Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH KINH TẾ CHUYỂN ĐỔI CHO CÁC HỘ NÔNG DÂN SAU THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIÊP Ở HUYỆN PHỔ YÊN TỈNH THÁI NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.06 KB, 118 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu 3
2.1. Mục tiêu chung 3
2.2. Mục tiêu cụ thể 3
4. Ý nghĩa của đề tài 4
Bảng 2.20. Phân tích SWOT (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức) 80
trong quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế của người dân sau thu hồi đất 80
i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CĐ :Cố định
CN :Công nghiệp
CCN :Cụm công nghiệp
CNH :Công nghiệp hoá
DT :Diện tích
DVNN :Dịch vụ nông nghiệp
ĐTH :Đô thị hoá
GPMB :Giải phóng mặt bằng
GTSX :Giá trị sản xuất
HĐH :Hiện đại hoá
HH :Hiện hành
KCN :Khu công nghiệp
KCX :Khu chế xuất
KKT :Khu kinh tế
LN :Lâm nghiệp
NL :Nông lâm
NLKH : Nông lâm kết hợp
HTX :Hợp tác xã
TNbq :Thu nhập bình quân
TM :Thương mại


TTCN :Tiểu thủ công nghiệp
THĐ :Thu hồi đất
TS :Thuỷ sản
UBND :Uỷ ban nhân dân
XDCB :Xây dựng cơ bản
ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu 3
2.1. Mục tiêu chung 3
2.2. Mục tiêu cụ thể 3
4. Ý nghĩa của đề tài 4
Bảng 2.20. Phân tích SWOT (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức) 80
trong quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế của người dân sau thu hồi đất 80
iii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá (CNH)
diễn ra khá mạnh mẽ và lan toả nhanh chóng từ các thành phố lớn ra các vùng
phụ cận và nông thôn Việt Nam. Biểu hiện của quá trình này đó là trong thời
gian qua hàng trăm khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp đã được xây
dựng, tính đến năm 2010 cả nước có 150 KCN và khu chế xuất đã được quy
hoạch phát triển. Cũng chính quá trình này, đã dẫn tới việc chuyển đổi đất từ
sản xuất nông nghiệp sang phục vụ cho việc xây dựng các KCN và khu chế
xuất, đồng thời quá trình này cũng kéo theo quá trình chuyển dịch cơ cấu lao
động từ nông nghiệp sang các lĩnh vực khác. Có thể nói việc thu hồi đất để
xây dựng các KCN là một yêu cầu khách quan, mang tính tất yếu của quá
trình CNH, hiện đại hoá (HĐH) đất nước [3]. Mặc dù việc thu hồi đất phục vụ
cho quá trình CNH đã phần nào tạo điều kiện thuận lợi để phát triển công

nghiệp dịch vụ cũng như xây dựng khu đô thị mới, tạo điều kiện thu hút đầu
tư, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tuy nhiên quá trình này
cũng đã đặt ra rất nhiều vấn đề bức xúc trong đời sống người dân bị thu hồi
đất, đặc biệt là vấn đề việc làm, ổn định thu nhập và đảm bảo đời sống kinh tế
của nhiều hộ nông dân mất đất. Điều này khiến cho cuộc sống của hàng triệu
nông dân đang gặp rất nhiều khó khăn sau khi bị THĐ, và một thực tế mà
người dân đang phải đối mặt đó là: Nếu không tìm được việc làm mới, quay
lại nghề nông khi đất nông nghiệp không còn thì họ lại bị rơi vào cảnh thất
nghiệp và cận kề nghèo đói. Chính vì thế một câu hỏi lớn đặt ra là làm thế nào
để giải quyết những vấn đề cấp bách trên, đảm bảo đời sống của người dân
được tốt hơn trước thu hồi hoặc tối thiểu cũng bằng trước thu hồi, câu hỏi này
cũng đang được Đảng và nhà nước quan tâm tháo gỡ.
1
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi phía bắc đã và đang thực
hiện mục tiêu đến năm 2020 trở thành 1 trung tâm kinh tế, văn hoá, giáo dục
của vùng. Để đạt được mục tiêu này, trong những năm qua do có nhiều điều
kiện thuận lợi nên quá trình CNH, HĐH ở Thái Nguyên đã và đang diễn ra
mạnh mẽ, nhiều KCN, khu chế xuất được hình thành như: KCN Sông công,
KCN Nam Phổ Yên, KCN Yên Bình…Bên cạnh những tác động tích cực mà
quá trình CNH, HĐH mang lại thì Thái Nguyên cũng đang phải đối mặt với
khó khăn lớn đó là làm sao có thể ổn định đời sống kinh tế của người dân sau
khi họ bị THĐ sản xuất.
Trong số các huyện ở Thái Nguyên thì Phổ Yên được xem là một
huyện đang có đà phát triển kinh tế rất mạnh mẽ do có nhiều điều kiện
thuận lợi về giao thông, địa hình, vị trí địa lý… nên Phổ Yên được coi là
một trong những địa bàn hấp dẫn các nhà đầu tư nhất, đặc biệt 5 năm qua
do thực hiện chủ trương đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng phát triển công nghiệp dịch vụ nên rất nhiều các KCN được
hình thành và quy hoạch. Vấn đề đặt ra sau khi người nông dân mất đất sản
xuất nông nghiệp thì mô hình kinh tế chuyển đổi của hộ như thế nào để

