Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Kiến thức cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.65 KB, 31 trang )

Kiến Thức Cơ Bản Về Chứng Khoán Và Thị Trường Chứng Khoán
1.Tổng quan về Thị trường Chứng khoán
Thị trường chứng khoántrong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động
giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi
người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có
sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp.
Như vậy, xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán,
chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. Thị trường chứng
khoán có những chức năng cơ bản sau:
1.Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán
Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô
2.Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành các nhóm sau: nhà phát
hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán.
a)Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành là
người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của thị trường chứng khoán.
Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương.
Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng phục
vụ cho hoạt động của họ.
b)Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể
được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
Các nhà đầu tư cá nhân
Các nhà đầu tư có tổ chức
c)Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán


Công ty chứng khoán
Quỹ đầu tư chứng khoán
Các trung gian tài chính
d)Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
Cơ quan quản lý Nhà nước
Sở giao dịch chứng khoán
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
Các tổ chức tài trợ chứng khoán
Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
3.Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc công khai
Nguyên tắc trung gian
Nguyên tắc đấu giá
4.Cấu trúc và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm tài chính (cổ phiếu, trái phiếu,
các khoản vay ngân hàng có kỳ hạn trên 1 năm). Sau đây là một số cách phân loại TTCK cơ bản:
a)Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
Thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.T
Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu
tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp, đảm bảo tính
thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
b)Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
Thị trường chứng khoán được phân thành thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) và phi tập trung
(thị trường OTC).

c)Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường
Thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các thị trường: thị trường cổ phiếu, thị trường trái
phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh.
Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ
phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
Thị trường trái phiếu: thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được phát
hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh
Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác
như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn
2.Phát hành và niêm yết chứng khoán
PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN
1.Khái niệm về phát hành chứng khoán
Việc chào bán lần đầu tiên chứng khoán mới gọi là phát hành chứng khoán. Nếu đợt phát hành dẫn đến việc
đưa một loại chứng khoán của một tổ chức lần đầu tiên ra công chúng thì gọi là phát hành lần đầu ra công
chúng. Nếu việc phát hành đó là việc phát hành bổ sung bởi tổ chức đã có chứng khoán cùng loại lưu thông
trên thị trường thì gọi là đợt phát hành chứng khoán bổ sung. Tuy nhiên, không phải mọi đối tượng đều được
phát hành chứng khoán mà chỉ những chủ thể phát hành mới có được quyền này.
2.Phương thức phát hành chứng khoán
Có 2 phương thức phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Đó là phát hành riêng lẻ và phát hành ra
công chúng.
2.1.Phát hành riêng lẻ (Private Placement)
Phát hành riêng lẻ là việc công ty phát hành chào bán chứng khoán của mình trong phạm vi một số người
nhất định (thông thường là cho các nhà đầu tư có tổ chức có ý định nắm giữ chứng khoán một cách lâu dài)
như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí với những điều kiện hạn chế chứ không phát hành rộng rãi ra công
chúng. Các ngân hàng đầu tư cũng có thể tham gia vào việc phát hành riêng lẻ với tư cách nhà phân phối để
hưởng phí phát hành. Đa số các đợt phát hành trái phiếu đều thực hiện dưới hình thức phát hành riêng lẻ, việc
phát hành cổ phiếu thường - cổ phiếu phổ thông ít khi được thực hiện dưới hình thức này.
2.2.Phát hành chứng khoán ra công chúng
Phát hành chứng khoán ra công chúng là việc phát hành trong đó chứng khoán có thể chuyển nhượng được

bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn người đầu tư nhất định (trong đó phải dành một tỷ lệ cho
các nhà đầu tư nhỏ) và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định.
2.3.Ý nghĩa cơ bản của việc phân biệt giữa phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng
Việc phân biệt phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng là để xác định những người phát hành rộng rãi
ra công chúng phải là những công ty có chất lượng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, nhằm bảo vệ cho
công chúng đầu tư nói chung, nhất là những nhà đầu tư nhỏ thiếu hiểu biết. Đồng thời, đây cũng là điều kiện
để xây dựng một thị trường chứng khoán an toàn, công khai và có hiệu quả.
Việc phát hành chứng khoán riêng lẻ thông thường chịu sự điều chỉnh của Luật Công ty. Chứng khoán phát
hành dưới hình thức này không phải là đối tượng được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán sơ
cấp.
3.Bảo lãnh phát hành chứng khoán
3.1.Khái niệm
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán
chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau
khi phát hành. Trên thế giới, các ngân hàng đầu tư thường là những tổ chức đứng ra làm bảo lãnh phát hành.
Tổ chức bảo lãnh là người chịu trách nhiệm mua hoặc chào bán chứng khoán của một tổ chức phát hành
nhằm thực hiện việc phân phối chứng khoán để hưởng hoa hồng.
3.2.Các phương thức bảo lãnh phát hành
Việc bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các phương thức sau:
Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn
bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối được hết chứng khoán hay không. Trong hình thức bảo
lãnh tổ hợp theo "cam kết chắc chắn", một nhóm các tổ chức bảo lãnh hình thành một tổ hợp để mua chứng
khoán của tổ chức phát hành với giá chiết khấu so với giá chào bán ra công chúng (POP)[1] và bán lại các
chứng khoán đó ra công chúng theo giá POP. Chênh lệch giữa giá mua chứng khoán của các tổ chức bảo lãnh
và giá chào bán ra công chúng được gọi là hoa hồng chiết khấu.
Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: đây là phương thức thường được áp dụng khi một công ty đại chúng
phát hành bổ sung thêm cổ phiếu thường ở các nước phát triển. Trong trường hợp đó, công ty cần phải bảo vệ
quyền lợi cho các cổ đông hiện hữu, và như vậy, công ty phải chào bán cổ phiếu bổ sung cho các cổ đông cũ
trước khi chào bán ra công chúng bên ngoài. Dĩ nhiên, sẽ có một số cổ đông không muốn mua thêm cổ phiếu
của công ty. Do vậy, công ty cần có một tổ chức bảo lãnh dự phòng sẵn sàng mua những quyền mua không

được thực hiện và chuyển thành những cổ phiếu để phân phối ra ngoài công chúng. Có thể nói, bảo lãnh theo
phương thức dự phòng là việc tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua nốt số chứng khoán còn lại chưa được phân
phối hết của tổ chức phát hành và bán lại ra công chúng. Tại các nước đang phát triển, khi các tổ chức bảo
lãnh còn non trẻ và chưa có tiềm lực lớn thì phương thức bảo lãnh phát hành dự phòng lại là phương thức bảo
lãnh thông dụng nhất.
Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh tổ chức bảo lãnh thoả
thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán mà
cam kết sẽ cố gắng hết sức để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho tổ
chức phát hành phần còn lại.
Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không: trong phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ
chức bảo lãnh bán một số lượng chứng khoán nhất định, nếu không phân phối được hết sẽ huỷ toàn bộ đợt
phát hành.
Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: là phương thức trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố
gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu
cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán nhất định (mức sàn). Vượt trên mức ấy, tổ chức bảo
lãnh được tự do chào bán chứng khoán đến mức tối đa quy định (mức trần). Nếu lượng chứng khoán bán
được đạt tỷ lệ thấp hơn mức yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ.
NIÊM YẾT CHỨNG KHOÁN
Niêm yết chứng khoán là việc đưa các chứng khoán có đủ tiêu chuẩn vào đăng ký và giao dịch tại thị trường
giao dịch tập trung (Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán). Hay nói cách khác, để
có thể được niêm yết tại một Sở giao dịch chứng khoán nào đó thì công ty xin niêm yết phải đáp ứng đủ các
tiêu chuẩn do Sở đó đặt ra. Mỗi Sở giao dịch chứng khoán có những điều kiện đặt ra khác nhau để đảm bảo
cho sự hoạt động an toàn đồng thời phù hợp với mục đích hoạt động của Sở giao dịch đó.
Bản cáo bạch
1. Bản cáo bạch là gì?
Khi phát hành chứng khoán ra công chúng, công ty phát hành phải công bố cho người mua chứng khoán
những thông tin về bản thân công ty, nêu rõ những cam kết của công ty và những quyền lợi cơ bản của người
mua chứng khoán để trên cơ sở đó người đầu tư có thể ra quyết định đầu tư hay không. Tài liệu phục vụ cho
mục đích đó gọi là Bản cáo bạch hay Bản công bố thông tin.
Bản cáo bạch chính là một lời mời hay chào bán để công chúng đầu tư đăng ký hoặc mua chứng khoán của

công ty phát hành. Bản cáo bạch bao gồm mọi thông tin liên quan đến đợt phát hành. Do đó, thông tin đưa ra
trong Bản cáo bạch sẽ gắn với các điều khoản thực hiện lời mời hay chào bán.
Thông thường, một công ty muốn phát hành chứng khoán phải lập Bản cáo bạch để Uỷ ban Chứng khoán
Nhà nước xem xét, gọi là Bản cáo bạch sơ bộ. Bản cáo bạch sơ bộ khi đã được Uỷ ban Chứng khoán Nhà
nước chấp thuận sẽ được coi là Bản cáo bạch chính thức. Khi thực hiện chào bán chứng khoán, ngoài Bản
cáo bạch chính thức, công ty phát hành thường cung cấp Bản cáo bạch tóm tắt. Nội dung Bản cáo bạch tóm
tắt là tóm gọn lại những nội dung chính của Bản cáo bạch chính thức nhưng vẫn phải đảm bảo tuân thủ theo
các quy định của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước.
2. Tại sao cần phải đọc Bản cáo bạch
Bản cáo bạch là một tài liệu rất quan trọng.Với tư cách là một nhà đầu tư, Bản cáo bạch là phương tiện giúp
bạn đánh giá mức độ sinh lời và triển vọng của công ty trước khi bạn quyết định có đầu tư vào công ty hay
không. Một quyết định thiếu thông tin có thể làm bạn phải trả giá đắt.
Bởi vậy, bạn nên đọc Bản cáo bạch một cách kỹ lưỡng và tìm hiểu rõ những may rủi thực sự của công ty
trước khi ra quyết định đầu tư. Bạn nên đánh giá cẩn thận những yếu tố cơ bản của công ty đăng ký niêm yết
thông qua nghiên cứu các thông tin trong Bản cáo bạch. Mặc dù những đợt chào bán lần đầu ra công chúng
thường là cơ hội đầu tư tốt vì chúng thường mang lại lợi nhuận ban đầu cao, do cổ phiếu tăng giá, nhưng rủi
ro vẫn tồn tại.
3. Bản cáo bạch bao gồm những thông tin gì?
Bản cáo bạch thường gồm 8 mục chính sau:
Trang bìa;
Tóm tắt Bản cáo bạch;
Các nhân tố rủi ro;
Các khái niệm;
Chứng khoán phát hành;
Các đối tác liên quan tới đợt phát hành;
Tình hình và đặc điểm của tổ chức phát hành;
Phụ lục.
4. Cách sử dụng bản cáo bạch
Bạn nên bắt đầu phân tích một công ty phát hành bằng Bản cáo bạch của công ty. Trong quá trình thực hiện
bạn nên tự đặt ra cho mình một số câu hỏi quan trọng. Ví dụ, việc kinh doanh của công ty đó có tiến triển hay

không?, doanh số bán hàng tăng có nghĩa là lợi nhuận cũng tăng và dẫn tới giá cổ phiếu tăng. Nhưng các con
số chưa phải nói lên tất cả. Do vậy, bạn nên nghiên cứu kỹ Bản cáo bạch để tìm ra những dấu hiệu tăng
trưởng của công ty.
Bạn cũng nên tìm hiểu về Ban giám đốc của công ty phát hành, các sản phẩm của công ty và tự đặt ra câu hỏi
liệu các sản phẩn này có tiếp tục bán được nữa không?
5. Những thông tin cần xem
Trang bìa (mặt trước và mặt sau);
Thời gian chào bán;
Các khái niệm;
Tình hình và đặc điểm của tổ chức phát hành;
Bảng mục lục;
Tóm tắt Bản cáo bạch;
Tóm tắt về vốn cổ phần, thống kê sô liệu phát hành / chào bán, số nợ và phương án sử dụng tiền thu được
từ đợt phát hành;
Chứng khoán phát hành;
Thông tin về ngành kinh doanh;
Thông tin tài chính;
Thông tin về cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc;
Các đối tác liên quan tới đợt phát hành;
Các nhân tố rủi ro liên quan đến ngành kinh doanh và triển vọng của công ty;
Phụ lục;
Thủ tục nộp hồ sơ và chấp thuận.
6. Thông tin chính của trang bìa
Các chứng khoán sẽ được bán;
Số lượng chứng khoán sẽ được bán;
Giá bán các chứng khoán;
Tổ chức liên quan đến đợt phát hành.
7. Tóm tắt bản cáo bạch
Phần này giúp bạn tìm hiểu khái quát những thông tin tóm tắt về công ty.
Giới thiệu chung về công ty phát hành, các hoạt động kinh doanh, người hỗ trợ phát hành, các cổ đông lớn

