Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

đề tài công nghệ nano

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 27 trang )

TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
BÀI TIỂU LUẬN
Đề Tài:
CÔNG NGHỆ NANO VÀ
ỨNG DỤNG TRONG QUẢN LÝ
TP. Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2013
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 2
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
Lời mở đầu
Công nghệ tạo nên sự phát triển của xã hội đã trải qua quá trình tiến hóa từ
khi hình thành xã hội loài người. Hàng triệu năm trước công nguyên, cuộc sống của
con người chủ yếu dựa trên công nghệ thô sơ là hái lượm và săn bắn. Từ khoảng
10.000 năm TCN đến thế kỷ thứ 18, loài người sống và làm việc dựa trên nền kinh
tế nông nghiệp. Từ năm đầu thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20 là giai đoạn phát triển của
nền công nghiệp thế giới. Giai đoạn từ những năm 1960 đến nay (2010) là giai đoạn
phát triển của công nghệ thông tin. Còn hiện nay chúng ta đang bước sang giai
đoạn phát triển của công nghệ nano và thực tại ảo đang mang lại những sự thay đổi
rất cơ bản trong xã hội loài người.
Chúng ta đã bước vào thế kỷ 21 và sự biến động của một thời đại mới đang
viết lại các quy luật của sản xuất và kinh doanh. Sự phát triển công nghệ tạo nên sự
thay đổi thế giới một cách mạnh mẽ với tốc độ nhanh hơn bao giờ hết.
Kinh tế thị trường hiện nay thực chất là một cuộc cạnh tranh làm sao tạo nên
lợi nhuận lớn một cách nhanh chóng cùng với việc tối ưu hóa việc quản lý. Vai trò
của Hệ thống thông tin quản lý (IMS) trong nền kinh tế quốc dân và sự phát triển của
xã hội là cực kỳ to lớn. IMS sẽ còn mang lại nhiều tiện ích trong muôn màu muôn vẻ
của cuộc sống văn minh hiện đại trong tương lai.
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 3
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý


PHẦN 1: GIỚI THIỆU VỀ CÔNG NGHỆ NANO
1. Xuất phát điểm của công nghệ NANO
Năm 1959 giáo sư Richard Feynman (Viện kỹ thuật Massatchusets-MIT) đề
ra một thuyết táo bạo: "Thay vì phân chia vật chất, tại sao chúng ta không đi từ cái
vô cùng nhỏ?". Mười năm sau, sinh viên Eric Drexler nghĩ ra thuật ngữ
Nanotechnologie. Năm 1985, 2 nhà nghiên cứu Gerd Bining (Đức) và Heinrich
Rohrer (Thuỵ Sỹ) tạo ra kính hiển vi, có khả năng nhìn những vật chỉ nhỏ bằng 1/25
kích thước phân tử. Một năm sau, họ đoạt giải Nobel. Năm 1990, một nhà nghiên
cứu của hãng IBM Don Eigler mới đạt được những thành công từ kỹ thuật NANO, là
vẽ lại được biểu tượng của nhiều công ty bằng những dạng vật chất siêu nhỏ, từ kỹ
thuật siêu nhỏ. Từ đó NANO xem như được công chúng biết đến.
Công nghệ NANO thuộc vào lĩnh vực khoa học và công nghệ ở quy mô
NANO của các nguyên tử và phân tử. Những tính chất của vật chất trong lĩnh vực
này có thể được quan sát và khảo sát ở quy mô vi mô hoặc vĩ mô và được ứng
dụng để phát triển các nguyên liệu, dụng cụ với những chức năng và tính năng mới.
Nhiều lĩnh vực của công nghệ NANO vẫn còn trong giai đoạn phát triển ban
đầu, nhưng một số ứng dụng đã được thương mại hoá một cách thành công, nhất là
trong lĩnh vực của vật liệu polyme mới.
2. NANO là gì?
Nano có nghĩa là nanomét (ký hiệu: nm) bằng một phần tỷ mét
(1/1.000.000.000 m), một đơn vị đo lường để đo kích thước những vật cực nhỏ. Cơ
cấu nhỏ nhất của vật chất là nguyên tử có kích thước: 0,1 nm, phân tử là tập hợp
của nhiều nguyên tử: 1 nm, vi khuẩn: 50 nm, hồng huyết cầu: 10.000 nm, tinh trùng:
25.000 nm, sợi tóc: 100.000 nm, đầu cây kim: 1 triệu nm và chiều cao con người: 2
tỷ nm.
Vì sự phát triển tiến bộ vượt bậc, ngành khoa học đã nghiên cứu thành công
trong công nghệ NaNo, chủ yếu dùng trong lĩnh vực vi điên tử, và một số ngành
công nghiệp và công nghệ cao khác. Để ra được một công nghệ siêu siêu nhỏ này
dù dạng dung dịch lỏng hay dạng bột, cũng phải qua rất nhiều công đoạn và quy
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 4

Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
trình từ trên xuống Topdow (gọt nhỏ các phân tử Micro) hay Bottom-up (ghép các
nguyên tử hoặc phân tử) Đây chỉ là một số công nghệ cơ bản và ứng dụng hoá
học rất ngắn trong đề tài về khoa học và công nghệ Hoá Học NaNo.
3. Tổng quan về vật liệu công nghệ nano
Khoa học nano và công nghệ nano là về cơ bản liên quan đến vật liệu chức
năng mới hoặc được cải tiến có thể mang lại lợi ích cho con người. Các tài liệu này
được gọi là vật liệu công nghệ nano hay vật liệu nano. Có nhiều phương pháp khác
nhau để xây dựng các vật liệu nano. Những cách tiếp cận như sau:
Giảm vật liệu lớn để cấu trúc nhỏ hoặc kỹ thuật từ trên xuống. Một cách khác
để làm điều này là kỹ thuật từ dưới lên . Này được thực hiện bằng cách cho phép
các nguyên tử để tự sắp xếp hoặc tự lắp ráp để đến với cấu trúc chức năng ra khỏi
thuộc tính tự nhiên của họ.
Một phương pháp khác là sử dụng công cụ để giúp các phân tử di chuyển cá
nhân. Quá trình này có điều chỉnh xây dựng lớn hơn nhưng mất thời gian và không
áp dụng cho sử dụng công nghiệp.
Kích thước khác nhau của vật liệu nano
Vật liệu nano là những người có thành phần cấu trúc đó có ít nhất một kích
thước nhỏ hơn 100 nano mét. Vật liệu nano có kích thước khác nhau, kích thước
một hoặc một, hai chiều hoặc hai chiều, và ba vật liệu nano kích thước. Ví dụ về các
vật liệu nano với kích thước khác nhau như sau:
Một Kích thước
• Chất phủ bề mặt
• Bề mặt thiết kế
• Màng mỏng
Kích thước hai
• Các ống nano carbon hoặc CNT
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 5
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
• Ống nano vô cơ