đảm bảo cuộc sống lâu dài, bền vững của hộ
Xuất phát từ những vấn đề thực tế trên, để làm rõ được những vấn đề về
thực trạng việc làm, thu nhập của người dân sau THĐ từ đó đề ra được những
giải pháp nhằm giải quyết một phần nào các vấn đề bất cập trên đảm bảo nâng
cao đời sống cho người dân một cách bền vững, đồng thời đóng góp cho quá
trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thực hiện có hiệu quả ở Thái Nguyên
nói chung, Phổ Yên nói riêng, tôi đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Nghiên
cứu mô hình kinh tế chuyển đổi cho các hộ nông dân sau khi thu hồi đất
nông nghiệp tại các khu công nghiệp ở huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên.
2
2. Mục tiêu
2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu bao trùm của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu các hộ nông
dân bị thu hồi đất nông nghiệp để từ đó nghiên cứu một số mô hình kinh tế
chuyển đổi cho các hộ nông dân sau khi thu hồi đất nông nghiệp tại các khu
công nghiệp ở huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về chuyển đổi kinh tế hộ cho nông dân bị
thu hồi đất để xây dựng các KCN.
- Đánh giá thực trạng về kinh tế của các hộ nông dân sau khi thu hồi đất
nông nghiệp cho dự án xây dựng khu công nghiệp trên địa bàn huyện Phổ Yên.
- Phát hiện các nguyên nhân ảnh hưởng tới kinh tế hộ cho người dân khi
bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn.
- Đề xuất một số mô hình kinh tế cho các hộ nông dân sau khi thu hồi
đất nông nghiệp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hộ nông dân bị thu hồi đất nông
nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp của huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu vào các hộ nông dân bị thu hồi đất sản xuất
nông nghiệp tại Khu công Nghiệp Nam Phổ Yên và Khu công nghiệp Tây
Phổ Yên.
KCN Nam Phổ Yên được xác định mở rộng quy mô diện tíchtrên cơ sở
02 KCNN xã Trung Thành, xã Thuận Thành và KCNN Tân Đồng với quy mô
diện tích 310ha.
KCN Tây Phổ Yên với quy mô diện tích là 450 ha thuộc xã Minh Đức,
Đắc Sơn, Vạn Phái.
3
4. Ý nghĩa của đề tài
4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về việc thu hồi đất nông nghiệp của
các hộ nông dân.
- Nghiên cứu những ảnh hưởng của các KCN đến đời sống hộ
- Nghiên cứu một số mô hình kinh tế chuyển đổi cho các hộ nông dân
sau khi mất đất nông nghiệp
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn nghiên cứu thực trạng sản xuất của các hộ nông dân sau khi
thu hồi đất nông nghiệp từ đó đưa ra các mô hình kinh tế phù hợp cho các
hộ nông dân sau khi đã bị mất đất nông nghiệp một cách thực tế và phù hợp
với điều kiện của địa phương.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận và kiến nghị. Luận văn được kết cấu
thành 3 chương.
Chương I. Tổng quan tài liệu và phương pháp nghiên cứu.
Chương II. Thực trạng mô hình kinh tế chuyển đổi của các hộ nông
dân sau thu hồi đất nông nghiệp tại các khu công nghiệp ở huyện Phổ Yên -
tỉnh Thái Nguyên.
Chương III. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả các mô
hình kinh tế chuyển đổi cho các hộ nông dân sau khi thu hồi đất nông

nghiệp tại các KCN ở huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
1.1.1. Các vấn đề về sở hữu ruộng đất, vai trò của ruộng đất và thu hồi đất
1.1.1.1. Sở hữu ruộng đất và vai trò của ruộng đất
Vấn đề sở hữu đất đai được thể hiện trong điều 5 của luật đất đai 2003
như sau: “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu”
Chính vì vậy, Nhà nước có quyền định đoạt đối với đất đai, quyền này của
Nhà nước được thể hiện thông qua quyền được quyết định mục đích sử dụng
đất, có quyền xét duyệt quy hoạch sử dụng đất và thời hạn sử dụng đất, quyền
quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển đổi mục đích
sử dụng đất; có quyền quy định giá đất và Nhà nước trao quyền sử dụng đất
cho người sử dụng thông qua giao đất, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất
đối với người đang sử dụng đất ổn định và quy định quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất.[5] Qua đây ta có thể thấy được rõ một vấn đề đó là hiện
nay tuy đất đai thuộc sở hữu toàn dân xong mọi quyền quyết định đều thuộc
về nhà nước, người dân cũng chỉ là những chủ thể được nhà nước trao quyền
được phép sử dụng đất, và Nhà nước có thể thu hồi đất bất cứ lúc nào để phục
vụ phát triển KT - XH. Chính vì vậy, trong những năm qua để đẩy mạnh quá
trình CNH, HĐH Nhà nước đã đưa ra rất nhiều quyết định thu hồi đất của các
cá nhân đang sử dụng trong đó phải kể đến những chủ thể là người dân nông
thôn. Chính điều này đã gây ảnh hưởng rất lớn tới đời sốngkinh tế của người
dân trong diện bị thu hồi đất.
Ruộng đất có ý nghĩa to lớn trong sản xuất nông nghiệp nói chung, đối
với việc tạo việc làm, giải quyết lao động dư thừa trong nông thôn nói riêng.
Do đó nếu không sử dụng hợp lý đất sẽ dẫn đến tới hậu quả rất lớn đó là: Thất
5
nghiệp, thu nhập thấp và nghèo đói, điều này sẽ hạn chế sự phát triển của khu

