Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận cao học, cơ chế đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.38 KB, 30 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ VÀ CẦM QUYỀN

Đề tài:
CƠ CHẾ ĐẢM BẢO QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
CỦA NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG CHÍNH........................................................................................3
CHƯƠNG 1.KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ.............3
1.1. Một số khái niệm cơ bản............................................................................3
1.2. Phân loại quyền lực chính trị......................................................................4
1.3. Chức năng, kết cấu, đặc trưng của quyền lực chính trị..............................5
1.4. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kiểm sốt quyền lực chính
trị.......................................................................................................................6
CHƯƠNG 2. CƠ CHẾ ĐẢM BẢO QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ CỦA NHÂN
DÂN VIỆT NAM..............................................................................................8
2.1. Cơ sở, phương thức và nhân tố đảm bảo quyền lực chính trị của nhân
dân.....................................................................................................................8
2.2. Về nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân..................10
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐẢM BẢO. .20
KẾT LUẬN....................................................................................................27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................28


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (được sửa đổi


năm 2013) đã chính thức được cơng bố trước quốc dân, đồng bào và tồn thế
giới. Đó là bản Hiến pháp được kết hợp hài hòa nhất giữa ý Đảng Cộng sản
Việt Nam và lòng dân, là đạo luật cơ bản nhất của nước ta trong tiến trình tiếp
tục đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa hội
nhập quốc tế. Trong bản Hiến pháp với sự tập trung cao nhất trí tuệ của tồn
Đảng, toàn dân Việt Nam, một trong những nội dung bao trùm là đề cao
quyền lực của nhân dân. Đây là quan điểm nền tảng xuyên suốt các chương,
điều của Hiến pháp, chỉ rõ nguồn gốc, bản chất, sức mạnh của quyền lực nước
ta là ở nhân dân, thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực
Nhà nước. Vì vậy vấn đề nghiên cứu quyền lực chính trị nói chung, cơ chế
đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân nói riêng đã được đặt ra như một
yêu cầu với Đảng và Nhà nước Việt Nam, với mỗi cán bộ, đảng viên để nhằm
phát huy tốt nhất quyền làm chủ của nhân dân, theo đúng tinh thần của Hiến
pháp quy định.
Xuất phát từ ý nghĩa đó, em xin chọn đề tài: “Cơ chế đảm bảo quyền
lực chính trị của nhân dân ở Việt Nam hiện nay” làm tiểu luận kết thúc
mơn học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khái quát một số vấn đề lý luận về quyền lực chính trị, đề tài
phân tích, đánh giá cơ chế đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân Việt
Nam; từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hồn thiện cơ chế đó trong tình
hình hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát chung về quyền lực chính trị.
1


- Phân tích, đánh giá cơ chế đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân
ở Việt Nam.

- Đề xuất những giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả hoàn thiện cơ chế
đó trong tình hình hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: cơ chế đảm bảo quyền lực chính trị của nhân
dân ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: trong hệ thống chính trị ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quyền lực chính trị của nhân dân.
- Các phương pháp cụ thể: sử dụng kết hợp các phương pháp như phân
tích tài liệu, tổng hợp, so sánh,...
5. Kết cấu nội dung của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết thúc, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm
các chương sau:
Chương 1. Khái quát chung về quyền lực chính trị
Chương 2. Cơ chế đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân Việt
Nam
Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện cơ chế đảm bảo quyền lực
chính trị của nhân dân ở Việt Nam

2


NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
a) Khái niệm quyền lực, quyền lực chính trị
Theo Từ điển Hán – Việt, “quyền lực” là “cái sức mạnh có thể cưỡng

chế người ta phải phục tùng mình”. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam,
“quyền lực” là quyền định đoạt và sức mạnh để đảm bảo sự thực hiện.”
Tóm lại, quyền lực là năng lực (hay khả năng) của một chủ thể buộc
chủ thể khác (đối tượng) phải hành động theo ý chí của mình, bất kể sự
kháng cự.
Quyền lực chính trị là năng lực (hay khả năng) của một chủ thể chính
trị (giai cấp, tầng lớp xã hội) nhất định trong việc áp đặt mục tiêu chính trị của
mình đối với xã hội.
Quyền lực chính trị là quyền sử dụng sức mạnh của một hay liên minh
giai cấp, tập đoàn xã hội nhằm thực hiện sự thống trị chính trị, là năng lực áp
đặt và thực thi các giải pháp phân bổ giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình –
chủ yếu thông qua đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
c) Khái niệm nhân dân
Dân, người dân, quần chúng nhân dân, nhân dân, trước hết là những thuật
ngữ chỉ toàn thể những con người sinh sống trong một quốc gia – dân tộc. Khái
niệm nhân dân có tính lịch sử, nội hàm của khái niệm này ngày càng mở rộng
tùy theo sự phát triển của lịch sử, của chính trị và nhà nước. Nhân dân là một
tầng lớp, một giai cấp đại diện cho một quốc gia, dân tộc nhất định.
Có thể hiểu: nhân dân là những bộ phận dân cư, giai cấp và tầng lớp xã
hội sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội.
c) Cơ chế kiểm sốt quyền lực chính trị
3


