Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG CHIẾN TRANH THƯƠNG MẠI MỸ TRUNG VÀ TÁC ĐỘNG TỚI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.95 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
------------***------------

TIỂU LUẬN
CHIẾN TRANH THƯƠNG MẠI MỸ - TRUNG
VÀ TÁC ĐỘNG TỚI VIỆT NAM


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CHIẾN TRANH THƯƠNG MẠI MỸ - TRUNG
1. Khái niệm chiến tranh thương mại
2. Nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
2.1. Nguyên nhân trực tiếp
2.2. Nguyên nhân sâu xa
3. Diễn biến chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
CHƯƠNG II. TÁC ĐỘNG CỦA CHIẾN TRANH THƯƠNG MẠI MỸ TRUNG TỚI VIỆT NAM
1. Tác động tích cực của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung tới Việt Nam
2. Tác động tiêu cực của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung tới Việt Nam
CHƯƠNG III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH
TẾ VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CHIẾN TRANH THƯƠNG MẠI
MỸ - TRUNG
1. Phương hướng
2. Giải pháp cho các chủ thể tham gia trong nền kinh tế Việt Nam
2.1. Giải pháp về phía Nhà nước
2.2. Giải pháp về phía doanh nghiệp
2.3. Giải pháp về phía người lao động


KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quan hệ Mỹ - Trung Quốc được xem là một trong những yếu tố quan
trọng quyết định cục diện kinh tế, chính trị và quân sự trên thế giới. Kể từ khi
Trung Quốc trở thành thành viên WTO (2001), và mới đây trở thành quốc gia
xuất khẩu nhiều nhất, các nhà sản xuất Trung Quốc đã dần trở thành sự thách
thức lớn đối với các nhà sản xuất nội địa của Mỹ, nhất là ngành dệt may và chế
tạo.
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu năm 2018-2019 với nhiều biến động,
trong đó nổi bật nhất là cuộc chiến thương mại giữa hai cường quốc Mỹ và
Trung Quốc. Cuộc chiến tranh thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới
Trung Quốc và Mỹ không chỉ ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế của hai nước
mà cịn có tác động mạnh mẽ đến rất nhiều các quốc gia khác trên thế giới,
trong đó có Việt Nam. Cuộc chiến thương mại khơng chỉ đem lại cho Việt Nam
nhiều cơ hội để phát triển kinh tế mà đó cũng là thách thức cho Việt Nam trong
căng thẳng cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung. Trong bối cảnh đó, Việt Nam
cần có tầm nhìn rộng, biết tận dụng tốt mọi tiềm lực cũng như cơ hội để tìm ra
những giải pháp hữu hiệu vượt khó khăn, tạo tiền đề vững chãi phát triển kinh tế
về lâu về dài.
Vì thế đề tài nghiên cứu này được tiến hành nhằm nâng cao hiểu biết cho
sinh viên về những tác động của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung tới
Việt Nam, từ đó góp sức lực, tâm lực vào công cuộc xây dựng đất nước.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
Phạm vi nghiên cứu: Việt Nam
NỘI DUNG

CHƯƠNG I. CHIẾN TRANH THƯƠNG MẠI MỸ - TRUNG
1. Khái niệm chiến tranh thương mại


Chiến tranh thương mại (Trade war): là một cuộc xung đột kinh tế xuất
phát từ chủ nghĩa bảo hộ cực đoan, trong đó các quốc gia tăng hoặc tạo ra thuế
quan hoặc các rào cản thương mại khác chống lại nhau để đáp lại các rào cản
thương mại do bên kia tạo ra. Thuế quan là một loại thuế hoặc thuế đánh vào
hàng hóa nhập khẩu vào một quốc gia. Nếu thuế quan là cơ chế độc quyền, thì
những xung đột đó được gọi là chiến tranh thuế quan, chiến tranh thu phí hoặc
chiến tranh thuế quan; như một biện pháp trả đũa, quốc gia thứ hai cũng có thể
tăng thuế quan. Việc tăng cường bảo vệ làm cho các thành phần đầu ra của cả
hai quốc gia hướng tới vị thế tự chủ của họ.
Chiến tranh thương mại xảy ra khi một quốc gia trả đũa nước khác bằng
cách tăng thuế nhập khẩu hoặc đặt ra các hạn chế khác đối với hàng nhập khẩu
của quốc gia kia. Chiến tranh thương mại có thể bắt đầu nếu một quốc gia nhận
thấy rằng quốc gia cạnh tranh có các hành vi thương mại khơng cơng bằng. Các
cơng đồn trong nước hoặc các nhà vận động hành lang trong ngành có thể gây
áp lực với các chính trị gia để khiến hàng hóa nhập khẩu kém hấp dẫn hơn đối
với người tiêu dùng, đẩy chính sách quốc tế tiến tới một cuộc chiến thương mại.
Ngoài ra, chiến tranh thương mại thường là kết quả của sự hiểu nhầm về những
lợi ích phổ biến của thương mại tự do.
Chiến tranh thương mại bắt đầu từ một lĩnh vực này có thể ảnh hưởng
đến các lĩnh vực khác. Tương tự như vậy, một cuộc chiến thương mại bắt đầu
giữa hai quốc gia có thể ảnh hưởng đến các quốc gia khác ban đầu khơng tham
gia vào cuộc chiến thương mại. Như đã nói ở trên, cuộc chiến “ăn miếng trả
miếng” nhập khẩu này có thể xuất phát từ xu hướng bảo hộ. Chiến tranh
thương mại khác biệt với các hành động khác được thực hiện để kiểm soát xuất
nhập khẩu, chẳng hạn như các biện pháp trừng phạt. Thay vào đó, chiến tranh
thương mại có những tác động bất lợi đến quan hệ thương mại giữa hai quốc gia

