B
Ộ GIÁO DỤC V
À ĐÀO T
ẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
Môn: Quản Trị Ngân Hàng
Đề tài:
TÌNH HÌNH THANH KHOẢN CỦA HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2008 – 2012.
GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông
NTH: Nhóm 3.
Lớp Ngân hàng - Đêm 2 - Khóa 22.
Danh sách nhóm
1.
Trần Thị Duyên
2.
Phạm Văn Linh
3.
Văn Tấn Ngọc
4.
Nguyễn Văn Phương
5.
Lê Trung Quốc
6.
Phạm Thanh Thủy
7.
Đặng Thị Phương Trang
TPHCM, tháng 10 năm 2013.
Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông
2
Mục lục
I. TỔNG QUAN TÍNH THANH KHOẢN NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠ
I
3
1. Tính thanh khoản trong ngân hàng: 3
2. Rủi ro thanh khoản trong ngân hàng thương mại: 3
3. Vai trò tính thanh khoản trong ngân hàng thương mại: 6
4. Một số nguyên nhân làm giảm tính thanh khoản trong ngân hàng thương mại: 7
4.1. Chạy theo lợi nhuận ngắn hạn: 7
4.2. Bùng nổ cho vay và sụt giá tài sản: 7
4.3. Cơ cấu khách hàng và chất lượng tín dụng kém: 8
4.4. Mất cân đối trong cơ cấu tài sản: 8
4.5. Một số nguyên nhân khác: 9
5. Các phương pháp quản lý rủi ro thanh khoản: 10
II. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THANH KHOẢN CỦA HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008 – 2012 12
1. Bối cảnh kinh tế giai đoạn 2008 – 2012 12
2. Thực trạng tình hình thanh khoản của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2008
– 2012: 15
III. GIẢI PHÁP 31
1. Đối với Chính Phủ và NHNN 31
2. Đối với NHTM 34
Tài liệu tham khảo 38
Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông
3
I. TỔNG QUAN TÍNH THANH KHOẢN NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠ
I
1. Tính thanh khoản trong ngân hàng:
Trong ngân hàng thanh khoản bao gồm nhiều phương diện:
Trong ngắn hạn: Thanh khoản là khả năng ngân hàng có thể thực hiện nghĩa vụ thanh
toán ngay thời điểm chúng phát sinh liên quan đến khả năng sinh lãi đảm bảo thanh
khoản.
Trong dài hạn: Thanh khoản là khả năng vay đủ vốn dài hạn với lãi suất hợp lý nhằm
hỗ trợ cho việc tăng tài sản (thanh khoản theo cấu trúc, hiện rất được các ngân hàng chú trọng).
Theo những nghiên cứu những năm 90 về khả năng thương mại thì thanh khoản là khả
năng trao đổi thường trực các sản phẩm trên thị trường vốn mà không làm giảm giá quá mức.
(Khả năng thanh khoản tài sản).
Thanh khoản thị trường là khả năng của thị trường trong việc tạo cơ sở cho hoạt động
vay mượn tại các thị trường vốn và thị trường tiền tệ. (Chính sách ngân hàng trung ương).
Vậy, thanh khoản là đại diện cho khả năng thực hiện tất cả các nghiệp vụ thanh toán khi
đến hạn – đến mức tối đa và bằng đơn vị tiền tệ được quy định.
Do thực hiện bằng tiền mặt nên thanh khoản chỉ liên quan đến các dòng lưu chuyển tiền
tệ. Việc không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán sẽ dẫn đến tình trạng thiếu khả năng hay
mất tính thanh khoản.
Do đó, thanh khoản không phải là một số tiền nào đó, cũng không phải là một tỷ lệ.
Thay vào đó, nó thể hiện phạm vi khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán của một ngân hàng.
Trái ngược với nó là “thiếu khả năng thanh khoản”, nghĩa là: ngân hàng thiếu khả năng thực
hiện nghĩa vụ thanh toán. Theo nghĩa này thì thanh khoản đại diện cho yếu tố định tính về sức
mạnh tài chính của một ngân hàng. ( Duttweiler, 2008, trang 30).
2. Rủi ro thanh khoản trong ngân hàng thương mại:
Rủi ro thanh khoản là một loại rủi ro quan trọng bậc nhất đối với một tổ chức kinh tế,
đặc biệt quan trọng đối với các tổ chức tài chính. Trong thực tế có không ít trường hợp, một tổ
Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông
4
chức kinh tế có tài sản nhiều, nợ rất ít nhưng hoàn toàn có thể phá sản do yếu tố rủi ro thanh
khoản của tài sản không bù đắp nổi khả năng thanh toán trong thời điểm đó. Ở mức nhẹ hơn,
rủi ro này có thể gây nên khó khăn hoặc đình trệ hoạt động kinh doanh của tổ chức đó trong
một thời điểm cụ thể.
Rủi ro thanh khoản là trường hợp không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán;
việc không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đó sẽ gây ra những hậu quả không mong muốn, thậm
chí có thể khiến công ty gặp thất bại.
Chúng ta có thể chia rủi ro thanh khoản làm bốn nhóm theo cấu trúc như sau:
Rủi ro thanh khoản rút tiền trước hạn: Điều này liên quan đến cả tài sản và nợ. Việc rút
tiền dựa trên cơ sở quyền chọn có thể được thực hiện. Những khoản tiền gửi có thể được rút
mạnh tay vào ngày sớm nhất thay vì đợi đến hạn.
Rủi ro thanh khoản có kỳ hạn: Điều kiện thanh toán theo đúng hợp đồng.
Rủi ro thanh khoản tài trợ: Nếu một tài sản không được tài trợ hợp lý, việc tài trợ theo
sau đó có thể phải được thực hiện trong những điều kiện bất lợi, nghĩa là với giá chênh lệch cao
hơn. Trong trường hợp xấu, thậm chí quỹ tiền có thể bị rút mạnh tay như trường hợp trên.
Rủi ro thanh khoản thị trường: Các điều kiện thị trường bất lợi có thể làm giảm khả
năng chuyển các tài sản khả nhượng thành tiền mặt hoặc để tài trợ cần thiết.
Hoặc theo nguồn gốc dẫn tới rủi ro thanh khoản ngân hàng, các nhà nghiên cứu thống
nhất có thể chia rủi ro thanh khoản thành 3 nhóm:
Rủi ro thanh khoản đến từ bên tài sản nợ có thể phát sinh bất cứ lúc nào khi người gửi
tiền rút tiền trước hạn và cả khi đến hạn, nhưng NHTM không sẵn có nguồn vốn để thanh toán,
để chi trả. Với một lượng tiền gửi được yêu cầu rút ra lớn và đột ngột buộc NHTM phải đi vay
bổ sung trên thị trường tiền tệ, phải huy động vốn đột xuất với chi phí vượt trội, hoặc bán bớt
tài sản để chuyển hoá thành vốn khả dụng đáp ứng nhu cầu chi trả.
Để đáp ứng nhu cầu ngay lập tức NHTM có thể phải bán tài sản với giá thấp hơn thị trường
hoặc vay trên thị trường với lãi suất cao để có lượng vốn khả dụng cần thiết.
Rủi ro thanh khoản từ bên tài sản có, chủ yếu phát sinh liên quan đến việc thực hiện các
Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông
5
cam kết tín dụng, cho vay. Có cam kết tín dụng cho phép người vay vốn tiến hành rút tiền bất
cứ lúc nào trong thời hạn theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khi một người vay yêu cầu
NHTM thực hiện cam kết tín dụng thì NH phải đảm bảo đủ tiền ngay lập tức để đáp ứng nhu
cầu của khách hàng nếu không NH sẽ phải đối mặt với uy tín trên thương trường, thậm chí đối
mặt với mất khả năng thanh toán. Tương tự, nguyên nhân rủi ro đến từ bên tài sản Nợ, khi đó
NHTM sẽ phải huy động thêm nguồn vốn mới với chi phí cao hoặc bán tài sản với giá thấp.
Rủi ro thanh khoản từ hoạt động ngoại bảng: Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các
công cụ tài chính phái sinh, rủi ro thanh khoản đến từ hoạt động ngoại bảng cũng ngày càng
tăng. Khi mà các nghĩa vụ thanh toán bất thường xảy ra như cam kết bảo lãnh, nghĩa vụ thanh
toán các hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi hay hợp đồng quyền chọn. Các hợp đồng đó đến
hạn thì sẽ phát sinh nhu cầu thanh khoản. Khi đó, NHTM có thể phải đối mặt với rủi ro thanh
khoản nếu không có kế hoạch chuẩn bị nguồn thanh khoản kịp thời, không có những tài sản
nhanh chóng hay dễ dàng chuyển thành tiền, những công cụ có thể giao dịch trên thị trường
tiền tệ.
