Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Thực trạng quá trình tham quan, nghiên cứu nền sản xuất hàng hóa và mặt hạn chế của nền sản xuất hàng hạn chế và giải pháp nền kinh tế việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 36 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI THU HOẠCH HỌC PHẦN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÁC – LÊNIN
Nhóm sinh viên: Lê Thị Phương (1675020134)
Nguyễn Ánh Ngọc (165020117)
Nguyễn Diệu Uyên (167520188)
Lớp : Dược 16-02
GV hướng dẫn: Nguyễn Đăng Thu

Hà Nội , ngày 03 tháng 03 năm 2023

1


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ………………………………………2

CHƯƠNG 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ NỀN SẢN XUẤT
HÀNG HĨA………………………………................3
I.Sản xuất hàng hóa ……….........................................5
1.1 Khái niệm sản xuất hàng hóa……………………………5
1.2 Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa…………………6
2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa ……………...7
2.1 Đặc trưng………………………………………………..8
2.2 Ưu thế …………………………………………………..8
3. Các quy luật của sản xuất hàng hóa………………………9
3.1 Quy luật giá trị…………………………………………..9


3.2 Quy luật cạnh tranh……………………………………...13

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH THAM QUAN,
NGHIÊN CỨU NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ MẶT
HẠN CHẾ CỦA NỀN SẢN XUẤT HÀNG………………..15
I. Sơ lược về lịch sử phất triển kinh tế sản xuất hàng hóa ở Việt
Nam…………………………………………………...15
II. Tình hình sản xuất hàng hóa nước ta………………16
1. Bối cảnh trong nước và quốc tế trước đổi mới……………16
III. Thực trạng nền sản xuất hàng hóa ở nước ta hiện nay……20
1.Thực trạng ……………………………………….................20
2. Thách thức cho nền sản xuất hàng hóa Việt Nam….............21
VI. Những mặt hạn chế sản xuất hàng hóa nước ta hiện nay…22

CHƯƠNG 3: HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY………….......31
KẾT LUẬN………………………………………32
TÀI LIỆU KHAM KHẢO……….........................33
PHỤ LỤC…………………………………….......34

2


MỞ ĐẦU
Trong thời kì đầu của xã hội lồi người do sự lạc hậu của lực lượng sản xuất
nên sản xuất của xã hội mang tính tự cung tự cấp khiến nhu cầu của con người
bị bó hẹp trong một phạm vi, giới hạn nhất định. Khi lực lượng sản xuất
phát triển và có nhiều thành tựu mới, con người dần thoát khỏi nền kinh tế tự
nhiên và chuyển sang nền kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế hàng hóa phát triển
càng mạnh mẽ và đến đỉnh cao của nó là nền kinh tế thị trường. Sản xuất hàng

hóa là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa
học, kỹ thuật, công nghệ được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và
phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động
quốc tế. Trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sản xuất hàng
hóa được ví như một mắt xích quan trọng trong guồng máy của nền kinh tế,
đóng vai trị quan trọng, nhất là trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay,
khơng những góp phần đắc lực vào q trình thúc đẩy tồn bộ nền kinh tế phát
triển mà còn mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác quốc tế cả về các lĩnh vực khác.
Sản xuất hàng hóa là một q trình tạo ra sản phẩm hàng hóa nhằm đáp ứng và
làm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Trong thời đại nền kinh tế mở và
cạnh tranh như hiện nay, mỗi quốc gia phải nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn
cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với khu
vực thế giới và thời đại. Chính vì vậy việc nghiên cứu về điều kiện ra đời, đặc
trưng, ưu thế của sản xuất hàng hóa là vơ cùng quan trọng, từ đó ta có thể liên hệ
với nước ta và làm cho q trình sản xuất hàng hóa của nước ta ngày càng phát
triển với chất lượng cao hơn.
3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ NỀN SẢN XUẤT
HÀNG HĨA
I .Sản xuất hàng hóa
1.1 Khái niệm sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa là một khái niệm được sử dụng trong kinh tế chính trị MacLênin dùng để chỉ về kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra
không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra
nó mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi,
mua bán trên thị trường.
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế phân biệt với sản xuất tự cung tự cấp ở
thời kì đầu của lịch sử lồi người. Ở thời kì đó, sản phẩm của sự lao động được tạo

ra chỉ để phục vụ trực tiếp cho nhu cầu của chính người sản xuất ra chúng. Nhưng
do sản xuất ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng tăng cao làm
cho sản xuất tự cung tự cấp dần dần bị chuyển hóa thành sản xuất hàng hóa. Sản
xuất hàng hóa đã tồn tại từ trong chế độ chiếm hữu nơ lệ, chế độ phong kiến, sau
đó là chế độ tư bản chủ nghĩa và chế độ xã hội chủ nghĩa. Sản xuất hàng hóa tồn
tại trên cơ sở của sự trao đổi hàng hóa và là nền tảng cho mọi nền kinh tế.VD:

