Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Dong khoi ben tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.4 KB, 12 trang )

Phong trào “Đồng Khởi”1960 là một sự kiện lớn
đánh dấu bước nhảy vọt của cách mạng miền Nam,
chuyển biến mạnh mẽ từ đấu tranh chính trị, gìn giữ lực
lượng sang bạo động cách mạng, giành thế tiến công chủ
động trên chiến trường.
Mỹ-Diệm đã dùng mọi cách để hòng tiêu diệt lực
lượng cách mạng, thực hiện hàng loạt chính sách tàn bạo
dã man đối với nhân dân ta bằng “Chính sách tố cộng,
diệt cộng”, sử dụng các biện pháp càn quét, trấn áp
để thi hành Luật 10/59 lê máy chém đi khắp miền Nam
với khẩu hiệu “Giết lầm còn hơn bỏ sót”. Chúng đã
thực hiện các chiến dịch càn quét lớn như :


Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu 24/6/1956-



Chiến dịch Trương Tấn Bửu 10/7/1956-



Chiến dịch Mùa Thu 1/1/1957-12/1957



Chiến

24/2/1957
24/2/1957
dịch



Nguyễn

Trãi

20/4/1957-

20/11/1958
Chúng ra sức xây dựng bộ máy kiềm kẹp, lập các
ấp chiến lược, khu trù mật, khu đinh điền, lập các trại
lính, nhằm biến miền Nam thành một trại lính, chúng lôi
kéo thanh niên sa vào ăn chơi tr lạc mất dần ý chí
chiến đấu. Đến năm 1959 chúng thành lập 84 điểm dinh
điền, tháng 3/1959 thí điểm khu trù mật ở Vị Thanh Cần
Thơ, tuy nhiên mô hình này cũng không tồn tại được bao
lâu do đấu tranh của quần chúng nhân dân.
Mỹ-Diệm còn tăng cường các biện pháp bóc lột
về kinh tế, cưỡng bức nông dân, cách ly quần chúng
cách mạng để tiêu diệt cách mạng. Nhưng thực tế những
biện pháp đó chỉ càng làm tăng thêm sự thù ghét của
nhân dân , và phong trào “Đồng Khởi” nổ ra như một xu
thế lịch sử.

1


Từ 7/1954 đến cuối 1959 đã có 1444 cuộc đấu tranh
chính trị trong đó có 27 cuộc đấu tranh lớn, đặc biệt là
cuộc biểu tình khổng lồ của công nhân và nhân dân lao
động Sài Gòn nhân ngày quốc tế lao động 1/5/1958.

Thực sự phong trào “Đồng Khởi” không phải là một
cuộc đấu tranh tự phát, mà nó là sự chuẩn bị, có định
hướng, và là kết quả của những cuộc đấu tranh trước
đó. Từ 1954-1956, phong trào đấu tranh chính trị đã diễn ra
rộng rãi, thu hút nhân dân tham gia đòi hiệp thương
tuyển cử thống nhất tổ quốc, thực hiện nghiêm túc
hiệp định Giơnevơ. Bằng nhiều hình thức như lấy chữ kí,
rãi truyền đơn, bãi công, bãi khóa..., phong trào đã huy
tụ hơn 7 triệu nhân dân miền Nam tham gia .
Trước tình thế đó, Mỹ-Diệm thực thi những chính
sách tàn bạo, và phong trào không những không bị dập
tắt, mà còn bùng lên mạnh mẽ như ngọn lửa, hình thức
đấu tranh của nhân dân ta càng phát triển, kết hợp đấu
tranh chính trị và đòi tự do dân chủ. Diệm đưa ra chủ
nghóa nhân vị –một hình thức mà theo Diệm Nhu sẽ chiến
thắng được chủ nghóa Mác, chúng ra sức tuyên truyền,
mở các lớp giảng dạy, nâng cao vai trò và tính độc tôn
của Thiên chúa, kì thị tôn giáo khác. Chúng bắt nhân
dân ta học tập, nhưng gặp phải sự đấu tranh quyết liệt.
Điều này chúng tỏ rằng nhân dân ta đã có sự trưởng
thành rõ rệt về ý thức chính trị , tổ chức đấu tranh
cách mạng.
nông thôn, quần chúng nhân dân đã đấu tranh
kiên quyết chống Mỹ-Diệm cướp đất, tăng tô ”Cải
cách điền địa”, đòi giảm thuế, chống tố cộng, chống
bắt thanh niên đi lính
Tính liên kết đấu tranh của nhân dân ta cũng cao
hơn hẳn, giữa các địa phương với nhau, giữa các tầng lớp
trí thức, nông dân, công nhân....giữa tín đồ và những


