Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

Câu hỏi ôn tập môn Lý luận hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.87 KB, 100 trang )

Câu hỏi ôn tập môn lý luận HCNN
MỤC LỤC
Câu 1: quản lý nhà nước là gì ? Làm rõ những điểm chung và khác biệt giữa quản lý Nhà
nước với các dạng quản lý xã hội khác để chứng tỏ rằng “quản lý Nhà nước là một dạng
quản lý xã hội đặc biệt”
Quản lý là một hoạt động phức tạp và có nhiều chức năng. Quản lý ở góc độ quản lý học là sự
tác động có tổ chức có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm hướng hành vi
của đối tượng đạt tới mục tiêu đã định trước. Quản lý báo gồm 3 dạng: quản lý giới vô sinh, quản
lý giới sinh vật, quản lý tổ chức con người (quản lý xã hội)
Quản lý xã hội bao gồm các thực thể có tổ chức, có lý trí kết thành hệ thống chặt chẽ. Đây là
dạng quản lý phức tạp nhất nhưng cũng là hoàn thiện nhất vì đối tượng quản lý là con người có lý
trí và mối quan hệ nảy sinh liên tục. Xã hội càng phát triển thì mối quan hệ giữa họ càng phong
phú, đa dạng, phức tạp cả bề rộng lẫn chiều sâu, cả hữu hình lẫn vô hinh
Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước, đó là quản lý toàn xã hội. Nội
hmaf của quản lý nhà nước thay đổi phụ thuộc vào chế độ chính trị, lịch sử và đặc điểm văn hóa,
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia ở những thời điểm nhất định. Xét về mặt chức
năng, nhà nước có 3 chức năng là lập pháp, hành pháp và tư pháp
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt mang tính quyền lực nhà nước và sử
dụng pháp luật và chính sách để điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời
sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự
ổn định và phát triển của xã hội.
Trong hệ thống xã hội, có nhiều chủ thể tham gia quản lý xã hội như: tổ chức chính trị, tot
chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế, các đoàn thể nhân dân, hiệp hội,… Quản lý Nhà nước là
dạng quản lý xã hội nên nó có đặc trưng của quản lý xã hội
- Quản lý Nhà nước cũng như quản lý xã hội báo giờ cũng bao hàm chủ thể và đối tượng. Chủ thể
quản lý đềulà các thực tế có tổ chức có lý trí và đối tượng quản lý là con người với đủ bản chất xã
hội của mình.
- Quản lý Nhà nước bao giờ cũng có quyền lực.Quyền hành là đặc quyền của chủ thể do tổ chức
trao cho, là phương tiện để chủ thể quản lý Nhà nước hay xã hội tác động lên đối tượng quản lý.
- Quản lý Nhà nước mang tính tổ chức giống như các hoạt động quản lý xã hội khác. Tính tổ chức là
nền tảng của hoạt động quản lý.


1
- Quản lý xã hội, quản lý Nhà nước bao giờ cũng phải có thông tin. Thôn tin trong quá trình Nhà
nước nói riêng trong quản lý xã hội nói chung là cơ sở căn bản của quản lý các tác nghiệp quản lý.
- Quản lý Nhà nước phải có mục tiêu nhất định không nằm ngoài các yếu tố cấu thành quá trình
quản lý xã hội.
Quản lý Nhà nước mang những đặc điểm chung với của quản lý xã hội nhưng quản lý nhà
nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt. Tính chất đặc biệt ấy thể hiện ở sự khác biệt giữa quản
lý Nhà nước với các hoạt động quản lý xã hội khác.
- Quản lý Nhà nước, chủ thể quản lý là các cơ quan trong bộ máy Nhà nước: Lập pháp, Hành pháp,
Tư pháp. Còn quản lý xã hội chủ thể của nó là các thực thể có lý trí và có tổ chức đảng, đoàn thể,
các tổ chức khác v.v
- Đối tượng quản lý của quản lý Nhà nước bao gồm toàn bộ nhân dân, mọi cá nhân sống và làm việc
trên lãnh thổ quốc gia và phạm vi của nó mang tính toàn diện trên mọi lĩnh vực. Còn đối tượng
quản lý của quản lý xã hội nó bao gồm các cá nhân, các nhóm trong phạm vi một tổ chức.
- Quản lý nhà nước là quản lý toàn diện trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh,…
- Quản lý Nhà nước mang tính quyền lực Nhà nước và sử dụng pháp luật làm công cụ chủ yếu để
duy trì trật tự xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển. Quản lý xã hội mang tính quyền lực xã hội sử
dụng các quy phạm quychế nội bộ để điều chỉnh các quan hệ.
- Mục tiêu của quản lý nhà nước là phục vụ nhâ dân, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Câu 2: khái niệm, bản chất, vai trò, đặc điểm của hành chính nhà nước.
1. Khái niệm.
Từ điển Oxford định nghĩa hành chính là: “một hành động thi hành”, “quản lý các công việc”
hoặc “hướng dẫn giám sát sự thực hiện, sử dụng hoặc điều khiển”. Theo gốc Latinh, ban đầu hành
chính bắt nguồn từ minor, nghĩa là: “phục vụ”, sau này là ministrate, nghĩa là: “điều hành”.
Từ những định nghĩa ở trên có thể thấy rằng về cơ bản hành chính có những đặc tính sau:
thứ nhất, hành chính phục vụ người khác thong qua việc chấp hành các quyết định do người đó
ban hành và chịu sự kiểm soát của họ. Thứ hai, hành chính là điều hành - khai thác, huy động và
sử dụng các quyền lực (cơ sở vật chất, tài nguyên, nhân lực, tài chính ) theo quy định (luật hoặc
điều lệ) nhằm đạt được mục tiêu của hệ thống (tổ chức hoặc nhà nước).

Tóm lại, có thể hiểu: hành chính là hoạt động chấp hành và điều hành trong quản lý một hệ
thống theo những quy định định trước nhằm đạt mục tiêu của hệ thống.
Hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước, đó là hoạt động
chấp hành và điều hành của hệ thống hành chính nhà nước trong quản lý xã hội theo khuôn khổ
pháp luật nhà nước nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Hành chính nhà nước là một bộ phận của quản lý nhà nước, nói cách khác hành chính nhà
nước có phạm vi hẹp hơn so với quản lý nhà nước ở hai điểm cơ bản:
2
Thứ nhất;hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước tức là
hoạt động chất hành và điều hành.
Thứ hai; chủ thể của hành chính nhà nước là các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hệ
thống hành chính nhà nước.
2. Bản chất.
Hành chính nhà nước là một hoạt động đa dạng, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành,
nghề khác nhau. Do đó, bản chất của hành chính nhà nước có nội hàm rất rộng vừa mang bản chất
chính trị, mang tính pháp lý, vừa là hoạt động quản lý và là một nghề.
2.1. Hành chính nhà nước mang tính chính trị
- hành chính nhà nước Không tồn tại ngoài môi trường chính trị, nó phục vụ và phục tùng chính trị.
Vì vậy, nó mang bản chất chính trị.
- hành chính nhà nước thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ do chính trị thiết lập; nó tham gia vào
Quá trình lập pháp; nó Không chỉ là chủ thể thực thi chính sách mà còn ban hành chính sách; nó
phục vụ lợi ích của nhân dân và lợi ích công.
2.2. Hành chính nhà nước mang tính pháp lý
- Hành chính nhà nước hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, theo những chỉ dẫn của nhà nước ;
đồng thời chủ thể hành chính nhà nước có trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật, đưa pháp luật
vào đời sống xã hội nên hoạt động của nó mang tính pháp lý.
- hành chính nhà nước thực thi chức năng lập quy – tức ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
cụ thể và hướng dẫn thi hành luật.
2.3. Hành chính nhà nước là hoạt động quản lý
- Hành chính nhà nước là một bộ phận của quản lý nhà nước , mang bản chất của quản lý nhà nước.