vực nông thôn nói riêng và sự phát triển KT - XH của cả nước nói chung.
1.1.1.2. Vấn đề về thu hồi đất
Trong quá trình quản lý của Nhà nước về đất đai, Nhà nước đã dùng
nhiều biện pháp khác nhau để phân phối và phân phối lại quỹ đất quốc gia cho
nhiều chủ sử dụng đất, một trong những biện pháp đó chính là thu hồi đất.
Vậy, thu hồi đất là việc nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử
dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, uỷ ban nhân dân xã, phường, thị
trấn quản lý theo quy định của luật đất đai năm 2003. Có thể nói, thu hồi đất
là giai đoạn kết thúc việc sử dụng đất của chủ thể này, nhưng lại là bước kế
tiếp của việc sử dụng đất của một chủ thể mới. Đó cũng là mối quan hệ qua
lại giữa giao đất và thu hồi đất. Do vậy các quy định về THĐ cần kết nối được
lợi ích của 3 chủ thể quan trọng là Nhà nước, chủ đầu tư sử dụng đất và người
bị THĐ, đồng thời phải có những chính sách quan tâm tới đời sống KT-XH
của những chủ thể sau THĐ.
Đặc trưng của thu hồi đất:
+ THĐ phải là quyết định hành chính của người có thẩm quyền nhằm
chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai và thẩm quyền này phải tuân thủ theo điều
44 của luật đất đai 2003.
+ Việc THĐ phải xuất phát từ nhu cầu của Nhà nước về KT- XH hoặc
là những biện pháp chế tài được áp dụng nhằm xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật đất đai của người sử dụng.[6]
1.1.2. CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn với vấn đề thu hồi đất
1.1.2.1. Các vấn đề liên quan đến CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn
CNH, HĐH đất nước nói chung và CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn
nói riêng là một quá trình tất yếu, khách quan để phát triển nên kinh tế, nâng
cao mức sống của người dân. Tuy nhiên, ở mỗi nước trong mỗi thời kỳ cần có
6
mục tiêu, bước đi thích hợp. Vùng nông thôn nước ta là một vùng rộng lớn
với 73% dân số sinh sống, tỷ lệ GDP còn thấp song lại có một vị trí vô cùng
quan trọng. Do vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi CNH, HĐH nông

nghiệp nông thôn là vấn đề đặc biệt quan trọng nhằm đưa nước ta thực sự trở
thành một nước công nghiệp đến năm 2020.[1]
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn như đó là quá trình phát triển nông
nghiệp, nông thôn từ trạng thái kinh tế cổ truyền thuần nông, tự cung tự cấp
thành nền kinh tế với cơ cấu kinh tế mới trong đó tỷ trọng công nghiệp, dịch
vụ nông thôn ngày càng tăng.
1.1.2.2. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn với vấn đề thu hồi đất và đời
sống người dân sau THĐ
Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ngày càng được đẩy
mạnh đi đôi với việc đất nông nghiệp được chuyển sang phục vụ xây dựng
các KCN, khu đô thị ngày một tăng, mặc dù đây là một quy luật mang tính tất
yếu, khách quan của xã hội. Song, cũng chính quá trình này đã dẫn tới muôn
vàn khó khăn mà người dân ở nhiều địa phương đang gặp phải sau THĐ.
Theo thống kê, cứ mỗi năm có tới 73000 ha đất nông nghiệp bị thu hồi để xây
dựng các khu, cụm công nghiệp. Tuy nhiên, bà con không giàu lên mà trái lại
53% số hộ nghèo đi, nhiều người phải đối mặt với nguy cơ thất nghiệp, thiếu
việc làm và nghèo đói. Theo khảo sát của Bộ lao động - thương binh và xã hội
thì trung bình mỗi hộ bị thu hồi đất có 1,5 lao động rơi vào tình trạng không
có việc làm, và trung bình mỗi ha đất nông nghiệp bị thu hồi có 13 lao động
mất việc làm. Qua đây có thể nói, việc thu hồi đất phục vụ phát triển các khu
công nghiệp đang đặt ra rất nhiều vấn đề bức xúc, đặc biệt trong lĩnh vực giải
quyết việc làm, thu hút lao động, ổn định đời sống kinh tế của người dân sau
THĐ. [2]
7
1.1.3. Lao động, việc làm và các vấn đề liên quan
1.1.3.1. Lao động và các vấn đề liên quan đến lao động
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật
chất và các giá trị tinh thần của xã hội .Do vậy, lao động có năng suất, chất lượng
và hiệu quả cao là nhân tố quyết định đến sự phát triển của đất nước.
- Nguồn lao động (lực lượng lao động): Là một bộ phận dân số trong độ

tuổi quy định thực tế có tham gia lao động (đang có việc làm) và những người
không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm.
- Độ tuổi lao động: Theo quy định của Bộ luật lao động thì độ tuổi lao
động được tính như sau: + Đối với nam giới: Từ 15 đến 60 tuổi
+ Đối với nữ giới :Từ 15 đến 55 tuổi
Tuy nhiên, theo khái niệm trên thì những người trong độ tuổi lao động
không có nhu cầu làm việc hoặc không có khả năng làm việc thì không được
tính trong lực lượng lao động: Ví dụ như học sinh, người tàn tật
- Lao động có thể được phân loại theo những tiêu thức sau:
+ Phân loại theo tính chất lao động gồm có: Lao động trực tiếp và lao
động gián tiếp
+ Phân loại theo thời gian lao động gồm có: Lao động thường xuyên
và Lao động tạm thời
+ Phân loại theo trình độ được đào tạo: Lao động trình độ cao đẳng,
đại học trở lên, Lao động trình độ trung cấp, Lao động trình độ sơ cấp và
Lao động phổ thông
+ Phân loại theo ngành nghề gồm có: Lao động nông nghiệp, Lao động
công nghiệp,tiểu thủ công nghiệp và Lao động dịch vụ [9]
1.1.3.2. Việc làm và các vấn đề liên quan đến việc làm
Theo điều 13 Bộ luật lao động nước Việt nam (2006) thì việc làm được
định nghĩa như sau: “ Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không
bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
8
Theo định nghĩa trên, các hoạt động được xác định là việc làm bao gồm:
+ Các hoạt động tạo ra của cải, vật chất và giá trị tinh thần, không bị
pháp luật cấm, được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật.
+ Những công việc tự làm mang lại lợi ích cho bản thân hoặc tạo ra thu
nhập cho gia đình và cho cộng đồng kể cả những việc trả công bằng tiền hoặc
hiện vật.
- Người có việc làm: Là những người thuộc lực lượng lao động mà