• Biopolymers
• Dây nano
Kích thước ba
• Chấm lượng tử
• Hạt nano
• Fullerene hay carbon 60
• Dendrimer
• Tủa
• Chất keo
Các ứng dụng của vật liệu công nghệ nano
Trong khi một số vật liệu nano vẫn đang trên quá trình đang được phát triển
và nghiên cứu tại các phòng thí nghiệm khác nhau trên thế giới, một số trong những
vật liệu nano đã được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau trong xã hội. Bạn có
thể ngạc nhiên khi thấy một số sản phẩm của nghiên cứu rộng rãi là ngay trong nhà
rất của bạn. Các ứng dụng của vật liệu nano được chia thành ba loại: các ứng dụng
hiện nay bao gồm mỹ phẩm, công cụ khó khăn, vật liệu tổng hợp, đất sét, và
sơn. Ứng dụng ngắn hạn bao gồm các tế bào nhiên liệu, pin, chất xúc tác, sơn, chất
phụ gia nhiên liệu, và hiển thị, trong số những người khác. Ứng dụng dài hạn của
vật liệu nano bao gồm dầu nhờn, vật liệu từ tính, cấy ghép y tế, gốm sứ machinable,
lọc nước, vật liệu tổng hợp ống nano, và phù hợp với cuộc chiến quân sự.
Công nghệ nano đề cập đến tất cả các nghiên cứu và nghiên cứu được tiến
hành trong phòng thí nghiệm khoa học trước nhằm mục đích để sản xuất vật liệu
công nghệ nano để nâng cao điều kiện sống của con người. Công nghệ nano còn
được gọi là khoa học về những việc nhỏ hoặc sự phát triển và kỹ thuật của các hệ
thống chức năng ở quy mô phân tử.
• Ống nano carbon
Composite sợi carbon trước đây rất nổi tiếng vì nhẹ, bền, ít bị tác dụng hóa
học nếu thay sợi carbon bằng ống nanocarbon chắc chắn sẽ làm vật liệu nhẹ hơn
nhiều, được sử dụng trên các phương tiện cần giảm trọng lượng như máy bay…
Hiện nay, sợi carbon và các bó ống carbon đa lớp được dùng gia cường cho

polymer để điều khiển và nâng cao tính dẫn, dùng làm bao bì chống tĩnh điện hay
làm vật liệu cấy vào cơ thể vì carbon dễ tương hợp với xương, mô…, làm các màng
lọc cũng như linh kiện quang phi tuyến.
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 6
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
Một hướng mới hiện nay là dùng ống nano carbon để gia cường cho polymer
nhưng không phải để tạo ra cấu trúc nanocomposite mà để thay đổi tính chất quang
điện của polymer. Ví dụ như PPV (m-phenylenevinylene-co-dioctoxy-p-
phenylenevinylene) sau khi được gia cường với ống nano carbon, độ dẫn điện tăng
lên 8 lần, bền cơ lý hơn PMMA/ống carbon nano được dùng làm kính hiển vi quang
học dưới điện trường một chiều áp vào là 0.3kV/mm.
Ống nano carbon
• Hạt nano
Đất sét chứa các hạt nano là loại vật liệu xây dựng lâu đời. Hiện nay, polymer
gia cường bằng đất sét (nanoclay) được ứng dụng khá nhiều như dùng trong bộ
phận hãm xe hơi. Ngoài ra có thể sử dụng hạt carbon đen có kích thước 10 đến 100
nm để gia cường cho vỏ xe hơi.
Polymer/đất sét có thể làm vật liệu chống cháy, ví dụ như một số loại
nanocomposite của Nylon 6/silicate, PS/layered silicate…hay vật liệu dẫn điện như
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 7
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
nanocomposite PEO/Li-MMT (MMT = Montmorillonite) dùng trong pin, vật liệu phân
hủy sinh học như PCL/MMT hay PLA/MMT.
Ngoài ra, khi các polymer như ABS, PS, PVA…được gia cường hạt đất sét
khác nhau sẽ cải thiện đáng kể tính chất cơ lý của polymer và có những ứng dụng
khác nhau như ABS/MMT làm khung xe hơi hay khung máy bay, PMMA/MMT làm
kính chắn gió, PVA/MMT làm bao bì…
Các hạt nano được sử dụng trong sơn có thể cải thiện đáng kể tính chất như
làm cho lớp sơn mỏng hơn, nhẹ hơn, sử dụng trong máy bay nhằm giảm trọng
lượng máy bay.