Nó tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước.
- hành chính nhà nước là chức năng hành pháp của nhà nước – chức năng thực thi pháp luật, chính
sách. Nó phối hợp với các tổ chức xã hội, các cá nhân nhằm đạt đến mục tiêu chung nhất
- Ngoài ra, hành chính nhà nước vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật, và mang tính trật tự thứ
bậc của quản lý nói chung
+ Hành chính công là khoa học nó dựa trên các tiêu chí khoa học có người nghiên cứu nó, có các
công trình nghiên cứu, có cơ sở để nghiên cứu nó. ở đây đối tượng nghiên cứu của khoa học hành
chính là rất rộng lớn, nó bao gồm các quy luật tổ chức và vận hành bộ máy hành pháp, nó nghiên
cứu các phương pháp quản lý trong hành chính Nhà nước, nghiên cứu phong cách lãnh đạo, tâm
lý công chức, đạo đức công chức, hay nghiên cứu về tổ chức điều hành công sở, kỹ thuật xây dựng
và ban hành văn bản và đặc biệt là nghiên cứu chuyên sâu của việc quản lý Nhà nước trên các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, môi trường
3
+ Hành chính công là nghệ thuật: Đây là nghệ thuật làm việc với con người giao tiếp, tìm hiểu tâm
lý con người và nghệ thuật này được ứng dụng vào bất cứ lĩnh vực nào để công việc được thực
hiện một cách hoàn hảo, khéo léo.
+ Hành chính công là khoa học kết hợp với nghệ thuật: Nghĩa là Hành chính công tác động đến
hoạt động của con người mang tính 2 mặt, một mặt là nghệ thuật, nghệ thuật của việc sử dụng kỹ
năng, các mối quan hệ; mặt khác đòi hỏi phải vận dụng nhiều quy luật. Một mặt nó là khoa học vì
nếu thiếu cơ sở khoa học thì Hành chính công không thể tồn tại.
2.4. hành chính nhà nước là một nghề
- Nghề hành chính là nghề tổng hợp, đòi hỏi một đội ngũ cán bộ, công chức phải có trình độ, chuyên
môn, nghiệp vụ nhất định – tức họ là những nhà hành chính chuyên nghiệp.
- hành chính là nghề lao động trí óc là nghề thực hiện hóa các ý tưởng của chủ thể chính trị. Hầu
hết các nước trên thế giới đều coi hành chính là một nghề cao quý trong xã hội.
3. Vai trò
Hành chính nhà nước có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia,
của NHÀ NƯỚC . Vai trò được thể hiện như sau:
Thứ nhất, hành chính nhà nước thực hiện hóa các mục tiêu, ý tưởng của các nhà chính trị -
những người đại diện của nhân dân. Vai trò này xuất phát từ chức năng chấp hành của hành chính

nhà nước. Chủ thể hành chính nhà nước có trách nhiệm chấp hành quyết định của các cơ quan
chính trị nhằm đạt được các mục tiêu chính trị của quốc gia, phục vụ lợi ích của đất nước, của
nhân dân.
Thứ hai, hành chính nhà nước điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội nhằm đạt mục tiêu tới
mức tối đa và với hiệu quả cao nhất. Vai trò này xuất phát từ chức năng cụ thể của điều hành hành
chính nhà nước là: định hướng (thông qua quy hoạch, kế hoạch), điều chỉnh các quan hệ xã hội
(thông qua ban hành văn bản lập quy); hướng dẫn và tổ chức thực hiện Hiến pháp, luật, chính
sách ; kiểm tra, thanh tra và xử lý những vi phạm pháp luật.
Thứ ba, hành chính nhà nước duy trì và thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng. Để thực
hiện tốt hai vai trò trên, hành chính luôn có trách nhiệm duy trì và tạo lập những điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển của các yếu tố cấu thành xã hội: duy trì và phát triển các nguồn tài nguyên,
kiến tạo các nguồn lực vật chất , sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính, phát triển nguồn lực
con người, khắc phục những thất bại của thị trường hoặc hậu quả do những sai sót của hành chính
nhà nước gây ra
Thứ tư, hành chính nhà nước đảm bảo cung cấp dịch vụ công cho xã hội. Cùng với sự phát
triển của xã hội và quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội thì vai trò này càng quan trọng và mở
rộng. Vì suy cho cùng, hành chính nhà nước được thiết lập nhằm để phục vụ lợi ích của nhân dân
với tư cách là chủ thể của xã hội, là chủ thể của quyền lực nhà nước.
4. Đặc điểm.
4
4.1. Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị
Hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị, là công cụ để thực
hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đối kháng và thực hiện ý chí của nhân dân
trong xã hội dân chủ dưới sự lãnh đạo của đảng cầm quyền. Vì vậy hành chính trước hết là phục
vụ chính trị, thực hiện những nhiệm vụ chính trị do cơ quan quyền lực Nhà nước quyết định. Hành
chính nhà nước là trung tâm thực thi các quyết định của hệ thống quyền lực chính trị, hoạt động
của nó có ảnh hưởng lớn đến hiệu lực và hiệu quả của hệ thống chính trị.
Ở nước ta, nền hành chính nhà nước mang bản chất của một Nhà nước “của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân” dựa trên nền tảng của liên minh giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do
ĐCSVN lãnh đạo. hành chính nhà nước ở nước ta là yếu tố cấu thành hệ thống chính trị trong đó

Đảng cộng sản là hạt nhân lãnh đạo, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị xã hội có vai trò
giám sát và tham gia hoạt động của Nhà nước. Trong hoạt động thực thi quyền lực Nhà nước, hành
chính nhà nước là yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước cả hệ thống
chính trị.
Tuy nhiên, hành chính nhà nước cũng có tính độc lập tương đối nhất định, thể hiện ở tính
chuyên môn, kỹ thuật; cán bộ, công chức hành chính nhà nước vận dụng hệ thống tri thức khoa
học vào việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình như: quản trị học, khoa học quản trị nhân
sự, kinh tế học, luật học, chính trị học, ….
4.2. Tính pháp quyền
Trong một xã hội dân chủ, để bảo vệ quyền tự do, dân chủ của người dân, cần phải xây dưng
một nhà nước pháp quyền hay còn họi là một nền pháp trị.
Trong nhà nước pháp quyền những hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước phải tuân
thủ pháp luật. Hệ thống pháp luật đòi hỏi mọi cơ quan Nhà nước, mọi tổ chức trong xã hội, mọi
công chức và công dân phải tuân thủ mà chính bản thân của các cơ quanhành chính nhà nước cũng
phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật. Không có một cơ quan hành chính nhà
nước nào có thể hoạt động ngoài quy định của pháp luật. Đảm bảo tính pháp quyền của nền hành
chính tức là bảo đảm được tính chính quy, hiện đại của một bộ máy hành chính có kỷ luật, kỷ
cương.
Tính pháp quyền đòi hỏi các cơ quan hành chính, mọi công chức phải nắm vững quyền
lực, sử dụng đúng đắn quyền lực, đảm bảo đúng chức năng và thẩm quyền của mình khi thực thi
công vụ. Bên cạnh đó luôn quan tâm chú trọng đến việc nâng cao uy tín về chính trị, về phẩm chất
đạo đức và về năng lực trí tuệ. Phải kết hợp chặt chẽ yếu tố quyền lực và uy tín mới có thể nâng
cao được hiệu lực và hiệu quả của một nền hành chính phục vụ dân.
Nền hành chính cần có pháp quyền để bảo vệ quyền tự do, dân chủ của người dân. Tính pháp
quyền của hcnn thể hiện ở việc các chủ thể quản lý hcnn phải năm vững thẩm quyền, chức năng,
nhiệm vụ quyền hạn của mình trong thực thi công vụ, cơ quan hành chính cấp dưới phải nghiêm
chỉnh chấp hành quy định của cơ quan cấp trên, văn bản pháp quy do chủ thể ql hcnn ban hành và
các hoạt động của chủ thể ql hcnn phải đảm bảo quyền con người,hướng tới lợi ích chung của con
5
người; Cán bộ,công chức hcnn luôn quan tâm nâng cao uy tín,đạo đức và năng lực thực thi công

vụ.
Muốn nền hành chính nhà nước có tính pháp quyền,phải : xây dựng hệ thống pháp luật đày
đủ, pháp luật phải thể hiện ý chí của người dân, pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh, xử lý
nghiêm những hành vi vi phạm.
4.3. Tính liên tục tương đối ổn định và thích ứng
Nhiệm vụ của hành chính công là phục vụ dưới hình thức công vụ đối với công dân. Đây là
công việc hàng ngày thường xuyên và liên tục vì các mối quan hệ xã hội và hành vi công dân được
pháp luật hành chính điều chỉnh diễn ra thường xuyên, liên tục. Chính vì vậy, nền hành chính nhà
nước phải đảm bảo tính liên tục, ổn định để đảm bảo hoạt động không bị gián đoạn trong bất kỳ
tình huống nào.
Tính liên tục và ổn định không loại trừ tính thích ứng. Chính vì vậy ổn định ở đây mang
tính tương đối, không phải là cố định, không thay đổi. Nhà nước là một sản phẩm của xã hội, đời
sống kinh tế xã hội luôn chuyển biến không ngừng do đó hoạt động của hành chính nhà nước luôn
phải thích ứng với hoàn cảnh kinh tế xã hội. Trong từng thời kỳ nhất định, thích nghi với xu thế
của thời đại đáp ứng được những nhiệm vụ kinh tế, xã hội trong giai đoạn mới.
Tính liên tục trong hành chính nhà nước thể hiện ở sự thường xuyên, kế thừa và tránh tình
trạng làm theo phong trào.
Tính tương đối ổn định thể hiện ở sự ổn định trong tổ chức bộ máy, trong tổ chức nhân sự,
trong hoạt động, tránh tình trạng tân quan tân chính sách.
Tính thích ứng thể hiện ở hành chính nhà nước phải đáp ứng kịp thời các nhu cầu của người
dân; hành chính nhà nước phải thích nghi với xu thế thời đại, của môi trường để đáp ứng được nhu
cầu mới, nhiệm vụ mới.
4.4. Tính chuyên môn hóa và nghề nghiệp cao
Tính chuyên môn hoá và nghề nghiệp cao là một bắt buộc đối với hoạt động quản lý Nhà
nước của các cơ quan hành chính nhà nước và là đòi hỏi của 1 nền hành chính phát triển, Khoa học
văn minh và hiện đại. Hoạt động quản lý Nhà nước của hành chính nhà nước có nội dung phức tạp
và đa dạng đòi hỏi các nhà HÀNH CHÍNH phải có kiến thức xã hội và kiến thức chuyên môn sâu
rộng.
Những người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước là những thực thi công vụ,
trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của họ có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng công vụ vì lẽ đó

