Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Tiểu luận khủng hoảng tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 34 trang )




ĐỀ TÀI : KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
(Financial Crisis).


GVHD: Hoà Thò Hoàng Minh.
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
SV : Nguyễn Văn Thanh Vi.
MSSV : K105041663
1. Lí do chọn đề tài :
Tài chính là một lĩnh vực vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của một quốc gia.
Nền tài chính của một quốc gia là cơ sở để đánh giá trình độ phát triển của quốc gia đó. Sự phát triển
của hệ thống tài chính toàn cầu bên cạnh việc mang lại những cơ hội lớn cho mỗi quốc gia, mỗi dân
tộc thì đồng thời cũng tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng. Sự thay đổi của các thị trường tài chính
cùng với mức độ mở cửa thương mại - tài chính của các nước và những điều kiện bên trong của mỗi
quốc gia đều có thể dẫn đến nguy cơ khủng hoảng.
Trong những năm gần đây, khủng hoảng tài chính đã diễn ra ngày càng liên tục với cường độ
mạnh và diễn biến ngày càng phức tạp, gây ra những hậu quả nặng nề đối với các quốc gia và toàn
thế giới . Nhiều thị trường mới nổi đã trải qua những cuộc khủng hoảng tài chính, có thể nhắc đến
như khủng hoảng Mexico 1994, khủng hoảng tài chính Châu Á 1997, khủng hoảng Acgentina 2001, và
cuộc đại khủng hoảng 2008-2009.Cả thế giới đang phải chao đảo gánh chịu hậu quả của cơn bão
khủng hoảng tài chính. Khủng hoảng đem tới thách thức và cơ hội cho những ai biết nắm bắt thời cơ .
Hiện nay, chúng ta ngày càng nhận thức rõ đươc tầm quan trọng của việc nghiên cứu khủng
hoảng, triển vọng và tác động của nó trong bối cảnh đất nước đang tham gia ngày càng sâu rộng hơn
vào liên kết khu vực, hội nhập quốc tế. Đó cũng là động lực thúc đẩy tôi chọn đề tài nghiên cứu :
“Khủng hoảng tài chính” (Financial crisis).
2. Mục đích nghiên cứu :
Nghiên cứu làm rõ một số khái niệm, vấn đề cơ bản về khủng hoảng tài chính trước sự biến
động phức tạp của nền kinh tế. Tập trung phân tích những nguyên nhân, tác động của khủng hoảng


tài chính để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về chính sách phát triển kinh tế và
chính sách kinh tế đối ngoại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Phần cơ sở lý luận, đề tài sẽ đi vào tìm hiểu khái niệm, nguyên nhân, phân loại, hệ quả và các
phương pháp dự báo, ngăn ngừa khủng hoảng tài chính. Phần tìm hiểu về 2 cuộc khủng hoảng tài
chính lớn trên Thế Giới, đề tài sẽ giới thiệu sơ lược về nguyên nhân, tính chất, tác động của nó đến
toàn bộ nền kinh tế. Phần vận dụng thực tiễn, đề tài sẽ rút ra bài học kinh nghiệm, đồng thời đề xuất
một số giải pháp cho chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam. Ngoài ra do có sự giới hạn nên trong
khuôn khổ của đề tài nghiên cứu sẽ không đi sâu vào phân tích những vấn đề như : chi tiết về đặc
điểm của từng loại khủng hoảng tài chính, các loại mô hình khủng hoảng tài chính…
4. Phương pháp nghiên cứu :
Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như thống kê – mô tả, phân tích – tổng
hợp, so sánh – đối chiếu, diễn dịch – quy nạp và phương pháp quan sát thực tiễn để khái quát bản
chất của các vấn đề cần nghiên cứu. Đề tài dựa vào cơ sở lý thuyết chuyên ngành tài chính doanh
nghiệp, lý thuyết tài chính tiền tệ kết hợp với nguồn dữ liệu thông tin sưu tầm, tập hợp từ các sách
báo, tạp chí và các webside có liên quan…
5. Kết cấu của đề tài :
Với phạm vi nghiên cứu như trên, nội dung chính của đề tài gồm 04 chương :
Chương I : Lý thuyết về khủng hoảng tài chính.
Chương II : Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 1997.
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 2
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
Chương III : Khủng hoảng tài chính Mỹ 2008.
Chương IV : Bài học rút ra cho Việt Nam và các doanh nghiệp.
CH ƯƠ NG I : LÝ THUYẾT VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH

1. Tổng quan về thị trường tài chính :
* Xung quanh vấn đề tài chính có rất nhiều quan niệm khác nhau. Nhưng tổng kết lại, tài chính mang
những đặc điểm sau : tài chính chỉ ra đời và tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định, khi mà ở đó có
những hiện tượng kinh tế xã hội khách quan nhất định xuất hiện và tồn tại. Có thể xem những hiện tượng kinh

tế xã hội khách quan đó như tiền đề khách quan quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính với tư
cách là phạm trù lịch sử. Tài chính thuộc lĩnh vực phân phối dưới hình thái giá trị. Nó là tổng thể các quan hệ
kinh tế trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân, nó gắn liền với sự ra
đời và tồn tại và hoạt động của nhà nước, phát triển trong các mối quan hệ hữu cơ với nền sản xuất hàng hoá
và quan hệ hàng hoá tiền tệ. Hay nói cách khác tài chính là quá trình phân phối các nguồn lực tài chính có hạn
nhằm đáp ứng nhu cầu các chủ thể trong nền kinh tế.
* Bản chất của tài chính thể hiện ở những khía cạnh sau : tài chính là những quan hệ kinh tế nhưng
không phải mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều thuộc phạm trù tài chính. Tài chính chỉ bao gồm những quan
hệ phân phối dưới hình thái giá trị. Tài chính là những quan hệ phân phối phát sinh trong quá trình hình thành
và sử dụng các quỹ tiền tệ. Đây là một đặc trưng quan trọng của tài chính. Tài chính là những quan hệ kinh tế
chịu sự tác động trực tiếp của nhà nước, của pháp luật, nhưng tài chính không phải là luật lệ tài chính. Luật tài
chính là công cụ của nhà nước để điều tiết các quan hệ tài chính nhằm đáp ứng yêu cầu của nhà nước.
* Trong nền kinh tế các quan hệ tài chính xuất hiện đan xen nhau liên hệ, tác động ràng buộc lẫn nhau
trong một thể thống nhất tạo nên hệ thống tài chính. Có thể chia hệ thống tài chính làm 2 kênh dẫn vốn : kênh
dẫn vốn qua thị trường tài chính (trực tiếp), kênh dẫn vốn qua các trung gian tài chính như ngân hàng thương
mại, quỹ bảo hiểm, quỹ tín dụng… (gián tiếp). Nhờ 2 kênh này mà vốn được lưu chuyển thuận lợi, giảm được
rất nhiều chi phí giao dịch giữa hai bên cung và cầu vốn.
2. Khái niệm khủng hoảng tài chính :
* Khủng hoảng tài chính xảy ra trong các mối quan hệ tài chính và các kênh dẫn vốn trong nền kinh tế.
Khủng hoảng tài chính nảy sinh khi các mối quan hệ này đạt tới mức thấp có nghĩa là bên cung vốn không
muốn tài sản tài chính mà mình có cho bên cầu vốn nữa. Và điều này tác động lên các kênh dẫn vốn, làm cho
nó bị tê liệt không phát huy được tác dụng và do đó sẽ làm sụp đổ hoặc suy yếu các tổ chức, định chế tài chính.
Các tổ chức định chế tài chính này không bao giờ biệt lập với nhau mà chúng có quan hệ mật thiết, do đó
khủng hoảng tài chính thường làm sụp đổ hàng loạt tổ chức, định chế, gây thiệt hại to lớn.
* Khủng hoảng tài chính là vấn đề có liên quan đến một phạm trù, đó là chu kì kinh doanh. Quy luật
chung của con đường phát triển được miêu tả như đồ thị hình sin. Đó là bất kì một lĩnh vực nào cũng có thời kì
phát triển rực rỡ, huy hoàng, có lúc ổn định và có thời gian thoái trào. Nghiên cứu kinh tế Mỹ đã chỉ ra rằng
tiền tệ -tài chính đóng góp một vai trò quan trọng trong việc tạo ra chu kì kinh doanh. Mỗi cơn suy thoái trong
thế kỉ XX đã đứng liền sau một sự suy giảm tỉ lệ tăng trưởng tiền tệ. Ngược lại nếu nền kinh tế lâm vào suy
thoái cũng là nguyên nhân không nhỏ dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính. Điều này được giải thích bởi

quan hệ tài chính có mối liên hệ hữu cơ, mật thiết với nền sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng hoá tiền tệ.
 Các khái niệm về khủng hoảng tài chính :
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 3
• Khủng hoảng tài chính là sự đổ vỡ của thị trường tài
chính mà trong đó những lưa chọn bất lợi và tâm lý
hoang mang đã trở nên xấu đi, dẫn đến hậu quả thị
trường tài chính không thể có những quỹ hiệu quả
cũng như cơ hội đầu tư tốt nhất. (Định nghĩa của
Mishkin).
Frederic Mishkin, tác
giả cuốn sách The
Economics of Money,
Banking and Financial
Markets.
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
• Khủng hoảng tài chính là tình trạng mà trong đó một bộ phận của nền tài chính có những khoản nợ lớn hơn giá
trị tài sản thực có trên thị trường gây ảnh hưởng tới các cán cân đầu tư khác, dẫn tới sự sụp đổ của không ít
công ty tài chính, dẫn tới việc Chính phủ bắt buộc phải có những can thiệp. (Định nghĩa của Sundarajan và
Balino năm 1991).
• Khủng hoảng tài chính là việc mất niềm tin vào giá trị của đồng tiền hoặc những tài sản tài chính khác khiến
cho các nhà đầu tư quốc tế thu hồi quỹ đầu tư của họ ra khỏi quốc gia bị khủng hoảng.
3. Dấu hiệu của khủng hoảng tài chính :
Tùy theo mức độ và phạm vi, khủng hoảng tài chính thể hiện qua các điểm sau đây :
- Sự giảm giá dây chuyền của các đồng tiền.
- Tỷ giá hối đoái tăng đột biến và dây chuyền.
- Lãi suất tín dụng gia tăng : lãi suất tăng kéo theo cầu tiền tệ, cầu tín dụng sụt giảm làm cho hoạt động sản xuất
kinh doanh bị suy giảm.
- Hệ thống ngân hàng bị tê liệt.
- Thị trường cổ phiếu sụt giá nhanh chóng.
- Các hoạt động kinh tế bọ suy giảm.