vì mục tiêu của nó liên quan cụ thể đến thương mại. Ví dụ, các biện pháp trừng


phạt cũng có thể có các mục tiêu từ thiện. Ngồi thuế quan, các chính sách bảo
hộ có thể được thực hiện bằng cách đặt giới hạn hạn ngạch nhập khẩu, đặt ra
các tiêu chuẩn sản phẩm rõ ràng hoặc thực hiện trợ cấp của chính phủ đối với
các quy trình nhằm ngăn cản hoạt động gia cơng.
Trong lịch sử, nền kinh tế thế giới đã trải qua rất nhiều các cuộc chiến
tranh thương mại mà Hoa Kỳ là quốc gia tham dự nhiều nhất. Những cuộc chiến
tranh nổi bật có thể kể đến sau đây:
● Chiến tranh Anh - Hà Lan (1652–1784)
● Chiến tranh nha phiến (1839–1860)
● “Tiệc trà Boston” (1973-1976): cuộc chiến tranh thương mại giữa Anh và
Mỹ, đánh dấu sự ra đời của nước Mỹ.
● “Đạo luật Smoot - Hawley (1930): một thảm họa trong lịch sử Mỹ, dẫn
tới hành động áp thuế trả đũa của nhiều quốc gia, tiêu biểu là Canada và
các nước châu Âu
● Chiến tranh thương mại Anh - Ireland (1932–1938)
● Cuộc chiến thuế gà những năm 1960: cuộc chiến giữa Mỹ với Pháp và
Tây Đức
● Chiến tranh thương mại với Nhật Bản 1987
● Cuộc chiến thương mại về gỗ giữa Canada và Mỹ từ năm 1982
● Chiến tranh thương mại về chuối năm 1993: cuộc chiến áp thuế giữa Mỹ
và các nước trong EU
● Cuộc chiến dai dẳng chưa kết thúc giữa Mỹ và Trung Quốc từ 2018:
Chiến tranh thương mại Mỹ Trung


2. Nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
2.1. Nguyên nhân trực tiếp

Khi phát động chiến tranh thương mại với Trung Quốc vào đầu năm
2018, chính quyền Trump đã chỉ ra hai nguyên nhân chính là: thâm hụt cán cân
thương mại của Mỹ với Trung Quốc; chính sách thao túng tiền tệ của Trung
Quốc để duy trì khả năng cạnh tranh.
Thứ nhất, chính quyền Trump cho rằng thâm hụt thương mại với Trung
Quốc bắt nguồn từ việc Trung Quốc thực hiện gian lận thương mại, gây tổn hại
cho GDP của Mỹ. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, việc Mỹ thâm
hụt thương mại với Trung Quốc có nguồn gốc từ chính nội tại nền kinh tế Mỹ.
Theo nguyên tắc cân bằng cán cân thanh toán BOP, tài khoản vãng lai và cán
cân thương mại của Mỹ thâm hụt vì Mỹ ln duy trì được một tài khoản tài
chính thặng dư. Đây là một đặc quyền của Mỹ vì hầu hết các quốc gia đều coi
đồng USD là tài sản trú ẩn an toàn (safe haven). Điều này thu hút rất nhiều dịng
tài chính chảy vào Mỹ, khiến đầu tư ở Mỹ vẫn có thể duy trì ở mức cao dù tiết
kiệm của Mỹ ở mức thấp. Mức tiết kiệm thấp, người dân Mỹ tăng chi tiêu, trong
đó có cả chi tiêu cho các mặt hàng nhập khẩu, khiến cho Mỹ thâm hụt thương
mại.
Như vậy, với bối cảnh của nước Mỹ, thâm hụt thương mại không nhất
thiết gây tổn hại cho nền kinh tế. Trên thực tế, Mỹ đã thâm hụt thương mại từ
giữa những năm 1990 đến nay, nhưng nền kinh tế vẫn tăng trưởng dương. Thậm
chí, có hai thời điểm mà thâm hụt thương mại của Mỹ giảm, lại gắn liền với hai
cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 2001 và 2009. Nếu chỉ dựa vào quan sát
này thì thâm hụt thương mại lớn chính là biểu hiện của sự tăng trưởng tốt của
nền kinh tế Mỹ. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa thâm hụt thương mại với tăng
trưởng GDP phức tạp hơn nhiều và nó phụ thuộc vào hồn cảnh từng quốc gia,
trong từng thời điểm cụ thể.
Ngoài ra, quan điểm giảm nhập khẩu sẽ khiến cho GDP của nền kinh tế
tăng lên cũng khơng chính xác. GDP là thước đo tổng giá trị hàng hóa và dịch