trong hoạt động hành chính nhà nước năng lực chuyên môn và quản lý của những người làm việc
trong các cơ quan hành chính nhà nước phải là những tiêu chuẩn hàng đầu. Xây dựng và tuyển
chọn đội ngũ những người vào làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước có năng lực, trình
độ chuyên môn đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của hoạt động quản lý Nhà nước là một trong
những vấn đề khó khăn hiện nay của các nước nói chung và của Việt Nam nói riêng.
6
4.5. Tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ
Hành chính nhà nước bao gồm hệ thống định chế theo thứ bậc chặt chẽ thông suốt từ trung
ương tới các địa phương mà trong đó cấp dưới phục tùng cấp trên, nhận chỉ thị mệnh lệnh và chịu
sự kiểm tra thường xuyên của cấp trên. Mỗi cấp cơ quan, mỗi người làm việc trong các cơ quan
hành chính nhà nước hoạt động trong phạm vi thẩm quyền được giao.
Tổ chức bộ máy hành chính theo thứ bậc chính là cách thức cần thiết để phân công trách
nhiệm hoạt động quản lý Nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên để tránh biến
thế hệ thống hành chính thành hệ thống quan liêu, cứng nhắc, chính hệ thống thứ bậc cũng cần sự
chủ động sáng tạo linh hoạt của mỗi cấp, mỗi cơ quan mỗi công chức để thực hiện luật pháp và
mệnh lệnh của cấp trên trong khuôn khổ phân công phân cấp, đúng thẩm quyền theo nguyên tắc
tập trung dân chủ.
Cần có hệ thống thứ bậc chặt chẽ để dễ dàng trong phân công nhiệm vụ, quyền hạn và kiểm
soát lẫn nhau; để đảm bảo tính thống nhất trong quản lý hành chính nhà nước.
Tính hệ thống thứ bậc được thể hiện ở hệ thống hành chính nhà nước là một hệ thống dọc,
mang tính thứ bậc thông suốt từ TW đến địa phương mà trong đó cấp dưới phục tùng cấp
trên,nhận chỉ thị mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra của cấp trên.; Mỗi cấp,mỗi cơ quan,mỗi cc hoạt
động trong phạm vi thẩm quyền đc giao.
4.6. Tính không vụ lợi
Hành chính nhà nước có nghĩa vụ phục vụ lợi ích công và lợi ích công dân vì vậy không theo
đuổi mục tiêu lợi nhuận, không đòi hỏi người được phục vụ phải trả thù lao. Nếu mục tiêu của các
tổ chức sản xuất kinh doanh là lợi nhuận và phục vụ cho những mục tiêu riêng của những người
thành lập tổ chức thì hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước nói chung và hành chính nhà
nước nói riêng nhằm phục vụ nhân dân do đó tính riêng của các cơ quan hành chính nhà nước
không tồn tại.

Tính xã hội, tính nhân dân làm cho hành chính nhà nước không vụ lợi, không vì tổ chức
riêng của mình.
4.7. Tính nhân đạo
Tính nhân đạo của hoạt động quản lý Nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước là
tôn trọng con người, phục vụ con người và lấy mục tiêu phát triển làm động lực. Cơ quan hành
chính và đội ngũ những người được Nhà nước trao cho việc thực thi hoạt động quản lý Nhà nước
không được quan liêu, cửa quyền, hách dịch, gây phiền hà cho dân khi thi hành công vụ. Sự cưỡng
bức của hành chính nhà nước là biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm để mọi vi phạm phải được xử
lý chứ không phải chỉ nhằm để trừng phạt.
Nhà nước Việt Nam có bản chất là Nhà nước của nhân dân và do nhân dân, vì dân vì vậy tôn
trọng quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân là xuất phát điểm của hệ thống lật, thể chế quy
tắc, thủ tục hành chính. Các công chức không được quan liêu, cửa quyền, hách dịch, gây phiên hà
cho dân khi thi hành công vụ. Mặt khác, hiện nay chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường nên
7
nền hành chính càng đảm bảo tính nhân đạo để hạn chế tối đa mạt trái của nền kinh tế thị trường,
thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển bền vững.
- Xuất phát từ bản chất NN XHCN VN,tất cả các hd hcnn đều hướng tới mục tiêu phục vụ
con người,tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và lấy đó làm xuất phát điểm cho việc
xây dựng 1 hệ thống thể chế,cơ chế,chính sách và thủ tục hc,cũng như trong việc thực hiện các
hành vi hc.
Câu 3: : Phân tích sự khác biệt giữa hành chính công và hành chính tư (có ví dục minh hoạ).
Khái niệm hành chính công xuất hiện và được sử dụng rất phổ biến ở các nước có nền kinh tế
thị trường phát triển mạnh, nơi mà khu vực tư nhận đóng vai trò quan trọng. Hành chính công là
một khái niệm để phân biệt với “hành chính tư”. sự khác nhau căn bản ở đây nằm ở hai khái niệm
“công” và ‘tư”, nhưng càng ngày 2 khái niệm Hành chính công mới đáp ứng được, hay hình thức
liên doanh ngày càng được áp dụng và nó đã đạt được hiệu quả cao nên việc phân biệt Hành chính
công và Hành chính tư ngày càng trở nên khó khăn. Tuy vậy, nó vẫn có nhữg điểm khác nhau
mang tính nguyên tắc đó là:
- Mục tiêu hoạt động: Đặc điểm nổi bật của bất kỳ một cơ quan Hành chính công nào là hoạt động
vì mục đích công cộng, lợi ích của cộng đồng, trong khi đó mục tiêu chủ yếu của hành chính tư là

lợi nhuận, phục vụ mọi người vị động cơ lợi nhuận.
Ví dụ: Một Chính phủ được thành lập ra, hoạt động vì mục đích quản lý chung cho xã hội,
điều hoà lợi ích của các cộng động, có nghĩa là Chính phủ hoạt động vì lợiích của cả đất nước chứ
không vì một cá nhân hay tổ chức nào. Nhưng một công ty do tư nhân lập ra, nó tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch cụ cho cộng độg người không vì lợi ích của người tiêu
dùng hay của cộng đồng mà là vì lợi nhận do hoạt động này đem lại cho họ.
- Tính chính trị: Hành chính công vì tính chất chính trị của tổ chức, trong mọi hoạt động của mình
Hành chính côngluôn mang màu sắc chính trị và bị các mục tiêu chính trị chi phối, gây ảnh
hưởng . Nhưng hành chính tư lại không hề có màu sắc chính trị, nó hoạt động mà không hề bị tác
động bởi một động cơ chính trị nào.
Ví dụ: Chính phủ hoạt động trên những nguyên tắc, mục tiêu mà Đảng chính trị đã lập ra
Chính phủ, nghĩa là hoạt động của Chính phủ phải nằm trong khuôn khổ đường lối của Đảng chính
trị đề ra và luôn mang màu sắc chính trị. Ngược lại hình chính tư của một công ty chỉ bị chi phối
bởi lợi nhuận, họ không bị đường lối chính trị của đảng nào lôi kéo, họ đứng bên lề của các mục
tiêu chính trị, họ chỉ tuân thủ các mục tiêu của tổ chức mình đề ra và của pháp luật.
- Tính quyền lực: Hành chính công mang tính quyền lực Nhà nước, tính mệnh lệnh cưỡng chế rất
cao. Hành chính tư không mang tính quyền lực Nhà nước tính cưỡng chế không cao.
8
Ví dụ: quyết định của Bộ trưởng và giám đốc của người đứng đầu một doanh nghiệp. Một
được đảm bảo bằng quyền lực Nhà nước, một đảm bảo bằng điều lệ doanh nghiệp.
- Cơ sở pháp lý: Hành chính công có những thủ tục hết sức phức tạp, phải tuân theo một trình tự thủ
tục do pháp luật quy định, không được phá bỏ, nó luôn luôn cứng nhắc, mang tính quan liêu, chậm
chạp,hiệu quả hoạt động thấp. Còn Hành chính tư cũng phải tuân theo một số quy tắc nhưng nó lại
mềm dẻo và linh hoạt hơn rất nhiều và thủ tục thì đơn giản và dễ dãng thực hiện.
Ví dụ: trong một phiên họp thường kỳ của Chính phủ, phải tổ chức tại một ngày nhất định
trong tháng và phải do Thủ tướng chủ trì (hay uỷ nhiệm), trong phiên họp phải tuân theo các thủ
tục nhất định không thể làm khác, không thể thay đổi, nhưng tại một công ty sản xuất kinh doanh
thì các phiên họp có thể tiến hành bất cứ lúc nào, miễn là giải quyết tốt công việc của công nty, các
thủ tục đơn giản, nếu cần thiết có thể bỏ qua nhiều công đoạn.
- Quy mô tổ chức hoạt động: Quy mô của Hành chính công trên nguyên tắc rất lớn, có thể bao trùm