4. Phân loại khủng hoảng tài chính :
4.1 Khủng hoảng tiền tệ (Currency crisis) :
Khủng hoảng tiền tệ còn được gọi là khủng hoảng tỷ giá hối đoái nổ ra khi hoạt động đầu cơ tiền tệ dẫn
đến sự giảm giá một cách đột ngột của đồng nội tệ hoặc trường hợp buộc các cơ quan có trách nhiệm phải bảo
vệ đồng tiền của nước mình bằng cách nâng cao lãi suất hay chi ra một khối lượng lớn dự trữ ngoại hối.
4.2 Khủng hoảng ngân hàng (Banking Crisis) :
Khủng hoảng ngân hàng rất hay gặp do ngân hàng là trung gian tài chính nhận tiền gửi của các cá nhân
và pháp nhân cho vay nên rủi ro dồn cả về mặt số lương, thời hạn cũng như chùng loại tiền. Ngân hàng có thể
lâm vào khủng hoảng do cho vay quá mức và không thu hồi lại được dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn cao làm cho
ngân hàng không thể thanh toán các nghĩa vụ khi đến hạn. Ngân hàng là một hệ thống chặt chẽ nên khủng
hoảng rất dễ lây lan và tạo khủng hoảng cả hệ thống. Trong trường hợp khủng hoảng, các ngân hàng thương
mại thường có xu hướng siết chặt các điều kiện tín dụng hay nâng lãi suất để bù đắp rủi ro và kết quả là đẩy
các doanh nghiệp vào tình thế khó khăn do thiếu nguồn tài chính để hoạt động.
4.3 Khủng hoảng kép (Twin Crisis) :
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 4
Dòng người ồ ạt đến rút tiền
tại ngân hàng Northern Rock
(Anh) 1 ngày sau khi ngân
hàng này yêu cầu và được tài
trợ khẩn cấp từ Bank of
England do khủng hoảng
ngân hàng.
(Nguồn : BBC News)
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
Khủng hoảng kép xảy ra khi khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng xảy ra đồng thời với nhau.
4.4 Khủng hoảng nợ quốc gia (National Debt Crisis) :
Trường hợp một quốc gia vay nợ nước ngoài (vay chính thức, vay thương mại) quá nhiều, sử dụng
không hiệu quả vốn nên không trả được nợ đúng hạn, lâm vào khủng hoảng buộc phải xin hoãn nợ, xóa nợ
thậm chí phải tuyên bố vỡ nợ (như trường hợp của CHDCND Triều Tiên). Có nhiều tiêu chí đánh giá khả năng
thanh toán nguồn vay nước ngoài của một quốc gia, trong đó chỉ tiêu quan trọng nhất là tỷ lệ giữa nguồn vay

nước ngoài cả gốc và lãi mà quốc gia đó trả trong một năm trên tổng kin ngạch xuất khẩu của quốc gia đó
trong năm đó hoặc năm trước đó. Bình thương chỉ tiêu này nằm dưới 20%, nếu chỉ tiêu này lớn hơn 20%
chứng tỏ lượng vốn vay nước ngoài của quốc gia đó quá lớn. Khủng hoảng nợ xảy ra khá nhiều (Argentina, hay
nhiều nước châu Phi vừa qua) cùng với tiến trình toàn cần hóa kinh tế do các điều kiện vay nợ nước ngoài trở
nên dễ dàng hơn.
4.5 Khủng hoảng thị trường chứng khoán (Crisis of Security Market) :
Với tư cách là đỉnh cao của kinh tế thị trường, thị trường chứng khoán rất ngạy cảm và phức tạp nên
cũng dễ đổ vỡ. Khủng hoảng thị trường chứng khoáng xảy ra khi giá chứng khoán biến động mạnh (“tuột dốc”
hay “giảm không phanh” quá nhanh) ngoài tầm kiểm soát và do hiệu ứng “bầy đàn” làm cho chứng khoán bị
“bán đổ”, “bán tháo” hay thị trường bị “đông cứng” vì không có giao dịch tạo ra sự thâm hụt giữa tiền (chứng
khoán) vào so với tiền ra thị trường chứng khoán (quỹ chứng khoán).
4.6 Khủng hoảng cán cân thanh toán/ Cán cân vãng lai/ Cán cân vốn (Crisis of
Balance of Payment/ Crisis of Current Account/ Crisis of Capital Account) :
Khủng hoảng xảy ra khi cán cân này thâm hụt quá nặng trong thời gian dài và không có nguồn bù đắp.
Khủng hoảng cán cân vãng lai thường xảy ra khi cán cân thương mại (nhập trừ đi xuất) bị thâm hụt. Khủng
hoảng cán cân thanh toán khi tổng các luồng ngoại tệ ra lớn hơn ngoại tệ vào gây nên thâm hụt nặng nề.
4.7 Khủng hoảng khả năng tính thanh khoản (Crisis of Liquidity) :
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 5
Cuộc khủng hoảng Argentina 2001-
2002 đã nhấn chìm một trong những
trung tâm kinh tế năng động nhất Nam
Mỹ vào cảnh đói nghèo, tình hình xã
hội hết sức hỗn độn. Chỉ trong vòng 1
tuần, có tới 5 vị Tổng thống lên và
xuống chức. Người dân, công nhân,
viên chức liên tục xuống đường biểu
tình.
Trong hình, người dân Argentina xuống
đường biểu tình khi nước này rơi vào
cảnh phá sản.

(Nguồn : vnexpress.net)
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
Nếu các loại khủng hoảng tài chính ở trên liên quan tới cả ba mặt : số lượng, thời hạn và chủng loại tiển
thì khủng hoảng tính thanh khoản là sự mất cân đối chủ yếu liên quan tới thời hạn và chủng loại của tài sản
“giống như tiền” và một số loại tài sản đặc thù.
4.8 Khủng hoảng ngân sách (Budget Crisis) :
Ngân sách nhà nước thâm hụt nặng và kéo dài trong khi các nguồn thu bù đắp thâm hụt (in tiền, vay nợ
trong và ngoài nước) bị hạn chế hay không thể lạm dụng hơn nữa nếu muốn tránh hậu quả như vỡ nợ hay
bùng nổ lạm phát.
Trên đây là những dạng khủng hoảng tài chính cơ bản và trong tương lai có thể
xuất hiện thêm nhiều dạng nữa cùng với sự phát triển của thị trường tài chính trong
tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Các nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính :
5.1 Nguyên nhân bên ngoài :
* Như đã đề cập ở trên, các quan hệ tài chính là một phần của quan hệ kinh tế, có mối quan hệ mật
thiết, hữu cơ với nền sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng hoá tiền tệ. Hệ thống tài chính được coi như huyết
mạch trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế suy thoái, tức là nền sản xuất hàng hoá giảm sút, không thu được lợi
nhuận. Để đảm bảo an toàn cho tiền của mình bên cung vốn muốn rút vốn lại hoặc không muốn cho vay vì sợ
không thu hồi được nợ. Do đó các ngân hàng, tổ chức tài chính sẽ phải đối mặt với một lượng tiền mặt lớn để
trả cho người gửi, dẫn đến nguy cơ phá sản. Trên thị trường chứng khoán lúc này giá trị thực của các công ty
niêm yết sẽ tụt dốc làm xuất hiện tình trạng bán tháo cổ phiếu, trái phiếu…
* Ngoài ra các tài sản do các tổ chức định chế tài chính nắm giữ cũng bị mất giá nghiêm trọng làm giá trị
thực của chúng bị giảm, gây nên tình trạng khủng hoảng. Tính thanh khoản của thị trường theo đó cũng đi
xuống.
* Chẳng những thế, tình trạng làm ăn thua lỗ, phá sản của các công ty, tập đoàn sản xuất cũng kéo theo
những khoản đền bù khổng lồ từ các công ty bảo hiểm làm cho các công ti này cũng bị sụp đổ theo do không
đủ khả năng chi trả.
* Suy thoái kinh tế là vấn đề mang tính chu kì do đó khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ suy thoái kinh
tế cũng mang tính chu kì. Nền kinh tế suy thoái chứng kiến sự thua lỗ, phá sản của hàng loạt không những của
hãng sản xuất mà còn cả sự sụp đổ trong lĩnh vực tài chính. Suy cho cùng tài chính cũng là một bộ phận của

kinh tế.
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 6
Người vô gia cư ở Tây Ban
Nha tăng vọt sau khi nước
này “gia nhập” cuộc khủng
hoảng nợ công ở khu vực
đồng euro cùng với các nước
Hy Lạp, Bồ Đào Nha và
Ireland.
(Nguồn : euobserver.com)
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
5.2 Nguyên nhân bên trong :
Trên thị trường tài chính, khủng hoảng có thể do nguyên nhân từ hoạt động bên trong của chính nền tài
chính ấy. Trong nền tài chính của bất kì một quốc gia nào dù phát triển đến đâu cũng phải đối mặt với những
vấn đề như: thông tin không cân xứng, chọn lựa đối nghịch, rủi ro đạo đức…
6. Hệ quả của khủng hoảng tài chính :
* Khủng hoảng tài chính, nói chung, thường gây ra những tác động lớn đối với xã hội. Bởi kinh tế đóng
vai trò then chốt trong việc ổn định trật tự xã hội, nên khi nền kinh tế bị tác động mạnh, nó sẽ kéo theo những
ảnh hưởng (cả tích cực lẫn tiêu cực) trong mọi lĩng vực, mọi khía cạnh của đời sống.
* Xét về mặt tiêu cực, khủng hoảng tài chính góp phần không nhỏ làm đảo lộn trật tự xã hội. Trong tất
cả các doanh nghiệp, tài chính luôn là vấn đề cốt lõi nhằm duy trì sự hoạt động của doanh nghiệp và cuộc sống
của người lao động. Khi gặp phải khủng hoảng tài chính, các doanh nghiệp khó có khả năng mở rộng đầu tư và
phát triển, gây sự đình trệ trong công việc, thậm chí phá sản. Theo hiệu ứng dây chuyền, sự phá sản của doanh
nghiệp này sẽ tác động tới các doanh nghiệp khác và cao hơn nữa là toàn bộ nền kinh tế (tùy theo quy mô của
doanh nghiệp). Không những thế, khủng hoảng tài chính còn góp phần gây ra những bất ổn về xã hội do lượng
người thất nghiệp gia tăng.
* Bên cạnh đó, khủng hoảng tài chính cũng có những tác động tích cực lên nền kinh tế. Nó báo hiệu sự
chấm dứt thể độc tôn của các “ông lớn” trên thị trường tài chính, góp phần làm thay đổi diện mạo của nền
kinh tế. Đồng thời, khủng hoảng tài chính cũng buộc người ta phải xem xét, sửa đổi các nguyên tắc đã quy định
lên hệ thống tài chính từ trước tới nay, loại bỏ những nguyên tắc đã không còn thích hợp để thích ứng với

những biến đổi trong xã hội, từ đó có cái nhìn đúng đắn hơn và chủ động ứng phó với những cuộc khủng
hoảng trong tương lai.
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 7
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
7. Các phương pháp dự báo khủng hoảng tài chính :
7.1 Phương pháp chỉ tiêu :
Diễn biến của tỉ giá thực, cán cân thương mại hoạc cán cân vãng lai, tiền lương thực tế và lãi suất là
những chỉ số quan trọng cảnh báo về một cuộc khủng hoảng.
Ví dụ : Thái lan – Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô
Chỉ tiêu
1992 1993 1994 1995 1996
Tốc độ tăng GD (%)
8.1 8.3 8.7 8.7 6.7
Chỉ số giá CPI (%)
4.1 3.4 5.2 5.7 5.8
Thâm hụt cán cân thương mại (tỉ
USD)
-6.3 -6.4 -8.1 -13.6 -15.3
Tốc độ tăng xuất khẩu (%)
13.7 13.4 22.2 24.7 -1.8
Tốc độ tăng nhập khẩu (%)
6.0 12.2 18.5 31.6 3.1
Nợ nước ngoài (tỉ USD)
39.6 45.8 60.1 75.6 83.0
7.2 Phương pháp dự báo dựa trên các nguy cơ :
* Dựa trên thực tế cuộc khủng hoảng diễn ra năm 1997 ảnh hưởng nặng nề tới Thái Lan và Hàn Quốc
các nhà kinh tế học đã xây dựng mô hình “Các nguy cơ khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng
kinh tế - tài chính”.
* Bốn nguy cơ tích lũy khủng hoảng :
- Sự kém hiệu quả của các doanh nghiệp.

