Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Xây Dựng Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.59 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
NỘI DUNG ..................................................................................................................... 3
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN ...................................................................................... 3
1.1. Chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa . 3
1.2. Điều kiện ra đời chủ nghĩa xã hội ............................................................................ 3
1.3. Những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ....................................................... 5
Chương 2 : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM ................................................................................................................. 7
2.1. Mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ..................................................................... 7
2.2. Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .............................................................. 9
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................................... 12
DANH MỤC TÀI LIỆU KHAM KHẢO ................................................................... 15


1

MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Trải qua các giai đoạn lịch sử, các cuộc chiến tranh giành độc lập, chính quyền của
dân tộc Việt Nam, họ đã không ngừng cố gắng đấu tranh, chiến đấu với tinh thần bất
khuất, lòng yêu nước nồng nàn, không ngại hy sinh trên chiến trường, cùng với sự lãnh
đạo tài ba, kiệt suất chính những nhân tố đó đã góp phần chiến thắng cho các cuộc đấu
tranh cách mạng và mở ra tương lai cho đất nước Việt Nam. Đất nước Việt Nam hiện
nay đang trên đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ,thực hiện các công cuộc đổi mới,
đời sống nhân dân đang dần được cải thiện, các vấn đề về kinh tế - xã hội đang có những
thay đổi và phát triển, quốc phòng và an ninh ngày càng vững mạnh . Để có được những
thành tựu vượt trội, to lớn thì phải nhắc đến việc nước ta đi theo đường lối, tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,là kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện nước


ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tư tưởng Hồ Chí
Minh khơng chỉ là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc mà
còn mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân để giành được thắng lợi.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã phải trải qua thử thách và được khẳng định lại, việc nhận thức
về tư tưởng Hồ Chí Minh đối với nền cách mạng Việt Nam cũng như vai trò của Người
đối với q trình phát triển của dân tộc là vơ cùng ý nghĩa bởi vì sự đúng đắn từ những
quan điểm của Người ngày càng rõ ràng, mang ý nghĩa to lớn. Cùng với tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm giúp cho nhân dân lao động thốt nạn bần
cùng, làm cho mọi người có cơng ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc.
Chủ nghĩa xã hội cịn giúp nhân dân khơng cịn áp bức, bóc lột, xã hội do nhân dân lao
động làm chủ, trong đó con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân
và tập thể vừa thống nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau. Chủ nghĩa xã hội là con đường
duy nhất đúng, hợp với quy luật cách mạng, được thực tiễn kiểm nghiệm, khẳng định
tính đúng đắn. Với những giai đoạn lịch sử cách mạng khác nhau, những thắng lợi trong


2

cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như thành công trong lãnh đạo đất nước đẩy
mạnh công cuộc đổi mới, chính là minh chứng hùng hồn cho sự đúng đắn khi Chủ tịch
Hồ Chí Minh đi theo chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn
về chủ nghĩa xã hội có một số điểm cơ bản như: giúp khắc phục những quan niệm giản
đơn về chủ nghĩa xã hội, làm cho nhận thức về chủ nghĩa xã hội đúng đắn, sâu sắc hơn ;
hình thành được mơ hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam ; nhận thức rõ hơn, đúng hơn về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ; xác định rõ và đúng nội hàm của “ bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa”; đưa ra quan niệm về phát triển kinh tế thị trường định hướng theo chủ
nghĩa xã hội ; đưa ra mơ hình nhà nước pháp quyền chủ nghĩa xã hội là thực hiện tối ưu
quyền làm chủ của nhân dân ; xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức
mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Với những nghiên cứu
từ lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội có vai trị to lớn trong bổ sung, phát triển lý

luận về chủ nghĩa xã hội, góp phần phát triển, hồn thiện đường lối, quan điểm, chủ
trương của Đảng từ đó làm cơ sở tăng cường sự thống nhất, bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng, tạo sự đồng thuận trong xã hội Việt Nam. Nhận thấy được tầm quan trọng, ý
nghĩa to lớn từ trong tư tưởng của Hồ Chí Minh và xây dựng chủ nghĩa xã hội nên tôi
chọn nghiên cứu đề tài “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam”.


3

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.

Chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra tính tất yếu
sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa, đó là quá trình lịch sử - tự nhiên. Sự thay thế này được thực hiện
thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa xuất phát từ hai tiền đề vật chất quan trọng nhất
là sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trưởng thành của giai cấp cơng nhân.
Khi phân tích hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen cho
rằng, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp lên cao qua hai giai
đoạn, giai đoạn thấp và giai đoạn cao, giai đoạn cộng sản chủ nghĩa; giữa xã hội tư bản
chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản.
Vậy là, về mặt lý luận và thực tiễn, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
cộng sản, được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, đối với các nước chưa trải qua chủ nghĩa
tư bản phát triển, cần thiết phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ

nghĩa xã hội – những cơn đau đẻ kéo dài; thứ hai, đối với những nước đã trải qua chủ
nghĩa tư bản phát triển, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một thời ký quá
độ nhất định, thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội kia, thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
1.2.

Điều kiện ra đời chủ nghĩa xã hội

Bằng lý luận hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã đi sâu phân tích, tìm ra qui luật vận
động của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, từ đó cho phép ơng dự báo khoa
học về sự ra đời và tương lai của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. V.I.Lênin
cho rằng: C.Mác xuất phát từ chỗ là chủ nghĩa cộng sản hình thành từ chủ nghĩa tư bản,


4

phát triển lên từ chủ nghĩa tư bản kết quả tác động của một lực lượng xã hội do chủ nghĩa
tư bản sinh ra – giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại. Sự ra đời của chủ nghĩa xã
hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin có hai điều kiện chủ yếu sau đây :
Một là điều kiện kinh tế :
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã thừa nhận vai trò to lớn của chủ nghĩa
tư bản khi khẳng định : sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn mới trong lịch sử
phát triển mới của nhân loại. Nhờ những bước tiến to lớn của lực lượng sản xuất, biểu
hiện tập trung nhất là sự ra đời của công nghiệp cơ khí ( Cách mạng cơng nghiệp lần thứ
hai ), chủ nghĩa tư bản đã tạo ra bước phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất. Trong
vòng chưa đầy một thế kỷ, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra được những lực lượng sản xuất
nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất mà nhân loại tạo ra lúc đó. Tuy nhiên, các
ơng cũng chỉ ra rằng, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất càng được cơ khí
hóa, hiện đại hóa càng mang tính xã hội hóa cao, thì càng mâu thuẫn với quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản

xuất từ chỗ đóng vai trị mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, thì ngày càng trở
nên lỗi thời, xiềng xích của lực lượng sản xuất.
Hai là điều kiện chính trị - xã hội :
Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất trở thành mâu thuẫn kinh tế cơ bản của
chủ nghĩa tư bản, biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân hiện đại
với giai cấp tư sản lỗi thời. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản
xuất hiện ngay từ đầu và ngày càng trở nên gay gắt và có tính chính trị rõ nét. C.Mác và
Ph. Ăngghen chỉ rõ : “Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất,
những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu
thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.
Hơn nữa, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền đại cơng nghiệp cơ khí là sự trưởng
thành vượt bậc cả về số lượng và chất lượng của giai cấp công nhân, con đẻ của nền đại


5

cơng nghiệp. Chính sự phát triển về lực lượng sản xuất và sự trưởng thành của giai cấp
công nhân là tiền đề kinh tế - xã hội dẫn tới sự sụp đổ không tránh khỏi của chủ nghĩa tư
bản. C.Mác và Ph. Ăngghen cho rằng , giai cấp tư sản khơng chỉ tạo vũ khí sẽ giết mình
mà cịn tạo ra những người sử dụng vũ khí đó, những cơng nhân hiện đại, những người
vô sản. Sự trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân được đánh dấu bằng sự ra đời
của Đảng Cộng sản, đội tiền phong của giai cấp công nhân, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu
tranh chính trị của giai cấp cơng nhân chống giai cấp tư sản.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trưởng thành thực sự của giai cấp công nhân
là tiền đề, điều kiện cho sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tuy
nhiên, do khác về bản chất với tất cả các hình thái kinh tế - xã hội trước đó, nên hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa khơng tự nhiên ra đời, trái lại, nó chỉ được hình thành
thơng qua cách mạng vơ sản dưới sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp cơng nhân –
Đảng Cộng sản, thực hiện bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ

nghĩa cộng sản.
Do tính sâu sắc và triệt để của nó, cách mạng vơ sản chỉ có thể thành cơng, hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể được thiết lập và phát triển trên cơ sở của
chính nó, một khi tính tích cực chính trị của giai cấp công nhân được khơi dậy và phát
huy trong liên minh với các giai cấp và tầng lớp những người lao động dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản.
1.3.