Cơ chế kiểm sốt quyền lực chính trị là sự vận hành một cách đồng bộ
và thống nhất hệ thống các thể chế, thiết chế liên quan trong thực thi và kiểm
soát quyền lực của Đảng, Nhà nước và các thành viên của hệ thống chính trị,
trên nền tảng Quốc pháp, Đảng cương và truyền thống chính trị dân tộc phù
hợp với luật pháp và các thông lệ quốc tế. Kiểm sốt quyền lực chính trị nhằm

bảo đảm các chủ thể kiểm soát và các đối tượng được kiểm soát hoạt động
đúng vị thế, chức năng và nhiệm vụ của mình được Hiến định, theo pháp luật
và Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng.
1.2. Phân loại quyền lực chính trị
Tiêu chí phân loại:
Trong thực tế nghiên cứu chính trị học, việc phân loại quyền lực chính
trị thường căn cứ vào các tiêu chí chủ yếu như: hình thái kinh tế - xã hội; dấu
hiệu chủ thể quyền lực; phương thức tổ chức quyền lực,…
Ngồi ra cịn các cách phân loại theo tiêu chí khác: quyền lực tiềm
năng và quyền lực thực tế; năng lực thưởng phạt như bạo lực; sự thống trị;
thẩm quyền; sự thuyết phục,…
Các loại quyền lực chính trị:
Sự đa dạng của tiêu chí phân loại dẫn đến sự đa dạng của các loại
quyền lực chính trị. Chẳng hạn vài tiêu chí như sau:
Theo tiêu chí hình thái kinh tế - xã hội, có quyền lực chính trị của giai
cấp chủ nô trong xã hội chiếm hữu nơ lệ quyền lực chính trị của giai cấp địa
chủ phong kiến trong xã hội phong kiến, quyền lực chính trị của giai cấp tư
sản trong xã hội tư bản, quyền lực chính trị của giai cấp cơng nhân và nhân
dân lao động trong xã hội xã hội chủ nghĩa,…
Theo tiêu chí dấu hiệu chủ thể quyền lực, có quyền lực của cá nhân,
quyền lực của tổ chức, quyền lực của cộng đồng, của tầng lớp và giai cấp xã
hội,…
Theo tiêu chí phương thức tổ chức quyền lực, có quyền lực quân chủ,
quyền lực độc tài, quyền lực hợp pháp và quyền lực bất hợp pháp,…
4


Theo tiêu chí hình thức quyền lực chính trị, có 02 loại quyền lực là
chính thức và phi chính thức, v.v…
1.3. Chức năng, kết cấu, đặc trưng của quyền lực chính trị

* Chức năng của quyền lực chính trị: chức năng thống trị, chức năng
điều chỉnh, chức năng tập hợp.
* Kết cấu của quyền lực chính trị:
Kết cấu của quyền lực chính trị gồm những yếu tố chủ yếu sau: chủ
thể, đối tượng, nguồn gốc, cơ sở, nguồn lực và phương tiện. Ngồi ra, cịn
các yếu tố: phương hướng và phương thức vận hành quyền lực; các bước
vận hành và tính tầng lớp của quyền lực, tính thời gian của việc thực thi
quyền lực; kết quả thực thi quyền lực,…
* Đặc trưng của quyền lực chính trị:
- Quyền lực chính trị có tính khách quan
Sự xuất hiện của quyền lực chính trị là kết quả tất yếu của chính sự
phát triển xã hội có giai cấp. Sự phân cơng lao động xã hội (đến trình độ
nhất định) dẫn đến phân hóa xã hội thành các giai cấp, quyền lực cơng của
xã hội thành các giai cấp, quyền lực công của xã hội thành quyền lực của
giai cấp thống trị (quyền lực chính trị) và quyền lực chính trị chuyển thành
quyền lực nhà nước.
- Quyền lực chính trị có tính chính đáng
Cũng như mọi loại quyền lực, sự thừa nhận xã hội là yếu tố quan
trọng, đảm bảo việc thực thi quyền lực chính trị. Cấu trúc tính chính đáng
của quyền lực chính trị bao gồm tính cơng ích (chuẩn mực và giá trị chung),
tính hợp lệ trong cách thức đạt quyền lực, sử dụng quyền lực đúng mục đích
và hiệu quả.
- Quyền lực chính trị có tính giai cấp
Tính giai cấp là thuộc tính bản chất của quyền lực chính trị, mọi quan
hệ chính trị, quan hệ quyền lực chính trị đều thể hiện (ở mức độ nào đó) sự
chi phối của giai cấp, tầng lớp thống trị đối với xã hội (ẩn sau những biểu
5