Ngoài đất sét ra thì trong vật liệu nanocomposite polymer còn sử dụng các
hạt ở kích thước nanomet như hạt CuS, CdS, CdSe…Ví dụ như PVA với hàm lượng
hạt CuS (~20nm-12nm) là 15-20% thể tích cho độ dẫn điện cao nhất, trong khi nếu
các hạt CuS ở kích thước 10µm, muốn đạt được độ dẫn điện tương ứng thì hàm
lượng CuS phải là 40%. Nanocomposite polymer nano CdS, CdSe, ZnO,ZnS còn
được sử dụng như những vật liệu cảm quang trong phim, giấy ảnh, mực in, bột
photocopy, mực in màu.
Nhìn chung, vật liệu nanocomposite có tính chất tốt hơn so với composite
thông thường nên có nhiều ứng dụng đặc biệt và hiệu quả hơn. Đây sẽ là lọai vật
liệu mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới và hứa hẹn nhiều tiềm năng ứng dụng cao.
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 8
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
Hạt nano
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 9
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
4. Ưu điểm và Nhược điểm của Nano
Công nghệ nano có ứng dụng rất lớn trong cuộc sống và là một công nghệ triển
vọng ngay tại thời điểm hiện tại lẫn tương lai. Nhiều người nghĩ rằng sẽ mang lại
nhiều lợi ích cho tất cả những người sẽ được sử dụng nó, không có gì là hoàn hảo
và sẽ luôn có những ưu và khuyết điểm về tất cả mọi thứ:
• Ưu điểm:
Để liệt kê các ưu và nhược điểm của công nghệ nano, chúng ta đầu tiên chạy
qua những điều tốt đẹp công nghệ này mang lại:
• Công nghệ nano có thể thực sự cách mạng hóa rất nhiều sản phẩm điện tử,
thủ tục, và các ứng dụng. Các khu vực được hưởng lợi từ việc phát triển của công
nghệ nano khi nói đến sản phẩm điện tử bao gồm nano bóng bán dẫn, điốt nano,
màn hình OLED, màn hình plasma, máy tính lượng tử, và nhiều hơn nữa.
• Công nghệ nano cũng có thể có lợi cho ngành năng lượng. Sự phát triển của
năng lượng hơn sản xuất, năng lượng hấp thụ, và các sản phẩm lưu trữ năng lượng
hiệu quả trong các thiết bị nhỏ hơn và hiệu quả hơn là có thể với công nghệ

này. Các hạng mục như pin, pin nhiên liệu, và các tế bào năng lượng mặt trời có thể
được xây dựng nhỏ hơn nhưng có thể được thực hiện có hiệu quả hơn với công
nghệ này.
• Một ngành công nghiệp có thể được hưởng lợi từ công nghệ nano là lĩnh vực
sản xuất sẽ cần các vật liệu như ống nano, gel khí, hạt nano, và các mặt hàng
tương tự khác để sản xuất sản phẩm của mình với. Những vật liệu này thường
mạnh hơn, bền hơn và nhẹ hơn so với những người không được sản xuất với sự
trợ giúp của công nghệ nano.
• Trong thế giới y học, công nghệ nano cũng được xem là một lợi ích từ những
có thể giúp tạo ra những gì được gọi là thuốc thông minh . Những giúp đỡ chữa trị
người nhanh hơn và không có tác dụng phụ mà thuốc truyền thống khác có. Bạn
cũng sẽ thấy rằng việc nghiên cứu công nghệ nano trong y học bây giờ đang tập
trung vào các lĩnh vực như tái tạo mô, sửa chữa xương, khả năng miễn dịch và
thậm chí cả phương pháp chữa trị cho các bệnh như ung thư chẳng hạn, bệnh tiểu
đường, và cuộc sống khác đe dọa bệnh.
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 10
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
Ứng dụng nổi bật trong y học
• Nhược điểm:
Khi giải quyết những ưu điểm và nhược điểm của công nghệ nano, bạn cũng
sẽ cần phải chỉ ra những gì có thể được coi là mặt tiêu cực của công nghệ này:
• Bao gồm trong danh sách các nhược điểm của khoa học này và phát triển
của nó là khả năng mất việc làm trong nông nghiệp truyền thống và ngành công
nghiệp sản xuất.
• Bạn cũng sẽ thấy rằng sự phát triển của công nghệ nano cũng có thể mang
lại sự sụp đổ của thị trường nhất định do sự hạ thấp giá trị của dầu và kim cương do
khả năng phát triển các nguồn năng lượng thay thế có hiệu quả hơn và sẽ không
yêu cầu sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Điều này cũng có thể có nghĩa là kể từ khi
mọi người có thể phát triển sản phẩm ở mức độ phân tử, kim cương cũng sẽ mất đi
giá trị của nó vì nó có thể được sản xuất hàng loạt.

• Vũ khí hạt nhân có thể được tiếp cận hơn và thực hiện cho được mạnh mẽ
hơn và phá hoại. Đây cũng có thể trở nên dễ tiếp cận hơn với công nghệ nano.
• Từ những hạt rất nhỏ, vấn đề thực sự có thể phát sinh từ việc hít phải các hạt
phút, giống như các vấn đề một người bị từ hít phải những hạt amiăng phút.
• Hiện nay, công nghệ nano là rất tốn kém và phát triển nó có thể mất rất nhiều
tiền. Nó cũng là khá khó khăn để sản xuất, mà có lẽ là lý do tại sao các sản phẩm
được thực hiện với công nghệ nano là đắt tiền hơn.
Mối quan tâm chung với công nghệ nano
Công nghệ nano là một trong những khám phá khoa học nóng nhất của thời
đại hiện nay. Điều này là do công nghệ nano hiện rất nhiều lời hứa rằng tất cả các
phương pháp điều trị khác trước khi nó không thể cung cấp. Hơn nữa, công nghệ
nano cũng thấy ứng dụng trong các lĩnh vực khác ngoài các lĩnh vực nó đã được
biết. Kết quả là, các lĩnh vực ứng dụng của công nghệ nano cũng đa dạng như
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 11
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
những rủi ro có thể đi kèm với nó. Như vậy, vấn đề an toàn của công nghệ nano với
các công dân bình thường và các chuyên gia phải không được bỏ qua bởi vì nó là
một trong những cách để làm cho công nghệ này rất an toàn cho bất cứ ai sử dụng
chúng.
Sau đây là một số trong những mối quan tâm chung được thể hiện bởi những
người về việc sử dụng công nghệ nano:
• Công nghệ nano là một ứng dụng khoa học mới. Mặc dù điều này cũng có
thể có nghĩa là một lợi ích cho nhân loại, đó là vấn đề an toàn liên quan đến ứng
dụng của nó chủ yếu là do thực tế là nó là một cái gì đó mà chưa được kiểm tra đầy
đủ. Một trong những mối quan tâm an toàn với công nghệ nano trong lĩnh vực này
liên quan đến việc ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực y tế và sức khỏe. Một số lo
ngại rằng họ có thể gây ra tác dụng có hại thay vì tác dụng có lợi như mong muốn.
• Bởi vì công nghệ nano liên quan đến các thao tác của vật chất ở mức độ
nguyên tử và phân tử, người ta lo ngại rằng các thao tác như vậy có thể dẫn đến
việc sản xuất các vật liệu hoàn toàn sẽ làm thay đổi cách con người của cuộc