Những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội

Khi nghiên cứu về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, các nhà sáng lập chủ
nghĩa xã hội khoa học rất quan tâm dự báo những đặc trưng của từng giai đoạn, đặc biệt
là giai đoạn đầu ( giai đoạn thấp ) của xã hội cộng sản nhằm định hướng phát triển cho
phong trào công nhân quốc tế. Những đặc trưng cơ bản của giai đoạn đầu, phản ánh bản
chất và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội từng bước được bộc lộ đầy đủ cùng với quá
trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Căn cứ vào những dự báo của C.Mác và Ph.


6

Ăngghen và những quan điểm của V.I. Lênin về chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xơviết ,
có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau :
Một là , chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện.
Hai là, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Ba là, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ.
Bốn là , chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, đại
biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động.
Năm là, chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy những giá

trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại.
Sáu là, chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đồn kết giữa các dân tộc và có quan hệ
hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.


7

CHƯƠNG 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM
2.1. Mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Mục tiêu về chế độ chính trị : Phải xây dựng được chế độ dân chủ.
Chế độ dân chủ trong mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Hồ Chí Minh
khảng định và giải thích : “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ” ,“Nước
ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân , vì dân là chủ”.
Khi khẳng định “ dân làm chủ” và “dân là chủ”, Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền lợi
và quyền hạn , trách nhiệm và địa vị của nhân dân. Người chỉ rõ : Tất cả lợi ích đều vì
dân, tất cả quyền hạn đều của dân, sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước là công việc
của dân , các cấp chính quyền do dân cử ra, các tổ chức đồn thể do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hạnh và lực lượng đều ở nơi dân.
Mục tiêu về kinh tế : Phải xây dựng được nền kinh tế phát triển cao gắn bó mật thiết
với mục tiêu về chính trị.
Khái quát mục tiêu về kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh xác định
: Đây phải là nền kinh tế phát triển cao “ với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa
học và kỹ thuật tiên tiến”, là “ một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể”. Mục tiêu này phải gắn bó chặt chẽ với mục tiêu về chính trị vì “
Chế độ kinh tế và xã hội của chúng ta nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân
dân, trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển”. Theo Người, “ kinh tế
quốc doanh là hình thức sở hữu của tồn dân, nó lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và Nhà
nước phải bảo đảm cho nó phát triển ưu tiên…Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập

thể của nhân dân lao động ; Nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ cho
nó phát triển”.


8

Mục tiêu về văn hóa : Phải xây dựng được nền văn hóa mang tính dân tộc, khoa học,
đại chúng và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Hồ Chí Minh cho rằng, mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế là mối quan
hệ biện chứng. Chế độ chính trị và kinh tế của xã hội là nền tảng và quyết định tính chất
của văn hóa ; cịn văn hóa góp phần thực hiện mục tiêu của chính trị và kinh tế. Người
đã từng nói : “Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy” ; “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải
phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao khơng nói phát triển văn hóa và kinh tế ? Tục ngữ
ta có câu : Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước”.
Về vai trị của văn hóa, Người khẳng định : “ Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao
sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ . Nâng cao
trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc làm cần thiết để xây dựng nước ta thành
một nước hịa bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh” ; nền văn hóa phát triển
là điều kiện cho nhân dân tiến bộ. Theo Người, “để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức” , “Phải
triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nơ dịch của văn hóa đế quốc. Đồng
thời , phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái
mới của văn hóa tiến bộ thế giới, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân
tộc, khoa học và đại chúng”.
Mục tiêu về quan hệ xã hội : Phải đảm bảo dân chủ công bằng, văn minh.
Theo Hồ Chí Minh, với tư cách làm chủ, là chủ của đất nước , nhân dân phải làm tròn
nhiệm vụ của người chủ để xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó mọi người đều có quyền
làm việc ; có quyền nghỉ ngơi ; có quyền học tập ; có quyền tự do thân thể ; có quyền tự
do ngơn luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình; có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc
khơng theo một tơn giáo nào ; có quyền bầu cử, ứng cử. Mọi cơng dân đều bình đẳng