2


người không có đạo....Tiêu biểu nông dân các tỉnh Bạc
Liêu, Mỹ Tho, Long Xuyên, Châu Đốc, Sóc Trăng cùng
nỏi dậy đấu tranh đòi đất chống

cướp ruộng . Cuộc

đấu tranh càng ngày càng nhịp nhàng, kết hợp với đấu
tranh du kích, vũ trang cướp chính quyền ở một số nơi.
Trận đánh qui mô lớn đầu tiên của lực lượng vũ
trang thời chống Mỹ đó là trận đánh ngày 10/10/1956,
cuộc tấn công vào chi khu quân sự Dầu Tiếng tiêu diệt
và bắt sống toàn bộ quân địch.Trong thời gian này, lực
lượng vũ trang đã hình thành ở một số nơi như Đồng
Tháp Mười, các đại đội vũ trang, các tiểu doàn tại Cà
Mau, Cần Thơ, Bến Tre. Trong giai đoạn này, các phong trào
vũ trang đã góp phần thúc đẩy các hoạt động

đấu

tranh chính trị chứ chưa nổ ra trên qui mô rộng và chưa có
sự chuyển biến rõ rệt từ đấu tranh chính trị sang đấu
tranh vũ trang.
Tuy nhiên bước sang năm 1959 những cuộc khởi
nghóa từng phần đã nổ ra. Các cuộc đấu tranh tiêu biểu
như : cuộc đấu tranh ở Long Mỹ (Cần Thơ), , của nhân dân
Cà Mau, phong trào diệt ác phá tề, phá ấp chiến lược
của nhân dân Bác i. Cuộc khởi nghóa Trà Bồng-Quảng

Ngãi thu hút 16 ngàn đồng bào, quét sạch chính quyền
ngụy 16 xã,đây là một thắng lợi lớn, góp phần cổ vũ
phong trào cách mạng, là đỉnh cao của phong trào đấu
tranh ở miền Trung những năm 1954-1959.
Từ 1954 đến 1959 đã có 466 ngàn người cộng sản
và yêu nước bị bắt, 400 ngàn người bị tù đài, 65 ngàn
người bị giết. Từ 1957-1958 chúng ta bị tổn thất nặng, do
Đảng chưa tìm ra phương pháp và hình thức thích hợp để
chống trả địch.
Các cuộc đấu tranh này đã gây nên sự khủng
hoảng đối với Mỹ-Diệm và tay sai, biều hiện bằng sự
điên cuồng chống phá của Mỹ-Diệm và sự bè phái

3


của các tướng lónh Sài Gòn. Bộ máy chính trị của Mỹ
diệm đã không còn đủ sức để đương đầu với thế mạnh
càng ngày càng cao của cách mạng.
Tính từ đầu năm đến 10/1959 chúng đã thực hiện
các biện pháp phát xít tàn bạo, thực hiện càn quét, giết
hại gần 500 người, làm bị thương khoảng 3.500 người, bắt
bớ hơn 3.700 người, dồn nhân dân vào Khu trù mật, ấp
chiến lược.
Như vậy chúng ta có thể thấy được, đầu năm 1960,
tình thế cách mạng đã có những biến đổi, và hội đủ
những điều kiện cần thiết cho một giai đoạn cách mạng
mới. Là thời điểm tình thế cho cách mạng ở miền Nam.
Tuy nhiên cần phải có sự tính toán thật kỉ lưỡng, cần
phải xác định được khâu nào là khâu yếu nhất của

địch, cần phải xác định vị trí cuộc khởi nghóa vũ trang
cướp chính quyền. Và chính nông thôn chứ không phải
bất cứ nơi nào khác đó là điểm yếu nhất của địch, bởi
vì, vùng nông thôn rộng lớn chủ yếu có nền kinh tế tự
nhiên không phụ thuộc vào đô thị, đại bộ phận nông
dân ở đây sống bằng kinh tế nông nghiệp, nông dân
sống phân tán trong làng xã, chính quyền địa phương yếu
kém, do đó nơi đây có thể tiến hành khởi nghóa từng
phần, là cơ sở đẩy cách mạng miền Nam đi lên.
Lúc này, thực tiễn cách mạng miền Nam đòi hỏi
phải có một đường lối cách mạng hoàn chỉnh toàn
diện để đánh đổ chính quyền Mỹ Diệm, giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước. Vì thực tế đấu tranh
nhân dân trong giai đoạn này còn mang tính cục bộ và giai
cấp, địa phương. Trước mắt cần giải quyết những bế tắc
trong tình huống phong trào đấu tranh chính trị đang dâng
cao khắp miền Nam nhưng chưa xác định được phương
hướng đấu tranh hiệu quaû.