và Ban giám đốc của công ty;
Tóm tắt về thông tin tài chính của công ty phát hành, kể cả triển vọng của công ty;
Tóm tắt về các yếu tố rủi ro liên quan hoặc ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh và tài chính của công ty
phát hành;
Tóm tắt về vốn cổ phần, thống kê phát hành hoặc chào bán, số nợ, số tiền thu được từ đợt phát hành và mục
đích sử dụng số tiền này.
Ngoài ra bạn nên đối chiếu với các phần tương ứng khác trong Bản cáo bạch để có được các thông tin chi tiết
mà bạn cần quan tâm.
Thông tin về ngành kinh doanh - công ty đang có những hoạt động kinh doanh gì?
Thông tin đưa ra thường bao gồm:
Tình hình (các) ngành kinh doanh chính mà công ty phát hành tham gia;
Triển vọng của (các) ngành liên quan có ảnh hưởng tới hoạt động ngành kinh doanh chính của công ty phát
hành;
Loại sản phẩm, dịch vụ kinh doanh chính của công ty;
Khách hàng và nhà cung cấp của công ty phát hành;
Công nghệ, phương thức sản xuất và kênh phân phối sử dụng;
Các nhân tố thương mại như hệ thống bán lẻ, đại lý, hệ thống phân phối, nhãn hiệu sản phẩm, giấy phép
kinh doanh, bằng sáng chế và khả năng nghiên cứu và phát triển.
Đối với các công ty đăng ký niêm yết được hưởng chính sách ưu đãi thì phần thông tin về ngành kinh doanh
này trong Bản cáo bạch cũng cần phải công bố chi tiết các vấn đề về công nghệ của những công ty này.
8. Thông tin tài chính – công chúng đầu tư tham gia có làm lợi nhuận giảm?
Thông tin tài chính là một phần quan trọng trong Bản cáo bạch và thường được chia thành 2 phần:
Thông tin tài chính trong quá khứ;
Thông tin tài chính trong tương lai.
a)Phần thông tin tài chính trong quá khứP
Thường bao gồm tóm tắt các bản báo cáo tài chính đã được kiểm toán, và bảng cân đối kế toán (trên cơ sở
tổng hợp) theo mẫu, được trích ra từ Báo cáo của kiểm toán trong phần phụ lục của Bản cáo bạch. Một số
ngành kinh doanh còn yêu cầu cung cấp cả thông tin về luồng thu nhập. Việc công bố thông tin tài chính
trong quá khứ thường được tính từ 2 năm tài chính trước. Thông tin phải đi kèm với phần giải thích và phân
tích hoạt động tài chính trong quá khứ. Nếu có bất cứ một sai sót nào trong các thông tin tài chính được công

bố mà Uỷ ban Chứng khoán phát hiện được thì tổ chức kiểm toán cũng như tổ chức bảo lãnh phát hành phải
chịu trách nhiệm liên đới trước pháp luật cùng với tổ chức phát hành.
b)Phần thông tin tài chính tương lai
Gồm các dự tính về:
Doanh thu;
Lợi nhuận trước thuế trước và sau khi tính lãi cho cổ đông thiểu số ngoài công ty;
Lợi nhuận sau thuế;
Tổng cổ tức và cổ tức ròng.
Từ dự tính về lợi nhuận và giá chào bán cổ phiếu của công ty phát hành, bạn có thể tính ra các mức giá thị
trường của một cổ phiếu tính theo thu nhập trên mỗi cổ phiếu trong năm của công ty phát hành (được ký hiệu
là P /E). Hệ số này cho thấy khi nào thì giá cổ phiếu phù hợp với thu nhập. Tức là các công ty có nhiều cơ hội
tăng trưởng thường có P /E cao hơn các công ty có ít cơ hội tăng truởng. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý trường
hợp P /E cao có thể là do mức thu nhập (E) thấp. Căn cứ vào hệ số P /E, cùng với sự phân tích về mặt chất
lượng của công ty phát hành, bạn có thể đánh giá đợt phát hành, chào bán cổ phiếu của công ty so với các
mức cổ phiếu đã được niêm yết của các công ty trong cùng ngành.
9. Cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc – những ai là người điều hành đợt phát hành
Bạn nên đọc danh sách các cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc. Mặc dù các dữ liệu đưa ra không
phải là con dấu đảm bảo về chất lượng kỹ năng quản lý của họ, nhưng bạn vẫn có thể biết được trình độ
chuyên môn và kinh nghiệm quản lý của những con người này.
Bạn cần chú ý các quyền lợi của các cổ đông lớn, Hội đồng quản trị và đội ngũ lãnh đạo chủ chốt trong các
ngành tương tự hoặc các ngành cạnh tranh nếu chúng được nêu trong Bản cáo bạch. Bạn cũng nên chú ý các
giao dịch trong quá khứ hoặc trong tương lai với các công ty liên quan. Bản cáo bạch sẽ cung cấp đầy đủ các
nhóm thành viên sau:
Cổ đông lớn và các nhà sáng lập của công ty phát hành, kể cả tên và cổ phần của các cá nhân đứng đằng
sau công ty;
Hội đồng quản trị bao gồm cổ phần mà họ đại diện, chi tiết về trình độ, kinh nghiệm và phần trách nhiệm
của mỗi giám đốc, và họ có phải là các giám đốc điều hành hay không;
Đội ngũ cán bộ quản lý dưới cấp uỷ viên Hội đồng quản trị, chi tiết về trình độ, kinh nghiệm và phần trách
nhiệm của họ;
Tỷ lệ sở hữu cổ phiếu, trái phiếu của từng thành viên nói trên.

10. Các yếu tố rủi ro
Các rủi ro chung bao gồm:
Việc tăng, giảm giá chứng khoán phụ thuộc vào các điều kiện của thị trường chứng khoán nói chung, của
tình trạng kinh tế đất nước và thế giới;
Những thay đổi trong chính sách của Chính phủ;
Những rủi ro về ngoại hối;
Những thay đổi về tỷ lệ lãi suất;
Những rủi ro có thể xảy ra của công ty bao gồm:
Sự phụ thuộc vào những cán bộ chủ chốt;
Sự phụ thuộc vào một số ít các khách hàng, nhà cung cấp hoặc các dự án trong nội bộ công ty;
Những thay đổi về giá nguyên liệu thô;
Sự hợp nhất giưã các đối thủ cạnh tranh hoặc các công ty mới tham gia vào ngành;
Tranh chấp cụ thể đã bắt đầu phát sinh hoặc bị mang ra toà.
Trong phần này bạn cần tìm hiểu xem Hội đồng quản trị của công ty định giải quyết hoặc làm giảm ảnh
hưởng của các nhân tố rủi ro đã xác định như thế nào.
Giao dịch chứng khoán
Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán có thể diễn ra trên thị trường tập trung (Trung
tâm giao dịch chứng khoán, Sở Giao dịch chứng khoán) và thị trường phi tập trung.
I.MUA CHỨNG KHOÁN CỦA TỔ CHỨC PHÁT HÀNH
Đối với loại chứng khoán này, bạn có thể thực hiện theo 2 hình thức:
- Mua trực tiếp tại tổ chức phát hành (công ty): nhà đầu tư phải đăng ký mua và nộp tiền trực tiếp tại tổ chức
phát hành chứng khoán. Hình thức này rất bất cập, nhất là về mặt địa lý.
- Mua thông qua trung gian: tức là mua thông qua các nhà đại lý hoặc bảo lãnh phát hành, thông thường là
các công ty chứng khoán và các Ngân hàng thương mại.
Nếu bạn mua chứng khoán của tổ chức phát hành chưa niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán thì
việc chuyển nhượng hoặc bán lại chứng khoán đó cho người khác hiện nay gặp nhiều khó khăn vì không dễ
tìm được người mua và bạn cũng phải trực tiếp đến tổ chức phát hành (hoặc uỷ quyền) để thực hiện chuyển
nhượng cho người mua.
II. MUA BÁN CHỨNG KHOÁN NIÊM YẾT TRÊN TRUNG TÂM GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN
Chứng khoán niêm yết là chứng khoán có đủ điều kiện và tiêu chuẩn được đăng ký để mua bán tại Trung tâm

giao dịch chứng khoán. Khi mua bán chứng khoán niêm yết, phải tuân thủ theo một số nguyên tắc sau:
-Mọi giao dịch mua bán chứng khoán đều phải qua hệ thống tại Sở Giao dịch, Trung tâm Giao dịch chứng
khoán theo phương thức khớp lệnh hoặc phương thức thoả thuận;
-Giao dịch chứng khoán thực hiện theo phương thức khớp lệnh trên nguyên tắc ưu tiên về giá và ưu tiên về
thời gian;
-Giao dịch chứng khoán niêm yết lô lẻ được thực hiện trực tiếp giữa người đầu tư với công ty chứng khoán
thành viên là thành viên của Trung tâm Giao dịch chứng khoán trên nguyên tắc thoả thuận về giá.
Quy trình giao dịch chứng khoán niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán:
Toàn bộ quy trình này được tiến hành theo 5 bước:
- Bước 1: Nhà đầu tư đến mở tài khoản và đặt lệnh mua hay bán chứng khoán tại một công ty chứng khoán.
- Bước 2: Công ty chứng khoán chuyển lệnh đó cho đại diện của công ty tại Trung tâm giao dịch chứng
khoán để nhập vào hệ thống giao dịch của Trung tâm.
- Bước 3: Trung tâm giao dịch chứng khoán thực hiện ghép lệnh và thông báo kết quả giao dịch cho công ty
chứng khoán.
- Bước 4: Công ty chứng khoán thông báo kết quả giao dịch cho nhà đầu tư.
- Bước 5: Nhà đầu tư nhận được chứng khoán (nếu là người mua) hoặc tiền (nếu là người bán) trên tài khoản
của mình tại công ty chứng khoán sau 3 ngày làm việc kể từ ngày mua bán nếu quy định về thời gian thực
hiện thanh toán bù trừ chứng khoán là T +3.
Tìm hiểu về Hệ thống đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán
LTS: Ngày 27/7/2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 189/2005/QĐ-TTg về việc thành lập
Trung tâm Lưu Ký Chứng khoán (TTLKCK), có nhiệm vụ thực hiện đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán
chứng khoán và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ việc giao dịch, mua bán chứng khoán. Để chuẩn bị cho việc khai
trương và đưa TTLKCK đi vào hoạt động trong quý 2/2006, mọi công tác chuẩn bị đang được khẩn trương
thực hiện. Tạp chí Chứng khoán xin giới thới thiệu với độc giả những kiến thức cơ bản về nghiệp vụ hoạt
động của TTLKCK.
Nói đến đăng ký chứng khoán, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán là nói
đến dịch vụ hỗ trợ giao dịch chứng khoán trên các thị trường chứng khoán (TTCK) bao gồm cả các thị trường
chính thức và thị trường phi tập trung. Người đầu tư có thể đặt câu hỏi tại sao lại phải cần đến dịch vụ đăng
ký, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán trong khi họ có thể tự bảo quản lấy tài sản của mình, tìm gặp
nhau để thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán, sau đó tự thanh toán chứng khoán và tiềnvới nhau?

Câu trả lời ở đây là “hình thức giao dịch chứng khoán” đã quyết định đến vấn đề này. Việc giao dịch và thanh
toán như trên chỉ thực hiện được đối với các giao dịch tự phát, chủ yếu là trực tiếp giữa một bên mua với một
bên bán, tính an toàn trong giao dịch thấp, luôn tiềm ẩn nguy cơ không thực hiện nghĩa vụ giao dịch của hoặc
bên mua, hoặc bên bán, đặc biệt là khi giá cả thị trường có nhiều biến động. Trong khi đó, giao dịch chứng
khoán tại các sở giao dịch chứng khoán (thị trường tập trung), thị trường giao dịch điện tử (thị trường phi tập
trung), thị trường các công cụ phái sinh… đều là hình thức giao dịch có tổ chức giữa nhiều bên mua bán với
nhau. Để luôn đảm bảo nghĩa vụ thực hiện hợp đồng cũng như sự an toàn cho tất cả các bên tham gia mua
bán, giảm thiểu chi phí giao dịch, hình thức giao dịch có tổ chức, đòi hỏi việc thanh toán tiền và chuyển giao
chứng khoán cũng phải được thực hiện một cách có tổ chức. Khi giao dịch chứng khoán đã được xác nhận
thực hiện, việc chuyển giao chứng khoán và thanh toán tiền sẽ được thực hiện bằng hình thức chuyển khoản
trên các tài khoản chứng khoán và tiền thông qua các bút toán ghi sổ, thay vì chuyển giao vật chất trực tiếp
như trong hình thức giao dịch tự phát. Để làm được điều này, chứng khoán niêm yết hay đăng ký giao dịch
trên TTCK cần phải được lưu giữ tập trung và bất động hóa tại một nơi. Chính đòi hỏi này đã dẫn đến sự ra
đời của loại hình dịch vụ là đăng ký, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán để
hỗ trợ cho việc thực hiện và hoàn tất các giao dịch chứng khoán trên các thị trường giao dịch chứng khoán có
tổ chức. Sự xuất hiện của các loại hình dịch vụ này cũng đã kéo theo sự ra đời của các tổ chức cung ứng các
dịch vụ đó và hệ thống văn bản pháp quy để quản lý các tổ chức cung ứng dịch vụ đăng ký, lưu ký chứng
khoán, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán.
Các tổ chức cung ứng dịch vụ đăng ký, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán
thường là các ngân hàng lưu ký (ngân hàng thương mại được phép hoạt động lưu ký chứng khoán), các công
ty chứng khoán, được gọi chung là các tổ chức lưu ký. Các tổ chức thanh toán tiền cho các giao dịch chứng
khoán là các ngân hàng thanh toán. Hoạt động của thị trường giao dịch có tổ chức cần một nơi để lưu giữ và
quản lý tập trung các chứng khoán, đồng thời sự hình thành nhiều tổ chức lưu ký cũng đòi hỏi phải có một tổ
chức đóng vai trò là tổ chức lưu ký trung tâm, làm trung gian kết nối các tổ chức lưu ký này với nhau, tạo cơ
sở cho việc thực hiện thanh toán bằng hình thức ghi sổ. Những đòi hỏi đó đã dẫn đến sự hình thành của
TTLKCK,các tổ chức lưu ký còn lại trở thành thành viên của trung tâm lưu ký, hay còn gọi là các thành viên
lưu ký. Đối với các ngân hàng thanh toán cũng vậy, cần phải có một ngân hàng đóng vai trò là ngân hàng
thanh toán trung tâm, thực hiện thanh toán tiền cho tất cả các giao dịch chứng khoán, thường là Ngân hàng
Trung ương (NHTW) hay Ngân hàng chỉ định thanh toán.
Hệ thống cở sở vật chất kỹ thuật, công nghệ thông tin của trung tâm lưu ký, của các thành viên lưu ký và của