trongtuần lễ trước tính đến thời điểm điều tra:
+ Đang làm công việc để nhận tiền lương, lợi nhuận hay hiện vật
+ Đang làm công việc không được tiền lương hay lợi nhuận trong các
công việc sản xuất, kinh doanh của hộ gia đình mình.
- Người có đủ việc làm: Bao gồm những người có số giờ làm việc trong
tuần lễ tính đến thời điểm điều tra ≥ 40 hoặc ≤ 40 nhưng ≥ số giờ quy định
đối với những người làm công việc nặng nhọc, độc hại theo quy định hiện
hành.
- Phân loại việc làm: Việc làm được phân loại theo các mức độ sau:
+ Phân loại việc làm dựa theo mức độ đầu tư thời gian cho việc làm
• Việc làm chính: Là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời
gian nhất hoặc có thu nhập cao hơn so với công việc khác
• Việc làm phụ: Là những việc làm mà người lao động dành nhiều
thời gian nhất sau việc làm chính
+ Phân loại việc làm dựa theo mức độ sử dụng thời gian lao động,
năng suất và thu nhập:
• Việc làm đầy đủ: Là sự thoả mãn nhu cầu về việc làm cho bất kỳ ai
có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Một việc làm đầy đủ đòi hỏi
người lao động làm việc theo chế độ do Bô luật lao động Việt nam quy định
9
(8h/ngày)
• Việc làm có hiệu quả: Là việc làm với năng suất, chất lượng cao,
tiết kiệm được chi phí lao động, tăng năng suất lao động đảm bảo được chất
lượng của các sản phẩm làm ra
* Thiếu việc làm
Là trạng thái trung gian giữa việc làm đầy đủ và thất nghiệp. Đó là tình
trạng có việc làm nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người
lao động, họ phải làm việc nhưng không hết sử dụng hết thời gian theo quy
định hoặc làm những công việc có thu nhập thấp không đủ sống khiến họ
muốn kiếm thêm việc làm bổ sung.

- Thiếu việc làm được thể hiện dưới 2 dạng: Thiếu việc làm vô hình và
thiếu việc làm hữu hình.
+ Thiếu việc làm vô hình: Là trạng thái những người có đủ việc làm,
làm đủ thời gian, thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu
nhập thấp. Trên thực tế họ vẫn làm việc nhưng sử dụng ít thời gian trong sản
xuất do vậy thời gian nhàn rỗi nhiều.
+ Thiếu việc làm hữu hình: Là hiện tượng lao động làm việc thời gian ít
hơn thường lệ, họ không đủ vệc làm đang kiếm thêm việc làm và sẵn sàng
làm việc.
* Thất nghiệp
Thất nghiệp là hiện tượng mà người lao động trong độ tuổi lao động có
khả năng lao động muốn làm việc nhưng lại chưa có việc làm và đang tìm
kiếm việc làm.
Thất nghiệp là một hiện tượng phức tạp cần phải được phân loại để
hiểu rõ về nó. Thất nghiệp có thể được chia thành các loại như sau:
- Xét về nguồn gốc thất nghiệp có thể chia thành:
+ Thất nghiệp tạm thời: Xảy ra khi có một số người đang trong thời
10
gian tìm kiếm công việc hơặc nơi làm tốt hơn, phù hợp với ý muốn riêng,
hoặc những người mới bước vào thị trường lao động đang tìm kiếm việc hoặc
chờ đợi đi làm.
+ Thất nghiệp cơ cấu: Xảy ra khi có sự mất cân đối cung - cầu giữa các
loại lao động (không đồng bộ giữa tay nghề và cơ hội có việc làm khi động
thái của nhu cầu và sản xuất thay đổi).
+ Thất nghiệp do thời vụ: Xuất hiện như là kết quả của những biến
động thời vụ trong các cơ hội lao động.
+ Thất nghiệp chu kỳ: Là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị
tổng sản lượng của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh
doanh, tổng giá trị sản xuất giảm dần dẫn tới hầu hết các nhà sản xuất giảm
lượng cầu đối với các yếu tố đầu vào trong đó có lao động

- Xét về tính chủ động của người lao động, thất nghiệp bao gồm:
+ Thất nghiệp tự nguyện: Là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động
bỏ việc để tìm công việc khác tốt hơn hoặc chưa tìm được việc làm phù hợp
với nguyện vọng.
+ Thất nghiệp không tự nguyện: Là thất nghiệp xảy ra khi người lao
động chấp nhận làm việc ở mức tiền lương, tiền công phổ biến nhưng vẫn
không tìm được việc làm.
- Ngoài ra ở các nước đang phát triển, người ta còn chia thất nghiệp
thành thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp vô hình
+ Thất nghiệp hữu hình: Xảy ra khi người có sức lao động muốn tìm
kiếm việc làm nhưng không tìm được trên thị trường.
+ Thất nghiệp vô hình: Là biểu hiện của tình trạng chưa sử dụng hết lao
động ở các nước đang phát triển, họ là những người có việc làm ở khu vực
nông thôn hoặc thành thị không chính thức, việc làm này cho năng suất thấp
11
và không ổn định.[4]
1.1.3.3. Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động sau THĐ
Tạo việc làm, hạn chế tối đa việc dư thừa lao động là một trong những
vấn đề xã hội có tính chất chiến lược, nó là mối quan tâm của hầu hết các
quốc gia. Đặc biệt là tạo việc làm cho những lao động ở trong vùng THĐ,
đảm bảo ổn định và nâng cao thu nhập cho họ, đồng thời phải đảm họ có cuộc
sống bằng hoặc tốt hơn trước là một trong những vấn đề nổi cộm mà Đảng và
Nhà nước ta đang quan tâm giải quyết. Bởi vì nếu không tạo việc làm ổn định cho
người dân sau THĐ thì nó không những ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống KT- XH
của người dân, mà nó còn ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển KT- XH của đất
nước nói chung, hơn nữa nếu không có chính sách ổn định việc làm, thu nhập cho
người lao động sau THĐ thì sớm muộn gì họ cũng sẽ rơi vào tình trạng thất
nghiệp và nghèo đói, điều này nó sẽ là vật cản quá trình CNH- HĐH nông nghiệp,
nông thôn đi đến thành công. Do vậy, thiếu đất canh tác ở mức độ nào đó đồng
nghĩa với việc thiếu việc làm của lao động nông thôn và vấn đề này đang gây ra