hiện rất phong phú và phức tạp quyền lực chính trị bao giờ cũng có sự chi

phối của các quan điểm, lợi ích và ý thức hệ giai cấp).
1.4. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kiểm soát quyền
lực chính trị
Ở đâu có quyền lực thì ở đó có u cầu kiểm sốt quyền lực với vai
trị như một công cụ điều tiết, bảo đảm cho quyền lực được sử dụng hợp lý,
hiệu quả. Trong lĩnh vực chính trị, vấn đề kiểm sốt quyền lực càng có ý
nghĩa quan trọng, bởi vì nó liên quan đến lợi ích sống còn của một dân tộc,
sự bền vững của một quốc gia, sự tồn vong của một chế độ.
Trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng, cơng tác xây dựng Đảng và
chính quyền Nhà nước trong đó có vấn đề kiểm sốt quyền lực ln ln
được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm. Đặc biệt,
từ sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước dân chủ nhân dân ra
đời, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền, vấn đề kiểm soát
quyền lực nhằm xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh, bảo đảm cho sự bền vững của chế độ và sự thắng lợi của công
cuộc xây dựng phát triển đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội càng được
quan tâm chú ý hơn, bắt đầu từ nhận thức ngày càng rõ hơn về sự cần thiết, ý
nghĩa, yêu cầu và phương pháp giải quyết vấn đề kiểm sốt quyền lực chính
trị.
Tháng 2-1947, chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân non trẻ mới trải
qua hơn một năm trong khi đất nước ngổn ngang những khó khăn, thiếu thốn,
phức tạp, các cơ quan của Đảng, Nhà nước ở Trung ương phải rút lên Chiến
khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo và phê bình nghiêm khắc
tình trạng “qn phiệt quan liêu”, “óc địa vị”, “tính kiêu ngạo” trong hàng
ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước ở một số địa phương. Trong hai bức thư gửi
các đồng chí Bắc Bộ và gửi các đồng chí Trung Bộ, Người đã thẳng thắn chỉ
ra những khuyết điểm, những biểu hiện tiêu cực trong cán bộ. Đó là tình
trạng: “ Khi phụ trách ở một vùng nào thì như một ơng vua con ở đấy, tha hồ
6



hách dịch, hoạnh họe. Đối với cấp trên thì xem thường, đối với cấp dưới thì cậy
quyền lấn áp. Đối với quần chúng ra vẻ quan cách làm cho quần chúng sợ hãi.
Cái đầu óc “ơng tướng, bà tướng” ấy đã gây ra bao ác cảm, bao chia rẽ, làm
cho cấp trên xa cấp dưới, đoàn thể xa nhân dân”. Hoặc, “có những đồng chí
cịn giữ óc địa vị, cố tranh làm cho được ủy viên này, chủ tịch kia. Cịn có
những đồng chí chỉ lo ăn ngon, mặc đẹp, lo phát tài, lo chiếm của công làm của
tư, đạo đức cách mệnh thế nào, dư luận chê bai thế nào cũng mặc...”. Đó là
biểu hiện của thói quan liêu, đồng thời cũng phản ánh tình trạng bng lỏng,
chưa có cơ chế giải pháp kiểm soát quyền lực trong các cơ quan của chính
quyền cách mạng lúc đó. Nhận thấy những biểu hiện tiêu cực ấy sẽ ảnh hưởng
xấu đến sự đoàn kết nội bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân,
làm cho tổ chức đảng và chính quyền suy yếu, khơng đủ năng lực hồn thành
nhiệm vụ cách mạng nặng nề và vẻ vang, Hồ Chí Minh yêu cầu các tổ chức
đảng và chính quyền ở các địa phương trong cả nước phải “mang toàn bộ tinh
thần cách mạng” mà sửa chữa, khắc phục những khuyết điểm, hạn chế đó.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực được thể hiện thể
hiện nhất quán trong nhận thức lý luận cũng như trong các chủ trương, đường
lối của Đảng về lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị. Báo cáo Chính trị tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986, nhấn mạnh: “Chúng ta đã
xác định mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý
thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”. Báo cáo chính trị tại Đại
hội VI của Đảng cũng nhấn mạnh u cầu mọi người bình đẳng trước pháp
luật, phải tơn trọng và chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh. “Trong điều kiện
đảng cầm quyền, mọi cán bộ, bất cứ ở cương vị nào, đều phải sống và làm
việc theo pháp luật, gương mẫu trong việc tôn trọng pháp luật. Không cho
phép bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật. Mọi vi phạm đều phải
được xử lý. Bất cứ ai phạm pháp đều đưa ra xét xử theo pháp luật, không
được giữ lại để xử lý “nội bộ”. Khơng làm theo kiểu phong kiến: dân thì chịu
hình pháp, quan thì xử theo “lễ”. Hiến pháp quy định: “Khi xét xử, thẩm phán