các ngân hàng thanh toán, NHTW cùng với hệ thống pháp lý về lưu ký được gọi chung là hệ thống đăng ký,
lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán, hay còn gọi tắt là hệ thống lưu ký
chứng khoán. Hệ thống lưu ký chứng khoán đảm bảo việc đăng ký, lưu ký chứng khoán được hoàn tất trước
khi chứng khoán được đưa vào giao dịch và sau khi giao dịch kết thúc các bên tham gia giao dịch sẽ lần lượt
nhận được tiền và chứng khoán thông qua việc bù trừ và thanh toán chứng khoán và tiền do hệ thống thực
hiện. Như vậy, cùng với sự hình thành của TTCK có tổ chức, hệ thống lưu ký chứng khoán đã trở thành một
thành tố không thể thiếu, cấu thành nên hạ tầng của TTCK.
Để hiểu thêm về các dịch vụ do hệ thống đăng ký chứng khoán, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán các
giao dịch chứng khoán thực hiện, phần dưới đây sẽ đề cập đến từng dịch vụ cụ thể:
1. Đăng ký chứng khoán
Phần trên đã đề cập, để chứng khoán niêm yết hay đăng ký giao dịch được giao dịch trên TTCK, chúng cần
phải được lưu ký tập trung tại một nơi, nơi đó chính là TTLKCK. Tuy nhiên, trước khi chứng khoán được
đưa vào lưu ký tập trung tại TTLKCK, chúng cần phải được đăng ký đầy đủ thông tin để TTLKCK có thể
nhận lưu ký. Các thông tin đăng ký bao gồm:
-Đăng ký thông tin về chứng khoán chẳng hạn như tên chứng khoán, loại chứng khoán, mẫu mã chứng
khoán, số lượng đang lưu hành
-Đăng ký thông tin về người sở hữu chứng khoán chẳng hạn như tên, địa chỉ, điện thoại liên lạc của người sở
hữu, số lượng sở hữu
Việc thực hiện đăng ký thông tin thường do tổ chức phát hành tiến hành hoặc do một tổ chức được tổ chức
phát hành ủy quyền tiến hành. Như vậy, đối với các chứng khoán niêm yết hoặc đăng ký giao dịch, TTLKCK
trở thành nơi duy nhất thực hiện dịch vụ làm đại lý chuyển nhượng, cụ thể là:
-Thực hiện quản lý sổ đăng ký người sở hữu chứng khoán cho các tổ chức niêm yết, tổ chức đăng ký giao
dịch, ghi nhận quyền sở hữu và thông tin thay đổi quyền sở hữu của người sở hữu chứng khoán.
-Thực hiện các quyền liên quan đến chứng khoán lưu ký cho người sở hữu chứng khoán bao gồm các quyền
như quyền tham dự đại hội cổ đông, quyền nhận cổ tức, quyền bỏ phiếu, quyền nhận trái tức và vốn gốc,
quyền mua, quyền chuyển đổi, tách hoặc gộp cổ phiếu
2. Lưu ký chứng khoán
Lưu ký chứng khoán thực chất là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng cả chứng khoán vật
chất và chứng khoán ghi sổ. Đồng thời đối với các chứng chỉ vật chất, TTLK còn phải thực hiện cả việc quản
lý nhập, xuất và bảo quản an toàn chứng chỉ chứng khoán tại kho chứng chỉ chứng khoán. Để theo dõi và

quản lý luồng ra vào chứng khoán của khách hàng ký gửi tại TTLKCK (ký gửi thông qua các tổ chức lưu ký
thành viên), TTLKCK phải thực hiện mở tài khoản lưu ký chứng khoán cho các tổ chức lưu ký thành viên và
cho khách hàng, tương tự như việc ngân hàng thương mại (NHTM) mở tài khoản vãng lai để quản lý luồng
tiền cho khách hàng của mình.
Chính vì vậy, lưu ký chứng khoán còn bao gồm cả việc thực hiện các dịch vụ liên quan đến mở tài khoản,
nhận gửi, rút, chuyển khoản chứng khoán lưu ký. Ngoài ra, TTLKCK cũng như các tổ chức lưu ký còn cung
ứng bất cứ dịch vụ nào khác được pháp luật cho phép liên quan đến tài khoản lưu ký chứng khoán, chẳng hạn
như dịch vụ làm trung gian trong các giao dịch bảo đảm như cầm cố, giải tỏa cầm cố chứng khoán.
Cầm cố chứng khoán là việc các NHTM, tổ chức tín dụng cho người đầu tư vay tiền để đầu tư chứng khoán
với thế chấp là chứng khoán do người đầu tư sở hữu. Vì vậy, đây thực chất là một dạng quan hệ hợp đồng
giữa bên cầm cố (người đầu tư) và bên nhận cầm cố (ngân hàng), mà trong quan hệ này các tổ chức lưu ký
chỉ đóng vai trò là trung gian, trên cơ sở bản hợp đồng cầm cố đó thực hiện chuyển khoản số chứng khoán
cầm cố từ tài khoản chứng khoán giao dịch vào tài khoản chứng khoán cầm cố để đảm bảo việc duy trì tài sản
thế chấp cho bên nhận cầm cố. Khi hợp đồng cầm cố hết hiệu lực hoặc theo yêu cầu của bên nhận cầm cố, tổ
chức lưu ký sẽ thực hiện giải tỏa số chứng khoán cầm cố, trả lại cho người đầu tư (bên cầm cố).
3. Bù trừ chứng khoán và tiền
Nếu đăng ký và lưu ký chứng khoán là khâu hỗ trợ trước giao dịch chứng khoán, thì bù trừ chứng khoán và
tiền là khâu hỗ trợ sau giao dịch chứng khoán. Sau khi chứng khoán niêm yết đã được đưa vào đăng ký, lưu
ký tập trung tại TTLKCK, chúng sẽ được phép giao dịch trên TTCK. Tuy nhiên, sau khi giao dịch trên thị
trường được thực hiện (đã được xác nhận), thì các bên tham gia giao dịch cần phải nhận được tài sản của
mình: bên bán nhận được tiền, bên mua nhận được chứng khoán. Bù trừ chứng khoán và tiền là khâu tiếp
theo sau giao dịch, thực hiện việc xử lý thông tin về các giao dịch chứng khoán, tính toán lại nhằm xác định
số tiền và chứng khoán ròng cuối cùng mà các đối tác tham gia giao dịch phải có nghĩa vụ thanh toán sau khi
giao dịch được thực hiện.
Hoạt động bù trừ trên TTCK về cơ bản cũng tương tự như hoạt động bù trừ của các NHTM, đặc biệt là liên
quan đến mảng bù trừ tiền. Kết quả bù trừ tiền luôn thể hiện nghĩa vụ thanh toán một chiều đối với một thành
viên lưu ký: hoặc được nhận tiền, nếu tổng số tiền phải trả nhỏ hơn tổng số tiền được nhận; hoặc phải trả tiền
nếu tổng số tiền phải trả lớn hơn tổng số tiền được nhận.
Điểm khác nhau so với bù trừ cho giao dịch của các NHTM là bù trừ cho các giao dịch chứng khoán không
chỉ liên quan đến mảng tiền mà còn liên quan đến mảng chứng khoán nữa. Việc bù trừ chứng khoán cũng

mang đặc thù riêng là phải được thực hiện theo từng loại chứng khoán do không thể bù trừ các loại chứng
khoán khác nhau với nhau. Do đó, đối với cùng một loại chứng khoán nhất định, kết quả bù trừ chứng khoán
sẽ chỉ ra nghĩa vụ thanh toán một chiều của từng thành viên lưu ký: hoặc phải giao loại chứng khoán đó nếu
số lượng chứng khoán khách hàng đặt mua ít hơn số lượng khách hàng đặt bán, hoặc được nhận về loại
chứng khoán đó nếu số lượng chứng khoán khách hàng đặt mua nhiều hơn số lượng khách hàng đặt bán.
Trong hoạt động bù trừ, phương thức bù trừ cũng là một vấn đề cần quan tâm. Phương thức bù trừ cho các
giao dịch chứng khoán được quyết định bởi phương thức giao dịch trên TTCK. Nếu phương thức giao dịch là
đa phương (nhiều bên mua với nhiều bên bán), điển hình có thể thấy là đối với các giao dịch khớp lệnh cổ
phiếu, thì phương thức bù trừ chứng khoán và tiền sẽ là bù trừ đa phương. Nếu phương thức giao dịch là song
phương (một bên mua với một bên bán), điển hình có thể thấy là đối với các giao dịch thỏa thuận, thì phương
thức bù trừ cũng sẽ là bù trừ song phương.
4. Thanh toán chứng khoán và tiền
Thanh toán chứng khoán và tiền cũng là dịch vụ hỗ trợ sau giao dịch chứng khoán, là hoạt động cuối cùng để
hoàn tất các giao dịch chứng khoán, theo đó các bên tham gia giao dịch sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình: bên
phải trả chứng khoán thực hiện giao chứng khoán, bên phải trả tiền thực hiện việc chuyển tiền, lần lượt trên
cơ sở kết quả bù trừ chứng khoán và tiền được đưa ra ở trên.
Để giảm rủi ro cho các đối tác tham gia giao dịch, việc thanh toán chứng khoán và tiền luôn phải đảm bảo
nguyên tắc giao chứng khoán đồng thời với việc thanh toán tiền, hay còn gọi là nguyên tắc DVP (Delivery
versus Payment). Thời hạn của việc thanh toán được quyết định bởi chu kỳ thanh toán. Tùy thuộc vào điều
kiện của từng nước mà chu kỳ thanh toán áp dụng có thể là T+1; T+2 hay T+3, trong đó T được hiểu là ngày
giao dịch (ngày mà giao dịch được thực hiện) và 1; 2; 3 là số ngày giao dịch (không tính ngày nghỉ) tiếp theo
kể từ ngày T. Theo khuyến nghị của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), của Tổ chức các ủy ban Chứng
khoán quốc tế (IOSCO) cũng như của nhóm G30 (nhóm các quốc gia có TTCK phát triển), các nước nên áp
dụng chu kỳ thanh toán tối đa là T+3.
Trong hoạt động thanh toán chứng khoán và tiền, phương thức thanh toán cũng là mối quan tâm của các bên
tham gia giao dịch. Phương thức thanh toán được quyết định bởi phương thức bù trừ, do thanh toán luôn
được thực hiện trên cơ sở của kết quả bù trừ. Chính vì vậy, nếu phương thức bù trừ là đa phương thì phương
thức thanh toán cũng là thanh toán đa phương và tương tự, phương thức bù trừ là song phương thì phương
thức thanh toán cũng sẽ là thanh toán song phương./
Tổng quan về Thị trường Chứng khoán

Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt
động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn.
Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ
những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được
phát hành ở thị trường sơ cấp.
Như vậy, xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán,
chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. Thị trường chứng
khoán có những chức năng cơ bản sau:

1. Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán
- Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
- Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
- Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô
2. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành các nhóm sau: nhà phát
hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán.
a) Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành là
người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của thị trường chứng khoán.
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng phục
vụ cho hoạt động của họ.
b) Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể
được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Các nhà đầu tư cá nhân
- Các nhà đầu tư có tổ chức

c) Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
- Công ty chứng khoán
- Quỹ đầu tư chứng khoán
- Các trung gian tài chính
d) Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
- Cơ quan quản lý Nhà nước
- Sở giao dịch chứng khoán
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
- Các tổ chức tài trợ chứng khoán
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm
3. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc công khai
- Nguyên tắc trung gian
- Nguyên tắc đấu giá
4. Cấu trúc và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm tài chính (cổ phiếu, trái phiếu,
các khoản vay ngân hàng có kỳ hạn trên 1 năm). Sau đây là một số cách phân loại TTCK cơ bản:
a) Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
Thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.T
· Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu
tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
· Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp, đảm bảo tính
thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
b) Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
Thị trường chứng khoán được phân thành thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) và phi tập trung

(thị trường OTC).
c) Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường
Thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các thị trường: thị trường cổ phiếu, thị trường trái
phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh.
· Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ
phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
· Thị trường trái phiếu: thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được phát
hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
· Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh
Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác
như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn
Tổng Quan Thị Trường Chứng Khoán
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt
động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp
khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi
có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp.
Như vậy, xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán,
chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. Thị trường chứng
khoán có những chức năng cơ bản sau:
1. Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán
Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế−
Cung cấp môi trường− đầu tư cho công chúng
Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán−
Đánh− giá hoạt động của doanh nghiệp
Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các− chính sách vĩ mô
2. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành các nhóm sau: nhà phát
hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán.
a) Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành là

người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của thị trường chứng khoán.
Chính phủ và− chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương.
Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công− ty.
Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các− trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng phục
vụ cho hoạt động của họ.
b) Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể
được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
Các nhà đầu tư cá nhân−
Các nhà đầu tư có tổ− chức
c) Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
Công ty chứng− khoán
Quỹ đầu tư chứng khoán−
Các trung gian tài chính−
d) Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
Cơ quan quản lý Nhà nước−
− Sở giao dịch chứng khoán
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán−
Tổ− chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
Công ty dịch vụ máy tính chứng− khoán
Các tổ chức tài trợ chứng khoán−
Công ty đánh giá hệ số tín− nhiệm
3. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc công khai−
Nguyên tắc trung gian−
Nguyên tắc đấu− giá
4. Cấu trúc và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm tài chính (cổ phiếu, trái phiếu,
các khoản vay ngân hàng có kỳ hạn trên 1 năm). Sau đây là một số cách phân loại TTCK cơ bản:

a) Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
Thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.T
• Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu
tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
• Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp, đảm bảo tính
thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
b) Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
Thị trường chứng khoán được phân thành thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) và phi tập trung
(thị trường OTC).
c) Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường
Thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các thị trường: thị trường cổ phiếu, thị trường trái
phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh.
• Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ
phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
• Thị trường trái phiếu: thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được phát
hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
• Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh
Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác
như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn
ĐỂ GIAO DỊCH TẠI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Để tham gia giao dịch mua, bán chứng khoán trên TTCK Việt Nam bạn cần đến công ty chứng khoán để làm
thủ tục mở tài khoản giao dịch chứng khoán. Khách hàng và công ty chứng khoán sẽ ký hợp đồng mở tài
khoản và mỗi khách hàng sẽ được công ty chứng khoán mở một tài khoản riêng để theo dõi tiền và chứng
khoán của khách hàng. Để mua chứng khoán bạn phải có tiền hoặc để bán chứng khoán bạn phải có chứng
khoán trong tài khoản này. Vì vậy, bạn phải gửi tiền vào tài khoản đó hoặc nếu đã có chứng khoán thì bạn
phải gửi chứng khoán cho công ty chứng khoán nơi bạn đã mở tài khoản. Sau đó, bạn có thể thực hiện giao
dịch (mua/bán) chứng khoán trên tài khoản của mình thông qua công ty chứng khoán bằng việc viết phiếu
lệnh và chuyển cho công ty chứng khoán nhập lệnh vào hệ thống giao dịch. Kết thúc phiên giao dịch công ty

chứng khoán sẽ thông báo kết quả giao dịch cho bạn.
Để biết thêm chi tiết bạn có thể liên hệ trực tiếp với bộ phận môi giới của các công ty chứng khoán.
CÁC CÂU HỎI THƯỜNG GẶP
TTGDCK TP.HCM đang sử dụng những loại lệnh giao dịch nào?
Theo qui định tại Thông tư số 58/2004/TT-BTC ngày 17/6/2004 của Bộ Tài chính về Thành viên và giao dịch
chứng khoán lệnh giao dịch theo phương thức khớp lệnh bao gồm:
- Lệnh giới hạn: là lệnh mua hoặc bán chứng khoán do người đầu tư đưa ra cho người môi giới thực hiện theo
mức giá chỉ định hoặc tốt hơn
- Lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh (ATO): là lệnh mua hoặc bán chứng khoán nhưng không ghi mức giá,
do người đầu tư đưa ra cho người môi giới để thực hiện theo giá khớp lệnh.
Khối lượng giao dịch của lệnh ATO được cộng vào tổng khối lượng khớp lệnh nhưng lệnh ATO chỉ được
phân bổ sau khi lệnh giới hạn đã được phân bổ hết.
Điều kiện để thị trường chứng khoán hoạt động tốt?
Thị trường chứng khoán được xem là hoạt động tốt và hiệu quả nếu như việc mua bán chứng khoán trên thị
trường diễn ra thuận lợi, cung cấp cho nhà đầu tư một cơ chế giao dịch thuận tiện, an toàn, công khai, công
bằng và minh bạch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư. Hay nói khác, thị trường chứng khoán
được xem là hoạt động tốt nếu như nó tạo ra tính thanh khoản cao cho các chứng khoán giao dịch, cung cấp
đầy đủ thông tin cho nhà đầu tư và các đối tượng tham gia thị trường, qua đó hình thành nên giá chứng khoán
hợp lý, tạo được niềm tin của công chúng vào thị trường chứng khoán.
Vì vậy, để có thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả thì phải có một số điều kiện căn bản sau:
Về yếu tỗ vĩ mô: Sự ổn định môi trường chính trị và kinh tế vĩ mô nhằm khuyến khích đầu tư và tiết kiệm của
công chúng; mức độ lạm phát được kiềm chế vừa đủ để duy trì nền kinh tế phát triển; mức thâm hụt ngân
sách trong giới hạn an toàn, các chiến lược phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo và tạo công ăn việc làm
được thực hiện có hiệu quả.
Về yếu tố vi mô, đó là:
Khung pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ với hệ thống các văn bản pháp quy đầy đủ, rõ ràng, điều chỉnh các mặt
hoạt động của thị trường chứng khoán giúp cho thị trường hoạt động an toàn, bảo vệ được quyền và lợi ích
hợp pháp cho các chủ thể tham gia thị trường.
Mạng lưới các trung gian hoạt động trên thị trường chứng khoán như các công ty chứng khoán, công ty quản
lý quỹ đầu tư… vv, đóng vai trò cầu nối giữa các nhà đầu tư thực hiện nghiệp vụ môi giới mua bán chứng

khoán trên thị trường tập trung, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ khác cho các nhà đầu tư như cho vay, cung cấp
thông tin và các dịch vụ liên quan đến giao dịch chứng khoán cho nhà đầu tư như tư vấn đầu tư chứng khoán,
tham gia bảo lãnh phát hành và tư vấn cho các công ty trong việc niêm yết.
Cung cấp một cơ chế giao dịch hiệu quả thông qua tổ chức, vận hành của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán,
Sở Giao dịch Chứng khoán gồm hệ thống giao dịch, giám sát, công bố thông tin, hệ thống lưu ký, thanh toán
bù trừ…vv. Sự vận hành của các hệ thống này có những ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của thị trường thông
qua năng lực xử lý nhanh, chính xác các giao dịch trên thị trường, giúp tăng tốc độ luân chuyển vốn trên thị
trường.
Các tổ chức hỗ trợ phát triển thị trường, như các định chế trung gian khác là tổ chức định mức tín nhiệm, tổ
chức kiểm toán, tư vấn, tổ chức lưu ký, ngân hàng thanh toán…vv. Ngoài ra thị trường cần đến sự tham gia
của các nhà đầu tư chuyên nghiệp đóng vai trò dẫn dắt thị trường, can thiệp thị trường vào những thời điểm
mất cân đối quan hệ cung cầu.
Giá cổ phiếu của một công ty khi niêm yết phụ thuộc vào điều gì?
Trước hết có thể khẳng định rằng câu hỏi giống như câu hỏi của bạn hay tương tự, đã làm đau đầu các nhà
học giả, các nhà đầu tư chứng khoán hàng mấy trăm năm kể từ khi thị trường chứng khoán ra đời, nếu bạn là
một fan bóng đá, bạn cũng thấy khó khăn như thế nào để dự đoán kết quả của một trận cầu, thì ở đây khó
khăn cũng chẳng kém, nếu bạn cho là khó hơn thì cũng không sao. Và ở trong hầu hết mọi trường hợp, câu
trả lời có một điểm chung thống nhất là giá cổ phiếu dường như là một điều gì đó rất bí ẩn, rất khó nắm bắt.
Dưới đây, tác giả bài viết này xin trích đăng tóm tắt những kết luận, ý kiến của các nhà kinh tế, các nhà hoạt
động thị trường trên thế giới về những nhân tố chủ yếu có thể ảnh hưởng đến giá cổ phiếu để bạn tham khảo.
Tuy nhiên, cũng xin lưu ý bạn rằng, tác động của các nhân tố này tới giá cổ phiếu như thế nào cũng còn rất
nhiều tranh luận. Các yếu tố này có thể chia thành 3 nhóm yếu tố, đó là: các yếu tố kinh tế, các yếu tố phi
kinh tế, và các yếu tố thị trường.
1. Nhóm yếu tố kinh tế
Về tăng trưởng kinh tế, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển và giảm khi nền kinh tế kém
phát triển; tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm cổ phiếu và tình hình biến động của từng cổ
phiếu phụ thuộc vào tình hình hoạt động cụ thể của từng công ty.
Về mối liên hệ giữa giá cổ phiếu và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, giá cổ phiếu đôi khi xảy ra
trước biến động hoạt động kinh doanh, đôi khi xảy ra sau. Thời gian xảy ra và mức độ biến động này có sự
chênh lệch đáng kể qua theo dõi tình hình. Qua một thời gian dài, nhiều người cho rằng giá cổ phiếu phổ

thông thay đổi trước hoạt động kinh doanh.
Thu nhập công ty, những người theo trường phái này cho rằng, thu nhập hay lợi nhuận của công ty được coi
là nhân tố quan trọng nhất tác động tới giá cổ phiếu. Những nhà kinh doanh và nhà đầu tư mua và bán cổ
phiếu chủ yếu dựa trên cơ sở dự đoán về mức thu nhập. Tuy nhiên, giá cổ phiếu không phải lúc nào cũng có
mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập. Có những thời điểm, giá cổ phiếu tăng nhanh hơn thu nhập; vào những
thời điểm khác, nó bị tụt lại đằng sau thu nhập. Đôi khi trên thực tế, nó lại biến động theo chiều hướng ngược
lại với thu nhập. Do vậy, dù một người theo dõi rất sát thị trường đã dự đoán đúng xu hướng thay đổi của thu
nhập, nhưng không có gì bảo đảm rằng anh ta có thể dự đoán chính xác xu hướng biến đổi của giá cổ phiếu.
Cổ tức, những người theo trường phái này cho rằng cổ tức là nhân tố cơ bản, chủ yếu thứ hai sau thu nhập,
trong việc xác định giá chứng khoán. Thực chất điều này không khác gì một câu thành ngữ cổ xưa “1 con
chim trong nhà có trị giá bằng 2 con chim trong rừng”. Tuy nhiên, cổ tức không đóng vai trò quan trọng đối
với loại cổ phiếu tăng trưởng là loại cổ phiếu mà người ta coi sự tăng giá của chúng là rất quan trọng, thường
xuyên mang lại lợi suất đầu tư cuối cùng lớn hơn nhiều so với cổ tức hiện tại. Một công ty tăng trưởng có khả
năng sử dụng số vốn này có hiệu quả hơn cho các cổ đông, là những người luôn phải tìm kiếm cơ hội đầu tư.
Trong tất cả các nhân tố báo chí sử dụng để giải thích về sự biến động giá hàng ngày của từng cổ phiếu, các
thông tin về cổ tức luôn được xếp ở vị trí quan trọng gần đầu.
Lãi suất, mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu là gián tiếp và luôn thay đổi. Nguyên nhân là do luồng thu
nhập từ cổ phiếu có thể thay đổi theo lãi suất và chúng ta không thể chắc chắn liệu sự thay đổi của luồng thu
nhập này có làm tăng hay bù đắp cho mức biến động về lãi suất hay không. Để giải thích rõ vấn đề này,
chúng ta sẽ xem xét các khả năng có thể xảy ra khi tỷ lệ lạm phát tăng, cụ thể như sau:
Lãi suất tăng do tỷ lệ lạm phát tăng và thu nhập công ty theo đó cũng tăng vì công ty có thể tăng giá cho phù
hợp với mức tăng của chi phí. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có thể khá ổn định vì ảnh hưởng tiêu cực
của việc tăng tỷ suất lợi nhuận đã được đền bù một phần hay toàn bộ bởi phần tăng của tỷ lệ tăng trưởng thu
nhập và cổ tức.
Lãi suất tăng, nhưng luồng thu nhập dự tính thay đổi rất ít do công ty không có khả năng tăng giá để phù hợp
với chi phí tăng, do vậy, giá cổ phiếu giảm. Tỷ suất lợi nhuận quy định có thể tăng nhưng tỷ lệ tăng trưởng
của cổ tức là không đổi, nên mức chênh lệch giữa 2 nhân tố này càng lớn.
Lãi suất tăng trong khi luồng thu nhập giảm vì các nguyên nhân làm tăng lãi suất lại gây tác động xấu tới thu
nhập của công ty. Hoặc là người ta có thể hình dung thời kỳ lạm phát trong đó chi phí sản xuất tăng, nhưng
nhiều công ty không thể tăng giá, dẫn tới biên độ lợi nhuận giảm. Tác động của một loạt các sự kiện này là

rất tồi tệ. Trong những trường hợp này, giá cổ phiếu sẽ sụt nghiêm trọng vì tỷ suất lợi nhuận giảm khi cổ tức
giảm, dẫn tới chênh lệch giữa 2 nhân tố này càng lớn.
Đối với những trường hợp ngược lại so với các trường hợp trên, bạn có thể hình dung ra một loạt các khả
năng ngược lại khi lạm phát và lãi suất giảm. Mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và giá cổ phiếu là một vấn
đề đòi hỏi phải có kinh nghiệm và ảnh hưởng của chúng thay đổi theo từng thời kỳ. Do vậy, mặc dù mối quan
hệ giữa lạm phát, lãi suất và thu nhập từ cổ phiếu là tiêu cực, nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng.
Hơn nữa, ngay cả khi điều này là đúng trên toàn bộ thị trường, thì vẫn tồn tại một số ngành nhất định có thể
có thu nhập và cổ tức tạo ảnh hưởng tích cực từ những biến động về lạm phát và lãi suất. Trong trường hợp
này, giá cổ phiếu có mối quan hệ tốt với lạm phát và lãi suất.
Giá cả hàng hoá (lạm phát), Lịch sử thị trường chứng khoán Mỹ đã cung cấp nhiều thông tin về sự bất cập
của giá chứng khoán trong mối quan hệ với giá hàng hoá. Từ năm 1923 tới 1929 là một giai đoạn đáng ghi
nhớ khi giá bán buôn ổn định và giá hàng hoá có xu hướng giảm nhẹ. Tuy nhiên, trong thời kỳ đó, giá chứng
khoán theo thống kê tăng vọt phổ biến trên các thị trường đầu cơ giá lên. Ngược lại, giá hàng hoá tăng vào
năm 1940, 1941, và 1942, nhưng giá cổ phiếu lại hạ. Vào mùa xuân năm 1946, việc kiểm soát giá hàng hoá
đã bị bãi bỏ, và lạm phát về giá hàng hoá đã lên tới đỉnh điểm cho đến hết năm và tiếp tục tăng cho đến đến
giữa năm 1948, giá cả tăng đều trong hai năm. Giá cổ phiếu bắt đầu biến động gần như vào đúng ngày giá
hàng hoá bắt đầu tăng vào năm 1946; giá cổ phiếu giảm mạnh từ tháng 8 cho tới cuối năm. Nói cách khác,
giá chứng khoán sụp đổ vào năm 1946 đúng vào thời điểm nguy cơ lạm phát tăng mạnh nhất do ảnh hưởng
của Chiến tranh thế giới lần thứ II.
Sự không nhất quán trong các phản ứng của giá cổ phiếu trước sự thay đổi giá hàng hoá đã làm nhà phân tích
ngày càng chán nản bởi vì giá cổ phiếu trước đây thường có xu hướng biến động trước khi giá hàng hoá biến
động tới vài tháng. Do vậy, dường như giá hàng hoá với tư cách là một chỉ số của giá chứng khoán tỏ ra
không đáng tin cậy và có lẽ là không có giá trị.
Các yếu tố kinh tế khác
Trong những năm gần đây, các chỉ số hàng đầu thường được các nhà dự báo chứng khoán nhắc tới bao gồm
số liệu về việc làm, những thay đổi về hàng tồn kho, và những biến động về lượng cung tiền. Lãi suất cơ bản
(thường là lãi suất trái phiếu chính phủ) trong những năm gần đây đã thu hút sự chú ý đáng kể cho dù từ lâu
nó chỉ được coi là một nhân tố không đáng kể chứ không phải là nhân tố hàng đầu. Bởi vì giá chứng khoán là
một trong những chỉ số được coi trọng nhất trong 12 chỉ số hàng đầu, nên các nhà dự báo cho rằng tốt nhất
nên dự tính lãi suất cơ bản theo giá chứng khoán hơn là dự đoán giá chứng khoán theo những thay đổi của lãi