- Sự kém hiệu quả của các ngân hàng, công ty tài chính.
- Sự lên giá của đồng nội tệ.
- Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán.
Tác động mang tính quyết định từ bên ngoài đó là sự rút vốn tài chính cùa các nhà đầu tư nước ngoài.
* Phương pháp xác định các chỉ số cảnh báo chủ chốt :
Theo ý kiến của Kaminsky, Lizodo và Reinhart đã chọn ra những chỉ số có khả năng cảnh báo tốt nhất.
Cả ba người đều cho rằng :
- Một hệ thống cảnh báo tin cậy cần bao quát nhiều chỉ số khác nhau bởi lẽ khủng hoảng tiền tệ thường là hậu
quả của nhiều vấn đề kinh tế - xã hội, tâm lý và đôi khi còn mang tính chất chính trị phức tạp.
- Những biến số thường được sử dụng với danh nghĩa là những chỉ số cảnh báo về một cuộc khủng hoảng tiền tệ
có thể là : dự trữ ngoại tệ giảm dần, nội tệ lên giá, tăng trưởng tín dụng quá mức và lạm phát gia tăng, tính
trạng tồi tệ của cán cân thương mại kết quả của xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng của GDP thực tế cũng như sự
gia tăng trong lượng tiền cung ứng, tỉ lệ khối tiền tệ mở rộng (M2 hoạc M3) so với tổng dự trữ quốc gia và
thâm hụt ngân sách cũng là những chỉ số quan trọng cần được tính đến.
- Đối với các chỉ số khác thì những kết luận chỉ mang tính chất thử nghiệm vì chúng chỉ được rút ra chủ yếu từ
một hoặc hai công trình nghiên cứu trên lĩnh vực này. Như vậy một biên số tài chính, thể chế và chính trị cũng
ít nhiều có hiệu lực trong dự báo các cuộc khủng hoảng tài chính.
- Các biến số liên quan tới nợ nước ngoài không có ý nghĩa lắm. Mặt khác, trái với thông lệ, cán cân vãng lai
không nhận được nhiều sự đồng tình trong vai trò một chỉ số cảnh báo tin cậy về một cuộc khủng hoảng. Điều
này có thể là do những thay đổi của tỷ giá hối đoái đã phản ánh diễn biến của cán cân vãng lai trong phần lớn
các công trình nghiên cứu, người ta thấy rằng khi mà ảnh hưởng của cán cân vãng lai không nhiều lắm thì ở đó
các tỷ giá hối đoái thực cũng không có tác dụng.
8. Một số phương pháp ngăn ngừa cơ bản :
* Tại cuộc họp các bộ trưởng tài chính tại Washington tháng 5 năm 1999, người ta thông qua bản kế
hoạch ngăn ngừa khủng hoảng như sau :
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 8
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
- Tránh tác động qua lại giữa mất cân đối bảng cân đối tài chính của ngân hàng với tỷ giá cố định.
- Nhiều ý kiến cho rằng chính ngân hàng ở các thị trường mới nổi cần phải ngăn cản những khoản vay ngoại tệ
ngắn hạn nhiều rủi ro.

- Tránh áp dụng chế độ tỷ giá cố định là một biện pháp quan trọng làm cho rủi ro tiền tệ không được bảo hiểm
trở nên rõ ràng và đơn giản hơn, song vẫn chưa đủ về những biến động tiền tệ vẫn xảy ra cả khi đã áp dụng
chế độ tỷ giá thả nổi.
- Áp dụng biện pháp kiểm soát vốn nghĩa là sử dụng các hình thức cấm đoán song phải đặc biệt chú ý để không
dẫn tới sự lạm dụng, tham nhũng hay tạo ra những kẽ hở.
- Thuế có vẻ như là biện pháp được ưa chuộng, chẳng hạn Chilê đã thành công trong việc đánh thuế những
khoản vay bằng ngoại tệ mặc dù biện pháp này khá thô bạo.
* Nhiều nhà kinh tế đề xuất các giải pháp ngăn ngừa như sau :
- Nền kinh tế quốc gia không thể dựa chủ yếu vào vốn bên ngoài đặc biệt là vốn vay ngắn hạn và đầu tư vào thị
trường cổ phiếu. Nhà nước cần theo dõi và có chính sách hạn chế vay mượn nước ngoài dù tư nhân hay Nhà
nước ở mức độ nền kinh tế có thể chịu đựng được.
- Xác định đúng tỷ giá hối đoái nhằm tạo tính cạnh tranh cho xuất khẩu, tăng hiểu quả sử dụng hàng nhập khẩu.
Cân bằng cán cân thương mại đồng thời có biện pháp ngăn chặn dòng vốn ngắn hạn có tính chất đầu cơ.
- Cần có biện pháp giảm áp lực tăng giá bất động sản tránh tình trạng nền kinh tế “bong bóng” nhằm tạo môi
trường ổn định cho đầu tư và đời sống nhân dân. Tăng thuế thu nhập do mua đi bán lại trong thời gian ngắn là
biện pháp hữu hiệu nhằm giảm bớt nhu cầu đầu cơ.
- Ngăn chặn tình trạng “bong bóng” trên thị thường cổ phiếu, cần hạn chế người nước ngoài mua cổ phiếu và
vay tín dụng ngân hàng để mua cổ phiếu cũng như dùng chứng khoán để thế chấp vay mượn.
Kết luận : Theo như trên thì kiểm soát vốn là công cụ ngăn ngừa khủng hoảng tài chính – tiền tệ hữu
hiệu nhất vì :
- Kiểm soát vốn có thể được sử dụng như một phương pháp để đảm bảo sự độc lập của chính sách tiền tệ.
- Kiểm soát vốn có thể được biện minh như một công cụ nhằm cải thiện an ninh kinh tế. Sự đảm bảo tuyệt đối
của Chính phủ đối với các khoản nợ nước ngoài đi kèm với hệ thống thông tin tương xứng giữa ngân hàng và
các cổ đông (những người gửi tiết kiệm) cũng đưa đến an sinh xã hội.
- Tự do hóa tài chính là tất yếu khách quan với một quốc gia mong muốn tăng lợi ích đầu tư, đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng, nâng cao mức sống. Tuy nhiên, với các thị trường tài chính chưa hoàn thiện, các dòng chuyển
dịch vốn không ổn định thì việc kiểm soát vốn sẽ giảm bớt những rủi ro đạo đức, lựa chọn nghịch, đối xử
không công bằng… nếu có các chính sách hợp lý như thuế, giám sát ngân hàng sự đảm bảo của Chính phủ và
pháp luật…
CH ƯƠ NG II : KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐÔNG Á 1997

Khủng hoảng tài chính Đông Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm
1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá
cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là
"những con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là Cuộc khủng hoảng
tiền tệ Đông Á, hoặc cục bộ, là Cuộc khủng hoảng quỹ tiền tệ quốc tế, tuy nhiên, ở một điểm
nào đấy, cái tên sau còn gây nhiều tranh cãi.
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc
khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá
bất thình lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt Nam không bị ảnh
hưởng mấy. Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh tế
Nhật phải kinh qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình.
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 9
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông Á, nhưng
ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính trên toàn
cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brazin và Hoa Kỳ.
1. Nguyên nhân :
Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á, xét theo cả cấp độ quốc gia lẫn khu vực, chính là kết quả “hợp lực”
của sự tác động qua lại giữa ba nhóm nguyên nhân chủ yếu : từ phía các chính sách vĩ mô của Chính phủ, các
nhà đầu tư trong nước và các nhân tố bên ngoài vượt khỏi tầm kiểm soát của các nước trong khu vực.
1.1 Nhóm nguyên nhân thứ nhất : Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém của Chính
phủ.
Trong một thời gian dài, các nước châu Á đã đạt được những thành tựu kinh tế mà các nhà kinh tế đã
gọi là hiện tượng châu Á hay một “châu Á diệu kỳ”. Từ giữa những năm 1960 đến giữa những năm 1990, thu
nhập bình quân đầu người tăng hơn 4 lần ở Malaysia, Indonesia và Thái Lan; 7 lần ở Hàn Quốc. Nhìn chung
trong giai đoạn này cho đến trước khủng hoảng, chúng ta thấy một Đông Á được quản lí tốt, tốc độ tăng
trưởng cao liên tục, lạm phát thấp, ngân sách cân đối về cơ bản, nền kinh tế được tự do hóa ở một mức độ
cao. Không có gì cho ta thấy là các nước này sẽ trượt ra khỏi quỹ đạo tăng trưởng mạnh trong suốt những thập
kỷ đó.
Các chỉ số kinh tế vĩ mô năm 1996