và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
7


CHƯƠNG 2.
CƠ CHẾ ĐẢM BẢO QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ
CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM
2.1. Cơ sở, phương thức và nhân tố đảm bảo quyền lực chính trị
của nhân dân
2.1.1. Cơ sở của quyền lực chính trị của nhân dân
Cơ sở kinh tế của QLCT của nhân dân là những nguồn lực kinh tế mà
nhân dân nắm trong tay. Cơ sở kinh tế của QLCT của nhân dân thể hiện tập
trung và trước hết ở:
Thứ nhất, chế độ sở hữu xã hội hay sở hữu tồn dân – thơng qua vai
trị của Nhà nước gọi là sở hữu nhà nước – nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân đối với tư liệu sản xuất, trước hết là những tư liệu sản
xuất chủ yếu một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua Nhà nước, ở Hiến
pháp pháp luật hoặc chế độ cổ phần.
Thứ hai, chế độ quản lý sản xuất, nơi nhân dân có thể tham gia vào
quá trình quản lý sản xuất trực tiếp hoặc gián tiếp (thơng qua vai trị của Nhà
nước).
Thứ ba, chế độ phân phối sản phẩm xã hội, nhất là chế độ phân phối
sản phẩm xã hội dựa trên lao động là chủ yếu,…
Cơ sở chính trị - pháp lý của quyền lực chính trị nhân dân thể hiện tập
trung và trước hết ở:
Thứ nhất, chủ trương, đường lối của Đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, nhất là khi Đảng cầm quyền.
Thứ hai, ở chính sách, pháp luật – trước hết ở Hiến pháp của Nhà
nước – nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Thứ ba, ở chương trình hành động của các tổ chức chính trị - xã hội.

Cơ sở văn hóa – xã hội của quyền lực chính trị của nhân dân là khối
đại đoàn kết nhân dân, ở các liên minh giai cấp, tầng lớp xã hội, các tổ chức
8


chính trị - xã hội, tổ chức xã hội,… là cơ sở xã hội của đảng, nhà nước và hệ
thống chính trị. Ngồi ra, quyền lực chính trị của nhân dân, cũng như quyền
lực và quyền lực chính trị nói chung, cịn có các cơ sở khác như văn hóa, tư
tưởng…
2.1.2. Phương thức đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân
Từ phương diện giá trị, QLCT của nhân dân thể hiện chủ yếu ở việc
mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật, có quyền tự do ứng cử, bầu cử
vào cơ quan lãnh đạo nhà nước các cấp, mọi cơng dân có quyền tự do ngơn
luận, tự do báo chí trong khn khổ pháp luật, mọi cơng dân có nghĩa vụ và
quyền lợi trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc,…
Từ phương diện thể chế, QLCT của nhân dân được thể hiện ở cơ chế
đảng lãnh đạo – nhà nước quản lý – nhân dân làm chủ (dân chủ trực tiếp và
dân chủ đại diện), trong đó, dân chủ cơ sở. Dân chủ là phương thức chủ yếu
đảm bảo tính chính đảng của đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
trong tổ chức và thực hiện QLCT của nhân dân.
Ngoài ra, QLCT của nhân dân cịn được thực hiện thơng qua các hoạt
động xây dựng đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội, hoạt
động bầu cử dân chủ, trưng cầu dân ý, kiểm tra, giảm sát,…
2.1.3. Những nhân tố đảm bảo quyền lực chính trị của nhân dân
- Sự lãnh đạo đúng đắn của đảng, của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động; sự quản lý hiệu quả của nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; sự tham gia chính trị rộng rãi của các tổ chức chính trị - xã hội;
tính tích cực chính trị của nhân dân,…
- Xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch vững
mạnh, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.
- Xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị, chính sách, pháp luật, đảm
bảo nhân dân là chủ thể thực sự của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước.
9


