sàng:
Khám lâm sàng luôn vẫn là bước quan trọng trong đau dây tọa vì cho thấy hình ảnh lâm sàng
rõ nhất, giúp cho BS xác định chính xác vị trí TVĐĐ.
1) Cách đứng, dáng đi trong đau TK tọa:
Cách đứng :
BN đau dây tọa cấp thường mất độ ưỡn cột sống thắt lưng và khi đứng có khuynh hướng gập
người ra trước và đứng một bên để tránh sức nặng dồn lên chân bệnh.

Các cử động của lưng bị giảm hoặc mất hẳn do co cơ cạnh sống. Khi khám bệnh nên yêu cầu
bệnh nhân đứng thẳng, sau đó gập người ra trước (hai đầu gối vẫn thẳng), chúng ta ghi nhận
lưng của bệnh nhân không uốn cong đều đặn mà thay vào đó chủ yếu có hiện tượng gập tại
nơi nối giữa chân và lưng (tại khớp háng).

BN có thể gù lưng-vẹo cột sống ở mức độ nhẹ. Vẹo cột sống làm giảm áp lực lên dây TK bị
chèn ép. BN có thể nghiêng về bên rễ TK bị chèn ép hoặc về phía ngược lại.Vẹo cột sống
thường nổi bật ở trẻ em và có thể là biểu hiện chủ yếu của TVĐĐ.
Dáng đi:
BN đi khập khiễng thấy rõ. Khi đi đau sẽ tăng lên: đau tăng lên khi duỗi khớp gối, và sự duỗi
khớp này làm mỗi bước đi đau đớn cực độ.
2) Khám về triệu chứng đau :
Ấn đau cơ cạnh sống (chúng ta ấn vào cơ cạnh sống hai bên) và ấn đau trên các mỏm gai đốt
sống thắt lưng. Ấn ngang gai sống L4-L5, L5-S1 (cách cột sống 2 cm) sẽ gây đau dọc theo lộ
trình rễ tương ứng hoặc ấn ngang đĩa đệm L4-L5, L5-S1 cũng gây đau tương tự.
Ngoài ra còn ấn đau các điểm Valleix ở mông, đùi và cẳng chân, là nơi TK tọa đi gần xương
(do kích thích các dây TK hoặc do đau cơ khu trú hoặc do cả hai).
3
3) Các nghiệm pháp căng dây TK: gây kích thích màng tủy và kích thích các rễ thắt lưng-
cùng  gây đau theo rễ.
Nghiệm pháp (NF) Lasègue : BN nằm ngửa, hai chân duỗi thẳng, nâng gót chân (một bên
chân) lên cao khỏi giường (đầu gối vẫn duỗi thẳng) (thường thực hiện ở chân bên lành trước,

chân bên bệnh sau). Bình thường ta có thể nâng cao chân lên đến 80- 90
0
. Trong trường hợp
bệnh lý, khi nâng chưa đến 60
0
, đau sẽ xuất hiện ở lưng hoặc lan dọc theo phân bố của rễ bị
tổn thương, hoặc bệnh nhân có cảm giác căng ở vùng thắt lưng, vùng mông, vùng đùi, vùng
khoeo, và có thể kèm theo tê, dị cảm phân bố theo rễ bị tổn thương  gọi là Lasègue (+) (Ví
dụ Lasègue (+) ở 30
0
)
Đây là dấu hiệu quan trọng gần như lúc nào cũng có trong đau thần kinh tọa (dương tính
trong các trường hợp đau theo rễ S1, L5 và hầu hết đau rễ L4). Độ nhạy của nghiệm pháp
Lasègue vào khoảng 0,80 (tức là cứ 10 trường hợp đau TK tọa thì có đến 8 trường hợp
nghiệm pháp Lasègue dương tính, hay nói cách khác ít có trường hợp âm giả). Tuy nhiên độ
chuyên biệt của nghiệm pháp này chỉ khoảng 0,40 có nghĩa là trong 10 trường hợp Lasègue
dương tính thì chỉ có 4 trường hợp có tổn thương rễ L5-S1 thực sự, còn lại là những trường
hợp dương giả.
Để có thể thấy rõ đau, ta có thể gập thêm bàn chân bệnh nhân, hoặc gập ngón chân cái của
bệnh nhân  bệnh nhân sẽ thấy đau tăng lên (do chúng ta làm căng rễ TK nhiều hơn)
Khi Lasègue <40
0
 gợi ý có đĩa đệm thoát vị chèn ép vào rễ TK.
Ngoài ra nghiệm pháp Lasègue còn có một giá trị quan trọng khác : đó là dùng để theo dõi
diễn tiến điều trị. Ví dụ Lasègue từ 20
0
chuyển sang 50
0
sau điều trị nội khoa bệnh nhân có
đáp ứng với điều trị.