4


Đúc kết những kinh nghiệm thực tiễn trong cách
mạng Tháng 1-1959, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
lần thứ 15 do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa họp ở Hà
Nội với sự tham gia của toàn thể Ban Chấp Hành Trung
Ương cùng những đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng
ở Nam Bộ và Trung Nam Bộ. Hội nghị đã xác định con
đường tiến lên của cách mạng miền Nam, vạch rõ mục
tiêu và phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ

giữa hai chiến lược cách mạng ở hai miền Nam, Bắc, giữa
cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới... nhằm giải
phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước
nhà, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng quốc tế,
bảo vệ hòa bình thế giới. Về cách mạng miền Nam, trên
cơ sở phân tích tình hình miền Nam, Hội nghị đã khẳng
định: “nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải
phóng miền Nam”. Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 (khóa
2) mang tầm lịch sử, có ý nghóa quyết định và kịp thời
tạo ra bước phát triển mới của cách mạng miền Nam mà
mở đầu là phong trào đồng khởi trên toàn miền vào
cuối năm 1959 và đầu 1960. Bản Đề cương cách mạng
miền Nam đã góp phần tích cực chuẩn bị về chính trị, tư
tưởng và tổ chức cho phong trào khởi nghóa từng phần
ở miền Nam và góp phần chuẩn bị cơ sở lý luận và
chính trị cho Nghị quyết 15 của Trung ương.
Nghị quyết đã nêu lên mâu thuẩn cơ bản cần phải
giải quyết của cách mạng Việt Nam : mâu thẩn giữa chủ
nghóa đế quốc, địa chủ phong kiến, tư sản với dân tộc
Việt Nam, và mâu thẩn giữa con đường chủ nghóa xã hội
ở miền Bắc và con đường tư bản chủ nghóa ở miền Nam.
Xác định mâu thẩn cơ bản là đế quốc Mỹ và nhân
dân. Nghị quyết còn xác định lực lượng cách mạng miền
Nam là liên kết đấu tranh giữa công, nông, tiểu tư
sản,....xác định động lực cách mạng lấy liên minh công

5


nông làm cơ sở dưới sự lãnh đạo của gia cấp công nhân

thông qua Đảng Cộng Sản.
Nghị quyết 15 của TƯĐCS đã đánh dấu một mốc quan
trọng về đường lối có tính chất nguyên tắc cho cách
mạng miền Nam và đặt cơ sở để tiến tới đề ra nhiệm
vụ chiến lược một cách chính xác, toàn diện.Tăng cường
đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh để giữ vững
hòa bình, ra sức cũng cố miền Bắc xã hội chủ nghóa,
nhiệm vụ cách mạng phải đi từng bước, từ thấp đến cao,
đẩy lùi chính quyền địch đến tiêu diệt bộ máy chính trị
của chúng.
Nghị quyết đã vạch ra cho cách mạng miền Nam mục
tiêu và nhiệm vụ trước mắt nắm vững bạo lực cách
mạng, căn cứ trên những điều kiện cụ thể của cách
mạng miền Nam. Nghị quyết xác định “Con đường cơ bản
của cách mạng miền Nam là dùng bạo Iực. Theo tình hình
cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng, thì đường
lối dùng bạo lực là lấy sức mạnh của quần chúng dựa
vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết
hợp với lực lượng võ trang, hoặc nhiều hoặc ít tùy tình
hình, để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong
kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân"
Nghị quyết còn dự kiến rằng đế quốc Mỹ là tên
đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong những điều kiện
nào đó cuộc đấu tranh sẽ chuyễn sang cục diện mới là
chiến tranh trường kì giữa ta và địch và thắng lợi cuối
cùng nhất định về ta.
Nghị quyết Hội Nghị Trung Ương 15 đã thể hiện quan
điểm độc lập tự chủ của Đảng trong việc vận dụng
sáng tạo học thuyết Mác Lê và kinh nghiệm của các
nước anh em, kinh nhiệm cách mạng 8/1945 và kháng

chiến chống Pháp, phù hợp tình hình quốc tế và trong
nước, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.