2.2. Về nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Về nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội
biểu quyết thông qua ngày 28/11/2013 (gọi tắt là Hiến pháp năm 2013) là bản
Hiến pháp thứ 5 trong lịch sử lập hiến của Việt Nam tính từ Hiến pháp năm
1946. Việc ban hành Hiến pháp năm 2013 là một dấu mốc mới trong tiến
trình phát triển tư tưởng lập hiến của nước nhà trên cơ sở kế thừa thành tựu
lập hiến của gần 70 năm trước đó, phúc đáp yêu cầu đổi mới đất nước trong
giai đoạn hiện nay. Một trong những nội dung quan trọng hàng đầu của Hiến
pháp năm 2013 là sự thể hiện sâu sắc hơn nữa bản chất dân chủ của chế độ
gắn liền với yêu cầu bảo đảm tính pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của
nhà nước.
Tại khoản 2 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 trang trọng khẳng định
“Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.” Quy định trên nên
được hiểu như thế nào cho đầy đủ và sâu sắc. Đây là vấn đề rất quan trọng
cần được giải mã một cách thấu đáo.
Một là, khẳng định “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” đi
liền với việc khẳng định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
Nhân dân làm chủ” là sự thể hiện trực tiếp nguyên lý về chủ quyền nhân dân tư tưởng nền tảng trong các bản Hiến pháp của Việt Nam, nhất là bản Hiến

pháp năm 2013. Quy định ấy cũng đi kèm với quy định tại Khoản 1 Điều 2
Hiến pháp năm 2013 theo đó “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân.”
10


Hiến pháp năm 1946, Bản Hiến pháp đầu tiên của chế độ ta do Chủ
tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo được ban hành trong bối cảnh
“sau tám mươi năm tranh đấu, dân tộc Việt Nam đã thốt khỏi vịng áp bức
của chính sách thực dân, đồng thời gạt bỏ chế độ vua quan”, nước nhà đã
bước sang một kỷ nguyên phát triển mới, giai đoạn “bảo toàn lãnh thổ, giành
độc lập hoàn toàn” và “kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”. Điều thứ
nhất của Hiến pháp năm 1946 khẳng định một cách dứt khoát “Nước Việt
Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của tồn
thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo”.
Tinh thần của nguyên tắc ấy được kế thừa trong Hiến pháp năm 1959
bằng quy định tại Điều 4 “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa đều thuộc về nhân dân.” Hiến pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định
tại Điều 6 “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực
thuộc về nhân dân.” Hiến pháp năm 1992 tại Điều 2 khẳng định “Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.”.
Hai là, khẳng định “Nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
Nhân dân làm chủ” khẳng định chủ thể thật sự, chủ thể đích thực và chủ thể
tối cao của nhà nước, của tất cả quyền lực nhà nước là Nhân dân. Điều này có
nghĩa rằng, ở Việt Nam, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ Nhân dân.
Quyền lực nhà nước, dù do bất cứ cơ quan, cá nhân nào nắm giữ cũng có

nguồn gốc từ sự ủy quyền của Nhân dân. Khơng có thứ quyền lực nhà nước
nào có nguồn gốc tự thân, nằm ngoài sự trao quyền, ủy quyền (trực tiếp hoặc
gián tiếp) của Nhân dân.
Trong thực tiễn tổ chức bộ máy nhà nước, tuy chỉ Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp là các cơ quan mà thành viên của cơ quan này do
Nhân dân trực tiếp bầu ra nhưng điều đó khơng có nghĩa rằng chỉ có các cơ
11


quan này mới là các cơ quan được Nhân dân ủy thác quyền lực. Nguyên tắc
“tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” hàm ý rằng, quyền lực nhà
nước do các cơ quan nhà nước khác thực hiện (dù đó là cơ quan thực hiện
quyền hành pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp hay bất cứ cơ quan nhà
nước nào khác) cũng là sản phẩm của sự trao quyền một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp từ Nhân dân (thơng qua Hiến pháp và pháp luật).
Tinh thần đó đòi hỏi, trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà
nước, bất kể là cơ quan thực hiện quyền lập pháp (Quốc hội), cơ quan thực
hiện quyền hành pháp (Chính phủ), cơ quan thực hiện quyền tư pháp (Tòa án
nhân dân) và các cơ quan nhà nước khác trong bộ máy nhà nước đều phải bảo
đảm tinh thần vì lợi ích của Nhân dân để phục vụ.
Ba là, nguyên tắc quy định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do Nhân dân làm chủ” khẳng định nguồn gốc thế tục của quyền lực nhà
nước ở Việt Nam. Điều này cũng có nghĩa rằng, quyền lực nhà nước ở Việt
Nam khơng có nguồn gốc từ thần quyền, mà có nguồn gốc từ Nhân dân.
Trước đây, trong thời phong kiến, nhà vua hoặc hồng đế thường tự coi mình
là “thiên tử” (con trời), được trời đưa xuống để chăm lo, giáo hóa, cai trị nhân
dân chứ khơng phải chủ thể nhận sự ủy thác của Nhân dân. Chính vì thế, quan
lại được coi là cha mẹ dân, được “thiên tử” ủy thác cho việc chăm lo, cai trị
thần dân. Vua (“thiên tử”) không phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước Nhân
dân mà chỉ phải chịu trách nhiệm trước “trời”, chỉ cần hành xử theo “thiên