suất cơ bản.
Các chỉ số quan trọng khác bao gồm vốn vay liên ngân hàng, các khoản vay thương mại và dịch vụ, giao dịch
vốn trên thị trường tiền tệ, và các số liệu về giao dịch và thanh toán của quỹ tương hỗ.
2. Nhóm yếu tố phi kinh tế
Nhóm nhân tố ảnh hưởng chủ yếu tiếp theo là những yếu tố phi kinh tế, bao gồm sự thay đổi về các điều kiện
chính trị, ví dụ chiến tranh hoặc thay đổi cơ cấu Chính phủ, thay đổi về thời tiết và những nhân tố tự nhiên
khác, và thay đổi về điều kiện văn hoá, như tiến bộ về công nghệ v.v Tuy nhiên, những yếu tố này chỉ có ảnh
hưởng lớn đối với giá chứng khoán ở những nước có nền kinh thế thị trường phát triển, thị trường sẽ đánh giá
những chính sách này. Trong điều kiện Việt Nam, nền chính trị ổn định, mặt khác thị trường chứng khoán
còn chưa phát triển, thì yếu tố này ít có tác động.
3. Nhóm yếu tố thị trường
Các yếu tố thị trường, là những nhân tố bên trong của thị trường, bao gồm sự biến động thị trường và mối
quan hệ cung cầu có thể được coi là nhóm yếu tố thứ ba tác động tới giá cổ phiếu. Sự biến động thị trường là
một hiện tượng chờ đợi thái quá từ việc dự tính quá cao giá trị thực chất của cổ phiếu khi giá cổ phiếu cao
nhờ sự phát đạt của công ty, và ngược lại do dự đoán thấp giá trị tại thời điểm thị trường đi xuống. Mối quan
hệ giữa cung và cầu được trực tiếp phản ánh thông qua khối lượng giao dịch trên thị trường, hoạt động của
những nhà đầu tư có tổ chức, giao dịch ký quỹ v.v cũng có ảnh hưởng đáng kể. Mặc dù số lượng giao dịch ký
quỹ tăng khi mà giá cổ phiếu tăng, nhưng một khi giá cổ phiếu giảm số lượng cổ phiếu bán ra tăng và làm
cho giá càng giảm.
Như vậy, dao động giá cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi sự kết hợp của nhiều nhân tố khác nhau, hạt nhân chính là
các yếu tố về khả năng thu nhập công ty.
Đối với TTCK Việt Nam, theo quan điểm cá nhân của tác giả bài viết này, thì giá cổ phiếu của công ty niêm
yết về cơ bản cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố nói trên nhưng mức độ không rõ ràng. Có thể thống kê
những yếu tố chủ yếu sau:
Yếu tố tâm lý “bầy đàn”, thuộc nhóm yếu tố thị trường nói ở trên, thể hiện tương đối rõ nét nhất là ở trong
giai đoạn đầu thị trường mới thành lập. Bạn có thể thấy rõ hiện tượng này qua biểu hiện giá của đa số các cổ
phiếu đều lên hoặc đều xuống, giá cổ phiếu biến động tăng /giảm không phản ánh tình hình hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty, mà chủ yếu do yếu tố tâm lý của người đầu tư trên thị trường. Sau này mới có
sự phân hoá về biến động giá giữa các loại cổ phiếu khác nhau, tuy nhiên, hiện nay yếu tố này vẫn chiếm xu
thế chủ đạo.

Thu nhập công ty, yếu tố này có tác động tương đối rõ rệt tới giá cổ phiếu, chẳng hạn vừa qua giá cổ phiếu
của CTCP Chế biến hàng xuất khẩu Long An tăng “kịch trần” nhiều phiên bởi Công ty công bố lợi nhuận sau
thuế quý III /2004 đạt 8, 6 tỷ đồng tăng hơn 140% so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài những yếu tố nói trên, có thể tính đến các yếu tố khác như mức trả cổ tức, thông tin mua bán cổ phiếu
của các thành viên trong ban lãnh đạo công ty, thông tin tách gộp cổ phiếu, thông tin về việc phát hành thêm
cổ phiếu, tin đồn…Những người đầu tư chuyên nghiệp hơn có thể còn tìm hiểu các thông tin liên quan đến
chính sách của Chính phủ đối với thị trường chứng khoán, chính sách cổ phần hoá DNNN, tình hình quản trị
của công ty niêm yết, tên tuổi của CTCK bảo lãnh phát hành hay tư vấn niêm yết cho công ty niêm yết.
Để kết thúc bài viết này, tác giả cho rằng lời khuyên sau đây của các nhà đầu tư nổi tiếng trên thị trường
chứng khoán thế giới đáng để bạn quan tâm, đó là từng nhà đầu tư cần phải có những phân tích, suy xét của
riêng mình trước khi đưa ra quyết định mua hay bán, tránh bị ảnh hưởng bởi những trào lưu tâm lý trên thị
trường. Có như vậy thì từng nhà đầu tư mới có thể tìm kiếm được cho mình những cơ hội đầu tư sinh lời bất
kể tình hình giá cả thị trường biến động lên hay xuống. Chúc bạn thành công
Tôi xin hỏi về bản chất quỹ thành viên?, Tôi thấy người ta hay nói về Muatual Fund?
Quỹ đầu tư chứng khoán là một công cụ huy động vốn và đầu tư rất hiệu quả trên các thị trường vốn. Về cơ
bản, Quỹ đầu tư chứng khoán có hai dạng chính như sau:
+ Các quỹ công chúng:
Đây còn gọi là quỹ đầu tư tập thể, là những quỹ đầu tư được hình thành từ vốn góp của rất nhiều nhà đầu tư
và uỷ thác cho một công ty quản lý quỹ để thực hiện các hoạt động đầu tư của quỹ. Thuật ngữ Muatual Fund
có nghĩa là quỹ tương hỗ, thuật ngữ này được dùng rất nhiều ở Mỹ, nơi có hệ thống các quỹ đầu tư rất phát
triển. Thuật ngữ này cũng là một cách gọi đối với các quỹ công chúng.
Việc huy động vốn của các quỹ này được thực hiện thông qua những đợt phát hành chứng chỉ quỹ ra công
chúng. Khi tham gia vào các quỹ công chúng, các nhà đầu tư được hưởng các lợi ích sau:
- Được hưởng lợi từ việc đầu tư đa dạng hoá, nhờ đó, giảm thiểu các rủi ro không không hệ thống.
- Được hưởng lợi nhờ giảm thiểu các chi phí đầu tư do quy mô đầu tư của các quỹ thường lớn.
- Vốn của các nhà đầu tư được quản lý bởi các chuyên gia đầu tư có chuyên môn và giàu kinh nghiệm của
một công ty quản lý quỹ.
- Các chứng chỉ quỹ cũng có tính thanh khoản như một loại cổ phiếu, nhờ đó, các nhà đầu tư có thể dễ dàng
bán các chứng chỉ quỹ khi cần thiết.
Do nguồn vốn của quỹ công chúng được huy động từ nhiều nhà đầu tư nên hoạt động đầu tư của quỹ công

chúng phải tuân thủ rất nhiều hạn chế nghiêm ngặt của pháp luật. Công ty quản lý quỹ thực hiện quản lý cũng
phải tuân thủ rất nhiều điều kiện khắt khe trong hoạt động quản lý các quỹ này. Mục đích của các hạn chế
trên là nhằm đảm bảo sự an toàn cho Quỹ đầu tư chứng khoán, bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng của các
nhà đầu tư.
+ Các quỹ thành viên, hay còn gọi là các quỹ đầu tư tư nhân.
Về bản chất, Quỹ thành viên là một dạng Quỹ đầu tư chứng khoán, tuy nhiên, quỹ này chỉ giới hạn ở một số
ít nhà đầu tư tham gia góp vốn.
Mục tiêu chủ yếu của việc thành lập các Quỹ thành viên là để thực hiện các hoạt động đầu tư có tính chất
tương đối mạo hiểm. Các hoạt động đầu tư này có thể mạng lại những khoản lợi nhuận tiềm năng rất cao cho
các nhà đầu tư, tuy nhiên rủi ro cũng rất lớn.
Với tính chất rủi ro như vậy, các quỹ thành viên không phù hợp với việc huy động vốn từ công chúng. Quy
mô và phạm vi huy động vốn của quỹ chỉ tập trung vào một số ít nhà đầu tư lớn, có tiềm lực tài chính và có
khả năng chấp nhận những rủi ro cao trong hoạt động đầu tư. Chính vì vậy, để tham gia vào quỹ thành viên,
các nhà đầu tư phải đạt được những điều kiện nhất định do pháp luật đặt ra.
Với tính chất và mục tiêu đầu tư như trên, các quỹ thành viên thường không phải chịu các hạn chế như quỹ
công chúng.
Hiện tại, hầu hết các nước có thị trường chứng khoán phát triển đều có hình thức quỹ đầu tư này.
Thị trường chứng khoán: Sơ lược lịch sử ra đời và phát triển
Thị trường chứng khoán: Sơ lược lịch sử ra đời và phát triển
1.1. Khái niệm: Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính mà tại đó diễn ra việc mua
bán các công cụ tài chính dài hạn.
1.2. Sơ lược lịch sử ra đời và phát triển
Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách tự phát và rất sơ khai, xuất phát từ một sự cần thiết đơn
lẻ của buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ 15 ở tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương
gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi việc mua bán trao đổi các vật phẩm hàng hoá. Lúc đầu chỉ
một nhóm nhỏ, dần dần sau đó tăng dần và hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ 15, để thuận tiện hơn
cho việc làm ăn, khu chợ trở thành “thị trường” với việc họ thống nhất các quy ước và dần dần các quy ước
được sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia ” thị
trường”.
Phiên chợ riêng đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ điếm của gia đình Vanber ở Bruges Bỉ, tại đó

có một bảng hiệu hình ba túi da với một tiếng Pháp là “Bourse” tức là “mậu dịch thị trường” hay còn gọi là
“Sở giao dịch”.
Vào năm 1547, thành phố ở Bruges Bỉ mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị cát lấp nên mậu dịch thị
trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers Bỉ, ở đây thị trường phát triển rất nhanh và giữa
thế kỷ 16 một quan chức đại thần của Anh quốc đã đến quan sát và về thiết lập một mậu dịch thị trường tại
London Anh, nơi mà sau này được gọi là Sở giao dịch chứng khoán London. Các mậu dịch thị trường khác
cũng lần lượt được thành lập tại Pháp, Đức và Bắc Âu.
Sự phát triển của thị trường ngày càng phát triển cả về lượng và chất với số thành viên tham gia đông đảo và
nhiều nội dung khác nhau. Vì vậy theo tính chất tự nhiên nó lại được phân ra thành nhiều thị trường khác
nhau như: Thị trường giao dịch hàng hoá, thị trường hối đoái, thị trường giao dịch các hợp đồng tương lai và
thị trường chứng khoán… với đặc tính riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người tham gia
trong đó.
Quá trình các giao dịch chứng khoán diễn ra và hình thành như vậy một cách tự phát cũng tương tự ở Pháp,
Hà Lan, các nước Bắc Âu, các nước Tây Âu và Bắc Mỹ.
Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra sơ khai ngay cả khi ở ngoài trời với những ký hiệu giao dịch
bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Ở Mỹ cho đến năm 1921, khu chợ này được chuyển từ
ngoài trời vào trong nhà, Sở giao dịch chứng khoán chính thức được thành lập.
Ngày nay, theo sự phát triển của công nghệ khoa học kỹ thuật, cácphương thức giao dịch ở các Sở giao dịch
chứng khoán cũng được cải tiến dần theo tốc độ và khối lượng yêu cầu nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng
cho giao dịch, các Sở giao dịch đã dần dần sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyền dần từ
giao dịch thủ công kết hợp \/ói máy vi tính sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử thay cho thủ
công trước kia.
Lịch sử phát triển các thị trường chứng khoán Thế giới trải qua một sự phát triển thăng trầm lúc lên, lúc
xuống, vào những năm 1875-1913, thị trường chứng khoán Thế giới phát triển huy hoàng cùng với sự tăng
trưởng của nền kinh tế Thế giới lúc đó, nhưng rồi đến “ngày thứ năm đen tối ” tức ngày 29/10/1929 đã làm
cho thị trường chứng khoán Tây, Bắc Âu và Nhật bản khủng hoảng mất lòng tin. Cho mãi tới chiến tranh thế
giới thứ 2 kết thúc, các thị trường chứng khoán cũng hồi phục dần và phát triển mạnh và rồi cho đến năm
1987 một lần nữa đã làm cho các thị trường chứng khoán.
Thế giới điên đảo với “ngày thứ hai đen tối” do hệ thống thanh toán kém cỏi không đảm đương được yêu cầu
của giao dịch, sụt giá chứng khoán ghê gớm, mất lòng tin và phản ứng dây chuyền mà hậu quả của nó còn