4


Cơng xưởng sản xuất bánh mì

5


Công xưởng sản xuất bánh , nước ngọt
6


1.2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Ở thời kì đầu lịch sử lồi người, sản phẩm của sự lao động được tạo ra chỉ để phục
vụ trực tiếp cho nhu cầu của chính người sản xuất ra chúng. Nhưng do sản xuất
ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng tăng cao làm cho sản xuất
tự cung tự cấp dần dần bị chuyển hóa thành sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa
đã tồn tại từ trong chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, sau đó là chế độ tư
bản chủ nghĩa và chế độ xã hội chủ nghĩa. Sản xuất hàng hóa tồn tại trên cơ sở của
sự trao đổi hàng hóa và là nền tảng cho mọi nền kinh tế .
Nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển khi có các điều kiện:
Điều kiện thứ nhất, phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội chính là sự chun mơn hóa sản xuất cũng như phân

chia lao động trong xã hội ra thành các ngành và các lĩnh vực sản xuất khác nhau,
tạo nên sự chun mơn hóa của những người sản xuất thành những ngành, nghề
khác nhau. Khi đó, mỗi người thực hiện sản xuất một hoặc một số loại sản phẩm
nhất định, tuy nhiên nhu cầu của họ lại yêu cầu nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để
thỏa mãn nhu cầu của mình, tất yếu những người sản xuất buộc phải trao đổi sản
phẩm với nhau để đáp ứng đầy đủ nhu cầu. Đây được xem là lý do dẫn đến hoạt
động trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu.
Việc phân công lao động xã hội hay chun mơn hóa sản xuất cũng là yếu tố nâng
cao năng suất lao động, sản phẩm thặng dư cũng ngày càng nhiều nên càng thúc
đẩy sự trao đổi sản phẩm hơn.
Điều kiện thứ hai, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa
những người sản xuất độc lập với nhau, có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện
đó, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi,
mua bán, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa. C.Mác viết: “Chỉ có sản
phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối
7


diện với nhau như là những hàng hóa”(C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb
Chính trị quốc gia, H. 1993, t .23, tr. 72.).
Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất hiện khách
quan dựa trên sự tách biệt về sở hữu. Xã hội loài người càng phát triển, sự tách biệt
về sở hữu càng sâu sắc, hàng hóa được sản xuất ra càng phong phú.
Khi còn sự tồn tại của hai điều kiện nêu trên, con người khơng thể dùng ý chí chủ
quan mà xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa được. Việc cố tình xóa bỏ nền sản xuất
hàng hóa, sẽ làm cho xã hội đi tới chỗ khan hiếm và khủng hoảng. Với ý nghĩa đó,
cần khẳng định, nền sản xuất hàng hóa có ưu thể tích cực vượt trội so với nền sản
xuất tự cấp, tự túc.
 Tóm lại, sản xuất hàng hóa chỉ ra đời và tồn tại khi có đủ hai điều kiện trên.

Thiếu một trong hai điều kiện thì khơng có sản xuất hàng hóa và sản phẩm
của lao động cũng khơng mang hình thái hàng hóa.

2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa
2.1 Đặc trưng
Sản xuất hàng hóa có hai đặc trưng cơ bản sau:
Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán. Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ
chức kinh tế đối lập với sản xuất tự cung tự cấp trong thời kì đầu của lịch sử lồi
người. Cụ thể, trong sản xuất hàng hóa sản phẩm được tạo ra để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
• Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tinh tư nhân, vừa mang tinh xã
hội. Tính chất tư nhân thể hiện ở việc đặc tính của sản phẩm được quyết định bởi
cá nhân người làm ra nó hoặc người trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất trên danh
nghĩa. Tính chất xã hội thể hiện qua việc sản phẩm tạo ra đáp ứng cho nhu cầu của
những người khác trong xã hội. Tính chất tư nhân đó có thể phù hợp hoặc khơng
phù hợp với tính chất xã hội. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa
8


2.2 Ưu thế
So với nền kinh tế tự cung tự cấp, nền sản xuất hàng hóa có rất nhiều ưu thế vượt
trội hơn hẳn
• Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của
phân cơng lao động xã hội, chun mơn hóa sản xuất vì thế, nó khai thác được
những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất.
Bên cạnh đó, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại tác động trở lại, thúc đẩy sự
phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chun mơn hóa lao động ngày
càng tăng.
• Đẩy mạnh q trình xã hội hóa sản xuất. Sản xuất hàng hóa phá vỡ tính tự cung
tự cấp, bảo thủ, lạc hậu của nền sản xuất tự cấp tự túc. Khai thác được lợi thế về tự

nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở, từng vùng, từng địa phương,
kích thích sự phát triển về kinh tế của cả quốc gia.
• Đáp ứng nhu cầu đa dạng cho xã hội. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của
con người ngày càng gia tăng cả về lượng và chất, sản xuất hàng hóa giúp cho họ
có nhiều sự lựa chọn hơn để đáp ứng nhu cầu của mình. Góp phần cải thiện đời
sống xã hội đồng thời làm tăng khả năng lao động của xã hội.
Muốn phân tích mức độ phát triển của nền sản xuất hàng hóa, ta cần xem xét, đánh
giá thơng qua sự biểu hiện của các ưu thế này.