vụ cuối cùng được sản xuất trên phạm vi quốc gia, nên hàng hóa và dịch vụ

được sản xuất ở nước ngồi và nhập khẩu vào Mỹ hồn tồn khơng có tác động
gì đến GDP của Mỹ. Tất nhiên, nếu hàng hóa nhập khẩu là những mặt hàng
cạnh tranh với hàng sản xuất nội địa của Mỹ thì giảm nhập khẩu có thể sẽ có
những tác động tích cực đến tăng trưởng GDP. Nhưng ngược lại, nếu các mặt
hàng nhập khẩu là các hàng hóa bổ trợ hay sản phẩm đầu vào cho sản xuất nội
địa, thì giảm nhập khẩu sẽ làm giảm tăng trưởng của Mỹ.
Ngay cả khi chiến tranh thương mại Mỹ - Trung làm giảm nhập khẩu của
Mỹ từ Trung Quốc, điều đó cũng khơng bảo đảm sẽ làm giảm thâm hụt thương
mại của Mỹ. Nói cách khác, các rào cản thuế quan với Trung Quốc sẽ có tác
dụng chuyển hướng mậu dịch (trade diversion), chứ khơng làm cho sản xuất nội
địa của Mỹ mở rộng. Thay vì nhập khẩu các mặt hàng từ Trung Quốc, các nhà
nhập khẩu Mỹ sẽ chuyển sang nhập các mặt hàng tương tự từ các quốc gia khác
như Việt Nam, Thái Lan hay In-đô-nê-xi-a. Điều này chỉ làm giảm thâm hụt
thương mại của Mỹ với Trung Quốc, mà không làm thay đổi tổng cán cân
thương mại của Mỹ. Chỉ khi nào cán cân tài chính của Mỹ giảm thặng dư, thì
cán cân thương mại mới giảm thâm hụt. Mà điều này thì khơng thể đạt được
bằng cách phát động một cuộc chiến tranh thương mại.
Thứ hai, chính quyền Mỹ đã nhiều lần nêu lên những quan ngại về việc
Trung Quốc thao túng tiền tệ. Tuy nhiên, tính xác đáng của cáo buộc này từ
phía Mỹ vẫn cịn là vấn đề gây tranh cãi. Các chính trị gia Mỹ thường chỉ trích
Trung Quốc giữ đồng nhân dân tệ dưới giá trị thực khoảng 40%, qua đó khiến
cho hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn một cách tương đối để duy trì
khả năng cạnh tranh thương mại. Chỉ số Big Mac đo lường tỷ giá hối đoái thực
tế và đánh giá các đồng tiền theo ngang giá sức mua cũng cho thấy đồng nhân
dân tệ được định giá thấp hơn so với giá trị thực khoảng 44%. Tuy nhiên, đến
nay chưa có một nghiên cứu khoa học nào đưa ra một con số thật sự thuyết phục
về việc định giá thấp của đồng nhân dân tệ hay việc Trung Quốc thao túng tiền
tệ. Hơn nữa, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cũng không đồng ý với quan điểm Trung



Quốc thao túng tiền tệ và cho rằng giá trị đồng nhân dân tệ là phù hợp với điều
kiện kinh tế của Trung Quốc. Nghiên cứu của N.Moosa và cộng sự năm 2020
cũng đưa ra ý kiến rằng đồng nhân dân tệ không bị định giá thấp và việc định
giá lại đồng nhân dân tệ cũng không giúp cải thiện thâm hụt thương mại của Mỹ
với Trung Quốc.
Chính quyền Mỹ phê phán Trung Quốc thao túng tiền tệ qua cách mà
Chính phủ Trung Quốc điều hành thị trường ngoại hối. Chế độ tỷ giá của Trung
Quốc từ năm 2005 đến nay là chế độ neo tỷ giá hối đoái điều chỉnh dần
(crawling peg). Tỷ giá đồng nhân dân tệ được giữ tương đối ổn định so với
đồng USD và khi cần thiết, Chính phủ Trung Quốc có thể điều chỉnh tỷ giá hối
đoái bằng cách mua hay bán USD trên thị trường ngoại hối. Mặc dù bị Mỹ lên
án, nhưng việc làm của Trung Quốc không hề vi phạm các nguyên tắc của IMF,
vốn đã cho phép các quốc gia được tự do lựa chọn chế độ tỷ giá hối đối phù
hợp với mình từ sau năm 1971 (khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ). Việc các
chính phủ can thiệp vào thị trường ngoại hối không phải việc bất hợp pháp, và
rất nhiều quốc gia sử dụng công cụ này để điều chỉnh tỷ giá đồng tiền của mình.
Như vậy, những nguyên nhân trực tiếp mà Chính phủ Mỹ đưa ra để phát
động cuộc chiến tranh thương mại với Trung Quốc dường như khơng thật sự
thuyết phục hoặc cố tình đưa ra những quan điểm trái với những nguyên lý kinh
tế cơ bản. Hơn nữa, vấn đề thâm hụt thương mại và cáo buộc thao túng tiền tệ
với Trung Quốc hồn tồn khơng phải những vấn đề mới. Nếu như đầu năm
2018, thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc ở mức 419 tỷ USD, thì
ngay từ đầu những năm 2000, giá trị thâm hụt đã đạt khoảng 100 tỷ USD. Chính
quyền Mỹ cũng đã rất nhiều lần cáo buộc Trung Quốc thao túng tiền tệ, lần đầu
tiên vào năm 1994 và sau đó là một số động thái trừng phạt từ Quốc hội Mỹ vào
các năm 2005 và 2010. Việc các vấn đề này đã tồn tại từ lâu mà không dẫn đến
xung đột nào trong quá khứ cho thấy cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
có những nguyên nhân sâu xa hơn.