nặng hơn cuộc khủng hoảng năm 1929. Theo quy luật tự nhiên, sau gần hai năm mất lòng tin, thị trường
chứng khoán Thế giới lại đi vào giai đoạn ổn định và phát triển đến ngày nay. Cứ mỗi lần khủng hoảng như
vậy, giá chứng khoán của tất cả các thị trường chứng khoán trên Thế giới sụt kinh khủng tuy ở mỗi khu vực
và mỗi nước ở những mức độ khác nhau gây ra sự ngừng trệ cho thị trường chứng khoán toàn cầu và cũng
ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế mỗi nước.
Cho đến nay, phần lớn các nước trên Thế giới đã có khoảng trên 160 Sở giao dịch chứng khoán phân tán
khắp các châu lục bao gồm cả các nước trong khu vực Đông nam Á phát triển vào những năm 1960 -1970
vào ở các nước ở Đông Âu như Balan, Hunggari, Séc, Nga, và Châu Á như Trung quốc vào những năm 1980
- đầu năm 1990.
Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên Thế giới cho thấy thời gian đầu, thị trường
hình thành một cách tự phát, đối tượng tham gia chủ yếu là các nhà đầu cơ, dần dần về sau mới có sự tham
gia ngày càng đông đảo của công chúng. Khi thị trường bắt đầu xuất hiện sự trục trặc và bất ổn, chính phủ
buộc phải can thiệp bằng cách thành lập các cơ quan quản lý nhằm bảo vệ quyền lợi của công chúng đầu tư
và sau đó dần dần hệ thống pháp lý cũng bắt đầu được ban hành. Kinh nghiệm đối với những thị trường mới
hình thành về sau này cho thấy thị trường sau khi thiết lập chỉ có thể hoạt động có hiệu quả, ổn định và nhanh
chóng nếu có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt về hàng hoá, luật pháp, con người, bộ máy quản lý và đặc biệt
sự giám sát và quản lý nghiêm ngặt của Nhà nước.
Song cũng có một số thị trường chứng khoán có sự trục trặc ngay từ ban đầu như thị trường chứng khoán
Thái Lan, Inđônêsia, hoạt động trì trệ một thời gian dài do thiếu hàng hoá và do không được quan tâm đúng
mức, thị trường chứng khoán Philippine kém hiệu quả do thiếu sự chỉ đạo và quản lý thống nhất hoạt động
của 2 Sở giao dịch chứng khoán Makita và Manila, thị trường chứng khoán Balan, Hungari gặp trục trặc do
việc chỉ đạo giá cả quá cao hoặc quá thấp, …
Có thể nói, Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế
của những nước theo cơ chế thị trường và nhất là những nước đang phát triển đang cần thu hút luồng vốn lớn
dài hạn cho nền kinh tế quốc dân.
Lịch sử hình thành thị trường chứng khoán Việt Nam?
TTCK ở Việt Nam đã được hình thành và phát triển với việc thành lập UBCKNN ngày 28/11/1996. Từ tháng
3/2004, UBCKNN là một bộ phận của Bộ Tài chính. Phải mất 10 năm thăm dò, thử nghiệm, TTCK Việt Nam
đã bùng nổ vào năm 2006 song hành cùng với những kỷ lục mới xuất hiện trong nền kinh tế nước nhà.
Lịch sử của thị trường chứng khoán

Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 15 ở tại thành phố trung tâm buôn bán của phương Tây, các thương gia thường
tụ tập tại một số khu như quán cà phê để trao đổi mua bán các loại hàng hoá như nông sản, khoáng sản, tiền
tệ và các chứng từ có giá. Ðiểm đặc biệt ở đây là các thương gia chỉ giao dịch với nhau bằng lời nói, không
có hàng hoá thật. Những cuộc thương lượng này nhằm thống nhất với nhau các hợp đồng trao đổi mua bán
ngay hoặc cho tương lai.Những cuộc trao đổi này ban đầu chỉ là một nhóm người và sau đó đông dần cho đến
khi nó thực sự thành một khu chợ riêng. Thời gian họp chợ lúc đầu là hàng tháng, sau đó hàng tuần rồi rút
ngắn còn hàng ngày. Trong các phiên họp chợ tại đây các thương gia thống nhất với nhau các quy ước cho
việc thương lượng và sau này trở thành những quy tắc có giá trị bắt buộc đối với những ai muốn tham gia thị
trường và thị trường chứng khoán hình thành từ đó.
Như vậy, thị trường chứng khoán xuất hiện từ thế kỷ thứ 15. Sự hình thành thị trường chứng khoán cũng
đồng thời với thị trường hối đoán và một số thị trường khác.
Quá trình hình thành và phát triển của thị tường chứng khoán thế giới đã trải qua những giai đoạn thăng trầm.
Thời kỳ huy hoàng nhất là vào những năm 1875 đến 1913, thị trường chứng khoán trong thời kỳ này phát
triển mạnh cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng đến “ngày thứ sáu đen tối” vào ngày 29-10-1929
là ngày mở đầu cuộc khủng hoảng của thị trường chứng khoán New York, từ đó cuộc khủng hoảng kéo sang
các thị trường chứng khoán Tây Âu, Bắc Âu và Nhật Bản. Sau thế chiến thứ hai, thị trường chứng khoán
phục hồi và phát triển mạnh. Nhưng rồi cuộc khủng hoảng tài chính năm 1987 một lần nữa đã làm cho thị
trường chứng khoán thế giới suy sụp nặng nề. Cuộc khủng hoảng hoảng này để lại hậu quả nghiêm trọng hơn
cuộc khủng hoảng năm 1929. Nhưng chỉ sau hai năm, thị trường chứng khoán thế giới tiếp tục đi vào hoạt
động ổn định, phát triển và trở thành một định chế không thể thiếu trong đời sống kinh tế của những quốc gia
có nền kinh tế phát triển theo định hướng thị trường.
Một cái chợ có tổ chức
Thị trường là một “cái chợ”. ở mức phát triển thấp, chợ là một nơi tập trung hàng hoá các loại, và kẻ bán
người mua gặp nhau. ở mức phát triển cao hơn, như các siêu thị “mart”, chợ không có người bán. ở mức cao
hơn nữa chợ là nơi diễn ra sự trao đổi. ở đó người mua hay bán không xuất hiện mà giao dịch với nhau qua
những người môi giới. Chợ bán chứng khoán thuộc loại này. Nơi đây, hàng là các chứng khoán được trao đổi
; nhưng chúng thực sự lại chỉ là những con số đi kèm với tên công ty. Điều này giúp người mua kẻ bán, vào
bất cứ lúc nào, cũng có thể thay đổi vị trí, khi mua chứng khoán, khi bán nó đi. Và người này là những nhà
đầu tư hay công chúng như ta đã biết. Người đầu tư mua và bán hàng, nhưng hàng của họ là hàng mua lại.
Người bán thực sự là các công ty cổ phần. Nhưng những công ty này chẳng còn dính dáng gì vào việc buôn

bán. Chợ bán chứng khoán có rất đông người mua, kẻ bán, bởi thế, nó được tổ chức rất quy củ và được gọi là
“một cái chợ có tổ chức cao” (highly organized market).
Các loại chợ
Bình thường, ở chợ hàng hoá, ta có chợ đầu mối và chợ bán lẻ là những chợ phân loại theo số lượng hàng bán
(bán buôn, bán lẻ) ; có chợ trong nhà lồng, chợ bên ngoài nhà lồng là những chợ phân chia theo phẩm chất
hàng bán ; rồi có chợ bán lương thực, chợ bán cây cảnh là những chợ phân theo mặt hàng. TTCK cũng có
những loại chợ giống như thế chỉ khác là nó có tổ chức cao.
Chợ bán theo số lượng hàng bán
Chứng khoán thoạt đầu do công ty đưa ra ; khi đã đăng ký với uỷ ban giao dịch chứng khoán thì họ được
phép bán. Công ty sẽ bán cho một nơi mua sỉ để cho tiện khi đưa bán cũng như lúc lấy tiền về. Công ty “mua
sỉ” là công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán. Sự mua bán giữa hai nơi này tạo nên thị trường sơ cấp, giống
như chợ đầu mối.
Khi công ty “mua sỉ” đem bán lẻ chứng khoán cho công chúng, thì hai người này tạo ra một thị trường thứ
hai, gọi là thị trường thứ cấp, giống như chợ bán lẻ.
Hai thị trường này ăn thông với nhau mới tạo nên TTCK. Nếu chỉ có chợ sơ cấp không thôi, như ở ta hiện
nay, thì chưa có TTCK.
Chợ bán theo phẩm chất hàng hoá
Công ty bán chứng khoán có cái to, cái nhỏ ; cho nên chứng khoán của họ cũng được phân loại theo sức
mạnh của công ty. Chứng khoán của các công ty lớn, hội đủ một số điều kiện nào đó, sẽ được bán ở một khu
vực rộng rãi, phố xá đông người, gọi là các sàn giao dịch, như mô tả ở bài 8. Dự thảo Pháp lệnh chứng khoán
của ta gọi là “thị trường giao dịch tập trung” ; cho ngắn gọn và tuỳ mạch văn, chúng ta sẽ dịch là chợ bán trên
sàn hay sàn giao dịch. Các từ này đều chỉ chung một chỗ là “trading floor”.
Chứng khoán của các công ty không hội đủ những điều kiện đòi hỏi kia sẽ được bán ở một nơi khác gọi là
bán “qua các quầy” (over-the-counter trading – OTC) ; có thể tên chính thức của nó ở ta sẽ là “thị trường giao
dịch không tập trung”, ở đây chúng ta dịch là “chợ bán trên bàn” hay “bàn giao dịch” ta không gọi là quầy để
không bị lẫn với quầy ở chợ trên sàn. Chợ trên bàn, không có người qua kẻ lại, mà chỉ là các văn phòng của
các người môi giới đặt tại nhiều nơi trong nước. Họ cũng như khách hàng giao dịch với nhau qua điện thoại.
Phân loại theo tính chất món hàng
Huy động vốn thì không chỉ công ty mới làm, mà cả chính quyền các cấp cũng làm nữa. So với công ty, khả
năng trả nợ của chính quyền chắc chắn hơn, do đó các ràng buộc về trả nợ dành cho công ty không được áp

dụng cho chính quyền. Vì thế, công trái của chính quyền được bán ở một chợ khác, thường là các ngân hàng
thương mại. Sự việc này tạo ra một chợ riêng bán công trái do chính quyền phát hành.
Sự phân loại các chợ như ở trên cốt cho dễ hiểu. Trên thực tế, các loại chợ kia hoạt động đan xen với nhau
tạo nên một TTCK. Vì cốt tuỷ của một cái chợ là sự trao đổi, nên ở đâu có trao đổi là có chợ mà không nhất
thiết phải có một địa điểm chung cho kẻ mua người bán ; bởi thế “cái bàn” cũng là một “cái chợ”.
Nguyên tắc hoạt động của chợ
Thị trường sơ cấp phải giải quyết tất cả các vấn đề của việc vay nợ và hùn vốn ; là những thứ luôn luôn có rủi
ro. Muốn tránh rủi ro, người ta phải thu thập tin tức, ký hợp đồng với các con nợ, và kiểm soát sự thực hiện
hợp đồng đó. Việc này sẽ do một công ty hay người bảo lãnh phát hành chứng khoán (underwriter) làm. Họ
sẽ thảo luận với các công ty muốn bán chứng khoán về các điều kiện của hợp đồng. Khi hợp đồng được thực
hiện thì các công ty được uỷ nhiệm (trustee) kiểm soát việc con nợ thực hiện hợp đồng.
Chợ thứ cấp bán chứng khoán là nơi công ty bảo lãnh phát hành bán lại chứng khoán cho công chúng. Chợ
này – như đã biết – do các người môi giới lập. (Về những người này chúng ta sẽ đề cập ở bài XIII).
Chợ thứ cấp phải thực hiện ba chức năng. Một là, khai mở, hay xác định một giá công bằng (fair) cho việc
mua hay bán chứng khoán. Hai là, giúp cho việc mua bán theo các giá kia được diễn ra nhanh chóng dễ
dàng ; tức là tạo ra thanh khoản. Ba là, giúp cho việc giao dịch ít tốn kém.
Xác định một giá công bằng
Chứng khoán tiêu biểu cho lời hứa của công ty phát hành là họ sẽ trả lại số tiền đã nhận cùng với lời lãi sau
này. Giá trị của lời hứa đó tuỳ thuộc vào sự mong đợi của người đã bỏ tiền ra và vào sự đánh giá các rủi ro
liên quan đến sự trả nợ. Hai cái này lại bị chi phối bởi các thông tin có sẵn ở những chỗ nhất định (báo chí, cơ
sở, nơi mua bán) và bởi kết luận mà người bỏ tiền rút ra từ các thông tin ấy. Cùng một thông tin, nhưng
những người khác nhau sẽ có những kết luận cho mình khác nhau.
Một giá cả công bằng cho chứng khoán là một phí tổn thấp nhất mà những người hiểu biết thông tin sẵn sàng
trả khi mua bán chứng khoán. Một phí tổn thấp nhất cho người bán là số tiền cao nhất họ đòi được. Còn phí
tổn thấp nhất cho người mua lại là số tiền nhỏ nhất mà họ sẽ phải trả.
Khai mở cái giá kia là một diễn trình làm giá hay tạo giá. ở mỗi loại thị trường diễn trình đó khác nhau.
Tạo ra hay có sẵn thanh khoản
Từ “thanh khoản” nghe khó hiểu. ở đây, cho dễ nhớ, có thể nói một thị trường có khả năng tạo thanh khoản là
nơi mà ở đó bất cứ ai cũng có thể mua bán nhanh chóng mà không bị thua thiệt. Thí dụ, khi bạn muốn bán
chứng khoán của một công ty, ở một nơi nào, vào bất cứ lúc nào, theo cái giá công bằng, mà nơi đó có thể