trước pháp luật . Nhà nước đảm bảo quyền tự do dân chủ cho công dân, nhưng nghiêm
cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân
dân.


9

Như vậy, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh, tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và
bảo đảm cho nó được thỏa mãn để mỗi người có điều kiện cải thiện đời sống riêng của
mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng trong sự hài hòa với đời sống chung,
lợi ích chung của tập thể.
2.2. Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Để đạt được những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội , Hồ Chí Minh cho rằng, phải nhận
thức , vận dụng và phát huy tối ưu các động lực. Trong tư tưởng của Người ,hệ thống
động lực thúc đẩy tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa rất phong phú, bao hàm những
động lực cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai ; cả về vật chất và tinh thần , nội lực và
ngoại lực,…ở tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục,..Tất
cả các động lực đều rất quan trọng và có mối quan hệ biện chứng với nhau nhưng giữ
vai trò quyết định là nội lực dân tộc, là nhân dân nên để thúc đẩy tiến trình cách mạng
xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm lợi ích của dân, dân chủ của dân, sức mạnh đoàn kết toàn
dân . Trong tư tưởng Hồ Chí Minh , đây là những động lực hàng đầu của chủ nghĩa xã
hội.
Về lợi ích của dân, Hồ Chí Minh quan tâm đến lợi ích của tất cả cộng đồng người và
lợi ích của những con người cụ thể vì Người cho rằng, đây là một trong những điểm khác
nhau cơ bản giữa chủ nghĩa xã hội với những chế độ xã hội trước đó. Người nhận thấy
trong xã hội xã hội chủ nghĩa mỗi người giữ một vị trí nhất định, đóng góp một phần
cơng lao nhất định vì nhân dân lao động đã thốt khỏi bần cùng, có cơng ăn việc làm ,
có cuộc sống ấm no , hạnh phúc , nên ngay từ những ngày đầu xây dựng chế độ xã hội
mới, Người đã dạy : “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải

hết sức tránh”, “phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy”.
Về dân chủ, theo Hồ Chí Minh, “ dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân” ; “địa vị
cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Với tư cách là những động lực thúc đẩy tiến trình cách
mạng xã hội chủ nghĩa, lợi ích của dân và dân chủ của dân không thể tách rời nhau.


10

Về sức mạnh đồn kết tồn dân, Hồ Chí Minh cho rằng, đây là lực lượng mạnh nhất
trong tất cả các lực lượng và chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ
đầy đủ của nhân dân về quyền lợi và quyền hạn, trách nhiệm và địa vị dân chủ của mình;
với sự lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, lợi ích của dân, dân chủ của dân, đồn kết tồn dân gắn
bó hữu cơ với nhau, là cơ sở, tiền đề của nhau, tạo nên những độc lực mạnh mẽ nhất
trong hệ thống những động lực của chủ nghĩa xã hội. Song, những yếu tố trên chỉ có thể
phát huy được sức mạnh của mình thơng qua hoạt động của những cộng đồng người và
những con người Việt Nam cụ thể.
Về hoạt động của những tổ chức, trước hết là Đảng Cộng sản, Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội khác, trong đó có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản giữ vai trị quyết
định. Theo Hồ Chí Minh, Đảng như người cầm lái, người cầm lái có vững thì thuyền
mới chạy. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là tổ chức đại diện cho ý chí và quyền
lực của nhân dân, thực hiện chức năng quản lý xã hội để biến đường lối, chủ trương của
Đảng thành hiện thực. Các tổ chức chín trị - xã hội với tư cách là các tổ chức quần chúng
tuy có những nội dung và phương thức hoạt động khác nhau nhưng đều nhất quán về
chính trị và tư tưởng dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước ; hoạt động vì
lợi ích của các thành viên của mình trong sự thống nhất với lợi ích của dân tộc. Với
những cộng đồng này, Người cũng luôn nhắc nhở phải không ngừng nêu cao cảnh giác,
phải chống cả kẻ địch bên ngồi tìm cách phá hoại thành quả của cách mạng và phải
chống cả kẻ địch bên trong là chủ nghĩa cá nhân ; chống tư tưởng “ làm quan cách mạng”.
Về con người Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định : “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội,

trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đó là “những con người của chủ
nghĩa xã hội , có tư tưởng và tác phong xã hội chủ nghĩa”. Trong bài nói chuyện tại Hội
nghị bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo các cấp tồn miền Bắc do Ban Bí thư Trung ương Đảng
triệu tập từ ngày 13 đến ngày 21/3/1961, Hồ Chí Minh giải thích rất chi tiết , cụ thể về
tư tưởng, tác phong xã hội chủ nghĩa, Người khái quát : Những tư tưởng và tác phong
mới mà mỗi người cần bồi dưỡng cho mình là : Có ý thức làm chủ nhà nước, có tinh thần


11

tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “ mình vì mọi người, mọi người vì mình” ; có quan
điểm “tất cả phục vụ sản xuất” ; có ý thức cần kiệm xây dựng nước nhà; có tinh thần tiến
nhanh,, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội và phải chống lại những tư tưởng,
tác phong xấu là : Chủ nghĩa cá nhân ; quan liêu, mệnh lệnh ; tham ơ, lãng phí ; bảo thủ,
rụt rè.
Như vậy, cùng với việc xác định và định hướng phát huy sức mạnh những động lực
của chủ nghĩa xã hội, đối với các cộng đồng người và những con người Việt Nam cụ thể,
Hồ Chí Minh ln nhắc nhở phải ngăn chặn, loại trừ những lực cản của những động lực
này. Nhìn chung, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, quan điểm “xây” đi đôi với “chống”
cũng là một trong những quan điểm xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh, là một trong
những nét đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh.


12

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trong chương một là cơ sở lý luận có ba phần : chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ; điều kiện ra đời chủ nghĩa xã hội và những
đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ

nghĩa của Mác – Lênin đã chỉ ra tính tất yếu của sự thay thế hình thái, cịn C.Mác và Ph.
Ăngghen lại cho rằng chủ nghĩa phát triển từ giai đoạn thấp lên cao, và thời kỳ quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản được hiểu về mặt lý luận hay thực tiễn có hai
nghĩa .Điều kiện ra đời chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin có hai điều kiện là
điều kiện về kinh tế và điều kiện chính trị - xã hội. Với điều kiện về kinh tế có sự ra đời
của chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn mới trong lịch sử phát triển mới của nhân loại vì
đã tạo ra được những bước tiến to lớn khi những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ
hơn lực lượng sản xuất mà nhân loại tạo ra. Điều kiện chính trị - xã hội khi mâu thuẫn
giữa giai cấp công nhân hiện đại với giai cấp tư sản lỗi thời xuất hiện ngay từ đầu và
ngày càng trở nên gay gắt và có tính chính trị rõ nét, cùng với sự phát triển về lực lượng
sản xuất và sự trưởng thành của giai cấp công nhân là tiền đề kinh tế - xã hội dẫn tới sụp
đổ không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản, sự trưởng thành vượt bậc của giai cấp công
nhân được đánh dấu bằng sự ra đời của Đảng Cộng sản, sự phát triển của lực lượng sản
xuất và sự trưởng thành thực sự của giai cấp công nhân là tiền đề, điều kiện cho sự ra
đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Những đặc trưng bản chất của chủ
nghĩa xã hội với sáu mục: một là chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn
diện ; hai là chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu ; ba là chủ nghĩa xã hội là chế
độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ ; bốn là chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới
mang bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân
lao động ; năm là chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy
những giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại và sáu là chủ nghĩa xã