sống. Đây được xem là nguy hiểm đặc biệt là trong lĩnh vực ứng dụng y tế nơi các
hạt nano được sử dụng trong nhiều cách khác nhau như kem chống nắng và thuốc
tiêm . Vấn đề an toàn với công nghệ nano trong các khu vực này tăng cao bởi vì
thao tác như vậy của vấn đề có thể gây ra cho cơ thể phản ứng một cách tiêu cực
đến sự hiện diện của các sản phẩm công nghệ nano.
• Ngoài ra còn có lo ngại rằng môi trường có thể được đặt trong tình trạng nguy
hiểm mà các sản phẩm công nghệ nano có thể làm tăng mức độ ô nhiễm trong
nhiều lĩnh vực tại một thời điểm khi sự cần thiết phải bảo vệ môi trường được theo
đuổi mạnh mẽ ở khắp mọi nơi. Ví dụ, sản xuất động cơ tốt hơn cho ngành xe hơi và
cửa sổ cho xe ô tô có thể thúc đẩy các nhà sản xuất xe hơi và các đại lý địa phương
để bừa bãi bỏ các bộ phận mà có thể có thể gây ra cơn ác mộng môi trường với sự
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 12
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
vắng mặt của chương trình tốt hơn về xử lý chất thải. Một chú ý ở đây là công nghệ
nano là một doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ ở Mỹ, lên tới hàng tỷ đô la. Tuy nhiên,
bất chấp tất cả những thu nhập, chút suy nghĩ rất là tha cho vấn đề sức khỏe và môi
trường. Bởi vì các hạt nano là rất nhỏ, họ rất khó khăn để làm suy giảm và có thể dễ
dàng vượt qua trên từ người này sang người khác, trong quá trình trở thành đại lý
của bệnh.
• Một trong vô số các vấn đề an toàn với công nghệ nano là việc thiếu một cơ
quan giám sát tập trung sẽ xem nó là tất cả các nỗ lực trong lĩnh vực này được tôn
giáo theo dõi. Như một bằng chứng về điều này, có các tạp chí rất ít và nghiên cứu
về các vấn đề an toàn với công nghệ nano chắc chắn làm tăng lo ngại rằng người
có thể có trên này ứng dụng công nghệ và tiến bộ.
5. Ứng dụng của công nghệ Nano
- Khác với các chất độn thông thường, nếu sử dụng chất độn bentonit cỡ
NANO với lượng rất nhỏ thì có thể tăng tính ổn định nhiệt của polyamit thêm khoảng
500C. - Nếu chỉ bổ sung các chất độn NANO ở mức 2% trọng lượng của vật liệu
composit thì có thể giảm 50% độ thẩm thấu đối với oxy, CO2 và hơi nước.
- Cỡ hạt đặt biệt mịn của các chất độn bentonit cỡ NANO, cho phép tạo ra

các lớp vật liệu silicat vô cơ 3 chiều, trong chất nền hữu cơ với hàm lượng chất độn
chỉ ở mức vài phần trăm trọng lượng. Khi cháy, mạng khoáng chất vô cơ này góp
phần tạo thành các vách cứng, nhờ đó ngăn lửa lan rộng. Tính chất này được áp
dụng để sản xuất các vật liệu có tính năng chống cháy.
- Các loại bột màu đặc biệt với khả năng hấp thụ cao (ví dụ canxi cacbonat
tự nhiên, nghiền mịn với các biến đổi đặc biệt trong cấu trúc bề mặt) đã được phát
triển cho các loại sơn đặc biệt. ở đây người ta áp dụng phương pháp tạo hoạt tính
NANO trên bề mặt các hạt cỡ micro.
- Máy cảm biến NANO thay thế thiết bị bán dẫn, Bê tông NANO thay thế xi
măng - giá thành rẻ hơn và không thải ra quá nhiều CO2 trong quá trình sản xuất.
- Những loại bột màu đặc biệt này có tốc độ hấp thụ nhanh hơn và dung tích
lỏng lớn gấp 10 lần so với bột màu đồng nhất thông thường. Những tính chất này rất
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 13
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
có lợi đối với nhiều ứng dụng đòi hỏi tính hấp thụ chất lỏng cao, ví dụ các loại mực
in.
- Nhiều ứng dụng đã được tiến hành trong nhiều lĩnh vực ít ai ngờ và những ý
tưởng mới và lạ nhất đang hình thành ở khắp mọi công ty lớn trên thế giới. Chẳng
hạn, những phân tử polyme siêu nhỏ và siêu bền, được dùng để chế tạo ván trượt
tuyết, giúp trượt dễ hơn. Quần áo của các vận động viên hay nhà thám hiểm cũng
được dệt từ các loại sợi NANO siêu kín và siêu mỏng, chống chọi tốt với cái lạnh
khắc nghiệt của vùng cực hay đỉnh Everest. Một quả bóng tennis được chế tạo từ kỹ
thuật NANO sẽ có sức chịu đựng gấp đôi so với bóng hiện nay. Dầu hay kem dưỡng
da từ NANO sẽ giúp da chống lại tia cực tím một các hữu hiệu. Máy in Xerox vào
năm 2015 có kích thước chỉ bằng viên xúc xắc. Những tấm pin mặt trời hay trạm
điện mặt trời chỉ to bằng hòn tẩy. Một loạt công ty đã nhảy vào cuộc: Mitsubishi,
Motorola, Lucent, Hitachi, Nec, Sony, Microsoft, IBM. Riêng Mitsubishi đã đầu tư hơn
100 triệu Euro cho NANO đến năm 2007. Công ty này sẽ tạo ra những loại sợi
carbone nhỏ chắc hơn thép 100 lần và nhẹ hơn thép 6 lần. Hewlett - Packard cũng
không muốn chậm chân: nhà nghiên cứu Stanley Williams dang chỉ huy hệ thống