cả xã hội hay một lĩnh vực rộng lớn. Nhưng Hành chính tư lại có quy mô linh hoạt, tuỳ vào từng tổ
chức mà áp dụng quy mô.
Ví dụ: Bộ máy của Chính phủ là bộ máy đặc biệt về phạm vi, tầm cỡ, cũng như sự đa dạng
của các hoạt động mà Chính phủ thực hiện hơn nữa hoạt động của Chính phủ có ảnh hưởng sâu
rộng đến nhiều yếu tố. Còn hành chính tư chỉ có phạm vi trong tổ chức đó và chỉ ảnh hưởng trong
phạm vi nhất định. (Tập đoàn Boeing là tập đoàn xuyên quốc gia tuy nhiên tính toàn bộ các cán bộ
quản lý chỉ bằng 1/13 Bộ công chức hành chỉnh của Hoa Kỳ).
- Hoạt động của Hành chính công chịu áp lực của xã hội và mọi quyết định của Hành chính công
đều phù hợp và đáp ứng được lợi ích của cộng đồng, đó là sự đồng hành của Hành chính công với
xã hội, nghĩa là mọi quyết định hay hoạt động của Hành chính công phải tham khảo ý kiến của
công chúng, còn Hành chính tư không cần quan tâm đến điều này.
- Tài chính hoạt động: hành chính công sử dụng mặt khối lượng lớn về vật chất và tài chính hoạt
động nên sai sót của nó ảnh hưởng lớn đến kinh tế- xã hội. Tài chính hoạt động từ ngân sách Nhà
nước. Hành chính tư sử dụng khối lượng nhỏ tài chính vật chất sai sót ảnh hưởng ở phạm vi nhỏ,
tài chính hoạt động tự có.
Ví dụ: Chi phí tài chính của hệ thống hành pháp Hoa Kỳ gấp 10 lần chi phí tài chính của 5
tập đoàn lớn nhất ở Hoa Kỳ.
- Chủ thể và khách thể của Hành chính công và Hành chính tư khác nhau. Chủ thể của Hành chính
công là các cơ quan cảunn, các cá nhân được uỷ quyền và các chủ thể này có những đặc điểm là
mang tính quyền lực Nhà nước, hoạt động rộng khắp trên các mặt của đời sống xã hội, quản lý
thông qua các quyết định hành chính và hành vi hành chính. Còn hành chính tư chủ thể của có thể
là cá nhân hay tổ chức đứng ra thành lập tổ chức đó, chủ thể này chỉ có quyền lực tổ chức, chỉ có
9
quyền quản lý trong phạm vi tổ chức, họ có thể quản lý tổ chức bằng nhiều biện pháp và hình thức
mà pháp luật cho phép.
Ví dụ: Chủ thể quản lý của Hành chính công là cơquan Nhà nước, Chính phủ hoạt động trong
tất cả các mặt của đời sống xã hội, còn công ty chỉ quản lý mặt sản xuất kinh doanh mà mình đăng
ký, chủ thể là giám đốc công ty hay hội đồng quản trị.
- yêu cầu đối với đội ngũ những người tham gia hoạt động: Kỹ năng cần có đối với nhà hành chính
lớn hơn rất nhiều so với nhà điều hành doanh nghiệp. Ví dụ: Trong nền hành chính công kỹ năng

lãnh đạo coi là kỹ năng cốt yếu trong điều hành doanh nghiệp lại là kỹ năng quản lý.
Câu 4: Hành chính công có mối tương quan với các ngành khoa học như thế nào? (Làm rõ
tính khoa học liên ngành của hành chính công).
Hành chính học là khoa học lấy quản lý hành chính làm đối tượng nghiên cứu chính. Có thể
địnhnghĩa hành chính học là khoa học nghiên cứu các quy luật quản lý có hiệuquả những công
việc xã hội của các tổ chức hành chính Nhà nước.
Hành chính học là một khoa học ra đời muộn hơn nhiều ngành khoa học khác và do tính chất
đặc biệt của đối tượng nghiên cứu – hoạt động qủn lý hành chính nhà nước nên hành chính học có
sự liên kết chặt chẽ với các ngành khoa học. Hành chính học là một khoa học liên ngành và mang
tính ứng dụng cao.
1.Hành chính học và chính trị học
chính trị học là khoa học nghiên cứu về tổ chức và đời sống chính trị của xã hội, về những
đường lối, chính sách đối nội, quan hệ đối ngoại. chính trị học là khoa học nghiên cứu về đấu tranh
dân tộc, đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa các tầng lớp xã hội có những quyền lợi khác nhau, là
khoa học nghiên cứu về quyền lực chính trị trong xã hội ở giai cấp; hành chính học là khoa học về
những quy luật tổ chức và vận hành bộ máy Nhà nước, về hoạt động quản lý của bộ máy nhà
nước.
Hành chính học vận dụng những lý luận cơ bản của chính trị học trong những nghiên cứu vè
tổ chức hành chính và quản lý hành chính. Nếu chính trị học là khoa học mang nặng đặc điểm lý
luận thì hành chính học là một khoa học liên ngành mang nặng đặc điểm ứng dụng.
2.Hành chính học với luật học
Luật học là một môn khoa học xã hội lấy qui tắc pháp lý trong các hiện tượng xã hội làm chất
lượng nghiên cứu. Quy luật quan trọng của hành chính học là hành chính dựa vào luật pháp. quản
lý hành chính vừa phải chịu sự chỉ đạo và chế ước của luật pháp, vừa vận dụng luật pháp để định
ra những pháp quy của nền hành chính trong việc quản lý Nhà nước đối với toàn bộ xã hội.
10
Mặt khắc hành chính học lại làm sinh động và phong phú thêm những nội dung của luật học.
Vì vậy, giữa luật học và hành chính học tồn tại một mối quan hệ thẩm thấu lẫn nhau và giao thoa
với nhau.
3.Hành chính học với kinh tế học

hành chính học nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến việc quản lý mọi mặt trong xã hội
của Nhà nước trong đó có kinh tế.
Kinh tế học là một khoa học nghiên cứu cách thức của con người trong việc sử dụng các nhân
tố sản xuất có hiệu quả để thoả mãn tối đa nhu cầu vô hạn của con người.
Hành chính học và kinh tế học có mối quan tâm chung về các vấn đề: tài chính công; thuế
khoá. Hiện nay các nước phát triển kinh tế hỗn hợp với sự điều tiết của Nhà nước và bản thân cơ
chế thị trường thì kinh tế ngày càng được áp dụng rộng rãi và đóng gopa quan trọng vào sự phát
triển của hành chính học.
4.Hành chính học và xã hội học.
Xã hội học là một môn khoa học nghiên cứu xã hội như một hệ thống toàn vẹn, về những thể
chế xã hội khác nhau, về các tiến trình và các nhóm xã hội với các mối quan hệ phức tạp của
chung với mục đích tìm ra quy luật vận hành một xã hội tốt đẹp.
Hành chính học vận dụng những lý luận, phương pháp và nguyên tắc trong xã hội học vào
quản lý hành chính, bổ sung thêm vào nội dung của hành chính học. Những lý luận, nguyên tắc
của hành chính học cũng phải nhờ vào thực tiến thực thi và nghiệm chứng trong hành chính.
5.Hành chính học với tâm lý học
tâm lý học là khoa học về thế giới nội tâm của con người và động cơ dẫn đến các hành vi của
họ.
Hành chính học trong khi nghiên cứu để tìm ra những quy luật quản lý hành chính nhà nước
có hiệu quả cần dựa vào lý luận và phương pháp của tâm lý học, vì con người với những đặc điểm
hành vi của họ cũng là một trong những vấn đề trọng tâm của những nghiên cứu trong hành chính
học.
6.Hành chính học với quản lý học
Hành chính học là khoa học nghiên cứu những quy luật quản lý của nền hành chính. Khoa
học quản lý nghiên cứu những quy luật quản lý nói chung.
11
Quản lý học lấy mọi loại quản lý làm đối tượng nghiên cứu do đó phạm vi của nó hẹp hơn.
Những nguyên lý nguyên tắc trong khoa học quản lý mang tính chất chủ đạo trong nghiên cứu của
hành chính học, ngược lại những nguyên lý của hành chính học thuộc phạm trù của khoa học quản
lý,song cụ thể hơn, về chuyên sâu hơn.