Nghiệm pháp Lasègue chéo: nhấc chân bên lành, bệnh nhân có đau theo rễ ở chân bên bệnh.
Một số tác giả cho rằng đây có thể là biểu hiện bệnh lý của TVĐĐ. Độ nhạy của nghiệm
pháp này khoảng 0,25 và độ chuyên biệt vào khoảng 0,90.
Nghiệm pháp nâng chân ngược: cho bệnh nhân nằm sấp hoặc nằm nghiêng, duỗi chân ra
sau bệnh nhân đau theo rễ L3, L4. Đây là nghiệm pháp dùng để kiểm tra rễ L3, L4.
Nghiệm pháp Naffziger : đè hai tĩnh mạch cảnh hai bên cho đến khi BN nặng đầu (10 phút).
Nghiệm pháp này gây tăng áp lực dịch não tủy làm cho khối choán chỗ đè mạnh vào rễ.
Nghiệm pháp này thường (+) khi trong bệnh sử chúng ta ghi nhận BN có đau theo rễ tăng lên
khi rặn, khi ho, khi hắt hơi. Ngày nay nghiệm pháp này ít được sử dụng.
4) Triệu chứng cảm giác : thường là mất cảm giác một phần hoặc toàn bộ theo phân bố rễ
L5, S1 (gặp trong 21-84% trường hợp)
Hoặc bệnh nhân có tê và dị cảm theo phân bố rễ bị tổn thương (gặp trong 60% BN TVĐĐ).
5)Triệu chứng vận động :
- Các rối loạn vận động thường không biểu hiện rõ trong đau TK tọa vì thường chỉ có
một rễ tổn thương trong khi đó một cơ lại được nhiều rễ chi phối  tổn thương một
rễ chưa chắc đã gây yếu cơ vì có thể có rễ khác bù trừ vào.
- Các cử động do các rễ chi phối:
Rễ L5 : xoay ngoài bàn chân, dang bàn chân
4
duỗi các ngón chân (+++), có thể yếu động tác duỗi bàn chân (gập mặt mu
bàn chân)
khi đi bệnh nhân lê bước, không đứng bằng gót được
Rễ S1 : xoay trong bàn chân, gấp lòng bàn chân (+++)
Gập các ngón chân (+++)
BN không đứng bằng ngón được (đứng trên mũi chân)
Rễ L4: duỗi đầu gối (+++). Đây là nhiệm vụ của cơ tứ đầu đùi
Gập háng (cơ thắt lưng chậu)
Dạng đùi
Ngoài ra trong một số trường hợp còn có:
 Teo cơ : Theo thời gian teo cơ xuất hiện rõ ở mông, bắp chân hoặc mặt trước ngoài

bàn chân .
 Phì đại cơ : một số trường hợp thay vì teo cơ lại thấy cơ tăng kích thước . Đó là do sự
phì đại bù trừ của những sợi cơ vẫn còn nhận sự chi phối các nhánh TK. Cơ phì đại
thường yếu đi nhưng cũng có những trường hợp sức cơ vẫn còn bình thường.
6) Giảm hoặc mất phản xạ gân cơ :
- Mất hoặc giảm PX gân gót xảy ra trong 60% trường hợp tổn thương rễ S1.(rễ S1 có vai trò
trong cung phản xạ gân gót)
- Ngược lại rễ L5 không đóng vai trò gì trong cung phản xạ gân gối lẫn gân gót.
Chúng ta không có phản xạ gân cơ chuyên biệt nào để chứng tỏ có tổn thương rễ L 5.
Như vậy tổn thương rễ L5 trên nguyên tắc không làm thay đổi phản xạ gân cơ ở chi
dưới. Tuy nhiên người ta ghi nhận giảm PX gân gót cũng xảy ra trong 1/3 trường hợp
TVĐĐ L4-L5, có lẽ do tổn thương túi chứa rễ S 1 trong ống sống (intrathecal pan of
S1 root).
Nhìn chung trên lâm sàng khi có tổn thương S1 người ta thường tìm thêm dấu hiệu mất phản xạ gân gót, còn
khi có tổn thương L5 người ta nghĩ rằng phản xạ gân cơ (PX gối, gót) hầu như là bình thường.