phòng thí nghiệm thử nghiệm nhiều loại chất liệu NANO. Theo tạp chí Forber, giáo
sư này là một trong những cao thủ về NANO của thế giới. Hiện nay, Williams đã
thành công trong việc nhét một bóng bán dẫn vào một phân tử. Một khoản ngân
sách, chỉ riêng năm 2003, đã có 3 tỷ Euro được chi ra cho những nhà nghiên cứu
NANO thượng thặng. Tạp chí Asiaweek nhận định rằng thị trường NANO chưa bùng
nổ sớm tại Châu á, nhưng Trung Quốc không muốn thua kém Nhật Bản và ấn Độ…
Mỹ là quốc gia rất quan tâm đến NANO. Tổng thống Bill Clinton khi còn
đương nhiệm đã thành lập Viện nghiên cứu kỹ thuật NANO quốc gia. Ông Bush năm
2003 đã chi 710 triệu đô la, so với năm 2002 chỉ 604 triệu đô la cho nghiên cứu
NANO. Người Mỹ hy vọng NANO sẽ có nhiều ứng dụng triệt để cho các ngành y tế,
giáo dục, năng lượng, giao thông và cả tư pháp. Hàng loạt thiết kế các máy NANO
bước đầu đã đạt được một số kết quả khả quan trong ngành y tế. Ngay cơ quan
NASA cũng đang nghĩ đến việc giảm bớt khối lượng hành lý cho phi công vũ trụ, vì
hiện nay mỗi người phải mang đến 150 kg. Nhà khoa học Mayya Meyyappan còn
cho rằng một "hành lang đi lại" giữa trái đất và sao hoả sẽ hình thành trước năm
2020, với trạm dừng là mặt trăng. Thời gian đi lại chỉ 5 giờ. Muốn vậy, phải cần đủ
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 14
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
loại vật chất NANO để xây các trạm và hành lang. Nhưng dù sao, với Mỹ quân sự
vẫn là mục tiêu ưu tiên. Vì vậy, Bộ quốc phòng Mỹ đã kết hợp với MIT thành lập
Viện nghiên cứu kỹ thuật NANO cho quân nhân. Nhiệm vụ của kỹ thuật NANO trong
viện này là tạo ra những loại vải đặc biệt, giúp những binh đoàn hoá học thoát khỏi
hơi độc của đối phương. Bản hợp đồng cho quần áo không thôi đã trị giá 50 triệu đô
la (đến năm 2013).
Một số hinh ảnh có sử dụng công nghệ Nano

Vảisợi Quân sự

Dược phẩm Linh kiện điện tử
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 15

Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý

Năng lượng Thực phẩm
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 16
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
PHẦN 2: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ NANO VÀO HỆ
THỐNG QUẢN LÝ
1. Các chíp máy tính trong hệ thống thông tin
Xu hướng vi tiểu hình hóa các chíp máy tính được thể hiện ở tiêu chuẩn quy
trình chế tạo độ dài chíp được xác định trong Lộ trình ITRS. Hiện nay, tiêu chuẩn
công nghệ 130 nm, dùng để sản xuất bộ xử lý Intel Xeon, xác định kích thước của
DRAM ( chip bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên ) bằng một nửa pitch ( khoảng cách giữa
hai dây kim loại kề nhau trong một ô bộ nhớ ). Điều này đòi hỏi công nghệ in litô,
công nghệ sản xuất và Đo lường học cỡ nano phải có những thay đổi để chế tạo
một linh kiện hoạt động phù hợp với dung sai đó. Thử so sánh, nếu chip 4004 Intel
năm 1971 sử dụng công nghệ có độ phân giải 10.000 nm, thì các con chíp của năm
2007 và 2013 sẽ đòi hỏi công nghệ có độ phân giải 65 nm và 32 nm tương ứng. Vì
vậy, có thể nói các công nghệ sử dụng hiện nay đang được phát triển hết sức mạnh
mẽ. Hơn nữa, không chỉ đơn giản là một DRAM có chiều dài nửa pitch ở cỡ nm, tất
cả các công nghệ sử dụng trong nghiên cứu, đo lường và sản xuất các con chip
trong nhiều trường hợp hoạt động ở mức nguyên tử nhỏ hơn cả cỡ nm. Các công
cụ ứng dụng công nghệ Nano hỗ trợ cho ngành công nghiệp công nghệ thông tin
(IT) rất đa dạng, bao gồm lập mô hình các linh kiện và vật liệu tiên tiến tới từng phân
tử trên máy tính, các kính hiển vi có thể cho thấy hình ảnh của từng nguyên tử, các
hệ thống đo lường có thể xác định rõ ràng vị trí của một độ hụt phân tử đơn trên một
miếng wafer có đường kính 30 cm, các quy trình phát triển các màng mỏng có thể
sản xuất ra các lớp vật liệu với độ chính xác ở cỡ nguyên tử và các phương pháp in
litô có thể “khắc” lên những đặc điểm ví dụ như ô DRAM, với độ chính xác dưới 10
nm.
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 17

Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
2. Lưu trữ thông tin
Công nghệ về bộ nhớ lưu giữ số liệu là một bộ phận rất quan trọng của IT. Bộ
nhớ lưu giữ số liệu có thể chia thành hai dạng: bộ nhớ dạng cứng ví dụ như DRAM
được một chíp xử lý sử dụng hoặc bộ nhớ flash dùng để lưu giữ hình ảnh ở camera
kỹ thuật số; và bộ nhớ đĩa ví dụ như những ổ cứng từ tính được sử dụng phổ biến ở
tất cả các máy tính. Về cơ bản, bộ nhớ dạng cứng sử dụng quy trình sản xuất và
công nghệ giống như của chíp máy tính, với cùng những quy tắc thiết kế và tầm
quan trọng của việc nén thêm nhiều dung lượng nhớ vào một diện tích giới hạn để
làm tăng tổng thể dung lượng nhớ trên linh kiện. Tuy vậy, sự phát triển của ổ đĩa
cứng đã rẽ theo một hướng hoàn toàn khác trong cuộc cách mạng thông tin này vì
nó dựa vào việc đọc và viết thông tin bằng từ tính trên một chiếc đĩa đang quay. Vì
vậy, những tiến bộ về mặt cơ và điện cơ là rất quan trọng. Tuy nhiên, ở đây một lần
nữa, kích cỡ độ dài lại giữ một vai trò rất quan trọng vì một ổ đĩa lý tưởng là một ổ
đĩa có kích cỡ cực nhỏ nhưng lại có khả năng lưu trữ cực lớn. Điều này đã được
phản ánh ở sự phát triển đột phá của ổ đĩa trong suốt 50 năm qua. ổ cứng từ tính
đầu tiên được IBM phát triển vào năm 1956, cần tới 50 đĩa có chiều dài 24 inch
( xấp xỉ 60 cm ) để lưu trữ 5 megabyte ( triệu byte ) dữ liệu. Năm 1999, IBM giới
thiệu ổ 73 gigabyte ( hàng ngàn triệu byte ) có thể lắp vừa vặn bên trong một chiếc
máy tính cá nhân. Đây là ổ đĩa có khả năng lưu trữ dữ liệu gấp 14.000 lần ổ đĩa năm
1956 nhưng có kích cỡ nhỏ chưa tới 1 phần nghìn kích cỡ của chiếc ổ đĩa đó. Mặc
dù công nghệ hiện thời để viết từng bit thông tin từ tính lên ổ đĩa đã nhỏ hơn 100
nm, nhưng những động lực nhỏ hóa các khía cạnh khác của ổ đĩa đòi hỏi chế tạo
các bộ phận với độ chính xác ngày càng cao vì vậy tầm quan trọng của vi tiểu hình
hóa đối với các ổ đĩa CD và DVD sẽ ngày càng tăng.
3. Vệ tinh siêu nhỏ
Từ khi Liên Xô phóng thành công Sputnik 1 ngày 4/10/1957 đến nay, đã có
hàng nghìn vệ tinh được đưa vào hoạt động trên không gian. Với vị trí đặc biệt từ
trên quỹ đạo, các vệ tinh đã và đang đem lại những lợi ích to lớn trong các lĩnh vực
viễn thông, viễn thám, nghiên cứu khoa học, quân sự định vị, theo dõi và cảnh báo

thiên tai… Nhìn chung các vệ tinh truyền thống vẫn là những thiết bị phức tạp, to
lớn, nặng nề (hàng trăm, nghìn kg), chi phí chế tạo rất tốn kém (hàng chục đến hàng
trăm triệu USD) và thời gian chế tạo rất dài.
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 18
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
Tháng 8/2000, một nhóm các nhà khoa học trên thế giới đã khởi xướng ra ý
tưởng chế tạo những vệ tinh siêu nhỏ hình lập thể, có kích thước 10x10x10 cm, chỉ
nặng 1kg gọi là CubeSat với mục đích giúp sinh viên và các nhà nghiên cứu trẻ tiếp
cận và nắm bắt kỹ thuật chế tạo vệ tinh. Khác với những vệ tinh truyền thống mất
nhiều năm chế tạo với đầu tư hàng triệu đô la, các vệ tinh lớp CubeSat có thời gian
phát triển ngắn từ 1-2 năm đến vài tháng và chi phí thấp, chỉ khoảng dưới vài trăm
nghìn USD. Mức chi phí và thời gian đó phù hợp với khả năng của các trường đại
học và các viện nghiên cứu.
Bước phát triển tiếp theo của CubeSat là lớp vệ tinh nano (nanosatellite,
<10kg) được trang bị các thiết bị đặc nhiệm (payload) có khả năng phục vụ nhu cầu
thực tế như máy quay phim/chụp ảnh quan sát Trái Đất hay các cảm biến thu thập
dữ liệu từ không gian. Đây là một xu thế mới trên thế giới nhằm phát triển và đưa
vào ứng dụng các vệ tinh siêu nhỏ. Hiện tại (năm 2011) có khoảng 100 dự án vệ tinh
siêu nhỏ đã và đang được triển khai trên khắp thế giới. Một ví dụ là vệ tinh nano
WNISAT 1 (Weather News Inc. Satellite 1), nặng 10kg với nhiệm vụ theo dõi băng ở
vùng Bắc cực và khí CO2 trong khí quyển. Những thông tin thu được từ vệ tinh này
sẽ giúp tàu thuyền đi lại an toàn hơn trên các tuyến đường hàng hải ở vùng Bắc cực
khi đi từ châu Âu sang châu Á, thay vì phải đi vòng qua Ấn Độ Dương, rút ngắn thời
gian và tiết kiệm chi phí.
Ở Việt Nam, Phòng nghiên cứu không gian FSpace, Trường đại học FPT hiện
đang phối hợp với Trung tâm công nghệ vũ trụ Ångström, Trường đại học Uppsala,
Thụy Điển tiến hành dự án chế tạo vệ tinh siêu nhỏ F-1 (10x10x10 cm, 1 kg), mang
theo máy ảnh có độ phân giải thấp và các cảm biến nhiệt độ, từ trường với mục tiêu
học tập, làm chủ công nghệ chế tạo vệ tinh siêu nhỏ. Sản phẩm đã trải qua các thử
nghiệm chức năng, gia tốc, rung động, shock, nhiệt chân không và liên lạc tầm xa