Câu 5 Nguyên tắc hoạt động là những tư tưởng chỉ đạo nền tảng cơ bản của một tổ chức,
trong hoạt động quản lý các nhà quản lý
Nguyên tắc được hiểu là những chuẩn mực mà cá nhân, tổ chức phải dựa vào đó trong suốt
quá trình hoạt động, hay nói cách khác nó là tiêu chuẩn định hướng hành vi của con người, tổ
chức.
Nguyên tắc HCNN là các quy tắc,những tư tưởng chỉ đạo,những tiêu chuẩn hành vi đòi hỏi
các chủ thể hcnn phải tuân thủ trong tổ chức và hoạt động hcnn.
Yêu cầu đối với nguyên tắc hành chính nhà nước
Khi xây dựng các nguyên tắc hành chính nhà nước cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Nguyên tắc hành chính nhà nước phải phản ánh được các yêu cầu của các quy luật vận động
khách quan của xã hội;
- Các nguyên tắc hành chính nhà nước phải phù hợp với mục tiêu của hành chính nhà nước;
- Các nguyên tắc hành chính nhà nước phải phản ánh đúng tính chất và các quan hệ hành
chính nhà nước;
- Các nguyên tắc hành chính nhà nước phải đảm bảo tính hệ thống, tính nhất quán và phải
được đảm bảo tuân thủ bằng tính cưỡng chế.
1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với hành chính nhà nước
1.1. Cơ sở pháp lý
Ðiều 4-Hiến pháp 1992 quy định: “Ðảng cộng sản Việt Nam-đội ngũ tiên phong của giai cấp
công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà
nước và xã hội”.
Như vậy, bản thân sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội cũng mang tính pháp lý,
trở thành nguyên tắc Hiến định. Và do đó, nếu ai phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng cũng có nghĩa là
đã vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
1.2. Cơ sở lí luận
(1) Quan điểm của Các Mác và Ph. Ănghen về Đảng cộng sản – những nguyên lí cơ bản :
Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng
12
(2) V.I.Lênin với học thuyết Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và việc Đảng lãnh đạo

xây dựng CNXH
(3) Tư tưởng HCM về Đảng cầm quyền: Sự nghiệp giành chính quyền là của nhân dân,
nhưng nhân dân có Đảng dẫn đường- ĐCSVN là sự kết hợp giữa CN M-L, phong trào công nhân
và phong trào yêu nước ở VN - Đảng cầm quyền phải thực sự là một tổ chức chính trị đại diện cho
trí tuệ của cả dân tộc - Cách dùng người…
1.3. Cơ sở thực tiễn
Chúng ta có duy nhất một Đảng cầm quyền đó là ĐCSVN, là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, lãnh đạo Nhà nước và ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, với việc
đề ra các đường lối, chủ trương hoạt động. Điều đó được thể hiện thông qua các kì họp, các đại
hội.
Đảng đã thể hiện sự lãnh đạo của mình đối với Nhà nước trước hết là ở lãnh đạo “tiếp tục đổi
mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội”(đẩy mạnh hoạt động lập pháp, tăng cường giám sát tại
các kì họp Quốc hội và hoạt động giám sát UBTVQH, đổi mới tổ chức QH ,…
Thứ 2 là lãnh đạo Chính phủ. Chính phủ hầu hết là ủy viên ban chấp hành TW Đảng.
Ba là Đảng lãnh đạo các cơ quan Nhà nước ở cấp tỉnh ( tp trực thuộc trung ương), quận,
huyện, tp trực thuộc tỉnh, thị xã, xã, phường…
1.4. Nội dung nguyên tắc
ĐCS VN là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội,là Đảng cầm quyền,giữ vai trò lãnh đạo
toàn dân,toàn diện trên mọi mặt của đời sống xh( ctri,kte xh,an ninh qp,ngoại giao….Sự lãnh đạo
của Đảng đối với hcnn đc thể hiện trên các nội dung sau :
1.4.1. Đảng đề ra đường lối chủ trương định hướng cho quá trình tổ chức và hoạt động của
hành chính nhà nước ;
Chủ trương đường lối của Đảng phải phù hợp với ý nguyện của nhân dân, của dân tộc, phù
hợp với hoàn cảnh của đất nước.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, sự lãnh đạo của Ðảng là hạt nhân của mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Sự lãnh đạo đó chính là việc định hướng về mặt tư tưởng, xác định đường lối,
quan điểm giai cấp, phương châm, chính sách, công tác tổ chức trên lĩnh vực chuyên môn.
1.4.2. Đảng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng những người có phẩm chất, năng lực và giới thiệu
vào đảm nhận các chức vụ trong bộ máy nhà nước thông qua con đường bầu cử dân chủ;
13

Mục đích việc bầu cử trong Đảng để lựa chọn được Đảng viên đủ đức đủ tài được nhân dân
tín nhiệm. Bởi vì đức và tài trong mỗi Đảng viên là hạt nhân trong việc ban hành chính sách
đường lối chủ trương sát hợp với thực tế: phù hợp với sự vận động và phát triển xã hội. Bởi lẽ
“cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém” ( Hồ Chí Minh ). Vì vậy trong Đảng để thực hiện việc lựa chọn những Đảng viên ưu tú,
uy tín, năng lực nhất vào Ban chấp hành. Thông qua bầu cử trực tiếp sẽ góp phần phòng, tránh
nguy cơ “chạy chức, chạy quyền” và cơ hội. Nhưng để thực hiện việc bầu cử dân chủ có hiệu quả
thì phải xây dựng tiêu chuẩn của các chức danh phải dựa trên nguyên tắc chung là có đức, có tài,
uy tín.
Ngoài ra cần mở rộng quyền đề cử, tự ứng cử và giới thiệu nhiều phương án để lựa chọn,
đảm bảo tính yêu cầu về chất lượng, số lượng, cơ cấu, công tâm khách quan trong việc lựa chọn
được người thật sự có đức có tài, có ý thức tổ chức kỉ luật, gắn bó mật thiết và tận tụy phục vụ
nhân dân.
Các tổ chức Ðảng đã bồi dưỡng, đào tạo những Ðảng viên ưu tú, có phẩm chất và năng lực
gánh vác những công việc trong bộ máy hành chính nhà nước, đưa ra các ý kiến về việc bố trí
những cán bộ phụ trách vào những vị trí lãnh đạo của các cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên
vấn đề bầu, bổ nhiệm được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước theo trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định, ý kiến của tổ chức Ðảng là cơ sở để cơ quan xem xét và đưa ra quyết định cuối cùng.
1.4.3. Đảng kiểm tra hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện đường lối chủ
trương của Đảng;
Không phải tất cả mọi việc Đảng làm, mọi chủ trương, đường lối của Đảng đưa ra đều đúng.
Do vậy thông qua kiểm tra xác định tính hiệu quả, tính thực tế của các chủ trương chính sách mà
Ðảng đề ra từ đó khắc phục khiếm khuyết, phát huy những mặt tích cực trong công tác lãnh đạo.
Hơn nữa là nếu chủ trương đưa ra đúng nhưng cơ quan thực hiện chưa chắc đã làm đúng, do vậy
mà cần phải kiểm tra. Vd như các chính sách cho xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ những gia đình có
hoàn cảnh khó khăn ăn tết…
1.4.4. Các cán bộ, đảng viên và các tổ chức Đảng gương mẫu trong việc thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng.
Sự lãnh đạo của Ðảng trong quản lý hành chính nhà nước còn được thực hiện thông qua uy
tín và vai trò gương mẫu của các tổ chức Ðảng và của từng Ðảng viên. Ðây là cơ sở nâng cao uy

tín của Ðảng đối với dân, với cơ quan nhà nước.
1.5. Đánh giá thực tế hiện nay
1.5.1. thành tựu.
14
Trong những năm đổi mới, trên cơ sở đổi mới tư duy và cùng với đổi mới về kinh tế, về hệ
thống chính trị, văn hóa - xã hội, phương thức lãnh đạo của Đảng cũng được đổi mới, có những
bước tiến, khác xa so với thời kỳ chiến tranh và thời kỳ tập trung bao cấp. Bước tiến về đổi mới
phương thức lãnh đạo thể hiện ở chỗ:
- Đảng và các cấp ủy ngày càng coi trọng và quan tâm đến đổi mới phương thức lãnh đạo - một yêu
cầu cơ bản và cấp bách của đổi mới, chỉnh đốn Đảng cho phù hợp với tình hình đã thay đổi.
- Đảng ngày càng xác định rõ hơn nội dung của phương thức lãnh đạo và các "kênh", các con đường
đổi mới phương thức lãnh đạo.
- Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được đổi mới theo hướng không
ngừng mở rộng dân chủ và công khai; các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng phát huy vai
trò tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân và vai trò người phản biện đối với các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Đảng và các tổ chức đảng ngày càng coi trọng và tôn trọng vai trò các cơ quan nhà nước như Quốc
hội, Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp, Tòa án nhân dân các cấp, Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân các cấp. Vai trò của các tổ chức Nhà nước ngày càng được phát huy, được đổi
mới về tổ chức và phương thức hoạt động, tính chủ động, hiệu lực và hiệu quả ngày càng được
nâng cao. Ngày càng phân định rõ hơn chức năng của các tổ chức đảng và các cơ quan nhà nước,
nhất là ở Trung ương, giảm bớt sự chồng chéo, lấn sân của nhau.
- Đảng đã bố trí cán bộ, đảng viên của mình giữ những cương vị chủ chốt trong bộ máy chính quyền
các cấp, nhờ đó, giữ vững được sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng đối với hệ thống
chính trị.
- Ngày càng xác định rõ hơn nội dung, phạm vi lãnh đạo, mối quan hệ lãnh đạo của cấp ủy với cơ
quan nhà nước, nhất là ở Trung ương. Đã xây dựng được quy chế làm việc của Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp, cũng như xây dựng chương trình công tác của cấp ủy toàn
khóa, hằng năm.
- Quá trình xây dựng và ban hành Nghị quyết của Đảng đã được cải tiến (chú ý hơn đến công tác