Dấu hiệu ngân hàng đang phải đối mặt với rủi ro thanh khoản:
Lãi suất huy động vốn của các ngân hàng đã có những diễn biến bất thường. Lãi suất
huy động vốn các kỳ hạn ngắn lại cao hơn lãi suất huy động các kỳ hạn dài, các ngân hàng chỉ
tập trung huy động vốn hạn ngắn. Xét về bản chất thì hiện tượng này phản ánh việc hệ thống
ngân hàng đang thiếu thanh khoản, mục đích huy động vốn của các ngân hàng lúc này chủ yếu
là nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản chứ không phải vì mục tiêu sinh lời.
Lãi suất vay trên thị trường liên ngân hàng tăng lên nhanh chóng. Ở Việt Nam có
những thời điểm lãi suất vay qua đêm lên đến 30-40%/năm, nhưng cũng không có ngân hàng
nào cho vay. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do các ngân hàng đều đang có vấn về
thanh khoản, trong điều kiện tình hình huy động vốn từ dân cư và doanh nghiệp không thuận
lợi buộc họ phải chấp nhận vay với lãi suất cao trên thị trường liên ngân hàng để giải quyết nhu
cầu thanh khoản trước mắt.
Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông
6
3. Vai trò tính thanh khoản trong ngân hàng thương mại:
Cũng giống như tất cả các chỉ tiêu khác gây ảnh hưởng và hình thành nên trạng thái
thanh khoản, thanh khoản không là yếu tố dẫn đầu mà chỉ là yếu tố đi theo. Như vậy chúng ta
đặt ra câu hỏi: thanh khoản có vai trò quan trọng như thế nào trong khuôn khổ mở rộng các vấn
đề và rủi ro.
Những nghiên cứu kinh nghiệm cho thấy thanh khoản luôn dồi dào. Có những giai đoạn
thanh khoản có phần thiếu thốn và do đó cái giá phải trả là khá đắt. Trong dài hạn, những biến
động chênh lệch giá không hề lạ lẫm gì với những ngân hàng đã từng trải qua giai đoạn thanh
khoản thiếu thốn trong nhiều phân khúc thị trường khác nhau. Ngân hàng có thể trả được khoản
chi phí này và đó là vấn đề tối đa hóa lợi nhuận chứ không phải vấn đề sống còn.
Tuy nhiên, một đặc tính của thanh khoản là nó phải luôn có mặt vào mọi lúc, không
phải trung bình và cũng không phải hầu như mọi lúc. Các khoản thanh toán phải được chi trả
vào ngày đến hạn, hoặc nếu không thể trả được, ngân hàng sẽ bị xem như không có khả năng
thanh khoản. Theo thống kê thì khả năng này xảy ra rất thấp. Nhưng nếu điều này xảy ra, ảnh
hưởng của nó sẽ rất nghiêm trọng và có thể khai tử ngân hàng. Không có nhà quản lý nào dám
nhận rủi ro như vậy, cũng không ai dám đùa giỡn với các khoản đầu tư của cổ đông.
Mặc dù, ta không nên chỉ tập trung vào những trường hợp tiêu cực khi thiếu khả năng
thanh khoản xảy ra. Nhưng đây là một trong những mối quan tâm chính của giám đốc tài chính
(hay giám đốc thanh khoản), vì:
Thứ nhất, trường hợp xấu nhất có thể xảy ra theo sau đó là không còn khả năng thanh
khoản. Thật khó tưởng tượng một giám đốc tài chính có thể bỏ qua việc này.
Thứ hai, nếu trường hợp này xảy ra thì việc kinh doanh sẽ gặp khó khăn, thu nhập giảm
sút. Một lần nữa chắc chắn các nhà quản lý không thích điều này.
Và cuối cùng, những khó khăn thanh khoản vẫn thường xuyên xảy ra dù không quá
nghiêm trọng để giết chết ngân hàng nhưng vẫn đủ nguy hiểm để cản trở công việc kinh doanh
trong một thời gian, khiến doanh nghiệp phải thay đổi chiến lược kinh doanh, hoặc ít ra là thay
đổi các yếu tố cấu thành của chiến lược đó.
Những cá nhân và ban phụ trách đảm bảo trạng thái thanh khoản phù hợp trong ngân
Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông
7
hàng sẽ tìm cách duy trì các loại rủi ro ở mức có thể chấp nhận được, cũng như dưới hình thức
cân bằng. Nếu tính đến các mục tiêu này, bất kỳ chính sách thanh khoản nào cũng phải vừa cân
nhắc việc đảm bảo nghĩa vụ thanh toán, vừa cho phép thực hiện một chiến lược kinh doanh có
liên quan đến lợi nhuận tiếp sau đó.
Có hai nguyên nhân giải thích tại sao thanh khoản lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với ngân hàng. Thứ nhất, cần phải có thanh khoản để đáp ứng yêu cầu vay mới mà không cần
phải thu hồi những khoản cho vay đang trong hạn hoặc thanh lý các khoản đầu tư có kỳ hạn.
Thứ hai, cần có thanh khoản để đáp ứng tất cả các biến động hàng ngày hay theo mùa vụ về
nhu cầu rút tiền một cách kịp thời và có trật tự. Do ngân hàng thường xuyên huy động tiền gửi
ngắn hạn (với lãi suất thấp) và cho vay số tiền đó với thời hạn dài hạn (lãi suất cao hơn) nên
ngân hàng về cơ bản luôn có nhu cầu thanh khoản rất lớn.
Ngoài ra thanh khoản còn ảnh hưởng đến lòng tin của người gửi tiền
Thanh khoản ảnh hưởng đến lòng tin của người gửi tiền và người cho vay. Thanh khoản
kém, chứ không phải là chất lượng tài sản có kém, mới là nguyên nhân trực tiếp của hầu hết các
trường hợp đổ vỡ ngân hàng.
4. Một số nguyên nhân làm giảm tính thanh khoản trong ngân hàng thương mại:
4.1. Chạy theo lợi nhuận ngắn hạn:
Những bài học nhẵn tiền ở nước Mỹ, châu Âu mới đây là những bài học không hề rẻ
trong việc quản lý rủi ro, nhất là rủi ro thanh khoản. Lý do đơn giản giải thích cho khủng hoảng
vừa qua trong hệ thống ngân hàng là lòng tham. Vì lợi nhuận trước mắt, các nhà quản lý thay vì
đầu tư vào danh mục an toàn với lợi nhuận thấp như trái phiếu chính phủ để có thể trở thành vật
cầm cố tại ngân hàng nhà nước bù đắp tính thanh khoản khi cần thiết; lại lựa chọn những danh
mục rủi ro cao với tỷ suất sinh lợi cao tương đương, như các hợp đồng cho vay thế chấp mua
nhà tại thị trường Mỹ.
4.2. Bùng nổ cho vay và sụt giá tài sản:
Theo một số trường phái kinh tế, khủng hoảng ngân hàng do việc cho vay với số lượng
lớn và tài trợ vốn không hiệu quả trong giai đoạn mở rộng của chu kỳ kinh doanh; một cuộc
khủng hoảng xảy ra khi “bong bóng” bị nổ. Ba đặc điểm sau của những cuộc khủng hoảng gần
Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông
8
đây đã chứng minh cho quan điểm nói trên: cả bùng nổ cho vay của ngân hàng và giảm giá cổ
phiếu thường diễn ra trước khủng hoảng ngân hàng; những nước mới nổi có dòng vốn đầu tư
lớn là những nước mở rộng khu vực ngân hàng thương mại nhanh nhất; sự lạc quan quá mức
về hiệu quả của cải cách chính trị tại những nước mới nổi. Quan điểm này dựa theo giả thiết
rằng khó phân biệt những khoản tín dụng rủi ro thấp và những khoản tín dụng rủi ro cao khi
nền kinh tế mở rộng quá nhanh bởi vì người đi vay thường có lợi nhuận và tính thanh khoản
tạm thời rất cao; thay đổi đột ngột về giá tài sản cố định và cổ phiếu làm căng thẳng khủng
hoảng, bởi vì tập trung cho các khoản vay quá nhiều; và giảm giá tài sản đẩy giá trị thị trường
của tài sản thế chấp xuống. Tại Mỹ La Tinh cũng như một số nước công nghiệp phát triển như:
Phần Lan, Nauy, Thụy Điển, Nhật Bản và Mỹ, khủng hoảng ngân hàng xảy ra sau bùng nổ cho
vay. Bùng nổ cho vay dưới tiêu chuẩn của Mỹ dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính – ngân hàng
năm 2008, và nghiêm trọng hơn đã lan rộng trên toàn cầu. Các ngân hàng đầu tư như Lehman
Brothers tại Mỹ và các ngân hàng bán lẻ như Northern Rock tại Anh đã phải đóng cửa vào năm
2008. Tháng 2/2009, một vài ngân hàng chính của Anh như Lloyds TSB và Barcllys Bank, đã
gần sụp đổ khi giá cổ phiếu giảm trầm trọng tại thị trường chứng khoán London.