2.2. Ngun nhân sâu xa
Dưới góc nhìn chiến lược địa kinh tế, ba nguồn gốc sâu xa của cuộc chiến
thương mại Mỹ - Trung là:
Thứ nhất, cuộc chiến này là hệ quả của sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung
Quốc trong gần hai thập kỷ vừa qua. Sự trỗi dậy này bao hàm cả về mặt kinh tế,
quân sự, tài chính quốc tế và đe dọa vị thế dẫn đầu của Mỹ trên trường quốc tế.
Về kinh tế, tuy Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Mỹ,
nhưng xét theo phương pháp ngang giá sức mua, IMF đánh giá Trung Quốc đã
vượt Mỹ vào năm 2014. Trung Quốc cũng vượt qua Mỹ để trở thành nước xuất
khẩu lớn nhất thế giới vào năm 2009 và nước có tổng giá trị thương mại lớn
nhất thế giới vào năm 2013. Với mức tăng trưởng như vậy, Trung Quốc có
thặng dư thương mại rất lớn với Mỹ và nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, từ năm 2000 đến năm 2015, Trung Quốc đã
chuyển từ một nước gia công sản xuất thành một nhà cung cấp linh kiện quan
trọng cho chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong giai đoạn đầu tiên, Trung Quốc chủ
yếu nhập khẩu linh kiện và xuất khẩu sản phẩm hoàn thiện, thì đến giai đoạn
sau, Trung Quốc đã giảm nhập khẩu linh kiện một cách đáng kể nhờ vào sự gia
tăng năng lực sản xuất nội địa. Nghiên cứu cũng chỉ ra những nỗ lực đa dạng
hóa thị trường xuất khẩu của Trung Quốc, tăng trưởng mạnh ở khu vực châu Phi
và châu Mỹ Latinh, song xuất khẩu sang các nước phương Tây vẫn chiếm tỷ
trọng lớn.
Về quân sự, Mỹ và Trung Quốc đang là những quốc gia chi tiêu nhiều
nhất trên thế giới. Ước tính năm 2020, tỷ trọng trong tổng chi tiêu quân sự toàn
cầu của Mỹ là 39% và Trung Quốc là 13%. Trong thập kỷ qua, chi tiêu cho
quân sự của Trung Quốc đã tăng 76%, mức tăng nhanh nhất thế giới trong giai
đoạn này. Tính đến năm 2020, chi tiêu cho quân sự của Trung Quốc đã tăng liên
tục trong vòng 26 năm. Cùng với những bước tiến về kinh tế và quân sự, triết lý
đối ngoại của Trung Quốc cũng có sự thay đổi mạnh mẽ. Từ triết lý “che giấu
khả năng và chờ đợi thời thế” của Đặng Tiểu Bình những năm 1990, Trung



Quốc đã chuyển sang tư tưởng Tập Cận Bình vào năm 2017 về “giấc mơ Trung
Hoa” nhằm trở thành “siêu cường hàng đầu thế giới vào giữa thế kỷ XXI”. Triết
lý này được cụ thể hóa bằng những hành động mang tính thách thức ở khu vực
châu Á - Thái Bình Dương, như vấn đề Biển Đơng, leo thang căng thẳng với
Đài Loan, Nhật Bản... Đây là những hành động mà Mỹ cho rằng gây tổn hại
trực tiếp đến lợi ích của Mỹ và các đồng minh. Vì vậy, từ trước khi cuộc chiến
thương mại nổ ra, Mỹ đã có những chiến lược như “Xoay trục sang châu Á Thái Bình Dương” năm 2011 của chính quyền Obama và “Ấn Độ Dương - Thái
Bình Dương tự do và rộng mở” năm 2017 của chính quyền Trump.
Về tài chính quốc tế, Trung Quốc đã có những bước đi để nâng cao vị thế
của đồng nhân dân tệ và gia tăng đầu tư quốc tế. Những năm gần đây, Trung
Quốc luôn là quốc gia tiếp nhận FDI lớn thứ hai thế giới (sau Mỹ) và là một
trong 5 nước đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn nhất. Trung Quốc cũng rất tích
cực gia tăng ảnh hưởng tài chính ở các nước trong vùng sáng kiến “Vành đai,
con đường” và các nước châu Phi. Trung Quốc đang đóng vai trị chi phối trong
xây dựng hạ tầng ở châu Phi, chiếm hơn 40% nhà thầu xây dựng tại châu lục
này từ năm 2011. Tổng các khoản vay ưu đãi mà Trung Quốc cung cấp cho
châu Phi tính đến năm 2010 là hơn 10 tỷ USD, với cam kết tăng lên 20 tỷ USD
đến năm 2015. Các khoản vay ưu đãi từ Trung Quốc thường giải ngân nhanh và
không đi kèm với các điều kiện cho vay nên nhận được sự quan tâm của các
quốc gia châu Phi. Đối với những nước gặp khó khăn trong thanh tốn nợ,
Trung Quốc khơng nhờ đến sự can thiệp đa phương, mà thường áp dụng thỏa
thuận nợ song phương. Thí dụ, thỏa thuận xóa nợ cho Tátgikixtan năm 2011 để
đổi lấy một vùng lãnh thổ tranh chấp giữa hai quốc gia; đổi nợ 8 tỷ USD của Sri
Lanka lấy quyền thuê cảng Hambantota trong 99 năm vào năm 2017.
Trung Quốc cũng đang nỗ lực đưa đồng nhân dân tệ trở thành phương
tiện dự trữ quốc tế. Mặc dù đồng nhân dân tệ chỉ chiếm khoảng 2% trong dự trữ
ngoại tệ thế giới, nhưng đây là một trong năm đồng dự trữ ngoại tệ phổ biến
nhất. Từ năm 2015, đồng nhân dân tệ cũng được IMF đưa vào rổ tiền để xác