tham mưu, tư vấn, sử dụng chuyên gia, làm thí điểm), việc phổ biến nghị quyết cũng giảm bớt tính
hình thức, tăng tính thiết thực, ngắn gọn, gắn với chương trình hành động.
1.5.2. hạn chế
Thật sự mà nói hiện nay, trên thực tế Đảng ta đã và rất nỗ lực để thực hiện tốt chức năng và
nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên không có cái gì là toàn vẹn. Càng cố gắng và nỗ lực thực hiện thì
càng ngày càng cho thấy nhưng kẽ hở trong việc thực hiện. Nhất là khi Đảng trở thành Đảng cầm
quyền.
- Nguy cơ sai lầm về đường lối,
15
- Chủ nghĩa cá nhân phát triển trầm trọng : bệnh kiêu ngạo, địa phương cục bộ, óc bè phái, óc
quân phiệt, quan liêu, óc hẹp hòi; vô kỉ luật, kỷ luật không nghiêm, làm trái phép nước, coi thường
pháp luật; ích kỉ, tham nhũng
- Xa dân và mất dần quần chúng
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, làm sao cho Đảng không rơi vào tình trạng lạm quyền, lấn
át Nhà nước, bao biện làm thay các công việc Nhà nước, trái lại phát huy được vai trò quản lý,
hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước. Mặt khác, làm sao không hạ thấp, buông lỏng vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước. Đây là những vấn đề còn khó khăn và phức tạp mà kinh nghiệm của
chủ nghĩa xã hội trên thế giới vừa qua chưa đủ để giải quyết, cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn
về lý luận và thực tiễn về đổi mới hệ thống chính trị, về xây dựng Đảng và xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước xã hội chủ nghĩa; trong đó, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân là một phương hướng rất cơ bản.
1.5.3. Giải pháp khắc phục
Để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, cần giải quyết một số
vấn đề sau đây:
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về phương thức lãnh đạo của Đảng
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Cần nghiên cứu sâu hơn, có
hệ thống và toàn diện hơn vấn đề đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta trong điều kiện đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xác định rõ mô hình của hệ thống
chính trị ở nước ta làm cơ sở cho đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

- Tiếp tục thực hiện việc kiện toàn tổ chức theo Nghị quyết Trung ương 7, khóa VIII, tiếp tục xác
định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức đảng và tổ chức nhà nước, tránh chồng chéo,
lấn sân. Nâng cao vai trò công tác tham mưu của ban đảng các cấp. Cần tiếp tục làm rõ vai trò ban
cán sự đảng của bộ, mối quan hệ giữa ban cán sự đảng của bộ và của tổng công ty với Ban Cán sự
đảng Chính phủ và Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
- Bổ sung, hoàn thiện hệ thống các quy chế về sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đối với Quốc hội, Chính phủ, sự lãnh đạo của cấp ủy và tổ chức đảng đối với
cơ quan chính quyền cùng cấp. Cần cụ thể hóa và bổ sung một số quy định về quan hệ và lề lối
làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư với Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ trong
lãnh đạo công tác an ninh, quốc phòng, đối ngoại và tổ chức cán bộ,
- Cần cụ thể hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ
sao cho vừa giữ vững nguyên tắc này vừa bảo đảm quyền hạn và trách nhiệm pháp lý của người
16
đứng đầu các tổ chức chính quyền. Cần có quy chế về trách nhiệm và thẩm quyền của người đứng
đầu tổ chức về công tác cán bộ.
- Tăng cường công tác kiểm tra, nâng cao chất lượng và hiệu quả kiểm tra, nhất là kiểm tra thường
xuyên để phục vụ cho sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh
các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, vi phạm nguyên tắc
- Tiếp tục mở rộng và phát huy dân chủ, trước hết là dân chủ nội bộ Đảng cho đến dân chủ ngoài
xã hội, đẩy mạnh thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, xây dựng và thực hiện các cơ chế, quy chế
dân chủ, mở rộng dân chủ trong bầu cử và hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Có cơ chế nhân dân tham gia giám sát Đảng và chính quyền.
- Tích cực đổi mới phong cách lãnh đạo của các cấp ủy, hoàn thiện quy trình xây dựng, ra nghị
quyết và triển khai thực hiện nghị quyết; tăng cường chế độ làm việc có tính khoa học, có quy chế,
chương trình, kế hoạch; cán bộ lãnh đạo cần sâu sát quần chúng, cơ sở, coi trọng tổng kết thực
tiễn, coi trọng tính thiết thực, hiệu quả, tránh bệnh hình thức, bệnh thành tích trong công tác.
2. Nguyên tắc nhân dân tham gia quản lý hành chính nhà nước
2.1. Cơ sở pháp lý
Ðiều 2 - Hiến pháp 1992 nêu rõ: Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam là nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai

cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
2.2. Nội dung nguyên tắc
Việc tham gia đông đảo của nhân dân lao động vào quản lý hành chính nhà nước thông qua các
hình thức trực tiếp và gián tiếp tương ứng như sau:
2.2.1. Tham gia gián tiếp:
a. Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước
- Các cơ quan trong bộ máy nhà nước là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước, việc nhân dân
tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước là hình thức tham gia tích cực, trực tiếp và có
hiệu quả nhất trong quản lý hành chính nhà nước. Người lao động nếu đáp ứng các yêu cầu của
pháp luật đều có thể tham gia một cách trực tiếp hay gián tiếp vào công việc quản lý hành chính
nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Người lao động có thể tham gia trực tiếp vào cơ quan quyền lực nhà nước với tư cách là thành
viên của cơ quan này - họ là những đại biểu được lựa chọn thông qua bầu cử hoặc với tư cách là
các viên chức nhà nước trong các cơ quan nhà nước. Khi ở cương vị là thành viên của cơ quan
17
quyền lực nhà nước, người lãnh đạo trực tiếp xem xét và quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước, của từng địa phương trong đó có các vấn đề quản lý hành chính nhà nước. Khi ở cương vị là
cán bộ viên chức nhà nước thì người lao động sẽ sử dụng quyền lực nhà nước một cách trực tiếp
để thực hiện vai trò người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, có điều kiện biến những ý chí,
nguyện vọng của mình thành hiện thực nhằm xây dựng đất nước giàu mạnh.
- Ngoài ra, người lao động có thể tham gia gián tiếp vào hoạt động của các cơ quan nhà nước
thông qua việc thực hiện quyền lựa chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt mình vào cơ quan
quyền lực nhà nước ở trung ương hay địa phương. Ðây là hình thức tham gia rộng rãi nhất của
nhân dân vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
b. Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội
- Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân lao động tham gia tích cực vào hoạt động của các
tổ chức xã hội. Các tổ chức xã hội là công cụ đắc lực của nhân dân lao động trong việc thực hiện
quyền tham gia vào quản lý hành chính nhà nước. Thông qua các hoạt động của các tổ chức xã
hội, vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân lao động được phát huy. Ðây là một hình thức hoạt
động có ý nghĩa đối với việc bảo đảm dân chủ và mở rộng nền dân chủ ở nước ta.