4.3. Cơ cấu khách hàng và chất lượng tín dụng kém:
Ngân hàng tập trung tín dụng vào một số khách hàng lớn hoặc tỷ trọng tín dụng cho một
ngành, một địa phương nào đó chiếm phần lớn trong tổng dư nợ hoặc trong tổng huy động có
một khách hàng chiếm tỷ trọng lớn, đến khi họ rút một cách bất ngờ thì dẫn đến rủi ro thanh
khoản.
4.4. Mất cân đối trong cơ cấu tài sản:
Điều này xuất phát hầu hết từ áp lực lợi nhuận ngắn hạn của cổ đông lên ban điều hành
mà quên mất những nguyên tắc trong quản trị tài sản nợ và tài sản có. Trong danh mục tài sản
của mình, ngân hàng có phần đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu, trong đó quan trọng nhất là trái
phiếu chính phủ và/hoặc tín phiếu kho bạc. Trái phiếu chính phủ/tín phiếu kho bạc mặc dù lãi
suất không hấp dẫn nhưng nó lại là một nguồn cực kỳ quan trọng cho ngân hàng để nhận chiết
khấu từ ngân hàng nhà nước một khi thanh khoản có vấn đề. Điều này, bất cứ ngân hàng nào,
đặc biệt là ngân hàng nhỏ, đều hiểu nhưng với tiềm lực tài chính yếu thì khó có thể cạnh tranh
với các ngân hàng lớn hơn trong việc đấu thầu các loại tài sản trên.
Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông
9
4.5. Một số nguyên nhân khác:
Ngoài những nguyên nhân nêu trên, chúng ta còn có thể tìm thấy những yếu tố
khác, không kém phần quan trọng tác động ảnh hưởng đến tính thanh khoản ngân hàng
thương
mại,
như
:
Tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh toán yếu, tạo sự
cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo khe hở cho khách hàng gửi tiền “làm
giá, tăng lãi suất” hoặc rút tiền chuyển sang các NHTM khác dẫn đến làm suy yếu khả
năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống.
Quản trị thanh khoản tại các NHTM chưa tốt. PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi cho rằng,
“do sự yếu kém từ quản trị tài sản nợ, có của các NHTM và sự thiếu hụt của các công cụ
quản lý hữu hiệu…Ngân hàng Nhà nước cũng khó nắm bắt chắc chắn tình hình thanh
khoản cũng như sự thay đổi lớn trong tài sản của mỗi NHTM để điều chỉnh quy định của
mình”.
Xuất phát từ phía khách hàng, đây được đánh giá là nhóm nguyên nhân khiến “các
ngân hàng khó có thể dùng công cụ thị trường để điều tiết có hiệu quả thanh khoản của các
ngân hàng”.
Chu kỳ kinh doanh là một tác nhân quan trọng. Theo thời vụ ở những tháng cuối
năm phát sinh nhu cầu nguồn tiền lớn để các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động kinh
doanh, quyết toán công nợ cho những doanh nghiệp khác, chi trả lương thưởng cho cán bộ
nhân viên, thực hiện cam kết giải ngân cho các đối tác, giải quyết hàng tồn kho, nhập khẩu
hàng hóa tạo nên một chu kỳ căng thẳng nguồn vốn vào những tháng cuối năm. Khi ngân
hàng hạn chế cho vay vào thời điểm này nên có thể có một nguyên nhân tâm lý khác, đó là
việc găm giữ tiền mặt cũng như chậm thanh toán các khoản nợ đến hoặc sắp đến hạn, chấp
nhận trễ hạn để tận dụng nguồn vốn vay. Điều này làm cho dòng tiền quay trở lại ngân
hàng không cao mặc dù lãi suất tiếp tục tăng nóng.
Rủi ro từ tính lỏng của tài sản không ổn định. Một tổ chức tài chính (ngân hàng) có
thể mất khả năng thanh khoản nếu chỉ số tín nhiệm tín dụng của tổ chức này giảm sút, tổ
chức này đối mặt với tình trạng lượng tiền ra ồ ạt không dự kiến được trước hay một sự
Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông
10
kiện nào đó khiến cho các đối tác không muốn giao dịch hoặc cho vay đối với tổ chức đó.
Tổ chức này cũng đối mặt với rủi ro thanh khoản nếu thị trường hoạt động của tổ chức này
có nguy cơ mất khả năng thanh khoản. Rủi ro thanh khoản thường đi kèm với nhiều rủi ro
khác. Nếu một đối tác vay tiền của ngân hàng có nguy cơ vỡ nợ thì ngân hàng sẽ phải huy
động tiền từ những nguồn khác để thanh toán khoản đi vay của ngân hàng, bù đắp vào chi
trả này. Nếu ngân hàng không có khả năng huy động tiền từ các nguồn khác để thanh toán
khoản nợ thì chính ngân hàng này cũng phải đối mặt với rủi ro vỡ nợ. Như vậy, rủi ro
thanh khoản gắn liền với rủi ro tín dụng.
Và còn nhiều những nguyên nhân khác, tùy thuộc vào từng đặc điểm của từng thời
kỳ và ở mỗi quốc gia, mỗi ngân hàng khác nhau.
5. Các phương pháp quản lý rủi ro thanh khoản:
5.1 Vốn điều lệ ( vốn đã được cấp, vốn đã
góp):
Là nguồn vốn ban đầu của ngân hàng có được khi mới hoạt động và được ghi vào bản
điều lệ hoạt động của ngân hàng. Theo quy định của pháp luật, một tổ chức tín dụng để
được phép hoạt động thì vốn điều lệ thực tế > vốn điều lệ tối thiểu (vốn pháp định).
5.2 Hệ số CAR (tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu):
Vốn tự
có
CAR = x
100%
Tổng
tài sản “ Có” rủi ro quy
đổi
5.3 Hệ số giới hạn huy động vốn (H1):
Vốn tự
có
H
1
= x
100%
Tổng
nguồn vốn huy
động
Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông
11
Hệ số này đưa ra nhằm mục đích giới hạn mức huy động vốn của ngân hàng để
tránh tình trạng khi ngân hàng huy động vốn quá nhiều vượt quá mức bảo vệ của vốn
tự có làm cho ngân hàng có thể mất khả năng chi trả.
5.4 Hệ số tỷ lệ giữa vốn tự có so với tổng tài sản có (H2):
Vốn tự
có
H
2
= x
100%
Tổng tài sản “
Có”
Hệ số này được đưa ra để đánh giá mức độ rủi ro của tổng tài sản có của một
ngân hàng. Thông thường ngân hàng nào gặp phải sự sụt giảm về tài sản (do rủi ro
xuất hiện) càng lớn thì lợi nhuận của ngân hàng đó càng thấp. Vì vậy, hệ số này cho
phép tài sản của ngân hàng sụt giảm ở một mức độ nhất định so với vốn tự cso của
ngân hàng.
5.5 Chỉ số H3:
Tiền mặt + Tiền gửi tại các
TCTD
H
3
= x
100%
Tổng tài sản
“Có”
5.6 Hệ số trạng thái tiền mặt (*H3):
Tiền mặt+TGTT tại NHNN+TGKKH tại các
TCTD
*H
3
= x
100%
Tổng tài sản
“Có”
5.7
Chỉ số năng lực cho vay
H
4
:
Dư
nợ
H
4
= x
100%
Tổng tài sản “
Có”
12
5.8
Chỉ số
H
5
:
Dư
nợ
H
5
= x
100%
Tiền gửi khách
hàng
5.9 Chỉ số chứng khoán thanh khoản
H
6
:
Chứng khoán kinh doanh+Chứng khoán sẵn sàng để
bán
H
6
= x
100%
Tổng tài sản “
Có”
5.10 Chỉ số H7:
Tiền gửi và cho vay
TCTD
H
7
= x
100%
Tiền gửi và vay từ
TCTD
5.11 Chỉ số
H
8
:
Tiền mặt + Tiền gửi tại
TCTD
H
8
= x
100%
Tiền gửi của khách
hàng
5.12 Chỉ số
*H
8
:
Tiền mặt + TGKKH tại
TCTD
*H
8
= x
100%
Tiền gửi của khách
hàng
II. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THANH KHOẢN CỦA HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008 – 2012
1. Bối cảnh kinh tế giai đoạn 2008 – 2012
13
Năm 2008, kinh tế thế giới diễn biến hết sức phức tạp và biến động nhanh chóng.