mệnh”. Quan lại cũng không phải chịu trách nhiệm trước Nhân là chỉ phải
chịu trách nhiệm trước Vua (“thiên tử”). Trong chế độ phong kiến ấy, sự
chuyển giao quyền lực tối cao của nhà nước được thực hiện bằng con đường
“thế tập” theo kiểu cha truyền, con nối, “con vua thì lại làm vua, coi sãi ở
chùa đi quét lá đa”. Nhân dân không phải là người chủ mà nhà vua có trách
nhiệm phục vụ, ngược lại, chính nhân dân có trách nhiệm phục vụ nhà vua.
Những tư tưởng phản động kể trên đã bị cuộc cách mạng tháng Tám, do Nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kiên quyết bác bỏ khi xây dựng
12


chế độ mới. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ cách mạng lâm
thời vào ngày 3/9/1945 (tức là chỉ một ngày sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc bản Tun ngơn độc lập), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Trước
chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân
khơng kém phần chun chế, nên Việt Nam khơng có Hiến pháp, nhân dân ta
không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một bản Hiến pháp
dân chủ.”
Với tư cách là sự phủ định của các tư tưởng phong kiến, thần quyền về
nguồn gốc của quyền lực nhà nước, nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân đòi hỏi trong mối quan hệ giữa Nhà nước với Nhân dân thì
Nhà nước khơng phải là chủ của Nhân dân, các cơ quan nhà nước, dù là cơ
quan có quyền lực ở mức nào cũng khơng phải là chủ của Nhân dân, mà
ngược lại chính Nhân dân mới là chủ của Nhà nước, Nhân dân thực hiện
quyền làm chủ đối với Nhà nước. Điều này cũng có nghĩa rằng, Nhà nước có
trách nhiệm cao nhất là phục vụ Nhân dân. Nhân dân có tiếng nói cao nhất,
cuối cùng về số phận của Nhà nước, của từng cơ quan nhà nước. Tất cả các cơ
quan nhà nước, các cán bộ, công chức nhà nước đều phải chịu trách nhiệm
trước Nhân dân, phục vụ Nhân dân và hành xử vì lợi ích của Nhân dân. Cán
bộ, cơng chức, viên chức nhà nước đều phải là công bộc của Nhân dân. Điều

đó cũng phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh mà tồn Đảng, tồn dân ta đang
ra sức thực hiện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng diễn giải bằng một ngôn ngữ
rất giản dị nhưng hết sức sâu sắc về dân chủ: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, bộ
trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho
nhân dân chứ không phải làm quan cách mạng.”
Bốn là, nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội
ngũ trí thức” cũng có nghĩa hỗ cứ là cơng dân Việt Nam thì đều là người làm
chủ Nhà nước, khơng phân biệt giới tính, giai cấp, tơn giáo, tín ngưỡng, chính
kiến, nguồn gốc xuất thân, quá khứ chính trị. Điều ấy cũng thể hiện rõ tinh
13


thần đại đồn kết tồn dân trong các chính sách của Đảng và Nhà Việt Nam.
Tuy nhiên, khẳng định nền tảng của Nhân dân là “liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức” hàm ý một yêu cầu rất
quan trọng, dù Nhà nước được xác định là của Nhân dân nhưng phù hợp với
truyền thống lịch sử, gắn với thực tiễn Việt Nam hiện nay Nhà nước ấy phải
là nhà nước phục vụ lợi ích và bảo đảm lợi ích cho đơng đảo các tầng lớp
nhân dân trong xã hội, mà trước hết là trong xã hội. Thực tiễn lịch sử ở nhiều
nước cho thấy không phải cứ tuyên bố quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân
thì đương nhiên mọi người dân đều có quyền như nhau đối với Nhà nước. Ở
khơng ít quốc gia, các lực lượng cần lao rất khó tiếp cận với các cơ hội hoạt
động chính trị, rất khó tham gia vào bộ máy nhà nước và rất khó bảo đảm
được rằng Nhà nước ấy thực sự là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì
Nhân dân. Ở những nước như vậy, chính quyền thường bị các nhóm lợi ích
thiểu số lũng đoạn và khi ấy sớm hay muộn chính quyền cũng sẽ quay lưng
lại với Nhân dân, phản bội lại lợi ích của Nhân dân. Chính vì vậy, trong bối
cảnh thực tế giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức là lực
lượng cơ bản nhất, đông đảo nhất trong xã hội, yêu cầu “tất cả quyền lực nhà

nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” vẫn được xem là phù hợp và cần thiết.
Yêu cầu bảo đảm quyền lực nhà nước phải thuộc về Nhân dân mà nền tảng là
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đặt ra
trách nhiệm rất lớn đối với Nhà nước theo đó Nhà nước phải có trách nhiệm
tạo điều kiện để những người có thu nhập khơng hẳn là cao trong xã hội
nhưng vẫn không những không bị loại ra khỏi các cơ hội phát triển bình đẳng
về chính trị. Đây là điều khơng hề dễ dàng.
Năm là, nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và đội
ngũ trí thức” là nguyên tắc rất căn bản của Hiến pháp năm 2013, thể hiện bản
chất cốt lõi của chế độ ta. Chính vì vậy, đây cũng là tư tưởng chủ đạo chi phối
14


việc thiết kế nhiều quy định khác trong Hiến pháp và thiết kế các quy định cụ
thể trong pháp luật Việt Nam. Cụ thể:
- Tại Điều 3 Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ trách nhiệm, sứ
mệnh phục vụ Nhân dân của Nhà nước, theo đó, “Nhà nước bảo đảm và phát
huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm
quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, cơng bằng, văn minh, mọi người. có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.” Cần lưu ý rằng, trách nhiệm, sứ
mệnh phục vụ Nhân dân này là u cầu có tính xuyên suốt trong mọi chính
sách của Nhà nước, mọi quy định của pháp luật do Nhà nước ban hành. Trách
nhiệm, sứ mệnh phục vụ Nhân dân vì thế khơng chỉ là trách nhiệm, sứ mệnh
chung của toàn thể bộ máy nhà nước, mà phải trở thành trách nhiệm, sứ mệnh
cụ thể của từng cơ quan nhà nước, từng cán bộ, cơng chức, viên chức trong bộ
máy ấy. Chính vì thế, khoản 2 Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Các
cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận

tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và
chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng
phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cưa quyên.” Theo tinh thần đó, mọi
biểu hiện quan liêu, xa dân, cửa quyền, hách dịch, tệ nạn tham nhũng, lãng
phí đều được coi là xa lạ với bản chất của chế độ ta, của nhà Việt Nam và trở
thành vấn đề cần được giải quyết triệt để bằng các phương thức phòng, chống
phù hợp. Phù hợp với tinh thần đó, Hiến pháp năm 2013 đề cao hơn cơ chế
kiểm soát quyền lực Nhà nước, bảo đảm tốt hơn sự kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp,
bảo đảm tính cơng khai, minh bạch trong việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Cụ thể, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục quy định quyền giám sát tối cao của
Quốc hội (cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân) đối với hoạt động của các
cơ quan nhà nước bao gồm cả cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan
thực hiện quyền tư pháp. Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức
15


vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Các cơ quan như Chủ tịch nước, Chính
phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đều phải báo
cáo công tác trước Quốc hội và chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội. Hiến
pháp năm 2013 quy định Quốc hội họp công khai (Điều 83), Luật, Pháp lệnh
phải được cơng bố (Điều 85), Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng phải
thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân (Điều 98 và 99), Tòa án nhân dân có
nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân (Điều
102), Tịa án nhân dân xét xử công khai (Điều 103), Hội đồng nhân dân chịu
trách nhiệm trước Nhân dân địa phương (Điều 113). Hiến pháp năm 2013
cũng quy định rõ trách nhiệm của đại biểu dân cử phải liên hệ chặt chẽ với cử
tri, chịu sự giám sát của cử tri (Điều 79 và Điều 115)
- Với yêu cầu bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân,
Hiến pháp năm 2013 khẳng định đầy đủ và sâu sắc hơn các phương thức để

Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước. Điều 6 Hiến pháp năm 2013 khẳng
định rõ “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng
dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ
quan khác của Nhà nước.”. Như vậy, cả hai hình thức thực hiện quyền lực nhà
nước là thực hiện bằng dân chủ đại diện thông qua các cơ quan dân cử Quốc
hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước khác và thực hiện dân chủ
trực tiếp đều được Hiến pháp ghi nhận. Khẳng định Nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng
nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước cũng hàm ý yêu cầu
các cơ quan nhà nước, khi ra quyết sách hoặc thực thi quyền lực, đều phải lưu
ý rằng, các cơng việc mình đang thực hiện đều là các công việc do Nhân dân
ủy thác. Chính vì thế, khi ban hành các quyết sách, thực thi công vụ, các cơ
quan nhà nước đều không được làm trái lợi ích của Nhân dân mà phải thực
hiện một cách tận tụy nhất, trung thành nhất với lợi ích của Nhân dân. Đây
cũng là sự thể hiện yêu cầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn các cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức nhà nước rằng “việc gì có lợi cho dân thì
16


phải hết sức làm việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh.” Để đảm bảo
u cầu đó, một trong những điều tiên quyết phải thực hiện là bảo đảm sự
thiết lập một cơ chế bầu cử thực chất, phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của
Nhân dân khi bầu ra thành viên các cơ quan dân cử. Người đại biểu dân cử
phải trung thành với lợi ích của Nhân dân và khi khơng cịn xứng đáng với sự
tín nhiệm của Nhân dân thì sẽ bị bãi nhiệm. Tinh thần đó được thể hiện trong
Điều 7 Hiến pháp năm 2013:“Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp
và bỏ phiếu kín... Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri
hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi khơng cịn xứng đáng với
sự tín nhiệm của Nhân dân.”

Việc khẳng định Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân
chủ trực tiếp thể hiện một bước tiến mới trong nhận thức của Đảng, Nhà
nước và Nhân dân ta trong tiến trình mở rộng và phát huy dân chủ. Trên
thực tế, các hình thức dân chủ trực tiếp đã ngày càng được Nhà Việt Nam
coi trọng hoàn thiện về mặt thể chế và tổ chức thực hiện trên thực tiễn. Pháp
lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 đã quy định rất
nhiều công việc Nhân dân ở địa phương trực tiếp bàn, quyết định và chính
quyền có trách nhiệm bảo đảm thực hiện. Chẳng hạn, Điều 10 của Pháp lệnh
này quy định rõ “Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp về chủ trương và
mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các cơng trình phúc lợi cơng cộng
trong phạm vi cấp xã, thơn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp tồn bộ hoặc
một phần kinh phí và các cơng việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư phù
hợp với quy định của pháp luật”. Cũng tại Điều 13 của Pháp lệnh quy định
những công việc do Nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết
định như “Hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố. Bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố. Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban
thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng”. Hiện nay, các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ở Việt Nam đang xúc tiến xây dựng Luật
17


Trưng cầu ý dân, Luật Tiếp cận thông tin và một số đạo luật khác có liên quan
nhằm tiếp tục hồn thiện thể chế để các hình thức dân chủ trực tiếp ngày càng
được thực hiện đa dạng hơn trong thực tiễn.
Quy định “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” còn trực
tiếp chi phối việc thiết kế các quy định về quyền công dân, quyền con người
trong Hiến pháp năm 2013. Trên cơ sở kế thừa và bổ sung, phát triển quy định
của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã quy định hàng loạt quyền
con người, quyền công dân mà mỗi cá nhân người dân Việt Nam đều được
hưởng dụng để xây dựng cuộc sống của mình, tham gia các mặt | hoạt động

của xã hội, phát triển cộng đồng, xây dựng đất nước. Trong số ấy, phải kể tới
các quyền năng trong lĩnh vực chính trị như quyền tự do ngơn luận, tự do báo
chí, tiếp cận thơng tin, hội họp, lập hội, biểu tình (Điều 25), quyền bầu cử và
ứng cử (Điều 27), quyền tham gia quản lý nhà nước (Điều 28), quyền biểu
quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29) và quyền khiếu nại, tố
cáo (Điều 30). Chẳng hạn, theo Điều 27 Hiến pháp năm 2013, công dân đủ
mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có
quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Theo Điều 28 Hiến pháp
năm 2013, cơng dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia
thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa
phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà
nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến,
kiến nghị của công dân.
Sáu là, từ góc độ lý luận về luật Hiến pháp, có thể khẳng định rằng,
bảo đảm trong thực tế “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” đi liền
với việc khẳng định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân
dân làm chủ”, bảo đảm Nhà Việt Nam thực sự là nhà nước “của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân” là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu
bảo đảm tính chính danh, chính đáng của hệ thống chính quyền ở Việt Nam.
Đây cũng là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu bảo đảm sự bền
18



×