rất nhiều bức xúc hiện nay. Chính vì vậy, việc THĐ ảnh hưởng rất lớn tới việc
làm và đời sống kinh tế của người dân. [8]
1.1.4. Thu nhập và các vấn đề liên quan đến thu nhập
* Thu nhập
Thu nhập là giá trị thu được (quy ra thóc hoặc tiền) sau khi đã trừ đi chi
phí trung gian (IC) và khấu hao tài sản cố định.
- Thu nhập hỗn hợp (MI): Là phần thu nhập thuần tuý của người sản
xuất bao gồm cả công lao động và lợi nhuận thu được do người sản xuất trong
1 chu kỳ sản xuất trên quy mô diện tích.
MI = GO - IC - TSX - C
1
MI: Thu nhập hỗn hợp
GO: Giá trị sản xuất (của cải vật chất và dịch vụ được tạo ra trong 1
thời kỳ nhất định của hộ, thường là 1 năm).
IC: Chi phí trung gian
TSX: Thuế sản xuất
12
C
1
: Khấu hao tài sản cố định
- Thu nhập ổn định: Là khả năng tạo thu nhập một cách ổn định, lâu
dài qua các năm, đảm bảo ổn định cuộc sống lâu dài thông qua các hoạt động
sản xuất, kinh doanh của hộ.
- Phân loại thu nhập: Theo mức độ, thì thu nhập bao gồm: Thu nhập
thường xuyên và thu nhập không thường xuyên
+ Thu nhập thường xuyên: Là các khoản thu nhập có tính chất lặp đi
lặp lại và ổn định như: Tiền lương, tiền công,tiền trợ cấp, các khoản thu nhập
do tổ chức cá nhân chi trả,
+ Thu nhập không thường xuyên: Là các khoản thu nhập không ổn
định, đột xuất như: Quà biếu tặng, thu nhập từ các hoạt động khoa học,

* Vấn đề thu nhập đối với người dân sau THĐ
Sau khi bị THĐ, người dân với trình độ hạn chế nên họ rất khó tìm
kiếm được việc làm mới, và họ cũng không định hướng được nên chuyển
sang làm việc gì để có thể tạo được thu nhập một cách ổn định, do vậy rất
nhiều người dân trong vùng THĐ chỉ mong muốn làm sao có được việc
làm đem lại thu nhập ổn định cho dù thu nhập đó có thấp hơn chút ít so
với thu nhập trước kia. Một khảo sát thực tế cho thấy thu nhập của người
dân sau THĐ phần lớn bị giảm sút so với trước thu hồi (53%) chỉ có gần
13% số hộ có thu nhập tăng hơn trước do được chuẩn bị trước. Nguyên
nhân dẫn đến thực tế này là do lao động ở những vùng THĐ thường là lao
động phổ thông chưa qua đào tạo, trình độ tay nghề thấp không đáp ứng
được yêu cầu của công việc mới do vậy có tới 67% lao động nông nghiệp sau
THĐ vẫn giữ nguyên nghề cũ, 13% chuyển sang nghề mới và có ≈ 20% lao
động không có việc làm hoặc có nhưng việc làm không ổn định. Qua đây, ta
có thể thấy được một vấn đề bức thiết cần tháo gỡ hiện nay là làm thế nào để
người dân sau THĐ có được thu nhập ổn định, đảm bảo nâng cao cuộc sống
13
cho họ, hạn chế được hiện tượng nghèo đói sau THĐ.[10]
1.2. Cơ sở khoa học về công nghiệp hoá, khu công nghiệp, kinh tế hộ
nông dân và ảnh hưởng của các khu công nghiệp đến kinh tế hộ nông dân
1.2.1. Công nghiệp hoá và vai trò của công nghiệp hoá với phát triển kinh
tế - xã hội
Khái niệm công nghiệp hoá
Có thể thấy CNH là con đường tất yếu để phát triển kinh tế của các
nước, nhưng cần hiểu như thế nào về CNH. Ngay từ năm 1963 Tổ chức phát
triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) đã đưa ra khái niệm quy ước
về công nghiệp hoá: “CNH là một quá trình phát triển kinh tế, trong đó một
bộ phận nguồn lực ngày càng tăng của đất nước được huy động để phát triển
một cơ cấu kinh tế đa ngành với công nghệ hiện đại.
Vai trò của công nghiệp hóa