13

hội bảo đảm bình đảng, đồn kết giữa các dân tộc và có quan hệ hữu nghị, hợp tác với
nhân dân các nước trên thế giới.
Qua chương hai, gồm có hai phần là mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và động

lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có
bốn mục tiêu : đầu tiên là mục tiêu về chính trị là phải xây dựng được chế độ quân chủ
được Hồ Chí Minh khẳng định “dân làm chủ” và “dân là chủ” cho thấy quyền lợi và
quyền hạn, trách nhiệm và địa vị của nhân dân từ đó cho thấy tất cả các quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân ; thứ hai là mục tiêu về kinh tế là xây dựng được nền kinh tế
phát triển cao gắn bó mật thiết với mục tiêu về chính trị thì Hồ Chí Minh đã xác định
nền kinh tế phát triển cao với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật
tiên tiến gắn bó chặt chẽ, mật thiết với mục tiêu về chính trị từ đó phát triển ; mục tiêu
thứ ba là mục tiêu về văn hóa là phải xây dựng được nền văn hóa mang tính dân tộc,
khoa học, đại chúng và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại vì mối quan hệ giữa văn
hóa với chính trị và mối quan hệ biện chứng, Người đã khẳng định : “trình độ văn hóa
nâng cao sẽ giúp đẩy mạnh cơng cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ, là một việc
cần thiết để xây dựng đất nước trở thành nước hịa bình, thống nhất độc lập, dân chủ và
giàu mạnh”; mục tiêu cuối cùng là mục tiêu về quan hệ xã hội là phải bảo đảm dân chủ,
công bằng, văn minh, tơn trọng con người với những lợi ích cá nhân đúng đắn để cải
thiện đời sống, phát huy tính cách từ đó làm hài hịa với đời sống chung, lợi ích chung
của tập thể. Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như về lợi ích của nhân dân Hồ
Chí Minh quan tâm đến lợi ích của cả cộng đồng người ; về dân chủ là động lực thúc đẩy
tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ; về sức mạnh đoàn kết toàn dân xây dựng sự giác
ngộ về quyền lợi, quyền hạn và trách nhiệm của nhân dân ; về hoạt động của những tổ
chức như Đảng Cộng sản giữ vai trò là người cầm lái, tư tưởng và chính trị dưới sự lãnh
đạo của Đảng , quản lý của Nhà nước ; về con người Việt Nam có ý thức cần kiệm xây
dựng nước nhà, có tinh thần tiến mạnh, chống lại tư tưởng, tác phong xấu như tham ô,
Chủ nghĩa thực dân, bảo thủ,…


14

Sau khi nghiên cứu về vấn đề “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam”, nhận ra rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ

nghĩa xã hội, cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, là nền tảng tư tưởng để Đảng phát triển
nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta, là sự
thống nhất biện chứng của các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Để có thể đảm
bảo cách mạng thành cơng, xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công trên đất nước, điều
quan trọng nhất theo Chủ tịch Hồ Chí Minh trước hết phải có Đảng và Đảng Cộng sản
là nhân tố quyết định thành cơng, ngồi ra Người cịn chú trọng xây dựng, tăng cường
vai trò quản lý của Nhà nước. Bản thân cũng nhận thức ngày càng sâu sắc hơn những
nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa xã hội thơng qua bài tiểu luận trên. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,
sự vận dụng và phát triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác – Lênin, là tài sản tinh thần vô
cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc, cùng với đó là vấn đề xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam của Hồ Chí Minh với các mục tiêu chính trị, kinh tế, văn hóa cùng
với các động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã góp phần cho thấy được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử đối với dân tộc. Đất nước phát triển theo tư tưởng
Hồ Chí Minh thơng qua việc xây dựng chủ nghĩ xã hội ở Việt Nam không chỉ thúc đẩy
nền kinh tế phát triển với những hệ thống quan điểm đúng đắn, những công cuộc đổi mới
về xã hội chủ nghĩa ngày càng sáng tỏ hơn, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam với những nét cơ bản, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam từ đó xây dựng một xã
hội dân giàu, nước mạnh, cơng bằng, dân chủ, văn minh. Ngồi ra cịn cho thấy được
Việt nam có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trình độ phát triển, tư tưởng
vững mạnh, tinh thần tập thể vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.



×