3. Các quy luật của sản xuất hàng hóa
3.1 Quy luật giá trị
a) Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị

9


Sự phân cơng lao động trong xã hội chính là để tạo ra sản phẩm chuyên dùng.
Người làm ra sản phẩm cần đảm bảo được rằng nó sẽ đem lại lợi ích cho cuộc
sống. Bởi trên thực tế hàng hóa làm ra không được sử dụng để phục vụ cho bản
thân thì phải để người khác có thể sử dụng. 
Tùy vào mặt hàng mà nhu cầu sử dụng và sản xuất có nhiều hay khơng và có cần
nhiều nguồn lực, cơng sức để tạo ra nó hay khơng. Khi càng mất nhiều thời gian và
cơng sức tạo ra nó thì càng thể hiện được giá trị của sản phẩm. Giá trị của sản
phẩm chính là cơng sức của những người lao động được tính vào sản phẩm mà họ
đem đi trao đổi. 
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thơng hàng hóa, vì
nó đề cập đến việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của
hàng hóa, quy định bản chất của sản xuất hàng hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật
khác của sản xuất hàng hóa.
Nội dung của quy luật giá trị là: Sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá

trị của nó, tức là dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa
đó. Nền kinh tế hiện nay là nền kinh tế thị trường có tín hiệu nhạy bén nhất là giá
cả mà giá cả lại chịu sự chi phối của quay luật giá trị vì thế nói quy luật giá trị có
ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế là hồn tồn phù hợp mang tính tất yếu. Trong
sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức
hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần
thiết có như vậy họ mới có thể tồn tại được; còn trong trao đổi, hay lưu thông, phải
thực hiện theo nguyên tắc ngang giá: Hai hàng hóa được trao đổi với nhau khi
cùng kết tinh một lượng lao động như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hóa phải
thực hiện với giá cả bằng giá trị. Cơ chế tác động của quy luật giá trị thể hiện cả
trong trường hợp giá cả bằng giá trị, cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung
quanh giá trị. Ở đây, giá trị như cái trục của giá cả.
b) Tác động của quy luật giá trị
-Điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hóa.
10


Quy luật giá trị điều tiết sản xuất hàng hóa được thể hiện trong hai trường hợp sau:
Thứ nhất, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán
chạy và lãi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm tư
liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác cũng
có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động
ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở rộng.
Thứ hai, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ vốn. Tình
hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc chuyển
sang sản xuất mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này
giảm đi, ở ngành khác lại có thể tăng lên.
Cịn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể tiếp tục
sản xuất mặt hàng này. Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân
chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng

nhu cầu của xã hội. Tác động điều tiết lưu thơng hàng hóa của quy luật giá trị thể
hiện ở chỗ nó thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao hơn,
và do đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá
thành sản phẩm.
Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có mức
hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều
phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy người sản xuất
hàng hóa nào mà có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã hội
cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích thích
những người sản xuất hàng hóa cải tiến kỹ thuật, hợp lý hố sản xuất, cải tiến tổ
chức quản lý, thực hiện tiết kiệm... nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản
xuất. Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ
hơn. Nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến tồn bộ
năng suất lao động xã hội khơng ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội khơng
11


ngừng giảm xuốnng. VD:

12


Cơng xưởng sản suất gỗ giá trị hàng hóa sản suất cao

Cơng xưởng may giá trị hàng hóa sản suất thấp
Phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo.
Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức
hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao động xã
13



hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm
tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động trở thành
ông chủ. Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động
cá biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa sẽ rơi vào
tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê.
Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản. Như vậy, quy luật giá trị vừa
có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy
sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt
tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay.
3.2 Quy luật cạnh tranh
Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng
hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu
dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có thể
diễn ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng. Ví dụ: người sản xuất thì muốn
bán được hàng hóa với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua được hàng hóa với
giá rẻ; hoặc giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng để mua được hàng hóa với
giá rẻ hơn, chất lượng hơn; hoặc giữa người sản xuất với người sản xuất nhằm
giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, như điều
kiện về vốn, lao động, nguồn nguyên liệu, thị trường, giành nơi đầu tư có lợi... để
thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Trong cuộc cạnh tranh này người ta có thể
dùng nhiều biện pháp khác nhau. Chẳng hạn, để giành giật thị trường tiêu thụ, họ
có thể dùng biện pháp cạnh tranh giá cả như giảm giá cả hàng hóa để đánh bại đối
thủ, hoặc cạnh tranh phi giá cả như dùng thông tin, quảng cáo sản phẩm, quảng
cáo dây chuyền sản xuất... để kích thích người tiêu dùng
Nội dung của quy luật cạnh tranh là: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự cạnh tranh

giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa người sản xuất và người tiêu dùng là
14


một tất yếu khách quan, là yêu cầu thường xuyên đối với những người sản xuất
hàng hóa
Quy luật cạnh tranh xuất phát từ bản chất của nền sản xuất hàng hóa, của quy luật
giá trị. Cạnh tranh có vai trị rất quan trọng và là một trong những động lực mạnh
mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc người sản xuất phải thường xuyên năng
động, nhạy bén, thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng tiến bộ khoa học, cơng
nghệ, nâng cao tay nghề, hồn thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả kinh tế…Thực tế cho thấy, ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu
hiện độc quyền thì ở đó thường trì trệ, bảo thủ, kém phát triển. Bên cạnh mặt tích
cực, cạnh tranh cũng có những mặt tiêu cực, thể hiện ở cạnh tranh không lành
mạnh như dùng những thủ đoạn vi phạm đạo đức hoặc vi phạm pháp luật nhằm thu
được nhiều lợi ích nhất cho mình, gây tổn hại đến lợi ích của tập thể, xã hội, cộng
đồng như làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, ăn cắp bản quyền, tung tin phá hoại uy
tín đối thủ, hoặc cạnh tranh làm tăng sự phân hóa giàu nghèo hoặc tổn hại đối với
môi trường sinh thái v.v.VD:

Công xưởng sản xuất hàng lậu dầu gội , mỹ phẩm
15


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH THAM QUAN,
NGHIÊN CỨU NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ MẶT
HẠN CHẾ CỦA NỀN SẢN XUẤT HÀNG HÓA
I.Sơ lược về lịch sử phát triển nền kinh tế sản xuất hàng hóa ở Việt

Nam

Từ nền sản xuất hàng hóa giản đơn thời phong kiến tới nền kinh tế hàng hóa sau
này, nền sản xuất hàng hóa của nước ta đã không ngừng biến đổi và phát triển.
Thời kì phong kiến, trình độ lao động, năng suất lao động nước ta chưa cao, chính
sách bế quan tỏa cảng ở một số triều đại kìm hãm sự lưu thơng hàng hóa giữa các
khu vực , quốc gia. Sở hữu về tư liệu lao động nằm trong tay một số ít người ở
tầng lớp trên. Nhìn chung, ở thời kì này, nền sản xuất hàng hóa ở nước ta mới chỉ
xuất hiện ở giai đoạn sơ khai.
Trong thời kì bao cấp trước đổi mới, nên kinh tế hàng hóa đồng thời là nền kinh tế
kế hoạch. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp kìm hãm sự phá triển
của nền sản xuất hàng hóa. Biến hình thức tiền lương thành lương hiện vật, thủ
tiêu động lực sản xuất, thủ tiêu cạnh tranh và lưu thông thị trường. Sự nhận thức
sai lầm của nước ta thời kì này đã khiến nền kinh tế suy sụp, sức sản xuất hàng hóa
xuống dốc khơng phanh. Từ năm 1976 đến 1980, thu nhập quốc dân tăng rất chậm,
có năm cịn giảm. Từ năm 1986, sau khi Đảng và Nhà nước đã kịp thời chuyển đổi
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, nền kinh tế sản xuất hàng hóa nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ.
Thị trường và nền kinh tế nhiều thành phần được công nhận và bước đầu phát
triển. Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu trên cơ sở đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn liền với phát triển một nền nơng nghiệp tồn diện, phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
16


Tuy nhiên sản xuất hàng hóa cũng có những mặt trái của nó như phân hóa giàu –
nghèo giữa những người sản xuất, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng, phá hoại
môi trường sinh thái, xã hội,v.v… Cụ thể những hạn chế đó sẽ phân tích và tìm
giải pháp sau khi chúng ta làm rõ sự vận hành nền sản xuất hàng hóa Việt Nam
dưới đây.
II. Tình hình sản xuất hàng hóa nước ta