mua rồi trả tiền cho bạn ngay thì đó là một thị trường có thanh khoản cao. Nếu phải lâu bạn mới bán được
hay phải “lót tay” mới bán được thì nơi đó không có thanh khoản hay thanh khoản thấp.
Để có thanh khoản, TTCK sẽ áp dụng công nghệ bù qua sớt lại (thanh toán bù trừ). Số tiền nhận từ người
mua sẽ được lấy ra trả cho người bán. Nếu số người bán cao hơn số người mua khiến có sự mất thăng bằng
về thanh khoản, thì TTCK cũng phải có khả năng giống như ngân hàng để bù đắp sự chênh lệch kia. Các
công nghệ của ngân hàng, mà chúng ta đã biết qua bài V, cũng được dùng trong TTCK.
Giảm chi phí giao dịch
Cốt lõi của TTCK là sự trao đổi. Muốn trao đổi phải có sự đồng ý về điều kiện mua bán. Về sự thực hiện cái
đã đồng ý (tức là sự thực hiện) và rồi thanh toán. Khi làm hai việc sau thì cũng có tốn kém và rủi ro (thí dụ,
người bán nhận bán nhưng không giao hàng khiến người mua phải đi tìm hàng thay thế ; người mua không
trả tiền làm người bán kẹt vốn…). Chi phí thực hiện phải thấp thì buôn bán mới dễ dàng ; nhờ đó TTCK mới
thực hiện được các chức năng của nó. Muốn thế, thị trường phải có tổ chức nghĩa là có bốn đặc tính sau :
1. Hạn chế gia nhập và có nội quy hoạt động
Người mua bán chứng khoán có thể lên đến hàng trăm hàng ngàn mỗi ngày. Một số đông như thế giao dịch
với nhau thì phải biết nhau và phải tin rằng những người mà họ giao dịch là những người đáng tin cậy. Nếu
không, thì ai cũng sẽ bị “sưu tra lý lịch” trước khi tham gia. Nếu việc đó xảy ra, ta sẽ thấy ngay là không có
mua bán nữa.
Một cách để tránh tình trạng này là chọn lọc để giới hạn sự gia nhập. Trong TTCK, chỉ có những người được
phép mới được vào chợ trên sàn. Đó là những người môi giới. Tất cả những người khác chỉ có thể mua bán
với nhau qua những người này. Để trở thành người môi giới, đương sự phải hội đủ một số điều kiện về vốn
liếng, tiêu chuẩn kế toán chuyên môn và đạo đức. Và để cho chặt chẽ hơn, các hội viên phải đặt ra nội quy
hành nghề ; để những ai vi phạm sẽ bị phạt tiền hay bị sa thải.
Nhờ những biện pháp trên, nên khi người đầu tư ra lệnh mua bán, họ mới dám tin tưởng người mình giao
dịch và điều này làm cho chi phí giảm nhiều. Niềm tin làm giảm bớt giấy tờ và tốn kém.
2. Tiêu chuẩn hoá
Việc giao dịch ở chợ phải được tiêu chuẩn hoá và đơn giản hoá. Thí dụ, các chứng khoán được xếp theo từng
lố 100 hay 1.000 cổ phần ; rồi có những thủ tục thống nhất về chuyển giao hàng và thanh toán tiền.
Sự tiêu chuẩn hoá làm cho việc mua bán được đơn giản. Người mua và bán chỉ cần đồng ý với nhau về giá
hàng và số lượng ; tất cả các vấn đề khác của việc mua bán thì hai bên đã biết, không cần phải bàn bạc nữa.
Tiêu chuẩn hoá còn làm giảm các trường hợp hai bên hiểu khác nhau về tính chất của sự giao dịch.

3. Giải quyết tranh chấp
Dù đã tạo ra những tập tục trên thì tranh chấp cũng vẫn xảy ra. Giải quyết chuyện đó sẽ mất thời giờ và tiền
bạc. Chợ có tổ chức sẽ giảm chi phí kia bằng cách đề ra một khuôn khổ cho việc giải quyết tranh chấp. Giải
quyết riêng tư với nhau sẽ rẻ hơn nhiều so với việc đưa nhau ra toà.
4. Bảo đảm thi hành
Giao dịch cách nào thì cũng có những rắc rối không lường trước được ; đó là rủi ro, và chúng rất khác nhau.
Mua bán thì bao giờ cũng có hai người, nếu chỉ đưa ra các biện pháp để bảo vệ một người thì việc mua bán
trở nên tốn kém vì người kia cũng phải tìm cách chống đỡ. Để giảm bớt chi phí đó, thị trường có tổ chức sẽ
bảo đảm rằng các sự giao dịch đã được đồng ý thì cũng sẽ được thực hiện. Làm được như thế thì khi hai bên
mua bán đã đồng ý về một vụ việc rồi thì cả hai đều biết chắc việc ấy sẽ được thực hiện.
Đó là những nguyên tắc chung mà các thị trường có tổ chức áp dụng. Thực hiện chúng cách nào thì mỗi thị
trường sẽ làm khác nhau.
Chứng khoán có thu nhập cố định và thu nhập biến đổi
22/04/2009 16:02:08
Chứng khoán có thu nhập cố định là loại chứng khoán có quyền yêu cầu thu nhập cố định, không phụ thuộc
vào kết quả hoạt động của nhà phát hành. Cổ phiếu thường đại điện cho loại chứng khoán có thu nhập biến
đổi. Thu nhập do việc sở hữu cổ phiếu mang lại gọi là cổ tức hay lợi tức cổ phần, biến động theo kết quả kinh
doanh của công ty. Hình thức hỗn hợp của chứng khoán vừa mang tính chất của chứng khoán có thu nhập cố
định, vừa mang tính chất của chứng khoán có thu nhập biến đổi. Chúng ta cùng tìm hiểu về các loại chứng
khoán này.
Chứng khoán có thu nhập cố định
Chứng khoán có thu nhập cố định là loại chứng khoán có quyền yêu cầu thu nhập cố định, không phụ thuộc
vào kết quả hoạt động của nhà phát hành. Nó có thể là chứng khoán vô danh hoặc chứng khoán ghi danh,
gồm trái phiếu, tín phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi. Thông thường, việc phát hành chứng khoán có thu nhập cố
định phải kèm theo những quy định pháp lý cụ thể nhằm bảo vệ quyền lợi của NĐT. Khi phân tích chứng
khoán có thu nhập cố định để quyết định đầu tư, người ta thường xét trên hai khía cạnh, đó là khả năng sinh
lợi và thời hạn thanh toán.
Nhờ việc phát hành chứng khoán có thu nhập cố định mà tổ chức phát hành tạo được nguồn vốn ngoại lai
ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Với loại chứng khoán này, do rủi ro thấp hơn so với chứng khoán có thu nhập
biến đổi, nên sự thay đổi về giá là thấp hơn, tỷ lệ lợi tức quyết định chủ yếu tới khả năng sinh lời của chứng

khoán. Bị ảnh hưởng bởi rủi ro lãi suất, cả người mua và người bán đều quan tâm tới tỷ lệ lợi tức vào từng
thời điểm.
Đối với chứng khoán có thu nhập cố định, lợi tức thường được trả theo quý, theo kỳ hạn nửa năm hoặc một
năm. Nếu trong khoảng thời gian trả lợi tức có sự thay đổi quyền sở hữu đối với chứng khoán thì phần lợi tức
sẽ được thanh toán cho người thụ hưởng tùy thuộc vào thời điểm mua bán và thời điểm trả lợi tức theo quy
định của pháp luật.
Kỳ hạn của loại chứng khoán này rất khác nhau. Nói chung, tín phiếu có kỳ hạn ngắn (nhỏ hơn hoặc bằng 1
năm), trái phiếu là trung hạn và dài hạn, cổ phiếu ưu đãi là vô thời hạn. Kỳ hạn có thể bị thay đổi do hoạt
động chuộc lại chứng khoán của nhà phát hành. Theo đối tượng phát hành thì chứng khoán có thu nhập cố
định gồm những loại chủ yếu sau: trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu công ty,
trái phiếu ngân hàng, tín phiếu kho bạc…

Chứng khoán có thu nhập biến đổi
Cổ phiếu thường đại điện cho loại chứng khoán có thu nhập biến đổi. Thu nhập do việc sở hữu cổ phiếu
mang lại gọi là cổ tức hay lợi tức cổ phần, biến động theo kết quả kinh doanh của công ty. Hình thức khác
của loại chứng khoán có thu nhập biến đổi là phiếu tham gia hay chứng chỉ đầu tư. Loại này khác với cổ
phiếu thường ở chỗ: nó không được quyền tham gia giám sát hoạt động của công ty. Khi phát hành chứng chỉ
quỹ đầu tư, công ty có thể huy động được vốn vô thời hạn, không chịu rủi ro về chi trả lợi tức cố định như cổ
phiếu ưu đãi hay trái phiếu, không bị pha loãng quyền kiểm soát của các cổ đông. Chứng chỉ quỹ đầu tư cũng
là loại chứng khoán có thu nhập biến đổi theo kết quả đầu tư của quỹ.

Hình thức hỗn hợp của chứng khoán
Hình thức hỗn hợp của chứng khoán vừa mang tính chất của chứng khoán có thu nhập cố định, vừa mang
tính chất của chứng khoán có thu nhập biến đổi. Việc phát hành loại chứng khoán này nhằm để thích ứng với
nhu cầu đặc biệt của thị trường vốn. Chứng khoán hỗn hợp có những loại chủ yếu sau:
- Trái phiếu công ty có khả năng chuyển đổi: loại trái phiếu này cũng có một mức lãi suất cố định, ngoài ra
nó còn đảm bảo cho người sở hữu quyền chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu trong một thời hạn với những
điều kiện đã xác định. Giá trái phiếu có khả năng chuyển đổi biến động cùng với giá cổ phiếu. Giá trị của
quyền chuyển đổi không chỉ phụ thuộc vào quyền chuyển đổi, mà còn phụ thuộc vào chất lượng cổ phiếu của
công ty.

- Trái phiếu có quyền mua cổ phiếu: loại trái phiếu này cũng giống như trái phiếu nói chung, nhưng ngoài
khoản lợi tức cố định, NĐT sở hữu trái phiếu này còn có quyền được mua một số lượng cổ phiếu nhất định
của công ty đang phát hành với một mức giá và thời hạn ưu đãi như đối với các cổ đông thực thụ.
- Trái phiếu có thu nhập bổ sung: loại trái phiếu này được đảm bảo một khoản lợi tức cố định, đồng thời
người sở hữu trái phiếu có thể nhận được một khoản thu nhập bổ sung theo sự dao động tăng của cổ tức mà
các cổ đông được hưởng.
Chứng khoán có thể chuyển đổi: là những chứng khoán cho phép người nắm giữ nó, tùy theo lựa chọn và
trong những điều kiện nhất định có thể đổi nó thành một chứng khoán khác.
Những loại chứng khoán có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường phổ biến là: Cổ phiếu ưu đãi; Trái phiếu.
Mục đích của việc phát hành và đầu tư vào chứng khoán chuyển đổi:
Phát hành chứng khoán có thể chuyển đổi là nhằm huy động thêm vốn vào những thời điểm chưa thích hợp
cho việc phát hành cổ phiếu thường. Việc phát hành chứng khoán có thể chuyển đổi cũng có thể nhằm mục
đích tăng thêm tính hấp dẫn cho đợt phát hành, nhất là khi thị trường trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi đang
xuống giá.
Lợi ích của trái phiếu chuyển đổi:
- Đối với bên phát hành: do việc người đầu tư sẽ được hưởng quyền chuyển đổi trái phiếu này ra cổ phiếu
thường khi đến hạn, nên:
Nếu là trái phiếu: bên phát hành sẽ bán trái phiếu ra với lãi suất thấp.
Nếu là cổ phiếu ưu đãi: bên phát hành sẽ chào bán với giá cao.
Khi các chứng khoán được chuyển đổi, nhà phát hành còn có lợi vì loại bỏ được các khoản cố định phải trả,
đồng thời tăng thêm số lượng cổ đông của công ty, một chỉ báo có lợi cho danh tiếng của công ty.
- Đối với người đầu tư:
Chứng khoán có thể chuyển đổi có sức hấp dẫn ở chỗ chúng kết hợp được tính an toàn của trái phiếu (thu
nhập cố định) với tính có thể đầu cơ của cổ phiếu thường.
Chứng khoán có thể chuyển đổi cho phép nhà đầu tư có thể được bảo hiểm trước tình trạng lạm phát.
Tuy nhiên, những lợi ích của việc thực hiện chuyển đổi tùy thuộc nhiều vào giá chuyển đổi, tỷ lệ chuyển đổi,
và tương quan giá giữa công cụ có thể chuyển đổi với những công cụ mà chúng có thể chuyển đổi thành. Đó
là những yếu tố thường không nằm trong tầm kiểm soát của người đầu tư.
Ví dụ 1: một trái phiếu có mệnh giá là 1.000.000 đồng; nếu cứ 50.000 đồng được đổi lấy một cổ phần của cổ
phiếu thường, thì giá chuyển đổi là 50.000 đồng; hệ số chuyển đổi là 1.000.000 đồng: 50.000 đồng = 20 (cổ