6


Nghị quyết này là “Nghị quyết lịch sử, đã cắm cái
mốc quan trọng và có ý nghóa lớn lao trong việc phát
triển cách mạng miền Nam”( Cao Văn Lượng-Lịch sử Việt
Nam 1954-1965) nó cho thấy sự sáng suốt của Đảng ta
trong việc vạch ra đường lối cách mạng, sự đúng đắn và
quyết đoán trong việc lựa chọn con đường đấu tranh phù
hợp với tình thế và yêu cầu cách mạng, tạo nên niềm
tin, định hướng và cổ vũ cách mạng Miền nam.
Như vậy chỉ sau một thời gian, phong trào đã có một
chuyển biến mới tích cực, biến đổi hình thức đấu tranh,
kết hợp nhịp nhàng, sử dụng hiệu quả đấu tranh chính trị
và bạo động cách mạng.
Trong bối cảnh đó, phong trào đấu tranh của nhân
dân Bến Tre nổi lên như một điển hình, nhân dân luôn
sục sôi ý chí chiến đầu, sãn sàng cướp chính quyền.
Tháng 12-1959, Hội nghị đại biểu các tỉnh miền Trung
Nam Bộ được triệu tập để truyền đạt Nghị quyết 15 của
Trung ương
Cuối tháng 12 đồng chí Nguyễn Thị Định đi họp tại khu
ủy và nhận chủ trương chuyển hướng phong trào, phát
động nhân dân nổi dậy, đâấu tranh chính trị kết hợp vũ
trang.
Trên cơ sở phân tích những khó khăn và thuận lợi
của tình hình, tuy hệ thống cách mạng của Bến Tre còn

rất ít, trang bị vũ trang kém, song lại có những thuận lợi
khác là tinh thần đấu tranh của nhân dân rất cao, cán
bộ có kinh nghiệm tập họp, quân địch tuy đông nhưng
còn nhiều sơ hở và tinh thần kém.
Đêm 2-1-1960, Hội nghị cán bộ lónh đạo Bến Tre do
Thường vụ Tỉnh ủy triệu tập tại một địa điểm ở Mỏ
Cày để truyền đạt nghị quyết của Trung ương và bàn kế
hoạch phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá thế
kiềm kẹp của địch. Nghị quyết của hội nghị là phát

7


động một tuần lễ nổi dậy đồng loạt trong tỉnh từ 17-11960 đến 25-1-1960.
Điều này đã cho thấy được sự chủ động và sáng tạo
của mỗi địa phương, dù vẫn theo đúng định hướng cách
mạng, đúng như nghị quyết Hội Nghị Trung Ương 15 , nhưng
Bến Tre đã có phương hươngs đấu tranh hết sức phù hợp
và sáng tạo, tích cực, hiệu quả.”Súng trong đồn địch cứ
tìm cách mà lấy để đánh địch tốt hơn”
Trong khi không có trang bị vũ trang nhiều, nhưng vẫn
có thể kết hợp đấu trang chính trị và đấu tranh vũ trang.
Nếu xét ra thì có phần mạo hiểm, nhưng không, sự quyết
định này hoàn toàn có cơ sở, xét trên sức mạnh tổng
hợp của quần chúng cộng với yếu tố tổng lực, bất
ngờ. Đây là quyết định đúng đắng góp phần đưa phong
trào đồng khởi ở Bến Tre sớm thành công .
Ngày 17-1-1960, theo kế hoạch đã định, cuộc Đồng khởi
nổ ra thắng lợi đúng như dự kiến tại 3 xã Định Thủy,
Phước Hiệp, Bình Khánh (Mỏ Cày).

Ngày 22-2-1960, Mỹ, Diệm tập trung lực lượng phản kích
mạnh mẽ. Chúng huy động hơn 12 ngàn quân chủ lực từ
các tỉnh lân cận, có 15 tàu chiến và nhiều máy bay,
đại bác yểm trợ tấn công vào trung tâm cuộc khởi
nghóa, nhằm tiêu diệt lực lượng võ trang cách mạng, hòng
lập lại trật tự cũ. Lực lượng vũ trang non trẻ ở 3 xã đã
chặn đánh địch quyết liệt.
  Ngày 27-2-1960, hàng ngàn dân các xã Phước Hiệp,
Bình Khánh, Định Thủy đi trên 200 chiếc xuồng, gồm các
chị, các mẹ bế theo con cái, mang người bị thương, đội
khăn tang, đem theo gạo thóc, soong nồi, mùng mền "tản
cư" vào thị trấn Mỏ Cày, đưa yêu sách đòi quận trưởng
ra lệnh rút quân, chấm dứt càn quét khủng bố. Cuộc
đấu tranh kéo dài 12 ngày đêm.