- Nếu BN bị dây tọa S1 hai bên thì PX gân gót có thể mất cả hai bên. (Lưu ý rằng cần phải
chẩn đoán phân biệt với mất PX gót hai bên là do BL TK ngoại biên chẳng hạn như viêm đa
dây tk)
III. CÁC XÉT NGHIỆM CẬN LÂM SÀNG
1) X-Q cột sống thắt lưng: (X-Q quy ước)
Tối thiểu phải có 3 tấm: 1 tấm De Seze (chụp thẳng lấy các đốt sống thắt lưng và khung
chậu, cho bệnh nhân chụp ở tư thế đứng, chụp hình lấy từ đốt sống D12 trở xuống; ở phía
dưới phải lấy được cả 2 đầu xương đùi hai bên), 1 tấm thẳng (ở tư thế nằm, tập trung vào đĩa
đệm L5-S1) và 1 tấm nghiêng (chụp đứng, từ D12 trở xuống).
Bình thường các đĩa đệm tăng bề dày dần dần từ L1 đến L5, giảm bề dày ở L5-S1. Đĩa đệm
dày nhất là L4-L5.
Hình De Seze cho biết cột sống có ở đường giữa không?; hai chân có bất đối xứng ?; có dị
dạng xương cùng ?; xương cùng có nằm ngang ?;, đường nối hai mào chậu có ngang qua L4-
L5 ?; khớp cùng chậu có tách rời ra hay bị dính lại (cùng hóa đốt sống L 5)?, bóng cơ thăn

hai bên có còn rõ không? Hoặc các dị tật như gai đôi cột sống,
5
Hình chụp nghiêng cho thấy cột sống có ưỡn quá mức không, có bị trượt đốt sống không?
Hình ảnh X-q qui ước rõ ràng không giúp ích nhiều cho chẩn đoán TVĐĐ nhưng giúp đánh
giá các rối loạn thăng bằng và đặc biệt giúp hướng đến một số nguyên nhân khác ví dụ như u
đốt sống, viêm thân sống đĩa đệm, viêm khớp, trượt đốt sống, lao cột sống.
Một số hình ảnh gợi ý cho chẩn đoán TVĐĐ :
- Hở khoảng gian đốt phía sau : chủ yếu ngang mức L4-L5 và L3-L4. thường là TVĐĐ
thật lớn mới cho hình ảnh này.
- Hình ảnh kẹp đĩa đệm: cũng có thể gợi ý TVĐĐ nhưng gí trị của hình ảnh này không
nhiều.
- Vôi hóa đĩa đệm: ít gặp ở vùng thắt lưng, nếu có gặp thường là ở thắt lưng cao (L1-
L2, L2-L3).
- Đứt mấu viền bờ (listel marginal) phía sau: có thể thường đi kèm với TVĐĐ. Trên
hình nghiêng chúng ta có thể thấy 1 mẩu calci hóa nằm trong ống sống, góc sau dưới,
góc sau trên của đốt sống tương úng không còn rõ nét, bị xóa nhòa.

Tam chứng Barr (vẹo cột sống trên phim thẳng, mất đường cong sinh lý trên phim nghiêng,
giảm chiều cao đĩa đệm) cũng là hình ảnh gợi ý TVĐĐ.
Nhìn chung phương pháp cận lâm sàng này có giá trị giới hạn. Nó ít có giá trị trong đau thắt
lưng cấp tính và ngay cả đối với những bệnh nhân đau thắt lưng 3 tháng nó cũng không giúp
ích gì nhiều. (Ví dụ như mất đường cong sinh lý là dấu hiệu không đặc trưng, nó có thể do co
cơ cạnh sống. Đôi khi xẹp đĩa đệm rất rõ trên CT Scan hoặc MRI, nhưng trên X-Q quy ước
lại thấy bình thường. Hoặc thoái hóa đốt sống, giảm chiều cao đốt sống thường gặp trong
những BN không triệu chứng đau lưng, không có đau dây tọa).
Hình ảnh X-Q quy ước chỉ có giá trị khi nghi ngờ ung thư di căn, bệnh lý viêm nhiễm (lao,
viêm thân sống đĩa đệm). Tuy nhiên nếu kết quả bình thường thi chúng ta vẫn không loại
được ung thư, viêm nhiễm
2) Chụp bao rễ có cản quang : ít dùng. Người ta bơm chất cản quang (métrizamide) vào
khoang dưới nhện (chủ yếu vào túi cùng) và chụp các hình ảnh ở tư thế thẳng, nghiêng,