Các nước Mức tăng GDP Lạm phát Thặng dư tài khoản
vãng lai (%GDP)
Thặng dư khối hành
chính (%GDP)
Hàn Quốc 7,1 4,5 -4,7 +0,0
Indonesia 8,0 6,6 -3,4 +0,6
Thái Lan 5,5 4,8 -8,1 +2,2
Malaysia 8,6 3,3 -4,9 +4,0
Song đằng sau những thành công mà cả thế giới đều phải ghi nhận là những “tảng đá ngầm” chứa
đựng những nguy cơ tiềm tang dẫn đến sự bất ổn. Có thể thấy rõ, đó là :
- Sự chậm trễ và cứng nhắc trong điều hành chính sách tỷ giá khiến các đồng bản tệ bị định giá cao giả tạo trong
một thời gian dài so với đồng đôla Mỹ. Tỷ giá được giữ ổn định quá lâu và sự gia tăng một khối lượng lớn vốn
nước ngoài ngắn hạn vào trong nước do chính sách lãi suất cao đã kích thích sự gia tăng giá trị tài sản và cổ
phiếu. Nền kinh tế trở nên nóng hơn, sự tăng giá tài sản, bất động sản và cổ phiếu đã tiềm ẩn trong nó nguy cơ
làm phát sinh một nền kinh tế ảo.
Từ năm 1995-1997, đồng USD đổi chiều liên tục, tăng giá tới 50% so với đồng yên, với Trung Quốc phá giá
đồng nhân dân tệ hơn 30% vào cuối năm 1994 cùng chính sách neo giữ tỷ giá vào USD nói trên khiến các đồng
bản tệ tăng giá giả tạo.
- Chính sách tự do hóa các hoạt động kinh tế khong được tiến hành đồng bộ đi đôi với việc tăng cường giám sát
hoạt động của các cơ sở kinh doanh và các tổ chức tài chính ngân hàng. Tình trạng chung của các nước châu Á
lúc bấy giờ là :
+ Nền kinh tế thị trường chưa hoàn hảo.
+ Sự can thiệp khá sâu vào nền kinh tế thông qua chính sách công nghiệp dẫn đến tình trạng bao cấp và cắt
giảm thuế cho một số ngành Công nghiệp trong khu vực.
+ Tình trạng thị trường lao động kém linh hoạt (Hàn Quốc); hệ thống giám sát ngân hàng không hợp lý, thiếu
minh bạch.
+ Thiếu đồng bộ và tính minh bạch trong hệ thống pháp luật, tình trạng tham nhũng và kinh tế ngầm phát
triển.
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 10
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.

- Có sự mất cân đối lớn trong nền kinh tế như là kết quả của những sai lầm nêu trên. Mất cân đối lớn nhất và đe
dọa trực tiếp đến sự ổn định của hệ thống tài chính – tiền tệ mỗi nước là sự thâm hụt tài sản vãng lai và cơ cấu
vốn nước ngoài đổ vào trong nước. Ngoài ra còn có sự kém phát triển của hệ thống giáo dục cộng với tình
trạng thiếu lao động lành nghề, từ đó đẩy mức lương lao động lên nhanh hơn so với tốc độ tăng sản lượng,
làm hao mòn sức cạnh tranh quốc tế và gây khó khăn cho việc phát triển những ngành công nghệ cao.
1.2 Nhóm nguyên nhân thứ hai: Sai lầm của các nhà đầu tư trong
nước.
Trước hết phải khẳng định rằng một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra cơn bùng phát khủng
hoảng tài chính tiền tệ hiện nay ở châu Á là do sự “nóng lên” dẫn đến “khủng hoảng nợ” ở khu vực kinh tế tư
nhân. Sự tăng lên ồ ạt của các khoản nợ đã làm cho nền kinh tế trở nên khó kiểm soát cộng thêm sự quản lí
lỏng lẻo của Chính phủ đã làm méo mó cơ chế thị trường dẫn đến sự sút giảm kim ngạch xuất khẩu, đồng thời
cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp cũng giảm đáng kể.
Trên khía cạnh cơ bản nhất, lý do chủ yếu của cuộc khủng hoảng Đông Á là việc không làm chủ được
quá trình mở cửa tiếp cận vốn nước ngoài.
Kindleberger đã nhận xét rằng : chi phí sử dụng đồng tiền quá thấp dường như là một yếu tố quan
trọng trong sự bùng nổ của nhiều cuộc khủng hoảng tài chính, yếu tố này khiến các nhà đầu tư tìm cách lao
vào các hoạt động rủi ro hơn nhằm kiếm những khoản lợi nhuận khá hơn.
1.3 Nhóm nguyên nhân thứ ba : Các nhân tố bên ngoài vượt khỏi tầm kiểm soát
của các nước trong khu vực.
- Trước hết, chính sách tiền tệ tín dụng của các nước lớn trong và ngoài khu vực châu Á, đặc biệt là Mỹ.
- Ảnh hưởng của những hoạt động tiền tệ tín dụng nước ngoài có tính đầu cơ đã thổi phồng các cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ và làm tăng khả năng lây nhiễm. Chính phủ cũng đưa lượng cung bản tệ lên quá cao.
Theo tính toán của IMF, hầu hết các nước Đông Nam Á và Đông Bắc Á đều có mức tăng lượng cung tiền hàng
năm từ 2-5 lần tốc độ tăng trưởng GDP.
- Sự tham gia của một số nước mới đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ vào thị trường xuất khẩu của các nước
Đông Nam Á. Điều đó làm cho hàng hóa của những nước này mất đi lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế,
xuất khẩu đình trệ.
- Cuối cùng là sự biến đổi nhanh chóng của tương quan cung cầu và vòng đời sản phẩm trên thị trường thế giới
mà trình độ phát triển năng lực sản xuất hiện tại của các nước châu Á chưa thể thích ứng kịp trong ngày một
ngày hai.

Tóm lại, xét cho cùng thì những nguyên nhân từ phía bản than các nước đang chịu khủng hoảng nặng nề mới là
lý do chính yếu gây nên cuộc khủng hoảng này.
2. Diễn biến :

2.1 Thái Lan – ngòi nổ của cuộc khủng hoảng :
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan có một nền kinh tế mạnh, tăng trưởng với tốc độ bình
quân hàng năm là 9%, được xem là tấm gương về quản lí kinh tế hiệu quả. Thái Lan được xếp vào nhóm các
nền kinh tế đạt thành tựu cao của châu Á, lạm phát thấp, ngân sách Chính phủ luôn dư thừa, cán cân thanh
toán có thể kiểm soát được, đầu tư tăng vọt, tình trạng thất nghiệp hầu như không có. Cuối năm 1996, báo
cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng
kinh tế có thể không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh.
Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi.
- Ngày 4&5 / 3 / 1997, hơn 21,4 tỷ baht đã được rút khỏi các ngân hàng và công ty tài chính.
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 11
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
- Ngày 9 / 4 / 1997, Chính phủ ra lệnh đóng cửa 16 công ty tài chính, nâng tổng số công ty tài chính bị đóng cửa
lên 58/91 (chiếm 64% toàn quốc). Chính phủ bán ngoại tệ làm dự trữ ngoại tệ giảm.
- Ngày 14&15 / 5 / 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn.
- Ngày 30 / 6 / 1997, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá baht
- Ngày 2 / 7 / 1997, thấy trước nguy cơ, Chính phủ Thái Lan thả nổi đồng baht. Baht ngay lập tức mất giá gần
50%.
- Vào tháng 1 / 1998, giá đồng baht đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường
chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn
hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của
Thái Lan bị phá sản.
- Ngày 11 / 8 /1998, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan.
- Ngày 20 / 8 / 1998, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar.
2.2 Indonesia – Hiệu ứng lan truyền của cuộc khủng hoảng :
Indonesia phát triển liên tục trong suốt 30 năm với nhịp độ tăng trưởng trung bình 6%GDP/năm. Tuy
nhiên cuộc khủng hoảng tài chính bùng nổ ở Thái Lan đã nhanh chóng lan truyền vào Indonesia.

- Khủng hoảng tài chính được khởi đầu bằng việc mất giá của đồng Rupiah.
- Tháng 7 / 1997, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới rộng biên độ
dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8 / 1997, đồng Rupiah bị giới đầu
cơ tấn công.
- Ngày 14 / 8 / 1997,chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn.
Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ
Dollar, nhưng đồng Rupiah vẫn rớt giá không cứu vãn được do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar
Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Thời điểm rớt giá cao nhất lên tới trên 625%.
- Tháng 9 / 1997, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử.
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 12
 Cùng với sự phá giá đồng baht là các ngân hàng,
công ty tài chính sụp đổ, tỷ giá hối đoái tăng cao,
các doanh nghiệp phá sản hàng loạt làm bùng nổ
khủng hoảng kinh tế tài chính ở Thái Lan – khởi
đầu cho khủng hoảng kinh tế tài chính ở Đông Á.
Đồng baht sụp đổ, nền kinh tế khủng
hoảng trầm trọng đã đẩy Thái Lan vào
tình trạng bạo loạn lan tràn, thủ tướng
Chavalit Youngchaiyudh từ chức, đời
sống nhân dân khó khăn.
(Nguồn : businessinsider.com)
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
- Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là làm cho món nợ ngân
hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có
nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
- Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000 : 1. Nhưng trong thời kỳ khủng
hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1. Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo
Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm đi.
2.3 Malaysia :
- Năm 1997, Malaysia có một lương lớn tài khoản vãng lai thâm hụt 6% GDP.

- Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 / 7 / 1997), đồng Ringgit bị tấn công bởi những kẻ đầu cơ bằng
việc bán đi một cách bất hợp pháp các cổ phần có nguồn gốc Malaysia ở Singapore. Ringgit đã giảm từ mức
3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản
bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong
tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài.
Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997.
- Ngày 6 / 7 / 1997, Standard & Poor’s đánh giá thấp tỷ lệ nợ của Malaysia.
- Ngày 13 / 7 / 1997, thị trường chứng khoán Kuala Lumpur sụt xuống còn 856 điểm, thấp nhất từ năm 1993.
- Ngày 2 / 10 / 1997, đồng Ringgit lại một lần nữa rớt giá, thủ tướng Mahathir bin Mohamad ngay lập tức đưa ra
chương trình kiểm soát vốn, Tuy nhiên, hệ thống tiền tệ cũng không tránh khỏi sự sụp đổ vào cuối năm 1997
khi thủ tướng tuyên bố sẽ sử dụng 10 tỷ Ringgit vào các kế hoạch đường bộ, tàu điện và ống dẫn dầu.
- Năm 1998, sản lượng đầu ra của nền kinh tế bị suy giảm. Sản lượng của khu vực xây dựng rút xuống 23,5%,
ngành công nghiệp thu hẹp 9% còn nông nghiệp là 5,9%. Xét tổng thể thì GDP của Malaysia giảm mạnh 6,2%
năm 1998.
2.4 Philippines :
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines
đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn
(lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso/USD
xuống còn 38 peso/USD vào năm 2000 và còn 40 peso/USD vào cuối cuộc khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ bê bối
của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng hợp
PSE của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng
3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá.
Cuộc khủng hoảng đã dẫn tới sự ra đi của tổng thống Joseph Estrada, thay thế vị trí đó là bà
Gloria Macapagal-Arroyo, bà là người đưa đất nước Philippines thoát khỏi cuộc khủng hoảng này.
2.5 Hàn Quốc – Sự sụp đổ của các tập đoàn kinh tế (Chaebol) :
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 13
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc
khổ theo yêu cầu của IMF khiến chính phủ phải bỏ trợ
giá lương thực và xăng. Tình trạng bạo động để tranh

giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có
tới 500 người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh
tế đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm
1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
Phong trào sinh viên biểu tình vào tháng
5/1998 tại Jakarta.
(Nguồn : fourwinds10.net)
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
- Các tập đoàn kinh tế lớn (chaebol) được coi là những trụ cột của nền kinh tế Hàn Quốc. Thế nhưng
chưa đầy 10 tháng, 7/30 tập đoàn lớn nhất đã gục ngã. Phải đến khi tập đoàn thép Hanbo – tập đoàn
lớn thứ 14 cũa Hàn Quốc gục ngã vì không đủ sức thanh toán tổng số vốn nợ thì nền kinh tế Hàn
Quốc mới thật sự bị chấn động. Như một bệnh dịch có khả năng lan truyền cao, hàng loạt các tập
đoàn khác lần lượt gục ngã. Sự đổ vỡ của một loạt tập đoàn lớn đã giáng một đòn nặng nề vào hệ
thống tài chính ngân hàng của nước này vốn vẫn được coi là tụt hậu nhiều so với nền kinh tế. Mối lo
ngại cho ngành tài chính ngân hàng là khả năng trả nợ nước ngoài, và việc đồng won mất giá.
- Tháng 11 / 1997, các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn.
- Ngày 17 / 11 / 1997, đồng won giảm quá mức dự đoán là 1000 won/USD và tiếp tục giảm trong nhiều
ngày sau đó.
- Ngày 17 / 11 / 1997, đồng won giảm xuống mức kỷ lục là 1153 won/USD, tức là giảm 36,6% so với
cuối năm 1996 và 19,5% so với mức cuối tháng 10 / 1997.
- Ngày 28 / 11 / 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3,
sau đó vào ngày 11 / 12 / 1997, lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp phần làm cho giá chứng khoán
của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%.
Ngày 24 / 11 / 1997, lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách
khắc khổ.
Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000
KRW/USD.
2.6 Nhật Bản – Sự sụt giá của đồng Yên :
Vượt qua Hàn Quốc, cơn bão khủng hoảng tài chính tiền tệ tràn vào đất nước mặt trời mọc –
Nhật Bản. Một số công ty chứng khoán ở Nhật Bản bị phá sản, hàng ngàn người lao động mất việc

và buộc thủ tướng Hashimoto phải từ chức.
Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Nhật Bản khởi đầu bằng việc sụt giá của đồng yên từ tháng 5 /
1998, vào cuối tháng 8 / 1998 ở mức 145,5 yên/USD. Tốc độ tăng trường chậm một cách đáng nhớ
trong năm 1997, từ 5% xuống cón 1,6% và chìm đắm trong suy thoái 1998.
Như vậy sự yếu kém và mức độ bất ổn cao của đồng yên đã làm thay đổi tính chất của cuộc
khủng hoảng. Không còn đơn thuần là cuộc khủng hoảng tài chính mà nó biến thành cuộc khủng
hoảng kép (khủng hoảng tài chính tiền tệ), kèm theo nguy cơ của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
diện.
Trên phạm vi toàn cầu, cơn bão tiền tệ Nhật Bản cũng đang chứng tỏ sức tàn phá của mình.
Thị trường chứng khoán khắp nơi rung lên theo động thái thất thường của đồng yên. Số phận của
đồng đôla và thị trường chứng khoán Hồng Kông đang đứng trước một thử thách mới gay gắt. Thực
tế là tháng 10 / 1997, thị trường chứng khoán Hồng Kông sụp đổ. Ngày 27 / 10 / 1997 chỉ số công
nghiệp Dow Jones giảm mạnh 554 điểm, thị trường chứng khoán tại New York tạm thời đóng băng.
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 14
Các tập đoàn kinh tế sụp đổ kéo theo một
lượng lớn người lao động Hàn Quốc rơi
vào cảnh thất nghiệp.
(Nguồn : money.cnn.com)
Sau một thời gian hoành hành ở
các nước Đông Nam Á như Thái Lan,
Indonesia, Malaysia, Philippines… Đến
tháng 10 / 1997, cuộc khủng hoảng tài
chính bắt đầu xảy ra ở Hàn Quốc. Nhiều
nhà kinh tế nhận định, thực chất sự suy
thoái kinh tế ở Hàn Quốc là sự sụp đổ
một loạt các tập đoàn kinh tế lớn.
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
2.7 Trung Quốc – một bức tường thành :
Kể từ khi biến động tài chính nổ ra ở Thái Lan vào tháng 7 / 1997 gây ra cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ khu vực châu Á, đến nay Trung Quốc là nước Đông Á duy nhất đứng ngoài cuộc khủng

hoảng tài chính này và luôn là điểm sang tăng trưởng của khu vực.
Do cuộc khủng hoảng, kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc bắt đầu giảm từ tháng 7 /
1997, xong mức giảm sút không nghiêm trọng lắm. Tỷ giá hối đoái của đồng yuan về cơ bản vẫn ổn
định. Chỉ số tháng 1, tháng 6 và tháng 12 năm 1996 tương ứng là 105,82%; 107,16%; 109,08%. Như
vậy sự biến động ở mức khá ổn định trong năm nay. Do tỷ giá hối đoái của các đồng tiền Đông Nam
Á và đồng Won nối đuôi nhau giảm sút làm cho thị trường Trung Quốc có thể bị ảnh hưởng chút ít
nhưng có một điều chắc chắn rằng thị trường tàu chính của Trung Quốc sẽ vẫn ổn định và đồng yuan
sẽ được duy trì một cách an toàn.
2.8 Singapore :
Luôn được coi là nền kinh tế tương đối khỏe mạnh so với các nước trong khu vực trong suốt
thời kì khủng hoảng nhưng đương nhiên là quốc gia này vẫn bị ảnh hưởng ít nhiều. Tuy nhiên, xét về
tổng thể thì khả năng chèo lái đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng vẫn được chú ý rộng rãi, chính
sách tài khóa cùa Singapore rất đáng để các quốc gia láng giềng học tập. Là một nền kinh tế mở,
đồng đôla Singapore cũng được mở tự do cho thị trường đầu cơ ngay từ 1985. Nền kinh tế đủ năng
động để khiến Singapore trở thành một quốc gia có chỗ đứng độc lập, Chính phủ Singapore quản lý tỉ
giá hối đoái để tránh khả năng tấn công của đầu cơ. Tuy đồng tiền của quốc gia này được coi là đồng
tiền mạnh nhất ASEAN vậy mà vẫn bị rớt giá 10% so với đồng đôla Mỹ trong suốt thời kì khủng
hoảng.
3. Các biện pháp khôi phục kinh tế sau khủng hoảng tài chính Đông Á
1997 :
Để khôi phục nền kinh tế và ngăn ngừa khủng hoảng tái diễn, các nền kinh tế Đông Á bị ảnh hưởng nặng
đều tiến hành các cải cách cơ cấu mạnh mẽ, gồm: cải tổ cách thức quản lý trong khu vực doanh nghiệp, cải
cách tài chính, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô, và đổi mới cả phương
thức tăng trưởng kinh tế.
* Đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô :
Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã và đang thực thi một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt và cơ chế ổn
định giá cả. Cụ thể, các nước từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái neo và hướng tới chế độ mục tiêu lạm phát. Đồng
thời, các nước nỗ lực gia tăng lượng dữ trự ngoại hối nhà nước của mình. Từ 1997 đến 2005, năm nước bị ảnh
hưởng nặng nhất của khủng hoảng đã tăng lượng dự trữ ngoại hối của mình lên bốn lần, đạt 378 tỷ USD.
* Cải cách khu vực tài chính :

Các nước Đông Á đã thực thi các biện pháp, chính sách sau để cải cách khu vực tài chính: (1) Xóa và
giảm nợ xấu, tái vốn hóa các thể chế tài chính; (2) Đóng cửa các thể chế tài chính đổ vỡ, (3) Tăng cường giám
sát và áp dụng các tiêu chuẩn quản trị, kế toán mới đối với các tổ chức tín dụng và tài chính khác; (4) Đẩy mạnh
chuyên môn hóa các thể chế tài chính; (5) Tăng cường giám sát và điều tiết các tổ chức tín dụng đồng thời với
nâng cao kỷ luật thị trường. Yellen (2007) cho thấy các ngân hàng của Hàn Quốc đã áp dụng phương thức quản
trị hiện đại của phương Tây và đã giảm được tỷ lệ sở hữu gia đình tại các ngân hàng, tăng cường lợi ích cho các
giám đốc bằng cách cho họ quyền chọn mua cổ phiếu, v.v Còn các ngân hàng Malaysia đã thay đổi tập quán
cho vay của mình. Giờ đây, họ cho các xí nghiệp nhỏ và vừa vay nhiều hơn.
* Cải tổ cách thức quản lý của khu vực xí nghiệp :
Các nước Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã hoàn thiện các thủ tục về phá sản, nỗ lực tái cơ cấu nợ
của các xí nghiệp, củng cố các quy định và tiêu chuẩn về cáo bạch, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông nhỏ cũng
như nâng cao quyền lực và trách nhiệm của ban giám đốc, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán theo
thông lệ quốc tế, tăng cường mức vốn tự có của doanh nghiệp và tạo thuận lợi cho các hoạt động mua lại và
sáp nhập kể cả với doanh nghiệp trong nước cũng như với doanh nghiệp nước ngoài.
* Cải cách các thị trường :
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 15
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
Các nước Đông Á đã và đang phát triển thị trường trái phiếu định danh bằng nội tệ của mình. Đồng
thời, cải cách thị trường lao động đã cho phép các xí nghiệp tuyển dụng và sa thải lao động dễ dàng hơn, giúp
xí nghiệp của các nước Đông Á trở nên linh hoạt hơn.
4. Tác động :
Không cần nói nhiều thì chúng ta cũng đã thấy được hậu quả nặng nề mà cuộc khủng hoảng
đã để lại cho các nước châu Á. Tùy theo tình hình thực tế ở mỗi nước, mỗi khu vực mà hậu quả để
lại cũng khác nhau. Song nhìn chung, cuộc khủng hoảng đã tác động đến các nước theo 2 hướng
khác nhau : các tác động tiêu cực và các tác động tích cực.
4.1 Các tác động tiêu cực :
* Trước hết. hậu quả dễ nhận thấy nhất và phổ biến nhất mà hầu như nước nào nằm trong khu
vực chịu khủng hoảng cũng gặp phải đó chính là sự mất ổn định của đồng tiền và của thị trường tiền
tệ làm giảm sút các luồng vốn nước ngoài đổ vào mỗi nước và toàn khu vực, giảm sút ngay cả nguồn
vốn trong nước do lãi suất cao và yếu tố long tin. Tất cả những điều đó đã hạn chế tốc độ tăng