Trong những tháng đầu năm hầu hết các nền kinh tế thế giới phải tập trung đưa ra các giải
pháp mạnh mẽ để chống lạm phát do cơn bão giá lan rộng trên toàn cầu. Trước bối cảnh đó
NHTW hàng loạt nước phải thực hiện thắt chặt tiền tệ, tăng cao lãi suất, tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc Và nền kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động ở mức độ khác nhau của kinh tế thế
giới, cộng với những nguyên nhân nội tại của nền kinh tế đất nước, thiên tai, dịch bệnh nên
trong những tháng đầu năm 2008 lạm phát tăng rất cao. Mức tăng cao của lạm phát đã dẫn
đến sự tăng giá của hầu hết các mặt hàng, sự mất giá của các khoản tiền tiết kiệm, không
khuyến khích đầu tư và làm hạn chế tăng trưởng kinh tế, từ đó có thể dẫn đến những vấn đề
xã hội. Điều đáng lo ngại là xu hướng tăng của lạm phát 3 tháng đầu năm 2008 không có
dấu hiệu dừng. Đứng trước tình hình này, Chính phủ đã xác định chống lạm phát là mục tiêu
hàng đầu. Chính vì thế, ngay từ những tháng đầu của năm 2008, Chính phủ đã thực hiện
hàng loạt các biện phápnhằm kiềm chế lạm phát, kiểm soát tăng giá năm 2008.
Theo đó, lãi suất tiền gửi tiết kiệm liên tục tăng nóng, lãi suất liên ngân hàng
cũng tăng chóng mặt, các Ngân hàng Thương mại chạy đua lãi suất làm mặt bằng lãi suất
huy động liên tục tăng từ mức 12% lên tới 18,6%/năm. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã
hai lần tăng lãi suất cơ bản lên 12%/năm và 14%/năm, đỉnh điểm là việc phát hành tín
phiếu bắt buộc, qua đó đã đẩy lãi suất cho vay lên mức 21%/năm, đồng thời,
không cho phép các Ngân hàng Thương mại thu phí đối với hoạt động cho vay nhằm đẩy lãi
suất cho vay lên cao hơn nữa. Với những yếu tố trên, thanh khoản của hệ thống Ngân hàng
đã lâm vào trình trạng cực kỳ căng thẳng.
Đến năm 2009, cùng với chính sách kích cầu sau khủng hoảng kinh tế, tính đến cuối
tháng 12/2009 - tăng trưởng tín dụng đã đạt mức 37,7% (thống kê của Ngân hàng Nhà
Nước), lạm phát có dấu hiện gia tăng do sự hấp thụ nguồn vốn của nền kinh tế vẫn còn yếu
kém. Thực thi chính sách tiền tệ, hạn chế lạm phát quay trở lại, Ngân hàng Nhà nước đã
điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ 7%/năm lên 8%/năm. Theo đó lãi suất huy động bị
khống chế không quá 10.5%/năm và lãi suất cho vay không quá 12%/năm. Tuy nhiên
trên thực tế, lãi suất huy động trên hầu hết các kỳ hạn của các Ngân hàng đều đã đạt trên
14
10,49%, đường “cong” lãi suất đã trở thành đường “thẳng”, các Ngân hàng lớn đã
tạm ngưng cho vay, các khoản vay hiện hữu đã bị điều chỉnh lãi suất theo hướng tăng,
thậm chí Ngân hàng đã tiến hành chọn lọc khách hàng vay, ưu tiên những khách
hàng đã có uy tín và chấp nhận lãi suất cao. Lãi suất liên Ngân hàng cũng tiếp tục phi mã,
có lúc đạt đến 28%-30%. Điều này cho thấy tình hình thanh khoản của hệthống Ngân hàng
hiện nay có dấu hiệu tiếp tục lại quay trở lại thời kỳ của năm trước và là một bài toán cực kỳ
nan giải.
Năm 2010, kinh tế thế giới phục hồi sau khủng hoảng tài chính. Kinh tế trong nước
tăng trưởng cao (6.78%) nhờ động lực đầu tư (vốn đầu tư toàn xã hội tăng 12.9%), xuất
khẩu (tăng 25.5%) và tiêu dùng (tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 24.5%); các chỉ
tiêu kinh tế và an sinh xã hội cơ bản được đảm bảo. Tuy nhiên tình trạng thâm hụt thương
mại và lạm phát cao đã buộc Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải kìm chế
phát triển tín dụng. Các chính sách siết chặt quản lý nhằm ổn định thị trường tiền tệ trong
nước như việc đóng cửa sàn giao dịch vàng, thắt chặt yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn và tỷ lệ
cho vay, việc thông qua luật các tổ chức tín dụng sửa đổi đã buộc các ngân hàng xem xét lại
và điều chỉnh hoạt động một cách an toàn nhưng nhiều thách thức hơn.
Năm 2011: được xem là một năm có nhiều biến động với hầu hết kênh đầu tư trong
nước, từ vàng, đô la Mỹ đến chứng khoán và tiền gửi ngân hàng. Giá các mặt hàng tăng
mạnh (do giá thực phẩm, giáo dục, lương thực tăng mạnh với mức tăng lần lượt là 29,34%,
23,18% và 22,82%) do tác động của tăng giá thế giới cũng như nguồn cung trong nước
thiếu hụt, đã gây áp lực gia tăng lớn đến lạm phát. Tính chung cả năm 2011, lạm phát ở mức
18,58%.Tình hình kinh tế gặp nhiều khó khăn. Với tình hình kinh tế như trên đã ảnh hưởng
lớn đến hoạt động ngân hàng.Hoạt động huy động vốn gặp nhiều khó khăn, tình hình thanh
khoản ngân hàng căng thẳng.
Năm 2012: Nhìn chung là tình hình kinh tế gặp nhiều khó khăn: tăng trưởng kinh tế
chậm lại, thất nghiệp tăng cao, sức mua hạn chế, nợ công nhiều hơn. Thị trường vàng không
ổn định, tăng giảm bất thường. Tuy nhiên, cũng có điểm được cải thiện trong năm 2012. Đó
là Lạm phát năm 2012 giảm đáng kể so với năm 2011. Điều này đã phần nào giúp chính
15
phủ có cơ sở giảm lãi suất liên tục trong năm 2012 (6 lần). Từ đó Mặt bằng Lãi suất huy
động giảm từ 3-6%/năm, lãi suất cho vay giảm 5-9%/năm so với cuối năm 2011 và đã trở về
với mức lãi suất cuối năm 2007. Hoạt động tín dụng tăng trưởng thấp nhưng cơ cấu tín dụng
chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với chủ trương của Chính phủ. Thanh khoản của
hệ thống các tổ chức tín dụng được cải thiện, số dư tiền gửi của TCTD tại NHNN luôn cao
hơn so với yêu cầu dự trữ bắt buộc, tỷ lệ tín dụng/huy động vốn bằng VND giảm xuống
mức khoảng 95%; lãi suất trên thị trường liên ngân hàng giảm mạnh từ 10-11%/năm so với
cuối năm 2011 và hiện ổn định ở mức thấp.
2. Thực trạng tình hình thanh khoản của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn
2008 – 2012:
2.1. Các chính sách của Ngân hàng Nhà nước
Cho đến nay, các văn bản pháp luật của Nhà nước và ngành liên quan đến công tác
quản trị rủi ro thanh khoản đã được nhiều lần sửa đổi, bổ sung. Chúng được đề cập tại
chương 5, điều 130 Luật các TCTD số 47/2010/QH12. Ngoài ra, các nội dung có liên
quan được thể hiện trong các văn bản như:
Về tỷ lệ DTBB đối với các TCTD:
- Quyết định số 187/QĐ-NHNN về việc điều chỉnh DTBB đối với các TCTD ban
hành ngày 16/01/2008
- Quyết định số 2560/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008 của Thống đốc NHNN về việc
điều chỉnh tỷ lệ DTBB đối với các TCTD.
- Quyết định số 2811/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008 về việc điều chỉnh tỷ lệ DTBB
đối với các TCTD.
- Quyết định số 2951/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008 về việc điều chỉnh tỷ lệ DTBB
đối với TCTD của Thống đốc NHNN.
- Quyết định số 379/QĐ-NHNN về việc điều chỉnh tỷ lệ dự DTBB đối với các
TCTD ban hành ngày 24/02/2009.
Về tỷ lệ an toàn
- Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy định về tỷ lệ đảm bảo
an toàn trong hoạt động của các TCTD. Theo Quyết định này, chỉ tiêu sử dụng
16
nguồn vốn ngắn hạn tài trợ cho trung và dài hạn của các NHTM tối đa bằng 40%,
và đối với các TCTD khác là 30%.
- Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 của Thống đốc NHNNquy định
về tỷ lệ đảm bảo an toàn của các TCTD. Theo đó, tại khoản 2, điều 12 của Thông
tư, chỉ tiêu khả năng chi trả của các NHTM tối thiểu bằng 15% giữa tổng tài sản
“Có” thanh toán ngay và tổng Nợ phải trả và tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài
sản “Có” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau và tổng tài
sản “Nợ” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau đối với
đồng Việt Nam, đồng Euro, đồng Bảng Anh và đồng đô la Mỹ.
- Thông tư số 19/2010/TT-NHNN ngày 27/09/2010 của NHNN sửa đổi, bổ sung
một số điều của thông tư số 13/2010/TT-NHNN về các tỷ lệ bảo đảm an toàn
trong họat động của tổ chức tín dụng.
- Thông tư số 22/2011/TT-NHNN ngày 30/08/2011 của NHNN sửa đổi, bổ sung
một số điều của Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ
chức tín dụng.
- Thông tư 33/2011/TT-NHNN ngày 08/10/2011 của NHNN sửa đổi, bổ sung một
số điều của Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức
tín dụng quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm
theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước.
2.1.1 Các quy định về các hệ số an toàn
Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 19/04/2005 đã thay thế quyết định
297/1999/QĐ-NHNN trong việc quy định các tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động. Quyết
định số 03/2007/QĐ-NHNN ban hành ngày 19/01/2007 và 34/2008/QĐ-NHNN ban hành
ngày 02/12/2008 có những thay đổi và bổ sung cho Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN
ở một số nội dung. Các tiêu chuẩn an toàn mới đó là giới hạn tín dụng đối với Khách
hàng và giới hạn góp vốn mua cổ phần. Bên cạnh đó, có một số điểm cần lưu ý là NHNN
đã giảm hệ số rủi ro đối với các khoản vay thế chấp bất động sản xuống còn 50% so với
100% theo quyết định cũ, đồng thời, tăng biên độ hệ số rủi ro từ 0-150%, trong đó món
vay kinh doanh chứng khoán đã được áp dụng hệ số rủi ro 150%.
Nghị định 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ mức quy định vốn điều lệ tối thiểu các
NHTM phải đạt được vào cuối năm 2008 là 1.000 tỷ đồng và đến cuối năm 2010 là 3.000
17
tỷ đồng. Đây thực sự là một sức ép không nhỏ đối với hệ thống ngân hàng khi mà mức
vốn điều lệ tối thiểu được quy định trước đó chỉ khoảng từ 50-70 tỷ đồng. Tuy nhiên hầu
hết các NHTM đều thực hiện được điều này.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2007-2008 với cơn sốt đầu tư chứng
khoán và bong bóng thị trường bất động sản đã làm ranh giới giữa những NHTM lành
mạnh và NHTM yếu kém trở nên rõ ràng và đồng thời khung quy định an toàn trong hoạt
động bộc lộ những bất cập tiềm ẩn của nó.
Việc bổ sung các khoản cho vay đầu tư chứng khoán vào danh mục tài sản “Có” rủi
ro đồng thời áp mức hệ số rủi ro 150% cho tài sản này theo quyết định số 03/2007/QĐ-
NHNN ngày 19/01/2007 của NHNN cho thấy NHN đã xác định được rủi ro tiềm ẩn khi
để các NHTM tham gia vào lĩnh vực này. Tuy nhiên chính sách can thiệp của NHNN có
phần chậm trễ khi mà cơn sốt cho vay đầu tư chứng khoán đã bắt đầu từ năm 2006 nhưng
cho đến ngày 28/05/2007, NHNN mới có chỉ thị 03/2007/CT-NHNN khống chế mức cho
vay đầu tư chứng khoán ở mức 3%/tổng dư nợ.
Thêm vào đó, việc NHNN giảm hệ số rủi ro đối với những món vay thế chấp bất
động sản từ 100% xuống còn 50% như một sự mở đường cho các NHNTM tích cực cho
vay trong lĩnh vực này vì hầu hết các khoản vay kinh doanh bất động sản đều được thực
hiện dưới dạng thế chấp bằng chính bất động sản được mua. Trong giai đoạn này, dư nợ
cho vay bất động sản ở hầu hết các ngân hàng đều tăng cao, đặc biệt ở một số ngân hàng
chiếm đến 50-60%. ABBank được xem là một điển hình của hoạt động tín dụng kém an
toàn khi tập trung chủ yếu dư nợ vào hoạt động kinh doanh bất động sản (chiếm tới 60 %
tổng dư nợ năm 2008).
Cơn sốt thị trường chứng khoán năm 2007 và cơn sốt thị trường bất động sản năm
2008 cho thấy các NHTM có vai trò tiếp tay, thúc đẩy các cơn sốt của thị trường. Các
NHTM có thể kiếm lợi trong ngắn hạn nhưng hậu quả về lâu dài như nợ xấu tăng cao,
vốn khả dụng bị hạn chế do phải trích lập dự phòng rủi ro nhiều hơn, … đã làm cho phần
lớn các NHTM trở nên kém bền vững và hạn chế về thanh khoản.
Quy định về an toàn của NHNN đã không định hướng các NHTM hoạt động theo
hướng có lợi cho nền kinh tế. Trong giai đoạn 2007-2008, các NHTM chủ yếu hỗ trợ cho
các lĩnh vực mang tính chất đầu cơ, kéo theo đó là việc các NHTM phải giải quyết một
lượng lớn nợ xấu khi các lĩnh vực phi sản xuất này xuống dốc. Khi các NHTM đã lún sâu
vào hai cơn sốt đầu tư này thì NHNN mới đưa ra chính sách như chỉ thị 03/2007/CT-
NHNN, điều này phản ánh tính thiếu nhất quán trong chính sách của NHNN.
Ngày 20/05/2010 NHNN đã ban hành Thông tư số 13/2010/TT-NHNN với nội
dung thiết lập lại toàn bộ các tỷ lệ an toàn hoạt động, kèm theo đó là thông tư
19/2010/TT-NHNN ngày 27/09/2010 sửa đổi bổ sung một số điều Thông tư 13. Với điểm
18
mấu chốt như tăng hệ số an toàn vốn từ 8% lên 9%, giới hạn chặt chẽ việc tham gia vào
hoạt động chứng khoán và bất động sản của các NHTM với hệ số rủi ro cho các khoản
vay thuộc hai lĩnh vực này là 250%, quy định cụ thể về tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn
huy động (80% đối với ngân hàng và 85% đối với các TCTD phi ngân hàng). Thời hạn
hiệu lực của Thông tư là từ 01/10/2010 - đây là khoảng thời gian áp dụng khá ngắn so
với những tiền lệ trước đó.
Thông tư 13/2010/TT-NHNN ra đời thay thế cho Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN
ban hành ngày 19/04/2005 đã loại bỏ quy định về tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn
được sử dụng để cho vay trung và dài hạn (Các ngân hàng thương mại được sử dụng tối
đa 40% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Đối với các tổ chức tín dụng
khác, tỷ lệ này là 30%. Nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn
bao gồm tiền gửi (không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn dưới 12 tháng), tiền gửi tiết kiệm của cá
nhân (không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn dưới 12 tháng), và nguồn vốn huy động từ phát hành
giấy tờ có giá ngắn hạn).
Khác với giai đoạn ban hành Quyết định 457/205/QĐ-NHNN, Thông tư 13 được
đưa ra trong bối cảnh vĩ mô không mấy thuận lợi, tăng trưởng kinh tế suy giảm, lạm phát
kinh tế tăng cao làm cho việc đáp ứng những tiêu chuẩn an toàn theo Thông tư 13 trở nên
khó khăn với rất nhiều ngân hàng. Bên cạnh đó cùng với sự suy giảm của thị trường
chứng khoán, cổ phiếu ngân hàng giảm mạnh 18% trong năm 2010 làm kế hoạch huy
động vốn tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ cuối năm 2010 của nhiều ngân hàng nhỏ không
đạt được, làm mất đi bước đệm căn bản để thực hiện tiêu chuẩn CAR 9% của các ngân
hàng này.
Nếu so sánh với Thông tư 13 với những chỉ tiêu an toàn được ban hành trong giai
đoạn trước đó thì có thể thấy đây thực sự là khung an toàn hoạt động kỳ vọng của cơ
quan quản lý. Tuy nhiên, việc đột ngột năng cao các chỉ tieu an toàn và gấp gáp trong yêu
cầu tuân thủ đã làm nảy sinh phản ứng tiên cực từ phía các ngân hàng.
Trước thời điểm ban hành Thông tư số 13, NHNN chưa có quy định cụ thể nào về
hệ số (tỷ lệ) cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động (LDR) tối đa nên các NHTM vẫn thả
cửa cho vay vượt mức huy động trong một thời gian dài, rất nhiều ngân hàng vừa và nhỏ
duy trì tỷ lệ LDR cao trên 100%, đặc biệt một vài NHTM duy trì tỷ lệ này cao hơn 200%.