theo tiêu chuẩn giống như các CubeSat khác trên thế giới.
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 19
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
4. Công nghệ Nano trong hệ thống giám sát giao thông
Giáo sư Yu đã cùng các đồng nghiệp của mình tại Sở Công nghiệp Cơ khí và
Kỹ thuật thuộc Đại học Minesota , Duluth, USA báo cáo công trình nghiên cứu trên
Tạp chí Công nghệ Nano.
Rất nhiều tuyến đường và địa phương tại Mỹ và Châu Âu đã bắt đầu tịch hợp
hệ thống giao thông thông minh (ITS) vào hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vận tải
của mình để giúp cho việc kiểm tra, giám sát và quản lý lưu lượng giao thông, cũng
như giảm bớt ách tắc.
Bộ phận quan trọng nhất của ITS là những máy cảm biến luồng giao thông
đang tham gia trên đường, cung cấp thông tin chính xác tại thời gian thực tế cụ thể
cho những ứng dụng và dịch vụ thực hiện các công việc như điều khiển tín hiệu giao
thông, thu phí giao thông hay hệ thống định vị trên tàu. Độ chính xác cũng như độ tin
cậy của các bộ cảm biến lưu lượng giao thông trên có ảnh hưởng, tác động đáng kể
đến tính hữu dụng và hiệu quả của ITS.
Hiện tại, các chuyên gia nghiên cứu đã phát triển một máy tự cảm biến kết
hợp công nghệ Nano với vật liệu composite để giám sát, theo dõi giao thông trên
đường bằng cách sử dụng máy cảm biến áp lực, được cấu tạo từ các ống Nano
cacbon có nhiều vách ngăn (CNTs) như là một loại hỗn hợp. Trong thí nghiệm,các
nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu phản ứng của các hợp chất trong máy cảm
biến áp lực với vất liệu composite ở ứng suất nén (trạng thái ứng suất khi vật liệu bị
tác động ép chặt) và họ đã khảo sát với những loại tải trọng khác nhau, thử nghiệm
về tính khả thi của việc sử dụng máy cảm biến CNT (hỗn hợp composite) trong việc
giám sát tình hình giao thông).
Phát biểu trên tạp chí Nanowerk, Xun Yu, người tiến hành nghiên cứu nói, kết
quả thử nghiệm đã cho thấy có mối quan hệ chặt chẽ giữa ứng suất nén tương ứng
với khả năng chịu tác động của máy cảm biến CNT. Máy cảm biến sử dụng công
nghệ Nano có tiềm năng rất lớn trong việc theo dõi lưu lượng xe sử dụng, phát hiện

và đo trọng tải xe hay tốc độ của nó.
Ông Yu giải thích, trước đây, một số công trình nghiên cứu đã sử dụng các
sợi cacbon. Tuy nhiên, họ vẫn chưa đạt được hiệu quả do cấu trúc và đặc tính của
sợi cacbon còn yếu.
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 20
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
Ông nhấn mạnh, những phát hiện này của chúng tôi cho thấy máy cảm biến
CNT có thể phát hiện và theo dõi các phương tiện đang lưu thông trên đường, thậm
chí có thể nhận dạng tải trọng khác nhau của xe. Điều này thật sự cần thiết để giảm
thiểu những thiệt hại do quá tải trên các tuyến đường cao tốc gây ra.
Mô hình phác thảo hệ thống ITS sử dụng công nghệ nano
5. Các ứng dụng trong tương lai
Sự phát triển của phần cứng trong ngành công nghiệp IT tương lai có thể
được chia theo hai nhánh: Một nhánh phát triển theo Lộ trình ITRS ( hoạch định tới
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 21
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
năm 2018 ) và một nhánh khai thác những công nghệ và vật liệu thay thế không có
trong Lộ trình.
Theo Lộ trình, vi tiểu hình hóa vẫn được coi là động lực chủ chốt, vì vậy tiêu
chuẩn công nghệ với độ phân giải 22 nm được dự tính cho sản xuất tới năm 2018.
Do vậy, có thể dự đoán được tất cả những thách thức để đạt được công nghệ này.
Những thử thách như vậy được chi tiết hóa trong Lộ trình, bao gồm nâng cao hiệu
suất bằng cách tạo ra vật liệu mới ví dụ như những chất điện môi thấp và những liên
kết dây dẫn điện cao, phát triển các công nghệ in litô có khả năng chế tạo ra các cấu
trúc ở cỡ nhỏ hơn 50 nm, tích hợp các công cụ đo lường tiên tiến thành một quy
trình chế tạo có khả năng phát hiện và xác định kích thước khiếm khuyết nhỏ tới
kích cỡ nm. Như vậy, khoa học nano và công nghệ Nano sẽ tiếp tục giữ vai trò chủ
chốt trong việc phát triển những thế hệ chip mới. Đây là một lĩnh vực rất thiết thực
đối với nghiên cứu khoa học nano.
Công nghệ tích hợp các bộ phận quang học vào các linh kiện silic đã bắt đầu