chếch 3/4 hai bên.
Ưu điểm: khảo sát động học gập, ngửa hoặc được sử dụng khi cả CT và MRI không khẳng
định chắc chắn chẩn đoán.
Hạn chế: không thấy được thoát vị bên
20% BN bình thường lại có hình ảnh bất thường trên chụp bao rễ do đó cần
phối hợp kỹ LS và CLS.
3) Chụp cắt lớp điện toán, chụp cộng hưởng từ:
Ngày nay thường người ta cho chụp cộng hưởng từ, chụp cắt lớp điện toán khi bệnh nhân đã
được điều trị nội khoa đúng đắn 2-3 tháng mà vẫn còn đau. Lựa chọn giữa cộng hưởng từ và
chụp cắt lớp điện toán tùy vào tuổi và tùy vào phim X-Q quy ước.
Nếu bệnh nhân trẻ, phim X-Q quy ước thấy gần như bình thường  nên chọn chụp cộng
hưởng từ. Nếu bệnh nhân lớn tuổi, phim X-Q quy ước thấy có chồi xương, có hiện tượng
thoái hóa cột sông nhiều nên chọn chụp cộng hưởng từ.
Chụp cắt lớp điện toán và chụp cộng hưởng từ giúp phát hiện TVĐĐ chính xác hơn, và giúp
chẩn đoán phân biệt với những nguyên nhân khác.
6
Hạn chế: Cho hình ảnh dương giả 20%, âm giả 30% trường hợp.
50% BN >40 tuổi và 20% BN<40 tuổi không triệu chứng lâm sàng lại có lồi
đĩa đệm trên hình ảnh chụp cắt lớp điện toán.
Do đó cần phối hợp với bệnh cảnh lâm sàng và các xét nghiệm khác như chụp bao rễ cản
quang ở các tư thế gập, ngửa.
4) Điện cơ (ít dùng)
IV. CÁC NGUYÊN NHÂN THƯỜNG GẶP
TVĐĐ, thoái hóa cột sống là 2 nguyên nhân chủ yếu gây ra hội chứng đau tk tọa
Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác như : viêm nhiễm do lao, K di căn cột sống, hẹp ống
sống, u vùng chậu, áp-xe vùng chậu, xuất huyết sau phúc mạc…
V. ĐIỀU TRỊ
Chủ yếu dành cho bệnh cảnh thoát vị đĩa đệm
Nội khoa : Nghỉ ngơi: 1-3 ngày đối với những BN có dấu hiệu TK khi thăm khám
Kháng viêm: sử dụng kháng viêm không steroid hoặc aspirine (lợi ích hai loại

tương đương nhau)
Có thể sử dụng corticoid liều cao, giảm liều nhanh nhưng tác dụng không hơn
kháng viêm không steroid
Giảm đau
Giãn cơ: có thể sử dụng benzodiazepine
> 90% BN đau TK tọa được điều trị nội khoa mà không cần phải mổ
Thông thường người ta sẽ tiến hành chụp CT Scan khi điều nội khoa đúng cách mà không
thuyên giảm sau 2 tháng
Điều trị ngoại khoa: được thực hiện khi BN chuẩn bị tốt tinh thần và thể lực để chịu đựng
cuộc mổ và nằm trong các chỉ định sau:
1. Tăng các rối loạn về vận động, cảm giác mặc dù BN đã được nghỉ ngơi hoàn toàn và điều
trị đúng mức
2. Đau dữ dội kèm tồn tại hoặc tăng thêm các rối loạn vận động, cảm giác dù BN đã nghỉ
ngơi đúng mức
3. Có những đợt đau TK tọa tái phát không làm việc được mà LS hoặc điện cơ chứng minh
có tổn thương rễ.
4. Yếu cơ quá nhiều hoặc liệt chân hoàn toàn
5. Rối loạn tiêu tiểu.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Mô tả triệu chứng và dấu hiệu của đau thần kinh tọa theo rễ L5.
2. Mô tả triệu chứng và dấu hiệu của đau thần kinh tọa theo rễ S1.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/-Adams RD. Priciples of neurology. 6
th
Ed. McGrawhill, Inc.1997.
2/- DeJong’s The Neurologic examination. 5
th
Ed. Lippincott Raven, 1992.
3/-Lê văn Thành . Bệnh học thần kinh. Nhà xuất bản Y học .Tp HCM. 1990.
4/- Clinical Neurology on CD Rom.

7
8

×