- Thứ nhất: công nghiệp hóa tạo tiền đề cho quá trình đô thị hóa.
- Thứ hai: công nghiệp hóa thúc đẩy các mối liên kết trong kinh tế.
- Thứ ba: công nghiệp hóa là con đường cơ bản nâng cao khả năng
cạnh tranh của nền kinh tế.
1.2.2. Khu công nghiệp, vai trò của khu công nghiệp đến phát triển kinh tế
- xã hội nông thôn
KCN, KCX ở nước ta được hình thành và phát triển từ năm 1991, khởi
đầu là KCX Tân Thuận tại thành phố Hồ Chí Minh trong 20 năm phát triển,
kết quả hoạt động của các KCN đã góp phần thúc đẩy công nghiệp phát triển,
tăng trưởng kinh tế, hình thành các trung tâm công nghiệp gắn liền với phát
triển đô thị, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,
HĐH, góp phần giải quyết việc làm cho lao động địa phương, đào tạo cán bộ
quản lý, công nhân lành nghề, tạo điều kiện để xử lý các tác động tới môi
trường một cách tập trung. Các KCN thực sự đóng vai trò tích cực trong công
14
cuộc CNH, HĐH đất nước.
Quá trình phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam trong những năm qua
đã thể hiện sự đúng đắn trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng. Các
KCN, KCX đã có những đóng góp không nhỏ trong việc tăng kim ngạch xuất
khẩu, nâng cao trình độ và hiện đại hóa công nghệ, tăng cường khả năng tổ
chức quản lý sản xuất và quản lý nhà nước, từ đó làm giảm chi phí sản xuất,
tăng cường năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong quá trình hội nhập. Các
KCN, KCX cũng thể hiện vai trò không thể thiếu trong việc xây dựng và hiện
đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN, KCX nhằm thích ứng
với nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại, nó cũng đặt ra cho các cơ quan quản
lý nhà nước những mục tiêu khắc phục các yếu kém, hạn chế, nâng cao hơn
nữa hiệu quả và vai trò của KCN, KCX trong các giai đoạn tới, góp phần tích
cực hơn nữa vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.[14]
1.2.3. Hộ nông dân và đặc trưng cơ bản của kinh tế hộ nông dân
* Hộ nông dân

Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động nông nghiệp theo nghĩa
rộng bao gồm cả nghề rừng, nghề cá, và hoạt động phi nông nghiệp ở nông
thôn. Trong các hoạt động phi nông nghiệp khó phân biệt các hoạt động có
liên quan với nông nghiệp và không có liên quan với nông nghiệp. Cho đến
gần đây có một khái niệm rộng hơn là hộ nông thôn, tuy vậy giới hạn giữa
nông thôn và thành thị cũng là một vấn đề còn tranh luận.
Hộ nông dân có những đặc điểm sau:
- Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở vừa là một đơn vị sản xuất
vừa là một đơn vị tiêu dùng.
- Quan hệ giữa tiêu dùng và sản xuất biểu hiện ở trình độ phát triển
của hộ tự cấp, tự túc. Trình độ này quyết định quan hệ giữa hộ nông dân và
thị trường.
- Phương thức tổ chức sản xuất của hộ hông dân mang tính kế thừa
15
truyền thống gia đình và không đồng đều giữa các hộ gia đình với nhau.
- Hộ nông dân ngoài việc tham gia vào quá trình tái sản xuất vật chất
còn tham gia vào quá trình tái sản xuất nguồn nhân lực phục vụ cho các ngành
sản xuất khác nhau.
Các hộ nông dân ngoài hoạt động nông nghiệp còn tham gia vào hoạt
động phi nông nghiệp với các mức độ rất khác nhau.
*Những đặc trưng cơ bản của kinh tế hộ nông dân
- Sự thống nhất chặt chẽ giữa việc sở hữu quản lý và sử dụng các yếu tố sản
xuất. Sở hữu trong kinh tế hộ là sở hữu chung, tất cả mọi thành viên trong hộ đều
có quyền sở hữu tư liệu sản xuất vốn có cũng như các tài sản khác của hộ.
- Sự gắn bó giữa lao động quản lý và lao động sản xuất. Trong nông hộ,
mọi thành viên thường gắn bó chặt chẽ với nhau theo quan hệ huyết thống.
- Kinh tế hộ có khả năng thích nghi và tự điều chỉnh cao. Do kinh tế hộ
có quy mô nhỏ nên bao giờ cũng thích nghi nhanh hơn so với các hình thức
sản xuất khác có quy mô sản xuất lớn hơn.
- Có sự gắn bó chặt chẽ giữa quá trình sản xuất với lợi ích của những

người lao động.
- Kinh tế hộ là đơn vị sản xuất có quy mô nhỏ nhưng hiệu quả. Sản xuất
với quy mô nhỏ không đồng nghĩa với lạc hậu và năng suất thấp.[7]
1.2.4. Tính tất yếu phải phát triển các khu công nghiệp ở vùng nông thôn
Trong những năm qua, các KCN tập trung trong vùng là nhân tố động
lực đóng góp quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của vùng,
biến vùng thuần nông thành vùng kinh tế trọng điểm có tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao, phổ biến trên 10%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong GDP
với tốc độ khá nhanh. Nhiều tỉnh thuần nông trước đây nhờ phát triển KCN sẽ
nhanh trở thành những tỉnh công nghiệp như Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng
16
Yên, Hải Dương Bộ mặt nông thôn đổi mới theo hướng văn minh, hiện đại.
Các KCN đã và đang thu hút hàng trăm nghìn lao động nông thôn, tạo ra thị
trường sức lao động mới để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động
xã hội trong vùng. Hệ thống kết cấu hạ tầng được xây dựng mới và nâng cấp,
nhất là khu vực nông thôn, tỷ lệ hộ nghèo giảm.
Tại sao phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn?
Vì nông nghiệp, nông thôn là khu vực đông dân cư nhất, lại có trình độ phát
triển nhìn chung là thấp nhất so với các khu vực khác của nền kinh tế. Nông
dân chiếm hơn 70% dân số và hơn 76% lực lượng lao động cả nước, đóng góp
từ 25% đến 27% GDP của cả nước…
Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn chính là
từng bước để phát triển nông thôn Việt Nam theo hướng hiện đại, xóa dần khoảng
cách giữa thành thị với nông thôn. Để làm được điều này, cần rất nhiều giải pháp,
trong đó một giải pháp quan trọng là phải phát triển dịch vụ và du lịch. Hiện nay
tỷ lệ hộ kinh tế làm dịch vụ trong nông thôn mới chỉ chiếm 11,2%. Tiếp tục
khuyến khích phát triển mạnh thêm du lịch sẽ giúp cho nông thôn giải quyết hàng
loạt vấn đề: tạo công ăn việc làm, nâng cao dân trí, phát triển kết cấu hạ tầng nông
thôn, từ đó, làm thay đổi cơ cấu kinh tế và lao động trong nông thôn theo hướng