định giá trị Quyền rút vốn đặc biệt SDR. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng tích
cực đưa ra các sáng kiến thành lập các tổ chức tài chính quốc tế để cạnh tranh
với vai trò của IMF, như Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) năm
2015 hay Ngân hàng phát triển mới (NDB) năm 2014 cùng các nước mới nổi
BRICS. Rõ ràng, những biến đổi mạnh mẽ của Trung Quốc về kinh tế, quân sự
và tài chính quốc tế những năm gần đây, đặc biệt từ sau khủng hoảng tài chính
tiền tệ thế giới năm 2009, đã khiến Mỹ thấy vị thế dẫn đầu của mình bị đe dọa.
Điều này trở thành nguồn gốc cơ bản nhất cho cuộc chiến tranh thương mại Mỹ
- Trung, được Mỹ sử dụng như một cơng cụ để kìm hãm sự phát triển của Trung
Quốc.
Thứ hai, đằng sau cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc là cuộc
chiến về mặt công nghệ, đặc biệt là công nghệ số. Trong bối cảnh Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, tri thức và công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Các quốc gia đều đang nỗ lực chạy đua xây dựng hạ tầng công nghệ
và năng lực sản xuất cho tương lai. Từ một kẻ bắt chước vĩ đại, Trung Quốc
đang dần chuyển mình thành một quốc gia sở hữu những công nghệ hàng đầu
thế giới hiện nay. Từ năm 2011 đến nay, Trung Quốc luôn là một trong những
quốc gia đăng ký nhiều bằng sáng chế nhất thế giới. Năm 2016, số lượng bằng
sáng chế của Trung Quốc còn nhiều hơn Mỹ, Liên minh châu u (EU), Nhật Bản
và Hàn Quốc cộng lại. Trung Quốc sở hữu mạng lưới đường sắt cao tốc dài nhất
thế giới (35.388 km), gấp 10 lần nước thứ hai là Tây Ban Nha (3.330 km).
Trung Quốc là quốc gia dẫn đầu thế giới trong công nghệ năng lượng tái tạo.
Hằng năm, Trung Quốc sản xuất ra hơn 1/4 sản lượng năng lượng tái tạo của thế
giới và mức tăng về năng lực sản xuất của Trung Quốc chiếm 1/3 mức tăng của
thế giới. Cuộc chạy đua công nghệ 5G giữa hai nước cũng diễn ra vơ cùng căng
thẳng. Ước tính năm 2020, Trung Quốc đã phủ sóng 5G cho 341 thành phố với
khoảng 175 triệu người dùng, trong khi Mỹ phủ sóng cho 279 thành phố với 14
triệu người dùng.



Tuy Mỹ vẫn vượt trội Trung Quốc ở nhiều lĩnh vực công nghệ khác,
nhưng rõ ràng Mỹ không muốn thất bại trong cuộc chạy đua công nghệ mới, ở
các lĩnh vực mà lợi thế quy mô hay lợi thế của kẻ đi trước có thể quyết định đến
vị trí dẫn đầu trong tương lai. Chính vì vậy, việc sử dụng cơng cụ thuế quan
thương mại có thể giúp kìm hãm sự phát triển cơng nghệ của Trung Quốc, hoặc
ít nhất cũng giúp bảo hộ các doanh nghiệp công nghệ nội địa của Mỹ phát triển.
Mỹ đã đưa ra những rào cản thương mại cho sản phẩm công nghệ như pin năng
lượng mặt trời, thiết bị thông minh và vật liệu bán dẫn đối với Trung Quốc. Đó
là áp thuế suất tự vệ đối với 8,5 tỷ USD pin năng lượng mặt trời nhập khẩu
(tháng 1-2018); giới hạn khả năng tiếp cận hàng hóa sản xuất tại Mỹ đối với tập
đồn Huawei dựa trên cáo buộc rửa tiền và vi phạm lệnh cấm vận (tháng 32019); giới hạn xuất khẩu các thiết kế, phần mềm, thiết bị bán dẫn của Mỹ đối
với tập đồn SMIC (tháng 12-2020). Đây khơng phải lần đầu tiên Mỹ sử dụng
công cụ thuế quan thương mại để chiếm ưu thế trong cuộc đua công nghệ.
Những năm 1980, khi thâm hụt thương mại lớn với Nhật Bản, Mỹ đã từng áp
thuế cao đối với mặt hàng nhập khẩu từ Nhật. Để tránh một cuộc chiến thương
mại với Mỹ, Nhật Bản đã chấp nhận áp dụng hạn ngạch xuất khẩu tự nguyện
(VER) đối với xe hơi xuất khẩu sang Mỹ từ năm 1981 đến 1985. Nhật Bản còn
cam kết dành 20% thị phần vật liệu bán dẫn nội địa của mình cho hàng của Mỹ
trong giai đoạn 1986-1996. Mỹ đã áp dụng chiến lược tương tự như vậy với
Trung Quốc vào năm 2018, chỉ khác rằng Trung Quốc đã không chấp nhận
nhượng bộ mà lựa chọn leo thang căng thẳng thương mại với Mỹ.
Thứ ba, phát động một cuộc chiến thương mại với Trung Quốc sẽ giúp
tạo thêm nguồn thu cho ngân sách Mỹ, vốn đang ở tình trạng thâm hụt sâu. Vào
thời điểm phát động cuộc chiến tranh thương mại với Trung Quốc năm 2018,
ngân sách của Mỹ thâm hụt 779 tỷ USD, tương đương 3,9% GDP. Nợ công của
Mỹ ở mức 78% GDP, cao nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Thực tế,
ngân sách của Mỹ đã ln ở tình trạng thâm hụt từ năm 2002 đến nay. Tuy
nhiên, chính sách cắt giảm thuế doanh nghiệp của chính quyền Tổng thống



Trump đã làm giảm thu ngân sách, khiến thâm hụt ngân sách tăng 17% trong
năm 2018. Điều này cũng hối thúc chính phủ Mỹ phải tìm những nguồn thu
ngân sách mới, dẫn đến cuộc xung đột thương mại với Trung Quốc. Cựu Tổng
thống Trump đã nhiều lần tuyên bố chính sách thuế nhập khẩu đã giúp Mỹ thu
được nguồn tài chính lớn từ phía Trung Quốc.
Theo lý thuyết kinh tế học, gánh nặng thuế quan không chỉ rơi vào người
bán, mà phụ thuộc vào độ co giãn tương đối giữa cung và cầu. Không chỉ những
nhà sản xuất Trung Quốc, mà chính người tiêu dùng Mỹ cũng phải đóng góp
một phần (ít hay nhiều tùy từng mặt hàng cụ thể) vào doanh thu từ thuế nhập
khẩu của Chính phủ Mỹ. Tuy nhiên, kết quả vẫn là tăng thêm nguồn thu ngân
sách. Năm 2019, doanh thu từ thuế nhập khẩu của Mỹ là 71 tỷ USD, tăng so với
mức 36 tỷ USD của năm 2016. Các tính tốn từ mơ hình thuế tổng hợp cũng
đưa ra dự báo, tác động tổng hợp của chính sách thuế nhập khẩu của Mỹ với
Trung Quốc sẽ tăng thu ngân sách cho Mỹ 79,96 tỷ USD. Con số này có thể cịn
q nhỏ so với ngân sách của Mỹ, nhưng cũng góp phần tạo nên sự ủng hộ của
các chính trị gia Mỹ đối với việc phát động một cuộc chiến thương mại với
Trung Quốc. Tính đến năm 2020, do tác động của đại dịch Covid-19, thâm hụt
ngân sách của Mỹ đã tăng lên 3,1 nghìn tỷ USD, tương đương 14,9% GDP. Dự
báo đến năm 2051, nợ công của Mỹ sẽ vượt quá 200% GDP và thâm hụt ngân
sách ở mức 11,5% GDP. Điều này sẽ khiến cho những chính sách có tác động
giảm thu ngân sách khó nhận được sự ủng hộ hơn trên chính trường Mỹ, trong
đó có cả chính sách giảm nhiệt căng thẳng thương mại với Trung Quốc.