trưởng của các nước, giảm sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu và tăng tài khoản thâm hụt vãng
lai. Sự gắng gỏi giữ bản giá tệ đã làm hao kiệt nhanh chóng lượng dự trữ ngoại tệ của nhà nước,
đồng bản tệ bị phá giá nhanh chóng. Cùng với điều đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát tăng cao.
* Cuộc khủng hoảng cũng đánh dấu sự kết thúc một giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh, kéo
dài hàng mấy thập kỷ trước đó và dựa vào các nguồn vốn nước ngoài của các nước đang phát triển
trong khu vực để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới với tốc độ ôn hòa hơn.
* Cuộc khủng hoảng đã gây thiệt hại cho các nước châu Á ít nhất là 300 tỷ USD, bằng khoảng
20% GDP của các nước bị khủng hoảng và thiệt hại chung toàn thế giới khoảng 500 tỷ. Qua đây
chúng ta thấy được những tác động có tính chất toàn cầu của cuộc khủng hoảng này. Lượng đầu tư
tài chính ở châu Á giảm mạnh, theo tính toán khoảng 150 tỷ USD đã bị rút khỏi Đông Nam Á. Các
nhà đầu tư nước ngoài giảm niềm tin. Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI bị sút giảm mạnh mẽ và đang
còn tiếp tục giảm trong những năm tiếp theo, kéo theo đó là tình trạng thiếu vốn đầu tư sẽ xảy ra.
* Sự phá giá bản tệ đã làm tăng các chi phí dịch vụ nợ và chất thêm nợ nần lên các công ty –
con nợ, làm tăng tình trạng mất khả năng thanh toán, phá sản của chúng, nhất là đối với các công ty
phục vụ thị trường trong nước mà nhu cầu đang giảm sút nhanh chóng. Các ngân hàng thì rơi vào
tình trạng gánh chịu một đống nợ khó đòi hoặc giữ gìn bất đắc dĩ một lượng tài sản thế chấp ngày
càng mất giá và khó bán. Ở Indonesia, Do phá giá tiền tệ, tỷ lệ nợ ngân hàng nước ngoài/GDP đã
nhảy từ 35% lên đến 140%, hầu hết các ngân hàng bị coi là phá sản.
* Khủng hoảng góp phần làm tăng lên nhanh chóng tình trạng thất nghiệp ở các nước trong
khu vực (năm 1998 gấp đôi so với năm 1997 ở Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia…) mà còn ở các
nước bạn hàng của họ do đó thu hẹp quy mô nhập khẩu vì khủng hoảng.
4.2 Các tác động tích cực :
Nhìn một cách khách quan thì cuộc khủng hoảng tài chính bên cạnh gây ra một loạt các tác
động xấu vô cùng sâu sắc kể trên thì trong một chừng mực nào đó, nó cũng mang lại những tác động
tích cực. Đó là đem toàn bộ nền kinh tế châu Á nói chung và Đông Nam Á, Đông Bắc Á nói riêng
sang một giai đoạn phát triển mới, thoát khỏi tình trạng nóng trước đó.
* Thứ nhất, việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẽ giúp các Chính phủ giảm thiểu
được lượng ngoại tệ can thiệp để giữ giá bản tệ như thời gian trước đó, giúp tăng dự trữ quốc gia về
lâu dài, với đồng bản tệ rẻ sẽ khuyến khích và tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu, từ đó cải thiện
những cân đối tài chính của đất nước.

* Thứ hai, nhiều nước sẽ nhận được nguồn tín dụng quốc tế chính thức để phục vụ cho mục
tiêu cải cách và phát triển kinh tế sau khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng cũng giúp định hướng lại và
cải thiện cơ cấu đầu tư, lành mạnh hóa hơn nền tài chính quốc gia. Có thể nói cuộc khủng hoảng như
một cú “động” mạnh để xốc lại nền kinh tế cho cân bằng, hợp lý và hiệu quả. Toàn bộ nền kinh tế sau
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 16
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
khi vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của khủng hoảng sẽ có định hướng thị trường nhiều hơn, đầy
đủ, sâu sắc và hoàn thiện hơn, do đó, hiệu quả và sức cạnh tranh cao hơn.
* Thứ ba, cuộc khủng hoảng ít nhiều là dịp để Chính phủ và nhân dân cũng như các tổ chức
tài chính – tiền tệ bổ khuyết những thiếu sót về chính sách, thể chế, con người… Từ đó tạo ra những
xung lực tích cực mới cho sự phát triển kinh tế.
Ngoài ra, tác động của cuộc khủng hoảng cũng chuyển dịch vị thế về kinh tế chính trị truyền
thống của các cường quốc tại khu vực như Nhật Bản, Trung Quốc, các nước ASEAN và Mỹ cũng
như châu Âu.
CH ƯƠ NG III : KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ 2008
Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2007-2009 là cuộc khủng hoảng trong nhiều lĩnh vực
tài chính (tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán) diễn ra từ năm 2007. Cuộc khủng hoảng này bắt
nguồn từ cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp. Và bản thân nó lại là nguồn gốc trực
tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2010. Cuộc khủng hoảng trải qua nhiều
giai đoạn khác nhau, lộ rõ những điểm yếu tràn lan trong khuôn khổ luật lệ của hệ thống tài
chính toàn cầu.
1. Nguyên nhân :
Cuộc khủng hoảng lần này không phải là quá bất ngờ với giới tài chính Mỹ nói riêng và thế giới
nói chung. Nó là kết quả của một chuỗi những rủi ro liên tiếp mà chính các tổ chức tài chính, ngân
hàng ở Mỹ tạo ra cho chính mình.
Có thể tóm lại một số nguyên nhân chính, mà thực chất là hệ quả của nhau – đã dẫn đến cuộc
khủng hoảng tất yếu này ở Mỹ như sau :
1.1 Sự suy sụp của thị trường bất động sản - nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng
nhất :
Hầu hết người dân Mỹ khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng sau đó trả vốn lẫn lãi trong một thời gian

dài (20-30 năm) với lãi suất thả nổi. Do đó, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa lãi suất và tình trạng của thị trường
bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao; khi lãi
suất cao thì người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà cửa xuống thấp. Đây chính là cơ chế tạo nên hiện
tượng bong bóng bất động sản – hiện tượng chỉ tình trạng thị trường trong đó giá bất động sản hoặc tài sản
bất động sản được giao dịch tăng đột biến đến một mức giá vô lí hoặc không bền vững.
Có 3 yếu tố chính tạo bong bóng bất động sản ở Mỹ :
* Thứ nhất, từ đầu năm 2011, đặc biệt là sau cuộc khủng bố 11 / 9, khi mà sau vụ khủng bố giá các cổ
phiếu Mỹ sụt giảm, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Federal Reserve System
– Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất
động sản. Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên
tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%.
* Hai là, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo có nhà ở của Chính phủ lúc
bấy giờ là tạo điều kiện cho dân nghèo được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn
được thực hiện thông qua hai công ty được bảo trợ bởi Chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac.
Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay của
các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được đảm bảo bằng các khoản vay
thế chấp, rồi bái lại cho các nhà đầu tư ở phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như
Bear Stearns và Merrill Lynch.
* Ba là, khế ước nhận nợ của người mua nhà trở thánh một loại chứng khoán (chứng khoán
phái sinh), được ngân hàng thông qua người môi giới đưa vào giao dịch trên thị trường thứ cấp. Trên
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 17
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
thị trường này, nhiều nhà đầu tư cá nhân thông qua người môi giới đã bỏ tiền ra mua loại chứng
khoán này để nhận lãi hằng năm mà không biết rõ nó là cái gì.
=> Vì vậy thị trường bất động sản trở nên rất sôi động, có rất nhiều người thu nhập thấp hoặc
không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà. Để có thể được vay, nhóm người này thường
phải trả lãi suất cao hơn và thương được cho mượn dưới hính thức lãi suất điều chỉnh theo thời gian,
khoản tiền cho vay dành cho nhóm này đã tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng từ 160 tỉ USD
ở năm 2001 lên 540 tỉ USD năm 2004 và trên 1.300 tỉ USD vào năm 2007 (10% GDP của Mỹ).
Fannie Mae đã mạnh tay hơn trong việc mua lại các khoản cho vay đầy mạo hiểm do phải đối đầu với

cạnh tranh nhiều hơn từ các công ty khác, chẳng hạn như Lehman Brothers.
1.2 Cho vay dưới chuẩn – nguyên nhân sụp đổ thị trường bất động sản và cuộc
khủng hoảng tài chính Mỹ :
Từ nhiều năm qua, các ngân hàng đầu tư Mỹ đã nới lỏng tối đa chính sách tín dụng cho các
công ty và cá nhân mua bất động sản trả chậm làm nảy sinh những dòng vốn vay giá rẻ và gia tăng
một lương lớn người đi vay tiền. Trên thực tế, vốn vay rẻ sẽ làm mất đi ý thức phòng ngừa rủi ro của
người đi vay. Người đi vay dễ dàng trong việc định lại giá tài sản để tiếp tục một khoản vay mới nhằm
trả cho khoản vay cũ. Bên cạnh đó, việc cung cấp tín dụng dễ dàng như : không cần tài sản thế chấp,
tỷ lệ trả trước rất thấp, chỉ cần có mã số thuế. Hoạt động cho vay này thật sự không đáp ứng đầy đủ
những tiêu chuẩn để được cấp tín dụng nhưng vẫn được vay đã làm gia tăng rủi ro cho các ngân
hàng. Về phía ngân hàng, tuy hình thức cho vay này rủi ro rất lớn, nhưng đổi lại là mức lãi suất rất
cao. Mặt khác, các công ty tài chính cũng thực hiện hình thức cho vay này một cách rộng rãi và
chuyển rủi ro qua ngân hàng và nhà đầu tư thông qua một sản phẩm tài chính gọi là “mua lại các
khoản nợ hay khoản phải thu”.
Các công ty tài chính bán các khoản phải thu cho ngân hàng với một chiếc khấu cao, ngân
hàng và các tổ chức tài chính chuyên biệt sẽ chứng khoán hóa các khoản phải thu, nghĩa là phát
hành các chứng khoán để vay tiền với lãi suất cao. Rõ ràng là rủi ro chồng rủi ro, và đương nhiên các
chứng khoán có mức độ xếp hạng tín nhiệm càng thấp thì tỷ suất sinh lợi càng cao, thậm chí có
chứng khoán không có mức độ xếp hạng tín nhiệm nhưng vẫn được nhà đầu tư trên toàn thế giới
chấp nhận do lãi suất siêu hạng.
Một lương vốn đầu tư khổng lồ trên thế giới đã đổ vào thị trường bất động sản Mỹ và khi thị
trường đóng băng vào giữa năm 2007, các vụ đổ vỡ dây chuyền đã xảy ra. Các nhà đầu tư bất động
sản vay tiền không đủ khả năng trả lãi vay, bất động sản không bán được, chứng khoán phát hành
trên các khoản phải thu này sụt giá thê thảm, các ngân hàng không đủ khả năng trả các khoản nợ
lâm vào tình trạng phá sản.
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 18
=> Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà
lên rất cao, kéo theo việc tăng liên tục giá bất
động sản. Giá nhà bình quân đã tăng lên 54%
chỉ trong vòng 4 năm từ 2001 đên 2005. Việc