1. Bối cảnh trong nước và quốc tế trước đổi mới
a, Về bối cảnh trong nước
Sau khi đất nước giải phóng cho tới năm 1985, cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp và mơ hình cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa kiểu Xô Viết
đã được áp dụng rộng rãi trên cả nước. Mặc dù có nhiều nỗ lực trong xây dựng và
phát triển kinh tế, nhất là tập trung cho công nghiệp hóa, ưu tiên phát triển cơng
nghiệp nặng. Nhưng nền kinh tế nói chung và sản xuất cơng nghiệp vẫn tăng
chậm. Hơn nữa, có xu hướng giảm sút và rơi vào khủng hoảng. Nền sản xuất bao
cấp đã tỏ ra khơng cịn phù hợp và kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Trong khi
nguồn viện trợ của bên ngoài, các nguồn vốn và hàng hóa vật tư, nguyên liệu và
hàng hóa tiêu dùng đã bị cắt giảm đáng kể, lại thêm bao vây cấm vận của đế quốc
Mỹ ngăn cản Việt Nam bình thường hóa quan hệ thế giới. Mặt khác, do đặc trưng
của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc nên nó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển kinh tế theo chiều
rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại q dài nên nó khơng những khơng
cịn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó cịn sinh ra
nhiều hiên tượng tiêu cực làm giảm năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Nếu không thay đổi cơ chế kinh tế, vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì khơng thể nào có
đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích lũy vốn để mở rộng sản
xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cũ
cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng hiệu
quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất hông đáp ứng được nhu cầu
17


của xã hội, tích lũy hầu như khơng có, đơi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của mỗi
người.
Trước những khó khăn, nhiều địa phương đã tìm lối thốt và đổi mới kinh tế từ cơ
sở. Từ việc tổng kết thực tiễn này, năm 1979, tại Hội nghị trung ương IV, Đảng ta
đã tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong cơ chế quản lý nền kinh tế, nhằm “cởi trói”

và để cho sản xuất “bung ra” – sản xuất hàng hóa. Tiếp theo, những cải tiến quản
lý thử nghiệm được bắt đầu từ năm 1981 với khốn trong nơng nghiệp, điều chỉnh
kế hoạch và mở rộng quyền tự chủ cho xí nghiệp, cơng nghiệp quốc doanh. Có thể
coi những cải tiến quản lý trong các năm 1979 – 1985 là các tìm tịi thể nghiệm
chuẩn bị cho cải cách toàn diện (Đổi mới) nền kinh tế. Xong, các cải tiến cục bộ
này vẫn chưa làm thay đổi căn bản thực trạng nền kinh tế, khủng hoảng kinh tế vẫn
rất trầm trọng. Vì vậy, đổi mới tồn diện nền kinh tế trở thành yêu cầu cấp bách ở
nước ta.
Đặc trung nổi bật trong thời kỳ này là đổi mới. Đại hội VI (tháng 12/1986) của
Đảng là mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện ở nước ta. Sau
khi phân tích phê phán nghiêm túc sai lầm, thiếu sót trong thời gian qua, Đại hội
đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế toàn diện cho đất nước trong thời kỳ mới. Tiếp
theo, các Đại hội VII (tháng 6/1991), Đại hội VIII (tháng 6/1996) và Đại hội IX
(tháng 12/2001) đã tiếp tục khẳng định và bổ xung, hồn thiện các chủ trương
chính sách đổi mới kinh tế, có đổi mới phát triển cơng nghiệp và thực hiện nền sản
xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa. Nền sản xuất này biểu hiện ở những đổi mới trong
kinh tế như sau:
- Đổi mới về cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và chính sách cơ cấu
- Đổi mới trong cải tạo và xây dựng, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, thực hiện chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi
năng lực sản xuất. Phê phán quan điểm nóng vội trong cải tạo xã hội chủ
nghĩa trước đây, Đại hội VI đã khẳng định sự tồn tại lâu dài các thành phần
18


kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều này là xuất
phát từ thực trạng kinh tế - xã hội còn thấp kém của Việt Nam. Nó cho phép
có nhiều hình thức sản xuất kinh doanh đa dạng, phù hợp về quy mô, trình
độ và hình thức với từng khâu của quá trình sản xuất và lưu thông, nhằm
khai thác các tiềm năng kinh tế của xã hội. Đảng coi đây là giải pháp chiến

lược để giải phóng sức sản xuất và cơ cấu kinh tế hợp lý.
- Đổi mới cơ chế quản lý công nghiệp: Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao
cấp từ nhiều năm nay đã không được tạo động lực phát triển và gây ra nhiều
hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Do đó, Đại hội VI đã chủ trương đổi mới
về cơ chế quản lý kinh tế và chỉ ra thực chất của cơ chế mới đó là : “cơ chế
kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh tế kinh doanh xã hội chủ
nghĩa đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Trên cơ sở tổng kết đánh giá những vấn đề thực tiễn đổi mới trong cơ chế quản lý
kinh tế nước ta từ năm 1986 đến nay, trong các kỳ đại hội, Đảng ta tiếp tục làm rõ
nội dung và phương thức đổi mới cơ chế quản lý kinh doanh theo hướng “ xóa bỏ
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp hình thành cơ chế thị trường và nền sản xuất
hàng hóa có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Để thị
trường điều tiết và trả lời ba câu hỏi lớn của nền sản xuất hàng hóa tuy nhiên Nhà
nước cũng phát huy tối ưu vai trị của mình.