3. Diễn biến chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
Bảng tóm tắt diễn biến chiến tranh thương mại Mỹ - Trung từ năm 2018 - 2022:
Thời gian

Động thái của các bên

Mỹ

Trung Quốc

22/03/2018 Hoa Kỳ áp dụng đánh thuế 50 tỷ
USD hàng hóa Trung Quốc
02/04/2018

Trung Quốc áp thuế nhập khẩu
(15-25%) lên 128 hàng hóa (trị
giá 3 tỷ đơ) từ Mỹ bao gồm hoa
quả, rượu, ống thép, lợn, và
nhôm tái chế, nhằm đáp trả lại
thuế nhập khẩu Mỹ áp lên các
sản phẩm thép và nhơm của
Trung Quốc

06/07/2018 Mỹ chính thức áp dụng gói thuế

Trung Quốc đáp trả bằng gói

nhập khẩu 25% lên đến 34 tỷ USD thuế quan nhập khẩu 25% tương
hàng từ Trung Quốc.

tự lên 34 tỷ USD hàng nhập
khẩu từ Mỹ

23/08/2018 Mỹ chính thức áp thuế nhập khẩu Danh sách 2 áp thuế trả đũa trị
25% lên 279 mặt hàng – Danh sách giá 16 tỷ USD của Trung Quốc
2 từ Trung Quốc (trị giá 16 tỷ


nhằm vào 333 mặt hàng từ Mỹ

USD)

có hiệu lực đồng thời với lệnh áp
thuế của Mỹ
Cùng ngày, Trung Quốc cũng
khiếu nại Mỹ lên WTO về việc


áp thuế nhập khẩu theo Điều 301
lên 16 tỷ USD hàng từ Trung
Quốc (theo Danh sách 2 của Mỹ)
24/09/2018 Mỹ chính thức áp thuế 10% lên

Trung Quốc chính thức áp thuế

200 tỷ USD hàng từ Trung Quốc, 5-10% lên 60 tỷ USD hàng từ
đưa tổng trị giá hàng Trung Quốc Mỹ.
bị áp thuế lên tới 250 tỷ USD. Mức
thuế này sẽ tăng lên 25% kể từ
1/1/2019

Trung Quốc phát hành "Sách
Trắng", đề cập tới vị thế chính
phủ trong quan hệ thương mại
Mỹ - Trung.

02/12/2018 Mỹ và Trung Quốc đạt được "thỏa thuận đình chiến thương mại",

nhất trí khơng áp đặt các biện pháp thuế quan mới trong vòng 90
ngày, cho tới ngày 1/3/2019; và hai bên sẽ đàm phán để đạt được
thỏa thuận thương mại chung.
21-

Mỹ và Trung Quốc tiến hành hội đàm tại Washington. Tổng thống

24/02/2019 Trump thông báo gia hạn đình chiến thương mại Mỹ- Trung vì
những nỗ lực đã đạt được trong các cuộc đàm phán.
10/04/2019 Mỹ và Trung Quốc đồng ý thành lập một “văn phòng thực thi” để
quản lý việc tuân thủ thỏa thuận thương mại giữa hai nước, dự kiến
sẽ sớm hoàn tất trong năm 2019.
10/05/2019 Mỹ chính thức áp thuế 25% lên

Để đáp trả, Trung Quốc tuyên bố

hàng hóa từ Trung Quốc trị giá 200 sẽ sớm tiến hành các biện pháp
tỷ USD theo Danh sách 3 từng

trả đũa.

công bố.
13/05/2019

Trung Quốc tuyên bố sẽ áp thuế


bổ sung 10-25% lên hàng hóa từ
Mỹ trị giá 60 tỷ USD, chính thức
có hiệu lực từ 1/6/2019

01/09/2019 Mỹ chính thức áp thuế bổ sung lên Trung Quốc trả đũa bằng việc
125 tỷ USD hàng nhập khẩu Trung chính thức áp thuế bổ sung lên
Quốc (Danh sách 4A), với phạm vi hàng hóa Mỹ theo Danh sách 1
hàng hóa bị áp thuế trải rộng từ

đã cơng bố trước đó

giày dép, thực phẩm, đồng hồ đến
TV màn hình phẳng...
15/01/2020 Mỹ và Trung Quốc ký kết thỏa thuận thương mại giai đoạn 1.
Trung Quốc đồng ý mua 200 tỷ USD hàng hóa từ Mỹ trong vịng 2
năm.
Mỹ cam kết khơng áp thêm thuế quan lên hàng hóa Trung Quốc.
Tuy nhiên, Mỹ vẫn giữ nguyên mức thuế quan đã áp lên 250 tỷ USD
hàng Trung Quốc. Mức thuế 15% được áp ngày 1-9-2019 lên 120 tỷ
hàng nhập từ Trung Quốc sẽ giảm xuống mức 7,5%.
23/03/2022 Văn phòng Đại diện Thương mại
Mỹ (USTR) ra quyết định khôi
phục miễn trừ thuế quan đối với
352 mặt hàng nhập khẩu từ Trung
Quốc
27/05/2022 USTR tiếp tục ra thông báo kéo dài
thời hạn miễn thuế đối với 81 sản
phẩm y tế nhập khẩu từ Trung
Quốc thêm 6 tháng đến ngày
30/11/2022