Bảng 1. Tỷ lệ LDR ở một số NHTM
Ngân hàng 2007 2008 2009
Ngân hàng Kiên Long (KienLongBank) 141% 132% -
Ngân hàng Việt Á (VietABank) 125% 89% 110%
19
Ngân hàng Sài Gòn Công Thương (SaiGon Bank) 114% 110% 114%
Ngân hàng Xăng dầu Petrolimex (PG Bank) 146% 107% 90%
Ngân hàng Nam Á (NAB) 96% 109% 111%
Ngân hàng Phương Đông (OCB) 130% 126% 126%
Ngân hàng Đại Á (DaiABank) 144% 102% -
Ngân hàng Gia Định (GiaDinhBank) 251% 209% 199%
Ngân hàng phát triển nhà TP.HCM (HDBank) 251% 142% 87%
Ngân hàng Thái bình dương (Pacific Bank) 266% 185% 145%
Ngân hàng Đại Tín (Trust Bank) 267% 80% 133%
Ngân hàng Việt Á (VAB) 125% 88% 111%
Ngân hàng Á Châu (ACB) 57% 54% 71%
Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) 80% 68% 99%
Ngân hàng Sài gòn thương tín (Sacombank) 79% 75% 98%
Ngân hàng Kĩ thương (Tecombank) 83% 65% 67%
Nguồn: Th.s Lê Trần Duy Thư (2010), các NHTM Việt Nam với Thông tư 13
Thông tư 13 NHNN yêu cầu các NHTM phải duy trì tỷ lệ này ở mức độ dưới 80%
và thời điểm hiệu lực sau 4 tháng công bố. Theo kinh nghiệm của một số quốc gia Châu
Á như Hàn Quốc có lộ trình 4 năm cho việc giảm tỷ lệ LDR từ 110% từ đầu năm 2012
xuống dưới 100% vào năm 2014, Nepal có lộ trình 3 năm cho việc giảm LDR trong đó
yêu cầu hạ tỷ lệ LDR từ 95% năm 2009 xuống 85% cuối năm 2010 và 80% cuối năm
2011 thì việc giảm tỷ lệ LDR của hệ thống NHTM Việt Nam xuống 80% theo yêu cầu
của Thông tư 13 là khá đột ngột.
Bảng 5. Tỷ lệ LDR trung bình toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam (2002-2011)
Năm 2002
2003 2004 2005
2006 2007
2008 2009 2010 2011
Tín
dụng/tiền gửi
91% 93% 99% 99% 91% 93% 95% 101%
101%
103%
Nguồn: Ngân hàng phát triển nhà Châu Á, Fitch’s, Công ty chứng khoán Bảo Việt
(BVSC)
20
Đây thực sự là giọt nước làm tràn ly đối với nhóm ngân hàng vừa và nhỏ vốn tính
kém thanh khoản đã tích lũy trong nhiều năm qua. Lúc này ngân hàng vừa và nhỏ khó có
lựa chọn nào khác ngoài việc tăng cường huy động để đẩy LDR giảm xuống vì việc cắt
giảm các khoản đã cho vay ra khó khả thi vì không thể đáp ứng được về mặt thời gian.
Việc giảm hệ số rủi ro từ 100% xuống còn 50% đối với các khoản vay thế chấp bất
động sản (trong đó có cả cho vay kinh doanh bất động sản) trong những năm 2005-2010
và việc nâng hệ số rủi ro đối với những khoản vay bất động sản từ 50% lên 250% theo
Thông tư 13 này cũng cho thấy tính kém nhất quán trong dài hạn đối với những chính
sách do NHNN ban hành. Thêm vào đó, các món vay kinh doanh chứng khoán cũng được
nâng hệ số rủi ro từ 150% lên 250% thực sự là một mức tăng khá lớn.
Ngày 30/08/2011, Thông tư số 22/2011/TT-NHNN đã được ban hành để sửa đổi, bổ
sung Thông tư số 13/2010/TT-NHNN. Thông tư 22/2011/TT-NHNN đã cụ thể hóa định
hướng đưa ra trước đó, chính thức hủy bỏ tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động quy
định tại Thông tư 13, được sửa đổi, bổ sung sau đó bởi Thông tư 19. Bên cạnh đó, Thông
tư số 22 cũng điều chỉnh hệ số rủi ro đối với một số tài sản có bằng ngoại tệ khi tính tỷ lệ
an toàn vốn tối thiểu.
Theo định hướng Ngân hàng Nhà nước, việc điều chỉnh của thông tư 22 này nhằm
tạo sự luân chuyển và điều hòa vốn giữa thị trường 1 và thị trường 2, giữa tổ chức tín
dụng thừa và tổ chức tín dụng thiếu vốn, giúp các tổ chức tín dụng thiếu vốn có điều kiện
tăng trưởng tín dụng trong giới hạn 20% và hạ được lãi suất cho vay.
Trước đó, việc không đưa tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, Kho bạc
Nhà nước, Bảo hiểm Xã hội, hay ngay cả phần vốn tự có… vào “vốn huy động” để tính
tỷ lệ trên, hay ngay cả tiền vay tổ chức tín dụng nước ngoài về cho vay lại cũng bị giới
hạn 80% được các thành viên thị trường cho là bất hợp lý; thậm chí là lo ngại những
nguồn vốn đó sẽ bị “nằm chết”. Với Thông tư 19 sửa đổi, bổ sung sau đó, tỷ lệ 80%/85%
nói trên được xác định là từ vốn huy động, tức các nguồn khác đặc biệt là vốn tự có của
tổ chức tín dụng không bị lệ thuộc vào giới hạn này. Bên cạnh đó, Thông tư 19 cũng đã
xem xét lại việc tính thêm các nguồn vốn nói trên nhưng áp các hạn chế về kỳ hạn, hoặc
chỉ cho tính một tỷ lệ thấp (như chỉ cho dùng 25% tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức
kinh tế để cho vay)…
Thông tư 22 ra đời sẽ góp phần tháo gỡ những khó khăn cơ bản cho hệ thống ngân
hàng, nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và giảm lãi suất.
Về tổng dư nợ tín dụng. Việc quy định tỷ lệ cấp tín dụng tối đa chỉ từ 80-85% từ
nguồn vốn huy động như thông tư 13 trước đây đã khiến cho một lượng vốn khá lớn bị
“giam” lại trong hệ thống ngân hàng, khiến các ngân hàng không thể phát triển tín dụng
mà chỉ sử dụng được số tiền bị giam này dưới dạng tiền gửi tại NHNN hoặc đầu tư vào
21
các loại trái phiếu với lãi suất không hấp dẫn. Trong khi đó, chi phí vốn của các ngân
hàng đã bị đội lên một khoản không cần thiết do vẫn phải trả lãi khá cao cho người gửi
tiền cho khoản vốn huy động bị giam này.
Theo ước tính thì tổng vốn huy động của nền kinh tế tính đến hểt tháng 7/2011 vào
khoảng 2,3 triệu tỷ đồng. Như vậy, với 20% vốn được giải phóng, ước tính hệ thống ngân
hàng sẽ có thêm khoảng 460.000 tỷ đồng để phát triển tín dụng với chi phí vốn rẻ hơn.
Việc bao nhiêu trong số 460.000 tỷ đồng này được bơm thêm vào nền kinh tế còn phụ
thuộc vào giới hạn tăng trưởng tín dụng mà NHNN đặt ra trong năm nay (dưới 20%)
cũng như mức lãi suất mà các doanh nghiệp chấp nhận khi vay vốn, tuy nhiên dù sao việc
các ngân hàng có thêm nguồn vốn khả dụng cũng là tín hiệu tích cực cho dòng chảy tín
dụng.
Giải quyết vấn đề thanh khoản cho ngân hàng nhỏ, tránh việc chạy đua lãi suất.
Trong 8 tháng đầu năm 2011, một trong những lý do khiến lãi suất luôn ở mức cao là do
thanh khoản của các ngân hàng nhỏ vẫn chưa được đảm bảo, khiến các ngân hàng này
luôn phải chật vật huy động vốn bằng cách đẩy lãi suất huy động lên cao, buộc các ngân
hàng lớn cũng phải tham gia vào cuộc đua lãi suất. Với việc ban hành thông tư 22, thanh
khoản của các ngân hàng nhỏ sẽ được đảm bảo tốt hơn, giúp cho lãi suất huy động của cả
hệ thống ngân hàng sớm bình ổn trở lại – tiền đề để thực hiện mục tiêu giảm mặt bằng lãi
suất cho vay.