Nền kinh tế sản xuất hàng hóa những thời kỳ trở lại đây ở Việt Nam vô cùng
phát triển, không thể nói là xuất sắc so với quốc tế nhưng có thể nói là đang
tiến bộ rất khác biệt so với thời kỳ trước đây. Từ nền kinh tế sản xuất giải
đơn ở thời kỳ phong kiến ta đã có những sự biến đổi và đi lên.
Trong thời kỳ bao cấp trước khi được đổi mởi, nền kinh tế hàng hóa đồng
thời là nền kinh tế kế hoạch. Mọi cơ chế kế hoạch chủ yếu tập trung ở giai
cấp lãnh đạo, quan liêu. Thời kỳ bao cấp đó đã kìm hãm sự phát triển.
19


b, Về bối cảnh quốc tế
Từ những năm của thập kỷ 80 thế kỷ trước, thế giới chứng kiến những quá trình
mới diễn ra đang làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế - chính trị và xã hội nhân
loại. Tồn cầu hóa kinh tế trở thành xu thế nổi bật và tất yếu chi phối thời đại;
không ngoại trừ một quốc gia, dân tộc nào, nếu muốn phát triển bắt buộc phải mở

cửa, hội nhập vào nền kinh tế tồn cầu. Cung với tồn cầu hóa kinh tế, cuộc cách
mạng khoa học công nghệ mới lần thức ba diễn ra mới nhịp độ ngày càng mạnh
mẽ, mà cốt lõi là dựa trên việc ứng dụng các phát minh khoan học công nghệ, phát
triển các ngành công nghệ cao như công nghệ truyền thông và tin học, công nghệ
vật liệu mới cơng nghệ sinh học…
Tình hình này trước hết tác động mạnh đến nền kinh tế thế giới. Chẳng những các
lực lượng sản xuất và cơ cấu kinh tế thế giới có nhiều thay đổi, theo hướng dựa
vào tri thức và khoa học công nghệ, làm xuất hiện các ngành sản xuất mới có hàm
lượng R&D và giá trị gia tăng cao, ngành dịch vụ ngày càng có vai trò quan trọng
và tỉ trọng lớn to dần trong cơ cấu kinh tế quốc dân và nền sản xuất hàng hố.
Mặt khác, nó làm thay đổi các quan hệ kinh tế và quản lý kinh tế thể giới theo
hướng :
- Trong các nước tư bản phát triển, sau các cuộc khủng hoảng cơ cấu kinh tế và
dầu lửa, từ đầu những năm 80, đã tiến hành chính sách điều chỉnh kinh tế. Nội
dung cơ bản là điều chỉnh cơ cấu kinh tế và sản xuất hàng hóa theo hướng tập
trung vào các ngành có hàm lượng KHCN cao, thực hiện điều tiết nền kinh tế và
sản xuất hàng hóa chủ yếu thông qua các công cụ vĩ mô, thực hiện tư nhân hóa khu
vực kinh tế nhà nước, tăng cường vai trò của kinh tế tư nhân trong sản xuất hàng
hóa.
- Các nước đang phát triển như Đơng Á và Đông Nam Á cũng thực hiện cải cách
kinh tế, trở thành khu vực phát triển năng năng động của thế giới. Các cải cách ở
đây bao gồm cải cách cơ cấu và xác định đúng đắn chiến lược kinh tế để nâng cao
sức cạnh tranh và phát triển của nền sản xuất hàng hóa, mở cửa hội nhập và liên
20


kết kinh tế, khuyến khích xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài - coi đây là
động lực để phát triển kinh tế sản xuất hàng hóa.
Các nước xã hội chủ nghĩa cũ trước các khó khăn chồng chất đã tiến hành cải cách
kinh tế hàng hóa nhằm khắc phục cơ chế kế hoạch hóa hành chính chỉ huy, chuyển

đổi sang kinh tế thị trường. Cải cách kinh tế Trung Quốc từ năm 1978 đã đạt được
những thành tự to lớn và là tấm gương cho Việt Nam tham khảo trong sản xuất
hàng hóa.
Như vậy, có thể thấy làn sóng cải cách kinh tế rộng khắp trên thế giới cùng với q
trình tồn cầu hóa, cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 3 đã tạo áp lực
mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới về kinh tế ở Việt Nam. Phải chuyển sang nền sản
xuất hàng hóa là hệ quả tất yếu của chúng ta.
III. Thực trạng nền sản xuất hàng hóa ở nước ta hiện nay
1.Thực trạng
Trong khoảng thời gian gần đây, nền kinh tế hàng hóa Việt Nam có xu hướng sụt
giảm. Tuy khủng hoảng trong thời gian dài nhưng năm 2016, nền kinh tế nước ta
đã có những dấu hiệu hồi phục rõ rệt. hay nói cách khác tốc độ tăng trưởng của
nước ta đang có những bước tăng trưởng đáng kể cụ thể :
Tốc độ tăng trưởng năm 2014 là 5,8%, năm 2015 là 6,2% và năm 2016 là 6,7%.
Việc GDP năm 2016 có sự tăng nhẹ cho chúng ta niềm tin rằng: “Kinh tế Việt
Nam đã vượt qua nhiều khó khăn, đang phục hồi và hướng tới tốc độ tăng trưởng
cao hơn,” vào ngày 26.10, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội, Thủ tướng
Nguyễn Xuân Phúc đã phát biểu tuyên bố khai mạc Hội nghị cấp cao Chiến lược
hợp tác kinh tế Ayeyawady-Chao Phraya-Mekong (ACMECS) lần thứ 7, Hội nghị
cấp cao Hợp tác Campuchia-Lào-Myanmar-Việt Nam (CLMV) lần thứ 8.
Cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam từ sau khi đổi mới tới nay đã có nhiều thay đổi
đáng mừng. Có sự chuyển đổi tích cực từ khu vực I (nơng lâm nghiệp và thủy sản)
sang khu vực II (công nghiệp và xây dựng) và khu vực III (dịch vụ).