2.2.2. Tham gia trực tiếp
a. Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở
- Ðây là hoạt động do chính nhân dân lao động tự thực hiện, các hoạt động này gần gủi và thiết
thực đối với cuộc sống của người dân như hoạt động bảo vệ an ninh trật tự, vệ sinh môi
trường, Những hoạt động này xảy ra ở nơi cư trú, làm việc, sinh hoạt nên mang tính chất tự quản
của nhân dân.
- Thông qua những hoạt động mang tính chất tự quản này người lao động là những chủ thể tham
gia tích cực nhất, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của họ được tôn trọng và bảo
đảm thực hiện.
b. Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành chính nhà nước
- Ðiều 53-Hiến pháp 1992 quy định công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham
gia thảo luận những vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, các
tổ chức xã hội hay chính người dân trực tiếp thực hiện.
- Kiểm tra các cơ quan quản lý nhà nước.
- Tham gia trực tiếp với tư cách là thanh viên không chuyên trách trong hoạt động cơ quan quản
lý, các cơ quan xã hội.
18
- Tham gia với tư cách là thành viên của tập thể lao động trong việc giải quyết những vấn đề quan
trọng của cơ quan
Việc trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành chính nhà nước là
một hình thức có ý nghĩa quan trọng để nhân dân lao động phát huy vai trò làm chủ của mình.
Ðây là nguyên tắc được nhà nước ta thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Nguyên tắc này thể hiện bản
chất dân chủ sâu sắc giữ vai trò quan trọng thiết yếu trong quản lý hành chính nhà nước. Nhân dân
không chỉ có quyền giám sát đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước; thực hiện khiếu
nại tố cáo nếu cho rắng cán bộ hành chính nhà nước vi phạm quyền lợi của họ hoặc thực hiện
không đúng đắn, mà còn có quyền tự mình tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước, trực tiếp thể
hiện quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động. Ðiều này này khẳng định vai trò hết sức đặc biệt
của nhân dân lao động trong quản lý hành chính nhà nước, đồng thời xác định những nhiệm vụ mà
nhà nước phải thực hiện trong việc đảm bảo những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động được
tham gia vào quản lý hành chính nhà nước. Ðiểm thú vị về mặt lý luận của nguyên tắc vì vậy chỉ

có ý nghĩa khi được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Có thể mở rộng, tăng cường quyền của công
dân trong hoạt động quản lý, nhưng không được phép hạn chế, thu hẹp những gì mà Hiến pháp đã
định.
3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
3.1. Cơ sở pháp lý
Ðây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà nước ta nên việc thực hiện quản
lý hành chính nhà nước phải tuân theo nguyên tắc này. Ðiều 6-Hiến pháp 1992 quy định :Quốc
hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc tập trung dân chủ.
3.2 Nội dung nguyên tắc
Nguyên tắc tập trung dân chủ bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ, vừa
đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ, vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo
tập trung.
¨ Tuy nhiên, đây không phải là sự tập trung toàn diện và tuyệt đối, mà chỉ đối với những vấn
đề cơ bản, chính yếu nhất, bản chất nhất. Sự tập trung đó bảo đảm cho cơ quan cấp dưới, cơ quan
địa phương có cơ sở và khả năng thực hiện quyết định của trung ương; đồng thời, căn cứ trên điều
kiện thực tế của mình, có thể chủ động sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề của địa phương và
cơ sở. Cả hai yếu tố này vì thế phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ. Chúng có mối quan hệ qua
lại, phụ thuộc và thúc đẩy nhau cùng phát triển trong quản lý hành chính nhà nước.
19
¨ Tập trung dân chủ thể hiện quan hệ trực thuộc, chịu trách nhiệm và báo cáo của cơ quan
quản lý trước cơ quan dân chủ ; phân định chức năng, thẩm quyền giữa cơ quan quản lý các cấp,
bảo đảm sự lãnh đạo tập trung của cấp trên của trung ương và quyền chủ động của cấp dưới. Ngoài
ra, đó là hệ thống "song trùng trực thuộc" của nhiều cơ quan quản lý, bảo đảm sự kết hợp tốt nhất
sự lãnh đạo tập trung theo ngành với quyền quản lý tổng thể của địa phương.
¨ Có sự phân cấp rành mạch. Quyền lực nhà nước không phải được ban phát từ cấp trên
xuống cấp dưới. Sự phân quyền cho từng cấp là cần thiết nhưng phải đồng thời được kết hợp với
việc xác định vai trò của từng cấp hành chính: trung ương, tỉnh, huyện, xã. Từ khi ra đời, mỗi cấp
đã có "sứ mệnh lịch sử" và vai trò quản lý hành chính nhà nước riêng, đặc thù. Có những chức
năng được thực hiện ở cấp dưới lại có hiệu quả hơn cấp trên, hoặc có những chức năng tất yếu

phải được thực hiện ở cấp cơ sở. Hương ước làng xã là một ví dụ. Hương ước không thể được "lập
ra" ở cấp huyện, cấp mà có thể có rất nhiều làng xã với những tập quán và lối sống khác nhau. Từ
đó, nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu hiện cụ thể như sau:
- Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Ðiều 6-Hiến pháp 1992 quy định : Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội
và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân
dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Như vậy, Hiến pháp quy định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng
quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước do chính họ bầu ra để thay mặt
mình trực tiếp thực hiện những quyền lực đó. Ðể thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà
nước, hệ thống cơ quan hành chính nhà nước được thành lập và nó luôn có sự phụ thuộc vào các
cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Các cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc thành lập, thay
đổi, bãi bỏ các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp.
Trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của cơ
quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình với cơ quan quyền lực
nhà nước cùng cấp.
Tất cả sự phụ thuộc này nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước, phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động, bảo đảm sự tập
trung quyền lực vào cơ quan quyền lực-cơ quan do dân bầu và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
- Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, của địa phương đối với trung ương.
20
Nhờ có sự phục tùng này cấp trên và trung ương mới tập trung quyền lực nhà nước để chỉ
đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương, nếu không có sự phục tùng sẽ xảy ra tình
trạng cục bộ địa phương, tùy tiện, vô chính phủ.
Sự phục tùng ở đây là sự phục tùng mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật.
Mặt khác, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa phương về công tác tổ
chức, hoạt động và về các vấn đề khác của quản lý hành chính nhà nước.
Phải tạo điều kiện để cấp dưới, địa phương phát huy sự chủ động, sáng tạo nhằm hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao, nhằm chủ động thực hiện được "thẩm quyền cấp mình". Có như thế mới

khắc phục tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính chủ động sáng tạo của địa phương,
cấp dưới.
- Sự phân cấp quản lý.
Là sự phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước.
Mỗi cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương thức cần thiết để
thực hiện một cách tốt nhất những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình.
Phân cấp quản lý là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên, việc phân cấp
phải đảm bảo những yêu cầu sau:
Phải xác định quyền quyết định của trung ương đối với những lĩnh vực then chốt, những vấn
đề có ý nghĩa chiến lược để đảm bảo sự phát triển cân đối hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự
quản lý tập trung và thống nhất của nhà nước trong phạm vi toàn quốc.
Phải mạnh dạn phân quyền cho địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính chủ động sáng
tạo trong quản lý, tích cực phát huy sức người, sức của, đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống
nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao phó.
Phải phân cấp quản lý cụ thể, hợp lý trên cơ sở quy định của pháp luật. Hạn chế tình trạng
cấp trên gom quá nhiều việc, khi không làm xuể công việc ấy thì giao lại cho cấp dưới. Phân cấp
quản lý phải xác định chức năng cơ quan. Mỗi loại việc chỉ được thực hiện bởi một cấp cơ quan,
hoặc một vài cấp cơ quan. Cấp trên không phải lúc nào cũng thực hiện được một số chức năng một
cách có hiệu quả như cấp dưới.
- Sự hướng về cơ sở
Hướng về cơ sở là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý
tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa xã hội trực thuộc. Các
đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi tạo ra của cải vật chất trực tiếp phục vụ đời
sống nhân dân. Vì thế nhà nước cần có các chính sách quản lý thống nhất và chặt chẽ, cung cấp và
21
giúp đỡ về vật chất nhằm tạo điều kiện để đơn vị cơ sở hoạt động có hiệu quả. Có như vậy hoạt
động của các đơn vị này mới phát triển một cách mạnh mẽ theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ðây cũng chính là việc thực hiện "dân là gốc" trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
- Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc

song trùng trực thuộc. Ðối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền chung một mặt phụ thuộc vào cơ
quan quyền lực nhà nước cùng cấp, mặt khác phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước cấp
trên.
Ví dụ: UBND Tỉnh A một mặt chịu sự chỉ đạo của HÐND Tỉnh A theo chiều ngang, một mặt
chịu sự chỉ đạo của Chính phủ theo chiều dọc.
Ðối với cơ quan chuyên môn, một mặt phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm
quyền chung cùng cấp, mặt khác nó phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền
chuyên môn cấp trên trực tiếp.
Ví dụ: Sở Tư pháp Tỉnh B, một mặt phụ thuộc vào UBND Tỉnh B, mặt khác phụ thuộc vào
Bộ Tư pháp.
Nguyên tắc song trùng trực thuộc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương bảo đảm sự
thống nhất giữa lợi ích chung của nhà nước với lợi ích của địa phương, giữa lợi ích ngành với lợi
ích của lãnh thổ.
4. Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc
4.1. Cơ sở pháp lý
Việt Nam là nước có nhiều dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ. Các dân tộc đều có quyền
bình đẳng với nhau trong mọi lĩnh vực. "Nhà nước CH XHCN Việt nam là nhà nước thống nhất
của các dân tộc sinh sống trên đất nước Việt nam
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm
mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc". (Ðiều 5- Hiến pháp 1992)
4.2. Nội dung nguyên tắc
- Trong công tác lãnh đạo và sử dụng cán bộ:
Nhà nước ưu tiên đối với con em các dân tộc ít người, thực hiện chính sách khuyến khích về
vật chất, tinh thần để họ học tập. Số cán bộ nhà nước là người dân tộc ít người cũng chiếm một số
lượng nhất định trong cơ quan nhà nước, tạo điều kiện cho người dân tộc ít người cùng tham gia
22
quyết định những vấn đề có liên quan đến quyền và lợi ích chính đáng của họ và các vấn đề quan
trọng khác của đất nước.
- Trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội
Nhà nước chú ý tới việc đầu tư xây dựng công trình quan trọng về kinh tế, quốc phòng ở các