tăng tỷ trọng dịch vụ, phát triển nông thôn văn minh, hiện đại phù hợp với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.2.5. Tác động của các khu công nghiệp tới đời sống hộ nông dân
* Tác động đến đất đai
Quá trình phát triển nhanh các khu công nghiệp đã làm diện tích đất
nông nghiệp bị thu hẹp, nhu cầu về sử dụng đất chuyên dùng xây dựng hệ
thống cơ sở hạ tầng và đất đô thị tăng lên rất nhanh. Điều này đã dẫn đến tình
trạng “nuốt chửng” những diện tích đất nông nghiệp vốn rất cần thiết cho một
đô thị như: sản xuất lương thực, thực phẩm, tạo mảng không gian xanh có vai
17
trò “giải độc” cho môi trường sống, tạo khu nghỉ ngơi cho người dân…Việc
thu hồi đất nông nghiệp đã tác động tới đời sống của các hộ dân vì họ thiếu
phương tiện lao động và kế sinh nhai truyền thống, trong đó có nhiều hộ rơi
vào tình trạng bần cùng hoá.
* Tác động tới môi trường
Việc hình thành các KCN nhằm tạo điều kiện để các chủ doanh nghiệp
đầu tư mở rộng qui mô sản xuất, song thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp
đã nhập dây chuyền công nghệ lạc hậu hàng chục năm. Điều này, không chỉ
làm giảm sức cạnh tranh, mà còn khiến hoạt động sản xuất không ổn định,
gây ô nhiễm môi trường.
Việc xử lý chất thải của các nhà máy trước khi thải ra môi trường đang
làm đau đầu các nhà quản lý. Theo ước tính, mỗi KCN thải khoảng từ 3.000 -
10.000 m
3
nước thải/ngày đêm. Như vậy, tổng lượng nước thải công nghiệp
của các KCN trên cả nước lên khoảng 500.000 - 700.000m
3
/ngày đêm.
* Tác động tới lao động
Việc phát triển khu công nghiệp đã tạo ra một kênh thu hút lao động rất

có tiềm năng và hiệu quả, góp phần quan trọng giải quyết việc làm cho lao
động tại chỗ (kể cả số lao động của những hộ gia đình bị thu hồi đất) và lao
động nhập cư.
* Tác động tới kinh tế hộ nông dân
Sản xuất nông nghiệp ở các địa phương vẫn theo phương thức cũ, nhỏ
lẻ, phân tán nên hiệu quả kinh tế thấp và có nguy cơ kém bền vững trước
thiên tai dịch bệnh và biến động của thị trường. Diện tích đất nông nghiệp
giảm nhanh do quá trình phát triển các khu công nghiệp, từ đó làm hạn chế cơ
hội để nâng cao thu nhập từ ngành chính là trồng trọt, trong khi khả năng phát
triển chăn nuôi, thủy sản và các ngành nghề phi nông nghiệp còn hạn chế. Các
18
sản phẩm rau quả và chăn nuôi gia súc, gia cầm có sức cạnh tranh thấp.
* Tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự phát triển của các KCN đã đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH. Trong quá trình đó, cơ cấu ngành kinh tế thay đổi
theo hướng giảm tỉ trọng của khu vực nông nghiệp và gia tăng nhanh tỉ trọng
của khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với sản xuất nông nghiệp nói riêng,
góp phần làm thay đổi về cơ cấu diện tích gieo trồng và cơ cấu giá trị sản
xuất. Các loại cây trồng có giá trị kinh tế thấp, sử dụng nhiều lao động đang
có xu hướng giảm dần diện tích. Các loại cây cần ít lao động hơn và cho giá
trị kinh tế cao hơn đang được tăng dần diện tích canh tác. Trong tổng giá trị
sản xuất của ngành nông nghiệp thì xu hướng chung là giảm dần tỉ trọng của
ngành trồng trọt và tăng tỉ trọng ngành chăn nuôi.
* Tác động tới xã hội nông thôn
Năng lực của hệ thống chính trị cấp cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển của thực tiễn. Mức hưởng thụ của người nông dân còn thấp, khoảng cách
thu nhập và đời sống giữa thành thị và nông thôn ngày càng tăng. Giá cả leo
thang đang là những vấn đề bức xúc, ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người
nông dân.[11]
Do thúc đẩy tăng trưởng nhanh các khu công nghiệp nhưng chưa quan