21


Cơ cấu thành phần kinh tế của nước ta cũng đã có sự tiến bộ. Từ nền kinh tế mang
nặng tính cơng hữu, lấy kinh tế quốc doanh là hình thức cao nhất, đến nay, nước ta
đã có nền kinh tế nhiều thành phần với sự tham gia ngày càng mạnh mẽ của kinh

tế ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngồi .
Tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng nền kinh tế hàng hóa Việt Nam
vẫn chưa thể hiện được một cách triệt để những ưu thế của mình. Bên cạnh đó là
sự tồn đọng những hạn chế của nền sản xuất hàng hóa nước ta cần được sớm giải
quyết.
Về thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: Lực lượng sản xuất của Việt Nam dù đã
có sự phát triển lớn so với trước khi đổi mới, song hiện nay trình độ lao động của
Việt Nam còn kém. “Theo đánh giá mới nhất của Ngân hàng Thế giới, chất lượng
nguồn nhân lực Việt Nam chỉ đạt mức 3,79 điểm (theo thang điểm 10), xếp thứ 11
trong số 12 nước Châu Á tham gia xếp hạng”.3 Về đẩy mạnh quá trình xã hội hóa
sản xuất. Năng suất lao động xã hội ở Việt Nam còn thấp. Việc xuất khẩu hàng
Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn do giá thành cao, bị kiện bán phá giá hay bị
kiểm soát ở thị trường một số nước như Hoa Kì .
Về đáp ứng nhu cầu đa dạng cho xã hội: Nước ta đã đáp ứng khá tốt cả
về mẫu mã và chất lượng. Tuy nhiên sự xuất hiện của hàng giả, hàng
nhái, hàng kém chất lượng trên thị trường ngày càng nhiều. Giá các mặt
hàng thiết yếu như điện, nước liên tục tăng.
2.Thách thức cho nền sản xuất hàng hóa Việt Nam
- Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng sẽ đặt doanh nghiệp Việt Nam, các sản
phẩm hàng hóa của Việt Nam trước thách thức phải cạnh tranh quyết liệt với các
doanh nghiệp, các sản phẩm hàng hóa của nước ngồi khơng chỉ ở thị trường nước
ngoài mà ngay cả ở thị trường trong nước của Việt Nam; trong khi các doanh
nghiệp Việt Nam phổ biến là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình độ cơng nghệ thấp,
năng lực tài chính hạn chế, phải cạnh tranh với những doanh nghiệp lớn, công
22


nghệ cao, tiềm lực tài chính hùng hậu, có những sản phẩm có thương hiệu nổi
tiếng trên thế giới. Doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất
tồn cầu, hiện nay, phần lớn là ở những cơng đoạn có trình độ cơng nghệ thấp, gia