CHƯƠNG II. TÁC ĐỘNG CỦA CHIẾN TRANH THƯƠNG MẠI MỸ TRUNG TỚI VIỆT NAM
1. Tác động tích cực của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung tới Việt Nam

1.1. Thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
Nếu nhìn nhận ở góc độ tích cực, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung sẽ
đem lại cơ hội xuất khẩu sang thị trường Mỹ và thị trường Trung Quốc cho một
số mặt hàng của Việt Nam tương tự với các sản phẩm bị áp thuế và các sản
phẩm sử dụng sản phẩm bị áp thuế làm nguyên liệu đầu vào. Việc Mỹ áp thuế
đối với hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc sẽ làm giảm sức cạnh tranh hàng
hóa của nước này, thậm chí cịn tạo ra và đẩy nhanh xu hướng dịch chuyển nhập
khẩu hàng hóa của Mỹ từ Trung Quốc sang các thị trường thay thế khác, trong
đó có Việt Nam. Theo tính tốn của Viện nghiên cứu Kinh tế Quốc tế Peterson
từ dữ liệu của USITC, trong số các mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc bị Mỹ
đánh thuế 25% trong đợt đầu tiên và thứ hai với tổng trị giá lên đến 50 tỷ USD,
hàng hóa trung gian, tư liệu sản xuất, phương tiện vận tải chiếm tỷ trọng cao,
còn hàng tiêu dùng chiếm tỷ lệ rất thấp. Tuy nhiên, vào lần đánh thuế 10% (tăng
lên 25% vào ngày 01/01/2019) lên 200 tỷ USD hàng hóa nhập khẩu từ Trung
Quốc có hiệu lực vào ngày 24/09/2018 thì danh mục đã mở rộng sang rất nhiều
nhóm hàng tiêu dùng, trong đó có đồ gỗ và nội thất, túi xách, nơng thủy sản là
các nhóm hàng khá tương đồng với một số hàng hóa tiêu dùng của Việt Nam
xuất khẩu chủ lực sang Mỹ. Có thể thấy đây chính là cơ hội tốt để Việt Nam mở
rộng thị trường tiêu thụ và khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Hiện nay, gỗ
và sản phẩm gỗ của Việt Nam được tiêu thụ tại 120 quốc gia và vùng lãnh thổ
trên thế giới, với 5 thị trường chính là Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, EU và Hàn
Quốc. Tại thị trường Mỹ, tính đến tháng 7/2018, xuất khẩu của Việt Nam sang
đây đã đạt hơn 141 triệu USD, tăng 81,4% so với cùng kỳ năm 2017. Có nhiều
lý do dẫn đến sự tăng trưởng này, trong đó có sự sụt giảm mạnh của ngành gỗ
Trung Quốc do bị Mỹ kiện phá giá và do thuế xuất khẩu gỗ của Trung Quốc. Do
vậy, ngành gỗ của Việt Nam sẽ có cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường


Mỹ. Theo ước tính, việc áp thuế mới của Mỹ sẽ khiến kim ngạch xuất khẩu gỗ
từ Trung Quốc sang Mỹ giảm từ 7-8 tỷ USD nhưng do nhu cầu thị trường

khơng giảm nên Mỹ sẽ phải tìm nguồn cung thay thế. Và khi ấy chính là cơ hội
để các doanh nghiệp gỗ của Việt Nam mở rộng thị phần tại Mỹ.
Ngồi ra, Việt Nam sẽ có cơ hội để giành giật các thị trường Mỹ từ Trung
Quốc như dệt may, da giày, vali, túi xách, lắp ráp điện từ, các loại chip, chất bán
dẫn, đồ chơi trẻ em, thể thao…
Ngồi các sản phẩm cơng nghiệp, Việt Nam có thể tăng xuất khẩu nông
sản như cá tra sang Mỹ. Hiện nay, Mỹ đang là một trong những thị trường cá tra
lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu đạt 75 triệu USD trong quý I
năm 2018, tăng 235 so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt, Việt Nam chiếm 90%
thị phần xuất khẩu cá tra vào Mỹ, trong khi đó Trung Quốc chỉ chiếm 10%. Dù
vậy, Trung Quốc hầu như chỉ xuất khẩu các sản phẩm chế biến sẵn nên giá
thành của họ cao gần như gấp đôi so với cá tra Việt Nam. Khi bị áp thuế quá
cao, các sản phẩm cá tra chế biến của Việt Nam được kỳ vọng sẽ là lựa chọn
thay thế phù hợp nhất.
1.2. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
Bên cạnh gia tăng xuất khẩu thì thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI)
cũng chính là cơ hội và xu hướng chuyển dịch đầu tư từ Trung Quốc sang các
nước Đơng Nam Á, trong đó có Việt Nam do chi phí gia tăng và rủi ro khi kinh
doanh tại Trung Quốc. Hiện nay, một số doanh nghiệp Mỹ đang đầu tư tại
Trung Quốc cũng có xu hướng chuyển dịch sản xuất sang các quốc gia khác và
Việt Nam, ví dụ như Procon Pacific trước đây sản xuất toàn bộ sản phẩm tại
Trung Quốc hiện đã phân bổ 25% tại Ấn Độ và 5-10% tại Việt Nam. Căng
thẳng thương mại Mỹ - Trung cũng có thể là cơ hội cho Việt Nam trong việc thu
hút thêm đầu tư từ Mỹ và là cú hích để sự dịch chuyển này diễn ra nhanh hơn.
Với vị trí địa lý gần Trung Quốc, chi phí lao động rẻ, tình hình kinh tế
chính trị ổn định, bên cạnh đó là những lợi thế của Hiệp định thương mại song
phương Mỹ - Việt (BTA), 13 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã được ký kết


và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đang chờ phê chuẩn như Hiệp