Ước tính thì tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế hiện đạt khoảng 2,4 triệu tỷ đồng
(tăng khoảng 8% so với thời điểm cuối năm 2010). Như vậy, nếu tăng trưởng tín dụng đạt
mục tiêu 20% như NHNN đề ra thì tổng dư nợ tín dụng vào cuối năm 2011 sẽ vào
khoảng gần 2,7 triệu tỷ đồng. Khi đó, với dư nợ của lĩnh vực phi sản xuất vào thời điểm
cuối tháng 5/2011 khoảng 390 nghìn tỷ đồng (tương đương 17% tổng dư nợ tín dụng) thì
tỷ trọng cho vay lĩnh vực phi sản xuất vào thời điểm cuối năm 2011 sẽ chỉ còn trên 14%
(dưới mức mục tiêu 16% mà NHNN đề ra). Như vậy, khả năng toàn bộ hệ thống ngân
hàng phải thắt chặt thêm vốn nhằm đưa tỷ trọng cho vay lĩnh vực phi sản xuất xuống
dưới 16% sẽ không cần thiết nữa (tất nhiên điều này loại trừ đối với một số ngân hàng
nhỏ, mang tính riêng lẻ vẫn còn tỷ trọng cho vay phi sản xuất ở mức cao). Không những
được hưởng lợi từ việc tín dụng không bị thắt chặt thêm, việc mặt bằng lãi suất ở mức
thấp hơn (17-19%) cũng sẽ mang đến nhiều thuận lợi cho thị trường chứng khoán và bất
động sản. Tuy nhiên, để hai lĩnh vực này hồi phục thật sự mạnh mẽ thì lãi suất sẽ phải
giảm xuống mức sâu hơn nữa (13-15%).
Do vậy, nhìn chung, với thông tư 22 được NHNN ban hành, thị trường chứng khoán
và bất động sản sẽ có thêm nhiều hi vọng để hồi phục, đưa mặt bằng lãi suất giảm xuống
mức 17-19% và hi vọng có thể có mức giảm sâu hơn nữa.
22
2.1.2 Các chính sách khác
Quý I/2008 khi lạm phát có dấu hiệu gia tăng, NHNN bắt đầu sử dụng chính sách
tiền tệ thắt chặt thông qua việc tăng Lãi suất cơ bản (LSCB), tăng dự trữ bắt buộc
(DTBB). Tháng 1/2008, NHNN ra Quyết định 187 về việc điều chỉnh DTBB đối với
TCTD. Theo đó, kể từ tháng 2-2008, tỷ lệ DTBB đã tăng thêm 1% đối với các loại tiền
gửi so với tỷ lệ quy định hiện tại. Cụ thể, đối với tiền VND không kỳ hạn và có kỳ hạn
dưới 12 tháng, tỷ lệ DTBB được tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12
tháng trở lên, tỷ lệ DTBB được tăng từ 4% lên 5%. Tháng 3.2008 phát hành tín phiếu
NHNN bắt buộc, LSCB liên tục được điều chỉnh tăng từ 8,25% lần lượt lên
8,75%,10%,11%,12% và tới mức 14% vào vào tháng 6.2008, chỉ đạo các NHTM tuân
thủ một cách nghiêm ngặt quy định không áp dụng lãi suất kinh doanh vượt quá 150% lãi
suất cơ bản và không được thu phí đối với hoạt động cho vay. Theo NHNN, mục đích
của việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc lần này nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về, chủ động
kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng dư nợ tín dụng phù hợp
với các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, vô hình chung, biện pháp này của NHNN đã
đẩy NHTM vào tình thế khó khăn thanh khoản. Thực tế cho thấy, bảy tháng đầu năm
2008, tình trạng khan hiếm tiền đồng, lãi suất tiền gửi VND liên ngân hàng tăng lên một
cách chóng mặt đã đẩy các NHTM vào cuộc chạy đua lãi suất làm mặt bằng lãi suất huy
động tăng dần lên từ 12% lên tới 18,6%/năm
1
. Mặc dù lãi suất huy động tăng cao như vậy
nhưng theo nghiên cứu của một số chuyên gia thì thực sự đồng Việt Nam thu hút về ngân
hàng lại không được như ý muốn của các nhà quản lý và tình trạng thanh khoản vẫn luôn
bị những áp lực rất căng thẳng.
Mặc dù từ quý IV/2008 đến đầu năm 2009, NHNN thực thi chính sách tiền tệ nới
lỏng, nhưng trước tình trạng dư nợ tín dụng có dấu hiệu tăng mạnh hơn chỉ tiêu định
hướng cho cả năm 2009 là 30%, thì từ tháng 6.2009 đến đầu năm 2010, dù không tuyên
bố là đã chuyển sang chính sách tiền tệ thắt chặt, nhưng những động thái của NHNN rõ
ràng là có những biểu hiện của việc thắt dần tiền tệ dưới định hướng là “chủ động ngăn
ngừa lạm phát”. Đó là việc chỉ đạo các NHTM nhà nước không được tăng trưởng tín
dụng quá 25%, các ngân hàng khác phải kiểm soát tốc độ tăng trưởng. Đồng thời NHNN
cũng thông báo là sẽ kiểm soát chặt lượng cung tiền qua thị trường mở. Chỉ đạo không
được dùng vốn cho vay đầu tư bất động sản và các hoạt động đầu tư tài chính cũng là một
biện pháp để kiềm chế mức tăng trưởng tín dụng. Những biện pháp này của NHNN đã
kiềm chế được mức tăng dư nợ ở mức 37,7% (đã có dự báo là tăng trên 40%), đồng thời
góp phần kiềm chế mức tăng CPI (cả năm chỉ tăng 6,88%), nhưng tình hình lãi suất và
1
Tham khảo tại:
23
cung ứng vốn cho nền kinh tế lại đang có vấn đề. Lãi suất huy động VND liên tục trong
xu thế bung hết trần. Từ 1.12.2009, lãi suất cơ bản đã lên 8% và Hiệp hội ngân hàng đã
họp thống nhất khống chế trần lãi suất huy động là dưới 10,5%/năm thì lãi suất huy động
cao nhất đã lên tới 10,499%/năm, lãi suất các kỳ hạn ngắn, trung và dài hạn đang xích lại
gần nhau và hướng đến mức lãi suất trần tối đa được phép. Lãi suất liên ngân hàng lên
12%/năm và có nguy cơ “tăng tiếp”. Đó là những con số công bố chính thức, còn trong
thực tế thì nhiều khoản tiền gửi lớn của tổ chức và dân cư, bằng cách này hay cách khác,
đang được nhiều NHTM lôi kéo, níu giữ bằng các hình thức thưởng đã khiến cho lai suất
thực lớn hơn lãi suất danh nghĩa ghi trên biểu lãi suất mà các NHTM niêm yết từ 1-
2%/năm.
Đầu năm 2010, đã có nhiều ý kiến cho rằng tín dụng đang đóng băng, thực tế thì
không hẳn vậy, tín dụng vẫn gia tăng một cách hạn chế nhưng không đồng đều cho các
đối tượng và mọi thành phần, khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng hiện vẫn là ưu thế
của đa số các doanh nghiệp lớn, sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực có lợi thế xuất
khẩu, và những dự án lớn của một số doanh nghiệp nước ngoài. Nhiều ngân hàng đã nói
không với khách hàng doanh nghiệp nhỏ và vừa, khách hàng cá nhân từ 2, 3 tháng nay.
Ghé vào các phòng giao dịch của nhiều NHTM chỉ thấy làm công việc huy động vốn và
chuyển tiền, dù trên quầy vẫn đầy quảng cáo cho vay tiêu dùng nhanh chóng, thuận tiện.
Hỏi bao giờ cho vay lại khách hàng thì đều nhận được câu trả lời chưa biết khi nào.
Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ cho biết, phải đi vay vốn bên ngoài với lãi suất cao. Thực
trạng hoạt động của hệ thống NHTM thời gian gần đây cho thấy chức năng tập trung và
phân phối lại vốn cho nền kinh tế đang có chiều hướng suy giảm. Dòng vốn tín dụng
được xem như máu trong cơ thể nền kinh tế đang vừa bị thiếu và ách tắc cục bộ thì khó
có một cơ thể kinh tế khoẻ mạnh. Đã có ý kiến cho rằng NHNN lại đang có phần quá đà
trong ngăn ngừa lạm phát. Tuy nhiên, đến cuối năm 2008, đầu 2009, nhằm mục đích ổn
định thị trường tiền tệ, lãi suất, tỷ giá và hỗ trợ vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng có
điều kiện mở rộng huy động vốn và tín dụng có hiệu quả đối với nền kinh tế, kể cả việc
cho vay đối với các dự án đầu tư theo chương trình kích cầu của Chính phủ. NHNN lại ra
Quyết định số 379 về giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Theo đó, dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi
từ 12 tháng trở lên của các ngân hàng thương mại nhà nước, Vietcombank, ngân hàng
thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân
hàng 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính áp dụng mức dự trữ bắt buộc là 1% trên
tổng số dư tiền gửi.