vùng dân tộc ít người, một mặt khai thác những tiềm năng kinh tế, xóa bỏ sự chênh lệch giữa các
vùng trong đất nước, đảm bảo nâng cao đời sống vật chất tinh thần của các dân tộc ít người.
Nhà nước có những chính sách đúng đắn đối với người đi xây dựng vùng kinh tế mới, tổ chức
phân bố lại lao động một cách hợp lý tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc ít người nâng cao về
mọi mặt.
Những ưu tiên cho các dân tộc ít người là sự cần thiết không thể phủ nhận nhằm bù đắp phần
nào cho việc thiếu thốn điều kiện, đồng thời để tất cả các dân tộc có thể đủ điều kiên để vươn lên
trong xã hội. Tuy nhiên, sự ưu tiên chính sách sẽ mất đi tác dụng nếu vượt khỏi phạm vi khuyến
khích, động viên. Nếu sự ưu tiên quá lớn, chắc chắn sẽ dẫn đến việc cùng một vị trí giống nhau,
nhưng hai khả năng không tương đồng nhau. Ðiều này sẽ dẫn đến những khó khăn nhất định trong
công việc chung cũng như cho chính bản thân người được ưu tiên đó.
5. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
5.1. Cơ sở pháp lý
Ðây là nguyên tắc thể hiện một nguyên lý căn bản của tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước. Bởi vì trước hết việc tổ chức và hoạt động hành chính phải hợp pháp, tức là phải tuân theo
pháp luật. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa vì vậy là một biện pháp để phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa. "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chếxã
hội chủ nghĩa". (Ðiều 12- Hiến pháp 1992)
5.2. Nội dung nguyên tắc
Biểu hiện của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hành chính nhà nước như
sau:
a. Trong lĩnh vực lập quy
Khi ban hành quy phạm pháp luật thuộc phạm vi thẩm quyền của mình, các cơ quan hành
chính nhà nước phải tôn trọng pháp chế xã hội chủ nghĩa, phải tôn trọng vị trí cao nhất của hiến
pháp và luật, nội dung văn bản pháp luật ban hành không được trái với hiến pháp và văn bản luật,
chỉ được ban hành những văn bản quy phạm pháp luật trong phạm vi thẩm quyền và hình thức,
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
23
b. Trong lĩnh vực thực hiện pháp luật
Việc áp dụng quy phạm pháp luật phải tuân theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, tức là

phải phù hợp với yêu cầu của luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác, phải thiết lập trách
nhiệm pháp lý đối với các chủ thể áp dụng quy phạm pháp luật, mọi vi phạm phải xử lý theo pháp
luật, áp dụng pháp luật phải đúng nội dung, thẩm quyền và phải tôn trọng những văn bản quy
phạm pháp luật do chính cơ quan ấy ban hành.
c. Trong lĩnh vực tổ chức
Ðể đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước đòi hỏi việc thực hiện pháp chế phải
trở thành chức năng quan trọng của mọi cơ quan quản lý và ngay trong bộ máy quản lý cũng phải
có những tổ chức chuyên môn thực hiện chức năng này. Vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong lĩnh vực tổ chức là vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc nhân dân lao
động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước, vi phạm mối quan hệ giữa các cơ quan
hành chính nhà nước với nhau.
d. Trong việc quản lý nói chung
Mở rộng, bảo đảm các quyền dân chủ của công dân. Mọi quyết định hành chính và hành vi
hành chính đều phải dựa trên quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trực tiếp hoặc gián tiếp.
Ngược lại, việc hạn chế quyền công dân chỉ được áp dụng trên cơ sở hiến định.
c. Phải chịu trách nhiệm trước xã hội và pháp luật
Các chủ thể quản lý hành chính nhà nước phải chịu trách nhiệm do những sai phạm của mình
trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, xâm phạm đến lợi ích tới quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân và phải bồi thường cho công dân. Chính vì vậy, hoạt động quản lý gắn liền với một
chế độ trách nhiệm nghiêm ngặt đối với một chủ thể quản lý. Chế độ trách nhiệm ấy thông qua
pháp luật và các hệ thống kỷ luật nhà nước. Cụ thể hơn, yêu cầu của quản lý đặt dưới sự thanh tra,
kiểm tra giám sát và tài phán hành chính để pháp chế được tuân thủ thống nhất, mọi vi phạm đều
bị phát hiện và xử lý theo đúng pháp luật. Sự kiểm tra và giám sát ấy, trước hết phải được bảo đảm
thực hiện chính từ chủ thể quản lý. Tự kiểm tra với tư cách tổ chức chuyên môn vì thế cũng rất cần
thiết như sự kiểm tra, giám sát từ phía các cơ qaun nhà nước tương ứng, các tổ chức xã hội và
công dân.
6. Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo địa giới hành chính.
Ngành là một phạm trù chỉ tổng thể những đơn vị, tổ chức sản xuất, kinh doanh có cùng một
cơ cấu kinh tế-kỹ thuật hay các tổ chức, đơn vị hoạt động với cùng một mục đích giống nhau. Có
24

sự phân chia các hoạt động theo ngành tất yếu dẫn đến việc thực hiện hoạt động quản lý theo
ngành.
Quản lý theo ngành là hoạt động quản lý ở các đơn vị, các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội có
cùng cơ cấu kinh tế-kỹ thuật hay hoạt động với cùng một mục đích giống nhau nhằm làm cho hoạt
động của các tổ chức, đơn vị này phát triển một cách đồng bộ, nhịp nhàng, đáp ứng được yêu cầu
của nhà nước và xã hội. Hoạt động quản lý theo ngành được thực hiện với hình thức, qui mô khác
nhau, có thể trên phạm vi toàn quốc, trên từng địa hay một vùng lãnh thổ.
Quản lý theo địa giới hành chính là quản lý trên một phạm vi địa bàn nhất định theo sự phân
vạch địa giới hành chính của nhà nước. Quản lý theo địa giới hành chính ở nước ta được thực hiện
ở bốn cấp:
- Cấp Trung ương (cấp nhà nước)
- Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Xã, phường, thị trấn.
Nội dung của hoạt động quản lý theo địa giới hành chính gồm đề ra các chủ trương, chính
sách, có quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trên một phạm vi toàn lãnh thổ. Bắt đầu từ
qui hoạch xây dựng và quản lý kết cấu hạ tầng cho sản xuất, đời sống dân cư sống và làm việc trên
lãnh thổ. Tiếp đó, có sự tổ chức điều hòa phối hợp sự hợp tác, quản lý thống nhất về khoa học
công nghệ, liên kết, liên doanh các đơn vị kinh tế, văn hóa, xã hội trên lãnh thổ
Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, quản lý theo ngành luôn được kết hợp chặt
chẽ với quản lý theo địa giới hành chính. Ðây chính là sự phối hợp giữa quản lý theo chiều dọc của
các Bộ với quản lý theo chiều ngang của chính quyền địa phương theo sự phân công trách nhiệm
và phân cấp quản lý giữa các ngành, các cấp. Sự kết hợp này là một nguyên tắc cơ bản trong quản
lý hành chính nhà nước, mang tính cần thiết, khách quan. Nội dung của quản lý theo điạ giới hành
chính:
- Xây dựng qui hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội trên lãnh thổ, nhằm xây dựng cơ cấu
kinh tế có hiệu quả từ trung ương tới địa phương.
- Qui hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất và đời sống dân cư sống và làm việc trên một địa
giới hành chính. Ðầu tư kinh tế luôn được khuyến khích và chù ý trong quá trình lập dự án hạ tầng.
Tuy nhiên, phải có kế hoạch và định hướng, tránh tình trạng "đầu tư đi trước, qui hoạch theo sau",

làm sự phát triển và an cư bị xáo trộn, gây mất cân bằng trong quản lý kinh tế-xã hội.
- Tổ chức điều hoà, phối hợp, hợp tác liên doanh giữa các đơn vị kinh tế trực thuộc Trung ương về
những mặt có liên quan đến linh tế- xã hội trên địa bàn lãnh thổ; bảo đảm cho các điều kiện ở địa
25

×