định thương mại Việt Nam - EU (EVFTA), Việt Nam trở thành điểm đến hấp
dẫn các cơng ty đa quốc gia sau khi có căng thẳng thương mại. Các nhà sản xuất
lớn trên toàn cầu như Intel, Foxconn, LG và Samsung đều đã chuyển các nhà
máy của họ sang Việt Nam, theo báo cáo của Bộ phận phân tích của Tạp chí
Economist (EIU). Đồng thời, các công ty Trung Quốc cũng đang chuyển đơn
đặt hàng sản xuất hàng hóa bị ảnh hưởng bởi mức thuế cao hơn các đối tác tại
Việt Nam. Một số nhà sản xuất Trung Quốc có thể tăng đầu tư vào Việt Nam
hoặc hợp tác với các công ty tại Việt Nam để thực hiện các đơn đặt hàng cho
các đối tác của họ tại thị trường Hoa Kỳ. Theo một số cuộc khảo sát các nhà sản
xuất Trung Quốc được thực hiện bởi Ngân hàng Standard Chartered Bank vào
tháng 6/2018, các cơng ty sản xuất của Trung Quốc nói rằng họ muốn di dời các
nhà máy của họ đến Việt Nam nhiều hơn bất kỳ nước nào khác, và với chiến
tranh thương mại Mỹ - Trung, các công ty có thêm một lý do khác để chuyển
sản xuất sang Việt Nam, đó chính là để tránh thuế trừng phạt của Mỹ.
2. Tác động tiêu cực của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung tới Việt Nam
2.1. Hàng hóa Việt Nam đối mặt với sự cạnh tranh và kiểm định cao hơn
Sau khi gặp khó khăn tại thị trường Mỹ, hàng hóa có xuất xứ Trung Quốc
sẽ đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường khác bao gồm cả Việt Nam. Với các
lợi thế về nguyên vật liệu, kỹ thuật, giá cả, trình độ gia cơng, hàng hóa Trung
Quốc khi được tăng cường xuất khẩu sang nước ta sẽ tạo ra sức ép khơng hề
nhỏ với hàng hóa nội địa.
Mặt khác, vì bị sụt giảm xuất khẩu ở một thị trường lớn như Mỹ, Trung
Quốc sẽ có kế sách tập trung tiêu thụ hàng hóa nội địa. Khi ấy, lượng hàng hóa
nhập khẩu từ Việt Nam của quốc gia này sẽ bị giảm thiểu, từ đó tạo ra nhiều
điều kiện bất lợi với đầu ra của các loại hàng hóa khác nhau bao gồm nông sản,
thủy hải sản, thiết bị điện tử, linh kiện máy tính...của Việt Nam.


Theo thống kê, mặc dù xuất nhập khẩu nói chung của Việt Nam vẫn tăng
trong quý I/2019 (xuất khẩu tăng 4,7% và nhập khẩu tăng 8,9%), xuất nhập

khẩu một số mặt hàng chủ lực đã có dấu hiệu giảm sút. Cụ thể, xuất khẩu điện
thoại và linh kiện trong quý I/2019 đạt 12,1 tỷ USD, giảm 4,3% so với cùng kỳ
năm trước; nhập khẩu điện thoại và linh kiện giảm 15,4%, đạt 2,8 tỷ USD. Kim
ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản quý I/2019 cũng giảm so với cùng
kỳ năm trước.
Cuộc chiến thương mại Hoa Kỳ - Trung chắc chắn sẽ làm giảm tốc độ
phục hồi của nền kinh tế tồn cầu. Điều này sẽ kéo theo tình trạng giảm nhu cầu
đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. TS. Trần Toàn Thắng, Trưởng Ban
Kinh tế Thế giới, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia nhận
định: "Tốc độ tăng GDP của Việt Nam năm 2019 được dự kiến sẽ giảm 0,3% và
mạnh hơn trong các năm 2021-2023. Tương tự, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu sẽ
giảm nhẹ 0,6%”.
Về mặt kiểm định, tuy có được lợi ích từ việc tăng lượng hàng hóa xuất
khẩu sang Mỹ, chính điều này cũng gây ra nguy cơ khiến hàng hóa Việt Nam
chịu sự chú ý, nằm trong tầm ngắm kiểm định kỹ càng hơn, gắt gao hơn của
Mỹ, từ đó có thể khiến thuế xuất khẩu của các mặt hàng nước ta cao hơn.
2.2. Việt Nam gặp thiệt hại về mặt nhận đầu tư
Theo lý thuyết, Chiến tranh Thương mại sẽ làm tăng độ rủi ro cho nền
kinh tế tồn cầu. Vì vậy, dịng vốn thế giới sẽ có xu hướng chọn những thị
trường uy tín, ổn định, an tồn và rút khỏi những thị trường cịn mới như Việt
Nam.
Bên cạnh đó, nếu tính tổng số vốn đầu tư từ Hồng Kông, Đài Loan và
Trung Quốc đại lục thì Trung Quốc đang là nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam.
Một phần lớn số vốn đầu tư này có mục đích sản xuất các chi tiết, bộ phận để
xuất khẩu sang Mỹ. Vì vậy, khi thị trường Mỹ gặp khó khăn, dịng vốn Trung
Quốc rót vào Việt Nam cũng đối mặt nguy cơ giảm sút.




×