Riêng năm 2011, mục tiêu số 1 là ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, 4
tháng đầu năm 2011, NHNN tiếp tục thực thi và giám sát gắt gao việc thắt chặt tiền tệ.
24
Công cụ đầu tiên mà NHNN thực hiện là lãi suất: 3/3/2011, NHNN ban hành Thông t
02/2011/TT-NHNN quy đnh v lãi sut huy đng vn ti đa bng đng Vit Nam ca
các TCTD và chi nhánh ngân hàng nc ngoài. Theo đó, TCTD ấn định lãi suất huy động
vốn bằng đồng Việt Nam của các tổ chức (trừ tổ chức tín dụng) và cá nhân gồm cả khoản
chi khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/năm. Các Quỹ Tín dụng nhân
dân cơ sở ấn định lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam không vượt quá
14,5%/năm. Trong khi đó, nguy cơ về tăng dự trữ bắt buộc cũng có thể sẽ xảy ra khiến
nỗi lo thanh khoản của các ngân hàng ngày càng lớn.
Hai lần liên tiếp trong hơn một tháng đầu năm 2011, NHNN đã tăng các lãi suất
chủ chốt trên thị trường liên ngân hàng. Nguồn cung tiền từ NHTW bị thắt chặt mạnh mẽ
khiến cho những ngân hàng nhỏ - vốn trông đợi nhiều từ nguồn này - rơi vào tình thế khó
khăn và đối mặt với nhiều rủi ro về thanh khoản. Không còn cách nào khác, các ngân
hàng phải áp dụng biện pháp cũ nhưng dễ và hiệu quả: Tăng lãi suất huy động để hút vốn
nhằm bù đắp cho sự thiếu hụt. Mặc dù NHNN đã luật hóa bằng Thông tư 02/TT-NHNN
ngày 3/3/2011
cấm huy động lãi suất quá 14%, và tất cả các ngân hàng đã thực hiện đúng
khi đều niêm yết ở mức tối đa cho phép. Tuy nhiên, một thị trường đầy biến động đang
ẩn sau những bảng niêm yết lãi suất - tưởng là bình lặng đó.
Đầu tiên là việc các ngân hàng bằng mọi cách liên tiếp tăng trần lãi suất huy động.
Người dân có tiền đi gửi tại các ngân hàng hiện nay - nếu có số dư ít thì nhận được những
khuyến mãi khá lớn, nếu có số dư lớn trên 500 triệu thì hoàn toàn có thể thỏa thuận đẩy
mức lãi suất vượt rào lên trên 17%. NHNN đã cảnh báo, kiểm tra và xử lý một vài trường
hợp, song thực tế, vẫn có nhiều cách để lách. Tuy nhiên, theo một chuyên gia ngân hàng,
hiện nay, nguồn vốn đổ vào các nhà băng vẫn không có nhiều dấu hiệu khả quan. Người
gửi tiền vẫn có xu hướng gửi ngắn hạn và chờ đợi những cơ hội rút tiền ra đầu tư hay gửi
ở nhà băng khác có lãi suất cao hơn. Như một lẽ thường tình, vì cần vốn, các ngân hàng
nhỏ rất dễ "nổ phát súng" mở đầu cuộc đua tăng lãi suất. Một chuyên gia từ Hiệp hội
Ngân hàng thừa nhận, việc NHNN điều chỉnh tăng một loạt mức lãi suất gần đây đã có
tác động gián tiếp đến lãi suất cho vay của các NHTM lớn trên thị trường liên ngân hàng.
Các ngân hàng lớn có nguồn tiền mặt đang tăng lãi suất trên thị trường này để kiếm lãi,
trong khi nhu cầu vốn đáp ứng thanh khoản trước mắt của các ngân hàng nhỏ rất lớn do
vay lãi suất liên ngân hàng qua đêm có lúc lên đến 16-17%/năm, thậm chí 17-20%/năm.
Do vậy, huy động lãi suất không kỳ hạn của dân cư 9-12%/năm đối với các NHTM vẫn
lợi hơn là vay liên ngân hàng lãi suất cao. Đó có thể là lý do đơn giản nhưng cũng là bản
chất của việc lãi suất tăng huy động vào thời điểm ba tháng đầu năm 2011. Kỳ hạn 1
tháng lãi suất có lúc lên đến 23%/năm. Điều này cho thấy, thị trường liên ngân hàng vẫn
25
tiếp tục căng thẳng, các ngân hàng tiếp tục khó khăn về vốn và đang chấp nhận những
khoản vay với lãi suất cắt cổ để đảm bảo an toàn cho chính mình. Và như một hệ quả tất
yếu, để thu hút vốn của người dân, sau khi tăng mạnh lãi suất không kỳ hạn, nhiều ngân
hàng cũng nâng lãi suất kỳ hạn tuần lên sát trần 14%/năm.
Với CPI tháng 4/2011 tăng tới 3,32% so với tháng trước, mức tăng cao nhất kể từ
tháng 3/2008, và tăng 9,64% so với tháng 12/2010, vượt xa mức chỉ tiêu 7% cho cả năm
được Quốc hội phê duyệt, nhiều NHTM đã dùng nhiều biện pháp “phá trần lãi suất huy
động” lên trên 17%/năm, thậm chí có nơi lên tới 20%/năm. Tình hình vi phạm trần lãi
suất tiếp diễn cho đến đầu tháng 9, khi Chỉ thị 02/CT-NHNN ngày 7/9/2011 được ban
hành, yêu cầu chấp hành quy định trần lãi suất huy động của các NHTM là 14%/năm đối
với VND; huy động USD là 2%/năm đối với cá nhân và 0,5%/năm đối với tổ chức. Chỉ
thị 02/CT-NHNN cũng nêu rõ những biện pháp xử lý đối với các NHTM cố tình vi phạm
trần lãi suất huy động nhằm xác lập lại kỷ luật thị trường. Tuy nhiên, một số NHTM tiếp
tục lách quy định này bằng cách áp dụng mức lãi suất 14%/năm đối với cả các khoản tiền
gửi kỳ hạn ngày, tuần, khiến cho lãi suất thực tế lên cao hơn 14%/năm. Vì vậy, NHNN đã
phải ban hành Thông tư 30/TT-NHNN ngày 28/9/2011, quy định rõ trần lãi suất huy
động 14%/năm được áp dụng đối với tiền gửi VND có kỳ hạn 1 tháng trở lên, với kỳ hạn
dưới 1 tháng và không kỳ hạn, lãi suất huy động tối đa là 6%/năm. Trước những hành
động quyết liệt của NHNN, “chính sách trần lãi suất huy động” đã phát huy tác dụng theo
đúng bản chất của nó. Đó là giúp xác định rõ những NHTM hoạt động không hiệu quả,
sử dụng biện pháp cạnh tranh lãi suất huy động nhằm đầu tư vào lĩnh vực bất động sản.
Ngày 06/12/2011, NHNN chính thức phát đi thông điệp hợp nhất 03 ngân hàng
gồm: NHTMCP Sài Gòn (SCB), NHTMCP Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank) và
NHTMCP Đệ Nhất (Ficombank) thành một ngân hàng. Trong thời gian hoạt động vừa
qua, 3 ngân hàng này rơi vào tình trạng mất thanh khoản tạm thời chủ yếu do sử dụng
nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn. Với chủ trương đảm bảo trong quá trình tái
cơ cấu không để xảy ra đổ vỡ ngân hàng, mất an toàn hoạt động ngân hàng, NHNN đã hỗ
trợ thanh khoản cho 3 ngân hàng này. NHNN chỉ định BIDV tham gia toàn diện vào quá
trình hợp nhất, thay mặt Nhà nước đại diện quản lý phần vốn hỗ trợ thanh khoản cho các
ngân hàng sáp nhập. NHNN cho biết, lợi ích của người gửi tiền được Nhà nước đảm bảo,
quyền lợi của các cổ đông được giữ nguyên và các trách nhiệm, nghĩa vụ của các ngân
hàng hợp nhất được chuyển giao theo đúng quy định của pháp luật. Chính vì vậy, lượng
khách đến rút tiền do lo ngại tình hình mất thanh khoản của các ngân hàng hợp nhất đã
không xảy ra, hoạt động của ngân hàng hợp nhất vẫn diễn ra bình thường. Tính đến thời
điểm 30/9/2011, tổng tài sản của ba ngân hàng đạt 153.662 nghìn tỷ đồng, tổng vốn điều