8


   Ngày 10-3-1960, đại diện Bộ Tổng tham mưu Sài Gòn bay
đến Bến Tre, thị sát tình hình và sau đó phải ra lệnh rút
quân, bỏ dở cuộc càn quét.
   Sau khi chỉ đạo cuộc Đồng Khởi thắng lợi ở Mỏ Cày,
Tỉnh ủy Bến Tre quyết định chuyển hướng sang Giồng
Trôm, tập trung ở 3 xã trọng điểm Châu Hòa, Châu Bình
và Phong Mỹ.
Tháng 3-1960, một cuộc đấu tranh chính trị của hơn 7.000
phụ nữ Giồng Trôm đòi các đơn vị quân chủ lực của
địch đang đi càn quét phải rút về vị trí cũ.
Tháng 6-1960, XUNB quyết định phát động Đồng khởi trong
toàn Nam Bộ

Tháng 9-1960, Ban lãnh đạo miền Trung Nam Bộ họp đánh
giá tình hình, rút kinh nghiệm phong trào Đồng khởi Bến
Tre, ra nghị quyết phát động phong trào Đồng khởi trong
toàn khu 8.
Cao trào Đồng khởi từ Bến Tre nhanh chóng lan
rộng khắp các tỉnh Nam Bộ, ra các tỉnh ven biển khu 5
và Tây Nguyên, làm thay đổi cục diện chính trị ở miền
Nam, phá vỡ một mảng lớn hệ thống chính quyền cơ sở
địch.
Ngày 24-9-1960, Bến Tre phát động cuộc Đồng
khởi đợt II, sau khi đã kiểm điểm, rút kinh nghiệm của
cuộc nổi dậy đồng loạt đợt I. Cuộc Đồng khởi không chỉ
diễn ra ở những nơi có phong trào mạnh, mà còn được
phát động ngay cả ở những vùng yếu, cơ sở cách mạng
còn mỏng trong các huyện khác của tỉnh.
 

  Như vậy, Đồng khởi ở Bến Tre không chỉ có nghóa

đơn giản là cuộc nổi dậy đồng loạt của nhân dân từ tay
không cướp đồn địch, giành chính quyền và cũng không
chỉ giới hạn trong đợt I và đợt II. Đồng khởi là một quá
trình liên tục tiến công, liên tục nổi dậy, liên tục giành
thắng lợi, hết đợt này đến đợt khác. Đó là một hình

9


thức đấu tranh độc đáo, sáng tạo của cách mạng Việt
Nam.

  

Thắng lợi cuộc Đồng khởi Bến Tre và các cuộc

Đồng khởi trong toàn miền tiếp sau đó đã đưa đến việc
thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam ngày 20-12-1960.
Đồng khởi Bến Tre thành công vì đã có chiến thuật
và chiến lược đúng đắn “Đánh phải đánh tới tấp, phát
triển lực lượng không hạn chế, khi sóng gió nổi lên thì
phải mạnh dạn căng buồm lướt sóng, nhàm thẳng mục
tiêu mà tiến tới. Thắng lợi này là thắng lợi của phương
thức cách mạng, tổ chức đấu tranh, chỉ đạo chiến lược”.
(Cao Văn Lượng- Tìm hiểu phong trào đồng khởi miền Nam
Việt Nam)
Các lực lượng cách mạng vũ trang, được ra đời từ
phong trào quần chúng đã có những trận đánh làm tiêu
hao sinh lực địch : Trận Trà Hui (25/1/1960) bắt sống 500
tên địch, thu hơn 1000 súng.
Từ thắng lợi của phong trào “Đồng Khởi” đảng ta đã
đúc kết được phương châm”Hai chân, ba mũi giáp công”
phương châm này từ đó trở thành chiến lược xuyên suốt
trong cuộc đấu tranh chống Mỹ. Thắng lợi này thể hiện
bước nhảy vọt quan trọng đưa cách mạng miền Nam từ
thế gìn giữ lực lượng sang chủ động tiến công, tiến công
mạng mẽ, liên tục. Đánh bại chiến lược chiến tranh đơn
phương của Mỹ , buộc chúng phải chuyển sang chiến lược
“chiến tranh đặc biệt”.Cuộc đảo chính hụt của Nguyễn
Chánh Thi và Hoàng Cơ Thụy 1960 là báo hiệu sự đi
xuống của chế độ Ngô Đình Diệm từ sau “Đồng Khởi”.