tâm giải quyết đúng mức ngay từ đầu những yếu tố hạ tầng xã hội hỗ trợ thiết
yếu như: giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao, dẫn đến tình trạng đời
sống văn hóa tinh thần của những cộng đồng dân cư mới và công nhân ở trọ
xung quanh các khu công nghiệp thực sự bức xúc, đôi khi trở thành nơi sản
sinh ra các loại tệ nạn xã hội.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
1.3.1. Các câu hỏi nghiên cứu
Một là, quá trình hình thành và phát triển các khu công nghiệp ở huyện
19
Phổ Yên diễn ra như thế nào?
Hai là, người nông dân Phổ Yên đã chịu những ảnh hưởng như thế nào
từ việc phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn?
Ba là, hiệu quả kinh tế các mô hình kinh tế chuyển đổi cho các hộ
nông dân sau khi thu hồi đất nông nghiệp như thế nào?
Bốn là, các giải pháp nào để các mô hình chuyển đổi của các hộ nông dân
phát triển bền vững ?
1.3.2. Phương pháp nghiên cứu
1.3.2.1. Cơ sở phương pháp luận
Đề tài lấy quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở phương
pháp luận trong nghiên cứu.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho ta phương pháp nhìn nhận sự vật,
hiện tượng trong trạng thái vận động và phát triển và trong mối quan hệ biện
chứng với các sự vật, hiện tượng khác.
1.3.2.2. Phương pháp thu thập thông tin
a. Thu thập thông tin thứ cấp
Đây là các số liệu từ các công trình nghiên cứu trước được lựa chọn sử
dụng vào mục đích phân tích, minh họa rõ nét về nội dung nghiên cứu. Nguồn
gốc của các tài liệu này đã được chú thích rõ trong phần “Tài liệu tham khảo”.
Nguồn tài liệu này bao gồm:
- Các sách, báo, tạp chí, các văn kiện Nghị quyết, các chương trình nghiên

cứu đã được xuất bản, các kết quả nghiên cứu đã công bố của các cơ quan
nghiên cứu, các nhà khoa học trong và ngoài nước, các tài liệu trên internet
- Tài liệu, số liệu đã được công bố về tình hình kinh tế, xã hội nông
thôn, kinh tế của các ngành sản xuất, đời sống của các nông hộ nông nghiệp
nằm trong khu vực có các khu công nghiệp… các số liệu này thu thập từ phòng
Thống kê huyện, Phòng Tài nguyên Môi trường huyện và các phòng, ban có
liên quan. Trên cơ sở đó tiến hành tổng hợp các thông tin cần thiết phục vụ cho
20
công tác nghiên cứu.
b. Thu thập thông tin sơ cấp
Số liệu sơ cấp là những số liệu phục vụ cho nội dung nghiên cứu của đề
tài. Những số liệu này được thu thập từ việc điều tra các hộ có sản xuất nông
nghiệp. Các số liệu này được sử dụng để phân tích về tình hình hiện trạng sản
xuất nông nghiệp của các hộ nông dân trong xã, tình hình mất đất nông
nghiệp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, tình hình chuyển đổi việc làm của các
hộ do ảnh hưởng của các khu công nghiệp. Phương pháp điều tra được tiến hành
như sau:
* Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
Việc chọn địa điểm nghiên cứu có ảnh hưởng quyết định đến kết quả của
việc nghiên cứu. Để chọn địa điểm nghiên cứu đại diện cho vùng nghiên cứu
chúng tôi căn cứ vào bản đồ đất đai, quy hoạch tổng thể các khu công nghiệp
và các chuyến đi khảo sát.
Đối với bản đồ chúng tôi sử dụng bản đồ quy hoạch đất đai của huyện
Phổ Yên thời kỳ 2006 - 2010 tầm nhìn đến năm 2015.
* Phương pháp chọn mẫu điều tra
Chọn mẫu điều tra được phân thành 2 mục đích:
- Chọn mẫu điều tra để nghiên cứu ảnh hưởng của các KCN đế đời
sống hộ nông dân sau khi thu hồi đất nông nghiệp
- Chọn mẫu điều tra để khảo sát các mô hình kinh tế chuyển đổi cho
các hộ nông dân sau thu hồi đất nông nghiệp tại các KCN

* Phương pháp phân tổ điều tra
Căn cứ để phân tổ:
- Số lượng diện tích đất bị thu hồi
- Loại đất bị thu hồi
Kết quả chọn mẫu điều tra
+ Trong tổng số 450 hộ bị thu hồi đất, căn cứ vào tình hình thực tế về
21
loại đất và diện tích thu hồi chúng tôi lấy 350 hộ để làm đối tượng nghiên cứu
và chọn ngẫu nhiên 100 hộ làm mẫu điều tra để nghiên cứu ảnh hưởng của các
KCN đến đời sống hộ nông dân sau khi thu hồi đất nông nghiệp theo các tiêu
chí được nêu ra trong phương pháp phân tổ.
Dựa trên số lượng đất bị thu hồi ta chia thành 2 nhóm:
- Nhóm 1: Bao gồm các hộ chỉ mất diện tích đất nông nghiệp, trong nhóm
này dựa vào số lượng diện tích thu hồi của các hộ nên nhóm này lại được chia
thành 2 nhóm nhỏ:
+ Nhóm hộ có diện tích thu hồi < 50% tổng diện tích đất nông
nghiệp của hộ
+ Nhóm hộ có diện tích thu hồi ≥ 50% tổng diện tích đất nông nghiệp
của hộ
- Nhóm 2: Bao gồm các hộ có diện tích thu hồi bao gồm cả đất sản xuất
nông nghiệp, đất vườn tạp và đất thổ cư.
Dựa vào các tiêu chí trên, trong tổng số 350 hộ thì nhóm 1 có 300 hộ,
nhóm 2 có 50 hộ. Theo danh sách, số hộ lựa chọn để điều tra dựa vào cơ cấu
hộ, theo tiêu thức trên thì nhóm 1 sẽ tiến hành điều tra 80 mẫu, nhóm 2 điều
tra 20 mẫu.
+ Trong 100 mẫu chọn được như trên để khảo sát một số mô hình kinh
tế chuyển đổi nhằm biết được kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của
các mô hình chuyển đổi, làm căn cứ cho định hướng và giải pháp. Ta lại tiến
hành chọn thei tiêu chí:
- Chọn các mô hình trong số các hộ đã điều tra (trong số 100 hộ đã

chọn được).
•Các hộ phải có mô hình sản xuất đặc trưng của từng nhóm hộ, phù
hợp với những lợi thế của vùng và có thể làm kinh nghiệm nhân rộng cho
22

×