được nghiên cứu và sẽ phát triển xa hơn nữa. Các thử thách mà công nghệ Nano
tác động tới sẽ là lĩnh vực vật liệu khe hở băng thông quang tử ( Photonic Band-Gap
Material ). Đây là lĩnh vực sử dụng một thiết bị để điều khiển việc truyền ánh sáng
nhằm mục đích tính toán bằng ánh sáng, trong đó các tinh thể quang tử đóng vai trò
rất quan trọng trong việc điều khiển ánh sáng. Một tinh thể quang tử đặc thù sẽ bao
gồm một dãy các hố trong một vật liệu điện môi, được chế tạo với độ chính xác nhỏ
hơn 10 nm. Sự phát triển của các tinh thể quang tử có nghĩa là các mạch tích hợp
quang học đang được làm nhỏ hơn nữa, tạo nên tác động lớn tới các lĩnh vực ví dụ
như truyền thông và tin học quang học. Quang điện tử cũng sẽ tạo ra nhiều tiến bộ
trong lĩnh vực tin học quang học và mật mã lượng tử.
Công nghệ Nano cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển công nghệ
cảm biến. Trước hết, một thiết bị cảm biến lý tưởng sẽ phải có khả năng thâm nhập
cao vì vậy phải cần rất nhỏ. Nó phải có nguồn cung cấp năng lượng, hoạt động cảm
ứng nhờ đó tính chất mà nó phát hiện ra sẽ được chuyển hóa thành một tín hiệu
điện truyền tới một máy dò từ xa. Tích hợp những hoạt động này vào một thiết bị
nhỏ hơn 1 mm2 tất nhiên sẽ đòi hỏi các kỹ thuật chế tạo cỡ nano giống như những
kỹ thuật được ngành công nghiệp IT khai thác. công nghệ Nano cũng nắm vai trò
quan trọng trong việc thiết kế một cách chính xác và rõ ràng chức năng cảm ứng; vì
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 22
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
kích thước của cảm biến giảm đi nên diện tích tác động tới vùng dò tìm của chiếc
cảm biến cũng sẽ giảm, do vậy cần phải tăng tính nhạy lên.
Vì vậy, công nghệ Nano được hy vọng sẽ sản xuất được những thiết bị cảm
biến nhỏ và rẻ hơn với độ nhạy tăng. Những thiết bị cảm biến này sẽ được sử dụng
trong rất nhiều ứng dụng, bao gồm giám sát chất lượng nước ăn, đo các trọng lực
cơ học ở các tòa nhà hoặc phương tiện giao thông để giám sát độ hư hại về mặt
cấu trúc, dò ra và theo dõi những chất gây ô nhiễm trong môi trường, kiểm tra độ an
toàn thực phẩm, hoặc giám sát sức khỏe liên tục. Ngoài ra, chúng còn có thể sử
dụng trong an ninh, quốc phòng, y tế và mang lại những lợi thế cho kinh doanh ( ví
dụ theo dõi, quản lý vật liệu và sản phẩm ).

6. Mặt trái của công nghệ nano
“Tuy có tương lai tốt đẹp, song công nghệ nano cũng có không ít những tác
dụng phụ mà bấy lâu nhiều người đã cố tình lờ đi” - GS. Jett Harrow, người Mỹ,
chuyên gia công nghệ nano thừa nhận.
Các nghiên cứu gần đây của nhà độc học Eva Oberdorster thuộc Đại học
Southern Methodist tại Dallas cho thấy, chỉ cần thả vài ba phân tử nano vào bể cá
cảnh thì sau chưa đầy 48 tiếng đồng hồ, não của những con cá cảnh trong bể đều bị
tổn thương nghiêm trọng và hoạt động của một số gen của cá cũng bị biến đổi. Ông
Bop Phelps, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu GeneEthics tuyên bố: “Mỗi loại phân
tử nano đều có thể gây hại như chất amiăng! Do đó, khi đầu tư cho công nghệ nano,
chúng ta cũng cần phải dành một khoản đầu tư tương đương để dùng cho nghiên
cứu những rủi ro về sức khỏe và môi tường do nano gây ra”.
Trong một hội thảo tổ chức mới đây tại Mỹ, Hội đồng Khoa học - Kỹ thuật
quốc gia Mỹ cũng đã kiến nghị: Các cơ quan chính phủ phải có trách nhiệm kiểm
soát chặt chẽ việc thâm nhập của các phân tử nano vào môi trường. Chúng có thể
thâm nhập vào não người và gây tổn thương. Các phân tử nano hiện diện trong một
số mỹ phẩm như kem chống nắng, các loại kem dưỡng da, làm trắng da có thể thâm
nhập cơ thể qua da gây viêm hay vào máu, đi khắp cơ thể và có thể dễ dàng thâm
nhập bào thai - đó là nội dung bản tường trình của Tổ chức Bảo vệ sức khỏe cộng
đồng Thụy Sỹ Swiss Re.
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 23
Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
Theo các chuyên gia Thụy Sỹ, phân tử nano có thể gây hại cho mô cơ bằng
cách qua các phản ứng hóa học để tiêu diệt các tế bào tiêu độc của cơ thể. Do đó,
chúng có thể làm tê liệt hệ miễn dịch, gây dị ứng và rối loạn quá trình trao đổi
enzyme. Ngay GS. Eric Drexler - cha đẻ của công nghệ nano cũng từng thừa nhận:
“Công nghệ đột phá này có thể trở thành nguy hiểm nếu không được phát triển có
kiểm soát. Thay vì giúp ích cho con người, nó có thể chống lại loài người, biến
chúng ta thành những nạn nhân của chính mình!”.
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 24

Trường ĐH Tôn Đức Thắng Hệ thống thông tin quản lý
Kết luận
Công nghệ nano giúp ích rất nhiều các lĩnh vực quan trọng trong cuộc sống.
Nano giúp việc làm tinh gọn, tạo ra các cảm ứng không dây, các biến cảm ứng…
trong các hệ thống thông tin quản lý. Công nghệ Nano còn tạo nên một bước tiến
lớn trong việc sản xuất ra các thiết bị mới mà con người chưa từng nghĩ là sẽ có thể
làm được trong tương lai.
Công nghệ nano là một bước tiến bộ vượt bậc của công nghệ, nó tạo ra
những ứng dụng vô cùng kỳ diệu tạo ra nhiều cơ hội hơn, nhưng bên cạnh đó cũng
có những thách thức đặt ra về thảm họa môi trường và khả năng phát triển vũ khí
lọai mới với sức tàn phá không gì so sánh nổi. Tuy nhiên, con người ngày nay đã
hướng nhiều hơn với cái thiện nên chúng ta có thể hy vọng là công nghệ nano sẽ
mang lại hạnh phúc cho nhân loại nhiều hơn.
Hiện tại vẫn còn những điểm không tốt của công nghệ này. Nhưng với trình
độ phát triển không ngừng của khoa học công nghệ thi những điểm không tốt có thể
được khắc phục để hoàn thiện công nghệ này. Một công nghệ làm nên cuộc cách
mạng trong thế kỷ 21 !
Nhóm 5T – Lớp 12QT1R Trang 25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×