Từ khi có Nghị Quyết Trung Ương 15 phong trào cách
mạng của nhân dân nhanh chóng được khôi phục, có thể
khẳng định nếu không có Nghị Quyết Trung Ương 15 thì
không có khởi nghóa Trà Bồng. Cuộc khởi nghóa đã đem

10


lại bài học về đấu tranh chính trị và vũ trang song song.
Nhờ Nghị Quyết Trung Ương 15 cuộc đấu tranh chính trị có
vũ trang hỗ trợ được khởi xướng, các cơ sở cách mạng
được khôi phục, nhân dân sẵn sàng hành động, phong
tràophát triển như nước vỡ bờ, tạo nên phong trào
“Đồng Khởi”.
Đến cuối 1960 Bến Tre đã giải phóng hoàn toàn
51/115 xã trong toàn tỉnh, 21 xã được giải phóng được
một phần, nhân dân làm chủ 300/500 ấp, hệ thống kìm
kẹp ở địa phương bị phá vỡ. Ở Trà Vinh sau ba tháng
Đồng khởi đã giải phóng hoàn toàn 12 xã, 14 ấp, giải
phóng cơ bản 7 xã và 15 ấp khác, chính quyền cơ sở
được thành lập lấy tên “y ban giải phóng”. Nhiều tỉnh
khác cũng đồng thời nổi dậy, giành nhiều thắng lợi to
lớn.
Như vậy được ánh sáng của Nghị Quyết Trung Ương
15 soi đường, phong trào cách mạng miền Nam đã phát
triển mạnh, đánh sập bộ máy ngụy quyền cơ sở, đẩy kẻ
thù đi đến khủng hoảng, tạo ra những điều kiện tổng
khởi nghóa. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
đường lối cách mạng và chiến tranh cách mạng trong giai
đoạn mới. Các tỉnh thành của miền nam như Bà Rịa, Long

An.... đã xây dựng nên thế trận cách mạng vững chắc
“Trong bất cứ cuộc chiến tranh cách mạng nào, tinh thần
cacchs mạng hy sinh là cần thiết nhưng không đủ bảo
đảm cho thắng lợi.Muốn thắng lợi phải chuẩn bị tỉ mỉ
điều kiện vật chấtở đây tức là chuẩn bị về mặt quân
sự, vũ trang cho bộ đội và nhân dân lập nên những đội
vũ trangkhởi nghóa”( Trường Chinh-Mấy vấn đề quân sự
trong cách mạng Việt Nam)
Việc xây dựng lực lượng vũ trang được chú trọng hơn,
gắn liền với đó là xây dựng thế trận lòng dân và
chiến tranh nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp. Với

11


phương châm đấu tranh vũ trang kết hợp lực lượng chính trị,
binh vận địch vận, kết hợp tác chiến du kích, tác chiến
tập trung, hiệp đồng binh chủng. Sau này, Bộ Chính Trị Ban
Chấp Hành Trung Ương Đảng khoá VII đã kết luận”nghị
quyết Hội Nghị Trung Ương lần thứ 15 rất đúng, làm xoay
chuyển tình thế”( kết luận Bộ chính trị 25/5/1994)
Nghị quyết này đã xoay chuyển tình thế, cứu lấy
cách mạng trong giai đoạn nguy biến nhất, đáp ứng
nguyện vọng của nhân dân. Từng bước làm chủ chính
quyền , nắm vững cục diện tình thế cách mạng, xác
định đường lối, tiến tới thắng lợi chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Quốc phòng-viện lịch sử quân sự, lịch sử kháng
chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975, NXB chính trị Quốc
gia

Cao Văn Lượng, Tìm hiểu phong trào đồng khởi miền
Nam Việt Nam, NXB khoa học xã hội, Hà Nội 1981
Lịch sử Việt Nam (1954-1965) NXB khoa học xã hội, Hà
Nội 1996.

12



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×