phần).
Ví dụ 2: Giả sử trái phiếu trên đang có giá là 1.045.000 đồng; được chuyển thành 100 cổ phần của một cổ
phiếu thường. Giá tương đương chuyển đổi là 1.045.000 đồng:100 = 10.450 đồng. Điều đó có nghĩa là giá trị
trường của cổ phiếu ít nhất phải bằng 10.045 đồng thì việc nắm giữ trái phiếu và chuyển đổi nó thành cổ
phiếu mới được coi là tương đương về mặt giá trị. Nếu giá thị trường của cổ phiếu cao hơn giá tương đương
chuyển đổi thì việc chuyển đổi sẽ đem lại một phần lợi nhuận.
Trên thực tế rất có thể giá cổ phiếu không lên tới mức mà người nắm giữ trái phiếu có thể chuyển đổi trái
phiếu để thu lợi nhuận
Chứng khoán có thể chuyển đổi: là những chứng khoán cho phép người nắm giữ nó, tùy theo lựa chọn và
trong những điều kiện nhất định có thể đổi nó thành một chứng khoán khác.
Những loại chứng khoán có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường phổ biến là: Cổ phiếu ưu đãi; Trái phiếu.
Mục đích của việc phát hành và đầu tư vào chứng khoán chuyển đổi:
Phát hành chứng khoán có thể chuyển đổi là nhằm huy động thêm vốn vào những thời điểm chưa thích hợp
cho việc phát hành cổ phiếu thường. Việc phát hành chứng khoán có thể chuyển đổi cũng có thể nhằm mục
đích tăng thêm tính hấp dẫn cho đợt phát hành, nhất là khi thị trường trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi đang
xuống giá.
Lợi ích của trái phiếu chuyển đổi:
- Đối với bên phát hành: do việc người đầu tư sẽ được hưởng quyền chuyển đổi trái phiếu này ra cổ phiếu
thường khi đến hạn, nên:
Nếu là trái phiếu: bên phát hành sẽ bán trái phiếu ra với lãi suất thấp.
Nếu là cổ phiếu ưu đãi : bên phát hành sẽ chào bán với giá cao.
Khi các chứng khoán được chuyển đổi, nhà phát hành còn có lợi vì loại bỏ được các khoản cố định phải trả,
đồng thời tăng thêm số lượng cổ đông của công ty, một chỉ báo có lợi cho danh tiếng của công ty.
- Đối với người đầu tư:
Chứng khoán có thể chuyển đổi có sức hấp dẫn ở chỗ chúng kết hợp được tính an toàn của trái phiếu (thu
nhập cố định) với tính có thể đầu cơ của cổ phiếu thường.
Chứng khoán có thể chuyển đổi cho phép nhà đầu tư có thể được bảo hiểm trước tình trạng lạm phát.
Tuy nhiên, những lợi ích của việc thực hiện chuyển đổi tùy thuộc nhiều vào giá chuyển đổi, tỷ lệ chuyển đổi,
và tương quan giá giữa công cụ có thể chuyển đổi với những công cụ mà chúng có thể chuyển đổi thành. Đó
là những yếu tố thường không nằm trong tầm kiểm soát của người đầu tư.

Ví dụ 1: một trái phiếu có mệnh giá là 1.000.000 đồng; nếu cứ 50.000 đồng được đổi lấy một cổ phần của cổ
phiếu thường, thì giá chuyển đổi là 50.000 đồng; hệ số chuyển đổi là 1.000.000 đồng: 50.000 đồng = 20 (cổ
phần).
Ví dụ 2: Giả sử trái phiếu trên đang có giá là 1.045.000 đồng; được chuyển thành 100 cổ phần của một cổ
phiếu thường. Giá tương đương chuyển đổi là 1.045.000 đồng:100 = 10.450 đồng. Điều đó có nghĩa là giá trị
trường của cổ phiếu ít nhất phải bằng 10.045 đồng thì việc nắm giữ trái phiếu và chuyển đổi nó thành cổ
phiếu mới được coi là tương đương về mặt giá trị. Nếu giá thị trường của cổ phiếu cao hơn giá tương đương
chuyển đổi thì việc chuyển đổi sẽ đem lại một phần lợi nhuận.
Trên thực tế rất có thể giá cổ phiếu không lên tới mức mà người nắm giữ trái phiếu có thể chuyển đổi trái
phiếu để thu lợi nhuận.
Tìm hiểu về cổ phiếu
1.Cổ phiếu là gì?
Cổ phiếu là giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào công ty phát hành. Cổ phiếu là chứng chỉ do
công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty
đó.
Thông thường hiện nay các công ty cổ phần thường phát hành 2 dạng cổ phiếu: Cổ phiếu thường và cổ phiếu
ưu đãi. Sự khác biệt của 2 loại cổ phiếu cơ bản này như sau:
- Các cổ đông sở hữu cổ phiếu thông thường có quyền hạn và trách nhiệm đối với công ty như: Được chia cổ
tức theo kết quả kinh doanh; Được quyền bầu cử, ứng cử vào bộ máy quản trị và kiểm soát công ty; Chịu
trách nhiệm về sự thua lỗ hoặc phá sản tương ứng với phần vốn góp của mình.
- Các cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi
Tìm hiểu thêm
Tổng quan về thị trường chứng khoán Phương pháp tính chỉ số giá cổ phiếu Những mánh khóe môi giới chứng khoán 7 "sai lầm chết người" trong
đầu tư chứng khoán Sự ảnh hưởng của lãi suất đến thị trường chứng khoán
cũng là hình thức đầu tư vốn cổ phần như cổ phiếu thông thường nhưng quyền hạn và trách nhiệm hạn chế
như: lợi tức cố định; không có quyền bầu cử, ứng cử
*Đặc điểm của cổ phiếu
- Tính thanh khoản cao
Cổ phiếu có khả năng chuyển hóa thành tiền mặt dễ dàng. Tuy nhiên tính thanh khoản của cổ phiếu phụ thuộc
vào các yếu tố sau:

Thứ nhất, kết quả kinh doanh của tổ chức phát hành (công ty có cổ phiếu niêm yết). Nếu tổ chức phát hành
hoạt động kinh doanh có hiệu quả, trả cổ tức cao, cổ phiếu của công ty sẽ thu hút nhà đầu tư và cổ phiếu thực
sự dễ mua bán trên thị trường. Ngược lại nếu công ty làm ăn kém hiệu quả không trả cổ tức hoặc cổ tức thấp,
cổ phiếu của công ty sẽ giảm giá và khó bán.
Thứ hai là mối quan hệ cung cầu trên thị trường chứng khoán: Thị trường cổ phiếu cũng như các loại thị
trường khác đều chịu sự chi phối của qui luật cung cầu. Giá cổ phiếu trên thị trường không chỉ phụ thuộc vào
chất lượng công ty mà còn phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu của nhà đầu tư. Tuy một loại cổ phiếu rất tốt nhưng
thị trường đang bão hòa nguồn cung (nhiều hàng bán) thì cổ phiếu đó cũng khó tăng giá. Ngược lại khi thị
trường khan hiếm hàng hóa thì ngay cả những cổ phiếu chất lượng kém hơn cũng có thể bán dễ dàng.
- Có tính lưu thông
Tính lưu thông khiến cổ phiếu có giá trị như một loại tài sản thực sư, nếu như tính thanh khoản giúp cho chủ
sở hữu cổ phiếu chuyển cổ phiếu thành tiền mặt khi cần thiết thì tính lưu thông giúp chủ sở hữu cổ phiếu thực
hiện được nhiều hoạt động như thừa kế tặng cho để thục hiện nghĩa vụ tài sản của mình.
- Tính tư bản giả
Cổ phiếu có tính tư bản giả tức là cổ phiếu có giá trị như tiền. Tuy nhiên cổ phiếu không phải là tiền và nó chỉ
có giá trị khi được đảm bảo bằng tiền. Mệnh giá của cổ phiếu không phản ánh đúng giá trị của cổ phiếu.
- Tính rủi ro cao
Khi đã phát hành cổ phiếu không còn đem lại rủi ro cho tổ chức phát hành mà rủi ro lúc này thuộc về chủ sở
hữu cổ phiếu. Nguyên nhân là do giá trị của cổ phiếu do các nguyên nhân khách quan quyết định: kết quả
kinh doanh của tổ chức phát hành cổ phiếu, tình hình chính trị,kinh tế xã hội của quốc gia và toàn thế giới,
hơn nữa còn bị ảnh hưởng bởi tâm lý của số đông nhà đầu tư khi nắm bắt các thông tin không chính xác.
2.Công ty cổ phần là gì?
Đó là một dạng pháp nhân có trách nhiệm hữu hạn, được thành lập và tồn tại độc lập đối với những chủ thể
sở hữu nó. Vốn của công ty được chia nhỏ thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần và được phát hành
huy động vốn tham gia của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.
Các nhà đầu tư trở thành những cổ đông chính thức của công ty khi thực hiện mua các cổ phần do công ty
phát hành. Cổ đông được quyền tham gia quản lý, kiểm soát, điều hành công ty thông qua việc bầu cử và ứng
cử vào các vị trí trong Ban quản lý, Ban kiểm soát và Ban điều hành. Ngoài ra, cổ đông còn được quyền
hưởng các khoản lợi nhuận do công ty tạo ra cũng như chịu lỗ tương ứng với mức độ góp vốn.
Ưu điểm của loại hình công ty cổ phần là Nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn tương ứng với tỷ lệ góp

vốn trong công ty; Quy mô hoạt động lớn và khả năng mở rộng kinh doanh dễ dàng từ việc huy động vốn cổ
phần; Nhà đầu tư có khả năng điều chuyển vốn đầu tư từ nơi này sang nơi khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực
khác dễ dàng thông qua hình thức chuyển nhượng, mua bán cổ phần; Công tác quản lý hiệu quả cao do tính
độc lập giữa quản lý và sở hữu.
Bên cạnh những ưu điểm, loại hình công ty này cũng có những nhược điểm cơ bản, cụ thể là: Mức thuế tương
đối cao vì ngoài thuế, công ty phải thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, các cổ đông còn phải chịu
thuế thu nhập bổ sung từ nguồn cổ tức và lãi cổ phần theo qui định của nhà nước; Chi phí thành lập công ty
khá tốn kém; Khả năng bảo mật kinh doanh và tài chánh bị hạn chế do phải công khai và báo cáo với các cổ
đông của công ty; Khả năng thay đổi phạm vi kinh doanh kém linh hoạt do phải tuân thủ theo những qui định
trong Bản điều lệ của công ty.
Tuy nhiên, với môi trường kinh doanh hiện nay trên thế giới cũng như tại Việt Nam, những nhược điểm trên
hoàn toàn có khả năng khắc phục, hạn chế tối đa và đồng thời phát huy được những ưu điểm của loại hình
này.
3.Tại sao công ty lại phát hành cổ phiếu?
Công ty huy động vốn khi thành lập để mở rộng kinh doanh bằng hình thức phát hành cổ phiếu thì nguồn vốn
huy động đó không cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả
năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ giảm rất nhiều. Trong khi sử dụng các phương thức khác như phát
hành trái phiếu công ty, vay nợ từ các tổ chức tín dụng thì hoàn toàn ngược lại.
Tuy nhiên, mỗi phương thức huy động đều có những ưu nhược điểm riêng, nhà quản lý công ty phải cân
nhắc, lựa chọn tùy từng thời điểm và dựa trên những đặc thù cũng như chiến lược kinh doanh của công ty để
quyết định phương thức áp dụng thích hợp.
4. Nhà đầu tư trông đợi gì khi mua cổ phiếu?
Theo định nghĩa cơ bản, giấy chứng nhận cổ phần là một dạng chứng thư có giá được xác định thông qua
việc chuyển dịch, mua bán chúng trên thị trường chứng khoán giữa các chủ thể đầu tư và được pháp luật bảo
vệ.
Tìm hiểu thêm
Tổng quan về thị trường chứng khoán Phương pháp tính chỉ số giá cổ phiếu Những mánh khóe môi giới chứng khoán 7 "sai lầm chết người" trong
đầu tư chứng khoán Sự ảnh hưởng của lãi suất đến thị trường chứng khoán
Mặt khác, người mua cổ phiếu nghĩ rằng đồng vốn họ đầu tư được các nhà quản lý công ty sử dụng có hiệu
quả, tạo ra nhiều lợi nhuận hoặc đánh giá hoạt động cũng như tiềm năng phát triển, sinh lợi của công ty dự

định đầu tư là cao. Đương nhiên, họ sẽ được hưởng một phần từ những thành quả đó thông qua việc thanh
toán cổ tức cho các cổ đông, đồng thời giá trị cổ phần sở hữu cũng sẽ gia tăng trên cơ sở thực tại và triển
vọng phát triển của công ty mình đã chọn.
Thông thường, khả năng sinh lợi, thu hồi vốn đầu tư cổ phiếu tỷ lệ thuận với giá cả giao dịch cổ phiếu trên thị
trường.
Tìm hiểu thêm về lãi trên cổ phiếu
Thuật ngữ "lãi trên cổ phiếu" (EPS) đã khá quen thuộc, nhưng trong bài viết này, chúng tôi xin đưa ra thêm
một số điểm cần lưu ý với NĐT trong quá trình xem xét chỉ số này, dưới góc nhìn của người làm BCTC và
các hướng dẫn theo quy định hiện hành của Việt Nam trong việc ghi nhận chỉ số EPS căn cứ trên Chuẩn mực
Kế toán Việt Nam số 30: "Lãi trên cổ phiếu".
Các lưu ý trong cách tính lãi cơ bản trên cổ phiếu
Lãi cơ bản trên cổ phiếu, như chúng ta đã biết, được tính bằng cách chia lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ
đông sở hữu cổ phiếu phổ thông của công ty mẹ cho số lượng bình quân gia quyền của số cổ phiếu phổ thông
đang lưu hành trong kỳ.
Trong trường hợp DN mua lại các cổ phiếu ưu đãi từ người sở hữu, phần chênh lệch giữa giá trị hợp lý của
khoản thanh toán cho cổ đông sở hữu và giá trị ghi sổ của lượng cổ phiếu ưu đãi này sẽ được xử lý như sau:
- Khoản chênh lệch lớn hơn giữa giá trị ghi sổ của cổ phiếu ưu đãi với giá trị hợp lý của các khoản thanh toán
được cộng vào lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông của công ty mẹ. Theo đó,
giá trị của lãi cơ bản trên cổ phiếu cũng sẽ tăng theo tùy vào giá trị của khoản chênh lệch này;
- Khoản chênh lệch lớn hơn giữa giá trị hợp lý của khoản thanh toán cho người sở hữu với giá trị ghi sổ của
cổ phiếu ưu đãi là lợi ích của người sở hữu cổ phiếu ưu đãi và là khoản giảm trừ vào lợi nhuận chưa phân phối

×