cơng, lắp ráp. - Hội nhập quốc tế, kinh tế Việt Nam đứng trước thách thức sẽ chịu
tác động trực tiếp, nhanh chóng từ những biến động kinh tế từ bên ngoài, từ những
biến động trên thị trường khu vực, thế giới về giá cả, lãi suất, tỷ giá của các đồng
tiền, nhất là những đồng tiền có ảnh hưởng lớn; từ những thay đổi của các luồng
hàng hóa, tài chính, đầu tư quốc tế và nghiêm trọng hơn là chịu sự tác động, ảnh
hưởng rất nhanh của các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực và trên thế
giới. Đồng thời, các doanh nghiệp Việt Nam còn đối mặt với những thách thức từ
những cuộc tấn công mạng vào các hệ thống quản lý, hệ thống dữ liệu để ăn cắp
dữ liệu, ăn cắp cơng nghệ, kế hoạch, các bí quyết kinh doanh, nhất là của những
đối thủ cạnh tranh.
Thách thức rất lớn nữa đối với Việt Nam là vấn đề tốc độ phát triển rất nhanh của
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, của những tahy dổi, phát triển cơng nghệ
diễn ra nhanh chóng trên Thế giới. Theo kịp tốc độ phát triển này đối với Việt
Nam là một thách thức lớn. Hơn nữa, trong khi ở Việt Nam, hệ thống thể chế cho
các hoạt động, các lĩnh vực, các mơ hình kinh doanh mới, việc bảo vệ sở hữu trí
tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, xử lý tranh chấp,… việc quản lý các hoạt động kinh
tế, sinh hoạt xã hội trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư cịn chưa hình
thành; việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, phát triển khoa học-công nghệ, xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng…đáp ứng đòi hỏi phát triển kinh tế đất nước trong
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng không phải nhiệm vụ đơn giản, dễ
dàng .
IV. Những mặt hạn chế sản xuất hàng hóa nước ta hiện nay
-Lạm phát và phân hóa giàu nghèo :
Lạm phát là sự tăng giá liên tục của hàng hoá/ dịch vụ dẫn đến tiền tệ bị mất giá.
Nôm na là khi giá cả một món hàng tăng lên, thay vì dùng 1 đồng để mua thì phải
dùng đến 2, 3 đồng mới mua được, lượng hàng hóa mua được sẽ ít đi. 
23


Lạm phát có cả mặt tích cực lẫn tiêu cực và khi mức độ lạm phát tăng cao thì sẽ

tạo ra nhiều hệ quả xấu. Tỷ lệ lạm phát tăng khiến cho các mức lãi suất cũng tăng
theo dẫn đến những hạn chế của sản xuất hàng hố và gây ra tình trạng suy thối
kinh tế, thất nghiệp trầm trọng.
Tình trạng lạm phát còn khiến đồng tiền của nước này trở nên mất giá hơn so với
các nước khác, gia tăng khoản nợ với nước ngoài, gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh
tế và địa thế của nước đó trên thị trường quốc tế. 
Lạm phát tăng cao nhưng mức thu nhập của người dân tăng ít hoặc khơng đổi sẽ
khiến họ lâm vào tình trạng khó khăn, nhiều người bỏ việc dễ dẫn đến tình trạng
bất ổn trong xã hội, tệ nạn gia tăng.
Lạm phát trong sản xuất hàng hố cịn tạo ra khoảng cách giàu nghèo lớn gây ra
những hạn chế của sản xuất hàng hố. Có nhiều người sẽ đầu cơ trục lợi dùng tiền
để thu gom, vơ vét hàng hoá khiến cho mặt hàng đó trở nên khan hiếm, làm mất
cân đối quan hệ cung – cầu khiến cho giá cả các mặt hàng tăng cao. Khi ấy, những
người nghèo sẽ càng khó khăn hơn khi khơng thể mua hàng hoặc phải trả khoản
tiền cao hơn rất nhiều. Tình trạng này gây rối loạn nền kinh tế – xã hội, tạo sự
chênh lệch giàu nghèo lớn.
Chúng ta có thể ngược thời gian về năm 2020 khi dịch bệnh Covid-19 bùng nổ
trong cộng đồng, các loại hàng hóa trở nên khan hiếm đặc biệt là khẩu trang y tế.
Nhiều người đã nhân lúc này thu mua số lượng lớn khẩu trang và bán ra với mức
giá cao gấp 3, 4 lần so với bình thường. Nhiều nhà thuốc, cơng ty sản xuất cũng
tồn trữ khẩu trang nhằm đẩy mức giá lên cao để thu lợi về cho mình. Những việc
này đều gây mất trật tự xã hội, nhiều người không thể mua được khẩu trang và có
nhiều người phải mua với giá cao trong khi tình hình kinh tế đang khơng ổn định
do dịch bệnh. Tình trạng này buộc các cơ quan nhà nước phải can thiệp như
nghiêm phạt những người đầu cơ trục lợi; khuyến khích, thúc đẩy sự sản xuất tại
các cơ sở sản xuất vật phẩm y tế; cung cấp khẩu trang miễn phí cho người dân,
nhất là những người có hồn cảnh khó khăn; bình ổn lại mức giá chung,…
Sản xuất hàng hóa phát triển thúc đẩy sự phân hóa đời sống dân cư, kéo theo sự
phân hóa giàu nghèo. Thời kỳ đất nước kém phát triển, người dân Việt Nam
24



thường hướng theo nền kinh tế tự cung tự cấp. Vì vậy, sản xuất hàng hóa giống
như địn bẩy, đưa người sản xuất lên một cuộc sống mới. Hay nói cách khác, đó là
quy luật thích nghi. Ai khơng thích nghi, theo kịp sự phát triển của hoạt động sản
xuất hàng hóa thì sẽ bị bỏ lại phía sau của sự phát triển. Đây được xem là hạn chế
lớn nhất của hoạt động sản xuất hàng hóa ở Việt Nam.

25


×