này cũng dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là giá
nhà sẽ tiếp tục lên. Hệ quả là người ta sẵn sang
mua nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và khả
năng trả nợ sau này vì họ nghĩ nếu cần sẽ bán
lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời. Nhưng
sau đó, giá bất động sản không ngừng giảm
xuống, giá trị các căn hộ ngày càng thấp hơn các
khoản tín dụng đã cấp. Hạn mức tín dụng giảm
xuống thì ngân hàng thu hồi nợ, nhưng người
mua nhà không có khả năng thanh toán.
Hàng loạt căn nhà bị rao bán ở Mỹ vì “bong
bóng” bất động sản nổ tung.
(Nguồn : BBC News)
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
1.3 Mua bán khống :
Khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn dính líu đến cho vay dưới chuẩn
sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra, tạo nên một áp lực giảm giá lớn không gì
cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm đến một mức nào đó, họ sẽ mua và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít
phí, còn bao nhiêu tiền chênh lệch họ sẽ hưởng trọn.
Thậm chí, họ còn áp dụng cách thức mua bán khống đến hai lần (naked short sale), tức là
không thèm vay chứng khoán nữa mà cứ ra lệnh bán theo kiểu “đánh xuống” vì lợi dụng khe hở, mua
bán ba ngày sau mới giao cổ phiếu. Bộ trưởng Tư pháp bang New York, Andrew Cuomo than: “Họ
giống như kẻ hôi của sau một cơn bão”.
1.4Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ :
* Có tiền, các công ty cứ thoải mái cho người vay bằng tiền của các ngân hàng đầu tư cung
cấp thông qua mua lại danh mục cho vay của các công ty này. Các ngân hàng này trên cơ sở danh
mục cho vay vừa mua lại sẽ phát hành CK để vay tiền. Danh mục cho vay được chia ra, ít rủi ro, rủi
ro cao, tùy định mức tín nhiệm, nhà đầu tư tha hồ lựa chọn theo sự mạo hiểm của mình. Có loại CK
không cần định mức tín nhiệm, có thể thu lãi cao nhưng rủi ro cũng lớn.
* Như vậy, rủi ro trong cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là công ty tài chính sang NH

đầu tư. Nhà đầu tư lắm tiền trên thế giới đã đổ tiền mua CK này, nhờ vậy đã cung cấp một
lượng vốn khổng lồ cho thị trường BĐS ở Mỹ tăng nóng.
* Giáo sư kinh tế Joseph Stiglitz, người được giải thưởng kinh tế Nobel kinh tế 2001, kết luận:
“Hệ thống tài chính của Mỹ đã không thực hiện được hai trách nhiệm chính của mình đó là quản lý rủi
ro và phân chia vốn. Cả hệ thống tài chính Mỹ đã không làm những gì mà nó đáng ra phải làm -
chẳng hạn như tạo ra các sản phẩm để giúp người Mỹ quản lý được những rủi ro nguy hiểm nghiêm
trọng của mình, như là giữ lại được nhà khi mức lãi suất cho vay tăng cao hoặc khi giá nhà rớt giá”.
1.5Khủng hoảng niềm tin :
* Theo GS. Joseph Stiglitz, cuộc khủng hoảng bắt đầu tư sự sụp đổ thảm khốc của niềm tin.
Sự sụp đổ của một loạt các ngân hàng hàng đầu trong lĩnh vực đầu tư của Mỹ đã làm người dân chịu
ảnh hưởng nghiêm trọng. Hệ thống các ngân hàng trong con mắt mọi người trở nên mong manh khi
mà ba trong năm ông lớn tại thị trường phố Wall sụp đổ là Merrill Lynch, Lehman Brothers,
Bearstearns.
* Thị trường tài chính xoay quanh trục nguyên tắc độ tin cậy, và độ tin cậy đó đã bị xói mòn,
xuống cấp. Sự sụp đổ của Lehman - ngân hàng tồn tại hơn 158 năm, cùng nước Mỹ trải qua rất
nhiều khó khăn, trải qua các cuộc suy thoái là biểu tượng đánh dấu mức độ tin cậy đã xuống một
mức thấp mới và dư âm của nó sẽ còn tiếp tục.
2. Diễn biến :
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 được đánh dấu bởi những mốc sự kiện
chính như sau :
• Năm 2002-2004: Giá cả ở các bang Arizona,California, Florida, Hawaii, và Nevada tăng trên 25% một năm. Sự
bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu.
• Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Thị trường bất động sản tạm gián đoạn trên một
vài bang ở Mỹ vào cuối mùa hè năm 2005 khi tỷ lệ lãi suất tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh
doanh bất động sản đã đánh giá thấp thị trường.
• Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh doanh bất động sản, dẫn đến một lượng
nhà dư thừa đáng kể. Chỉ số Xây dựng Nhà ở tại Mỹ hồi giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với một năm trước đó.
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 19
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
• Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn ước tính cao nhất từ năm 1989. Ngành

kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức cho vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất
động sản nhà ở bị tịch thu để thế chấp nợ, tăng 79% từ năm 2006. Thư ký bộ tài chính Mỹ gọi bong bóng bất
động sản lần này là “mối nguy hiểm ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế”.
Diễn biến thay đổi giá nhà trong thời kỳ bong bóng bất động sản.
(Nguồn : Federal Housing Finance Agency website)
- Ngày 05/02: Công ty Mortage Lenders Network USA đứng thứ 15 trong số các nhà cho vay dưới chuẩn nhiều
nhất ở Mỹ, với tổng dư nợ 3.3 tỷ đô la thời điểm quý 3 năm 2006, tuyên bố phá sản.
- Ngày 02/04: New Century Financial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ, tuyên bố phá sản.
- Tháng 6: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund – một loại quỹ có tính đại chúng thấp và không bị quản chế quá chặt)
của Bear Stearns – ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ quỵ ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được
đảm bảo bằng các khoản cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ.
- Tháng 7 – tháng 9: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên tại châu Âu chịu ảnh hưởng bởi
những khoản đầu tư xấu trên thị trường cho vay dưới chuẩn ở Mỹ. Trong khi đó, ngân hàng SachsenLB của
Đức phải nhận sự cứu trợ từ Chính phủ.
- Ngày 19/07: Chỉ số Dow Jones đóng cửa với mức 14.000 điểm, lần đầu tiên trong lịch sử.
- Tháng 8: Khủng hoảng tín dụng toàn cầu, mà chính xác là chứng khoán dựa trên các khoản nợ thế chấp dưới
chuẩn, được phát hiện trong các danh mục vốn đầu tư và quỹ trên khắp thế giới từ BNP Paribas cho đến Ngân
hàng Trung Quốc. Nhiều nhà cho vay ngừng cho vay tín dụng mua nhà. Cục dữ trữ liên bang đã cho các ngân
hàng vay 100 tỷ đô la với lãi suất thấp.
- Ngày 16/08: Tập đoàn tài chính Countrywide, đơn vị cho vay thế chấp lớn nhất nước Mỹ, đã phải tránh phá sản
bằng cách vay khẩn cấp 11 tỷ đô la từ một nhóm các ngân hang khác.
- Ngày 17/08: Cục dự trữ liên bang đã phải hạ mức hệ số chiếu khấu 50 điểm cơ bản từ mức 6.25% xuống
5.75%.
- Ngày 14/09: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa vây để đòi rút tiền ở ngân hàng
lớn thứ 5 tại Anh – ngân hàng cho vay thế chấp Northern Rock.
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 20
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
- Ngày 15–17/10: Liên minh các ngân hàng Mỹ được hỗ trợ bởi chính phủ thông báo lập một siêu quỹ trị giá 100
tỷ đô la để mua lại các chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản thế chấp mà giá trị thị trường đã bị sụt giảm
do khủng hoảng vay dưới chuẩn. Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Ben Bernake và Bộ trưởng Bộ tài chính Mỹ đều

đưa ra những cảnh báo về mối nguy hiểm của việc vỡ bong bóng bất động sản.
- Ngày 15/10: Citigroup – tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ công bố lợi nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do
các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ
chức vào ngày 4/11.
- Ngày 31/10: Cục dự trữ liên bang hạ lãi suất quỹ liên bang 25 điểm xuống 4.5%.
- Tháng 11: Cục dự trữ liên bang bơm thêm 41 tỷ đô la cho các ngân hàng vay với lãi suất thấp. Đây là lần xuất
tiền lớn nhất của cục dự trữ liên bang kể từ 19 tháng 9 năm 2001 (50.35 tỷ đô la).
- Ngày 17/12: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn nhân là Tập đoàn Centro Properties, một
chủ sở hữu các phố buôn bán lớn của Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu
Centro Properties đã tụt giá 70% tại các sàn giao dịch ở Sydney.
• Năm 2008 với những mốc đáng nhớ sau:
- Ngày 11/01: Bank of America – ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn hóa thị trường đã bỏ ra 4 tỷ
USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các
khoản cho vay khó đòi quá lớn.
- Ngày 31/01: Ngân hàng lớn nhất Thụy Sỉ UBS công bố trích lập dự phòng 4 tỷ USD, nâng tổng số tiền trích lập
dự phòng lên 18,4 tỷ USD do những thất thoát liên quan đến cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố.
- Ngày 17/02 : Anh quốc hữu hóa ngân hàng Northern Rock.
- Ngày 28/02: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay
dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ euro.
- Ngày 16-17/03: Bear Stearns bán lại cho ngân hàng đầu tư Mỹ JP Morgan Chase với giá 2 đôla một cổ phiếu để
tránh phá sản. Cục dự trữ liên bang phải cung cấp 30 tỷ đô la để trợ giúp các khoản lỗ của Bear Stearn.
- Ngày 29/04: Deutsche Bank lần đầu tiên trong 5 năm công bố một khoản thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải
trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế chấp
bất động sản.
- Ngày 11/07: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát ngân hàng IndyMac Bancorp. Đây là một trong
những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD
trong vòng 11 ngày.
- Ngày 17/07: Các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính trên thế giới đã báo cáo thua lỗ lên đến 435 tỷ đôla.
- Ngày 31/07: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân
hàng này mất lên 11 tỳ USD. Deutsche Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng

tín dụng toàn cầu.
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 21
Ngày 07/09: Cục dự trữ liên bang (Fed) và Bộ
tài chính Mỹ dành quyền kiểm soát hai tập đoàn
chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie
Mac nhằm hỗ trợ thị trường nhà đất Mỹ.
Ảnh chụp Bộ trưởng Tài chính Mỹ ông
Henry Paulson và Chủ nhiệm Ủy ban Tài
chính nhà đất Liên bang James B. Lockart
vào ngày 7/9/2008 khi đang chuẫn bị tuyên
bố Chính phủ nắm quyền kiểm soát hai
ngân hàng Fannie Mae và Freddie Mac.
(Nguồn : SAGA.vn)
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
- Ngày 11/09 : Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại chính mình. Cổ phiếu của ngân
hàng đầu tư này tụt giảm 45%.
- Ngày 14/09: Bank of America cho biết sẽ mua lại Merrill Lynch với giá 50 tỷ đô la (tức 29 USD/cổ phiếu) sau khi
từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers.
- Ngày 15/9: Đây là ngày tồi tệ nhất tại phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa trở lại sau vụ khủng bố 2 tòa
tháp đôi tại Mỹ vào tháng 9/2001. Lehman Bothers tuyên bố phá sản đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ;
Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm; American International Group – tập đoàn bảo hiểm lớn nhất
thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố. Ngay sau đó, 3 loại chỉ số ở
Mỹ bao gồm chỉ số Dow Jones, NASDAQ và S&P 500 cũng sụt giảm mạnh.
Các nhà đầu tư với khuôn mặt lo lắng đang đứng đợi bên ngoài trụ sở chính của Ngân hàng Lehman
Brothers tại New York vào ngày 15/9/2008 sau khi ngân hàng này tuyên bố tình trạng phá sản.
(Nguồn : SAGA.vn)
- Ngày 16/09: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào các thị trường tiền tệ với nỗ
lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự đóng băng của hệ thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG
giảm gần một nửa. Fed công bố kế hoạch bơm 85 tỷ USD vào AIG và nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays
của Anh mua lại một phần tài sản tại Bắc Mỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD.

MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 22
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
- Ngày 19/09: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi kế hoạch giải cứu tài chính của bộ trưởng tài
chính Paulson trị giá 700 tỷ đô la được công bố. Tuy nhiên, quốc hội Mỹ đã không thông qua bản dự thảo này.
- Ngày 20-21/09: Công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. Hai ngân hàng Goldman Sachs và
Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn ngân hàng đa năng, đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng
đầu tư tại phố Wall.
- Ngày 22/09: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu tóm hoạt động của Lehman tại
châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại châu Âu và Trung Đông. Mitsubushi UFJ Financial đồng ý mua
20% cổ phần Morgan Stanley.
- Ngày 23/09: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman Sachs. Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) điều
tra Fannie, Freddie, AIG và Lehman vì nghi ngờ có sự gian lận trong cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ.
- Ngày 25/09: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất của Mỹ đã sụp đổ cũng do
đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt
quyền kiểm soát WaMu và sau đó bán các tài sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất nước Mỹ cho JPMorgan
Chase & Co. với giá 1,9 tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất
trong lịch sử Mỹ.
Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong Quốc hội đã đồng ý về những điều khoản
chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD.
- Ngày 29/09: Hạ viện bất ngờ bác bỏ kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ do bộ Tài chính đề xuất. Phản
ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp Dow Jones tụt giảm gần 780 điểm – mức giảm trong
một ngày mạnh nhất từ trước tới nay.
- Ngày 30/09: Ngân hàng khổng lồ Wachovia của Mỹ, đồng thời là ngân hàng cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ
đồng ý bán lại bộ phận ngân hàng bán lẻ cho đối thủ Citigroup.
- Ngày 1/10: Thương viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ lệ 74-25) với một số điểm đã được
thay đổi, bao gồm : gia hạn đạo luật cắt giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp và cá nhân (dự tính sẽ làm ngân
sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000
USD lên 250.000 USD…
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 23
Trong ảnh, dù chi nhánh AIA của AIG

tại châu Á dán thông báo nhấn mạnh
cuộc khủng hoảng tại Mỹ không ảnh
hưởng tới các khách hàng của AIA,
người dân tại Singapore vẫn chen chân
đi rút tiền vào ngày 17/09.
(Nguồn : SAGA.vn)
Ngày 17/09: Cổ phiếu của Goldman Sachs
và Morgan Stanley giảm mạnh. Cục dự trữ
liên bang Mỹ cho AIG vay 85 tỷ đô la để
giúp công ty này tránh phá sản. Tập đoàn
Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS.
Ủy ban chứng khoán Mỹ kiềm chế tình
trạng bán khống.
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
Người phát ngôn của Hạ viện, bà Nancy Pelosi đang ký vào biên bản cuối cùng, đánh dấu gói cứu
trợ trị giá 700 tỷ USD được hoàn toàn thông qua.
(Nguồn : SAGA.vn)
Danh sách các tổ chức tài chính bị phá sản hoặc phải sáp nhập trong cuộc khủng
hoảng Mĩ (Nguồn: IRIC tổng hợp).
Tên Quy mô Thiệt hại Giải pháp
1
Lehman
Brothers
Tổng tài sản: 639 tỷ đôla/
Tổng vốn góp cổ phần:
$22490 tỷ đôla.
Số lượng nhân viên: 26200
người.
Là một trong 4 ngân hàng
đầu tư lớn nhất của Hoa

Kỳ.
Nợ ngân hàng: 613 tỷ
đôla.
Nợ trái phiếu: 155 tỷ
đôla.
Cổ phiếu mất giá trên
90% vào ngày
15/09/2008.
15/09/2008: nộp đơn phá sản
theo chương 1 Luật Phá sản
Mỹ.
Là vụ phá sản lớn nhất trong
lịch sử Hoa Kỳ.
2
Merrill Lynch
Tổng tài sản: 1,02 nghìn tỷ
đôla.
Số lượng nhân viên: 60.000
người.
Xếp thứ 32 trong danh
sách Global 2000 (các công
ty lớn nhất thế giới).
Thua lỗ quý IV/2007:
9,83 tỷ đô.
Thua lỗ ròng quý
I/2008: 1,97 tỷ đôla.
Mất giá tài sản
(2007): 16,7 tỷ đôla.
Bán cho ngân hàng Mỹ (BoA)
với giá 50 tỷ đôla.

3
AIG
Tổng tài sản: 1,05 nghìn tỷ
đôla.
Tổng vốn góp ổ phần 78,09
tỷ đôla.
Số lượng nhân viên:
116.000 người.
Xếp thứ 6 trong danh sách
Global 2000 (các công ty
lớn nhất thế giới).
Cổ phiếu mất giá 60%
vào ngày 16/09/2008.
Thua lỗ 6 tháng đầu
năm 2008: 13,2 tỷ
đôla.
16/09/2008: Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ (FED) cấp tín dụng 80
tỷ tương đương 79,9 % cổ
phần.
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 24
Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.
4
Countrywide
Financial
Tổng tài sản: 211 tỷ đôla.
Là tập đoàn chiếm 20%
tổng thế chấp của Mỹ,
tương đương 3,5 GDP.
Tổ chức tiết kiệm và cho

vay lớn thứ 3, đồng thời là
ngân hàng có tốc độ phát
triển nhanh nhất trong lịch
sử nước Mỹ.
Thua lỗ (2007): 2,5 tỷ
đôla.
Mất giá tài sản
(2007): 1 tỷ đôla.
01/07/2008: Bán cho ngân
hàng Mỹ với giá 4,1 tỷ đôla.
5
Bear Stearns
Tổng tài sản: 350,4 tỷ đôla.
Tổng vốn góp cổ phần:
66,7 tỷ đôla.
Số lượng nhân viên: 15.500
người.
Là công ty chứng khoán lớn
thứ 7 thế giới.
Thiệt haiij quý
IV/2007: 859 triệu
đôla.
Mất giá tài sản
(2007): 1,9 tỷ đôla.
30/05/2008: Bán cho JP
Morgan Chase với giá 1,1 tỷ
đôla.
6 IndyMac
Tổng tài sản: 32 tỷ đô
Là tổ chức cho vay và gửi

tiết kiệm lớn nhất ở Los
Angeles. Đồng thời là tổ
chức thế chấp lớn thứ 7 ở
Hoa Kỳ.
Tiền gửi khách hàng:
19 tỷ đô
Chi phí 8,9 tỷ đô cho
bảo hiểm tiền gửi.
Chi phí 541 triệu đô
cho các khoản tiền
gửi vượt mức bảo
hiểm.
11/07/2008: Tập đoàn Bảo
hiểm Tiền gửi Liên bang Mỹ
FDIC tiếp quản.
7 Freddie Mac
Tổng tài sản: 794,4 tỷ đôla.
Tổng vốn góp cổ phần:
26,7 tỷ đôla.
Số lượng nhân viên: 5.281
người.
Là công ty công lớn thứ 20
trên thế giới.
Là công ty tài chính lớn thứ
2 về thế chấp tại Mỹ.
Thua lỗ (2007): 4,6 tỷ
đôla.
Thua lỗ quý II/2008:
821 triệu đôla.
07/09/2008: FED kí hợp đồng

bỏ ra 1 tỷ đô hỗ trợ cho
Freddie Mac, đổi lại giành
quyền kiểm soát các cổ phiếu
ưu đãi đặc biệt của công ty
này.
8 Fannie Mae
Tổng tài sản: 882,5 tỷ đôla.
Tổng vốn góp cổ phần: 44
tỷ đôla.
Là tổ chức hàng đầu trong
thị trường thế chấp dưới
chuẩn của Mỹ.
Thua lỗ (2007): 2 tỷ
đôla.
Thua lỗ quý II/2008:
2,3 tỷ đôla.
07/09/2008: cùng với Freddie
Mac bị FED tiếp quản.
9
New Century
Financial Corp
Tổng thu nhập (năm 2006):
417 triệu đôla
Giá bán trên thị trường:
1,75 tỷ đôla.
Số lượng ngân viên: 7.200
người.
Là tập đoàn cho vay dưới
chuẩn lớn nhất của Mỹ.
Cổ phiếu mất 90% giá

trị (tháng 03/2007).
Giá trị thị trường
giảm xuống còn 55
triệu đôla.
Nộp đơn phá sản theo chương
11 Luật Phá sản Mỹ.
10 Ameri Bank Tổng tài sản: 115 triệu
đôla.
Tiền gửi khách hàng:
102 triệu đôla.
19/09/2008: Tập đoàn Bảo
hiểm Tiền gửi Liên Bang Mỹ
MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 25

×