Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Chuyển thanh tra tuân thủ sang thanh tra trên cơ sở rủi ro

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.98 KB, 16 trang )

Chuyển thanh tra tuân thủ sang thanh tra
trên cơ sở rủi ro. Lộ trình cụ thể tại Việt
Nam.
Mở đầu
Vào những năm 1990, khái niệm về thanh tra trên cơ sở rủi ro xuất hiện như một
thông lệ tốt nhất trên thế giới đối với các cơ quan thanh tra, giám sát tài chính. Kể
từ khi xuất hiện, sự biến đổi đa dạng về kỹ thuật thanh tra, giám sát đã được các cơ
quan thanh tra, giám sát xây dựng. Tâm điểm của những kỹ thuật này là ngôn ngữ
chung về rủi ro; tiếp xúc thường xuyên với Hội đồng quản trị và Ban điều hành của
tổ chức được giám sát; giám sát liên tục hoạt động tài chính và các chỉ số an toàn.
Phương pháp giám sát linh hoạt có thể cho phép đánh giá cụ thể và kịp thời những
bộ phận chức năng được xem là có nhiều rủi ro nhất.
Theo “Từ điển tiếng Việt” xuất bản năm 1992 thì thanh tra là “kiểm soát, xem xét
tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”. Theo tài liệu của Tổng thanh
tra Pháp thì thuật ngữ thanh tra (inspection) bắt nguồn từ tiếng Latinh “In spectare”
có nghĩa là nhìn vào bên trong. Theo đó, thanh tra là một thực tế đứng ngoài để
kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các cơ quan, tổ chức; khác với sự kiểm tra, kiểm
soát nội bộ của cơ quan, tổ chức đó.
Tháng 10 năm 2006, Hiệp ước vốn Basel I đã điều chỉnh, bổ sung vào 25 Nguyên
tắc giám sát ngân hàng có hiệu quả những quy định mới về nâng cao năng lực quản
trị rủi ro của TCTD và tăng cường giám sát trên cơ sở rủi ro đối với tập đoàn ngân
hàng. Mục tiêu khác của việc rà soát lại là để thúc đẩy sự nhất quán giữa các
nguyên tắc cơ bản và các tiêu chuẩn tương ứng trong lĩnh vực chứng khoán và bảo
hiểm cũng như lĩnh vực phòng, chống rửa tiền và sự minh bạch hóa. Đây là tài liệu
rất tốt, để NHNN nghiên cứu, vận dụng vào quá trình thanh tra, giám sát với các
TCTD.
Luật Thanh tra năm 2010 nêu: “Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ
thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó”. Theo đó, NHNN thực hiện thanh
tra chuyên ngành về ngân hàng theo phương pháp thanh tra tuân thủ .


Trong lịch sử hoạt động của mình, Thanh tra NHNN đã và đang thực hiện thanh tra
theo phương pháp thanh tra tuân thủ đối với các tổ chức tín dụng. Trong thời kỳ
ngân hàng một cấp (trước khi có Pháp lệnh ngân hàng, công ty tài chính) và thời kỳ
đầu của mô hình ngân hàng hai cấp mới hình thành và đang hoàn thiện (NHNN và
ngân hàng thương mại), phương pháp thanh tra tuân thủ đã phát huy tốt tác dụng.
Khi chuyển sang giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế ngành Ngân hàng, hệ thống các
TCTD có bước phát triển rất nhanh về quy mô và phạm vi hoạt động, đồng thời
tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thị trường tài chính phi ngân hàng (chứng khoán và bảo
hiểm) có sức hấp dẫn cao, các TCTD có xu hướng thâm nhập sâu rộng hơn vào
hoạt động này. Vì vậy, rủi ro đối với các TCTD trở nên đa dạng hơn. Sự phát triển
mạnh mẽ của các dịch vụ ngân hàng đồng hành cùng với các loại tội phạm mới
xuất hiện trong lĩnh vực ngân hàng, rủi ro về tác nghiệp và công nghệ trong điều
kiện hệ thống quản trị, điều hành kinh doanh của các TCTD còn những yếu kém
đang là nỗi lo lớn của các nhà quản lý ngân hàng. Mặc dù, các TCTD Việt Nam
đang từng bước áp dụng có hiệu quả các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về an toàn
trong hoạt động ngân hàng theo Hiệp ước vốn Basel trong công tác quản trị rủi ro
ngân hàng nhưng bốn loại rủi ro trọng yếu là rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi
ro thị trường và rủi ro hoạt động, trong đó đặc biệt rủi ro tín dụng và rủi ro thị
trường vẫn đang tác động mạnh đến sự bất ổn trong hoạt động của các TCTD.
Nâng cao năng lực quản trị rủi ro là công việc sống còn của TCTD trong môi
trường cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường, của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế ngành ngân hàng. Sự phát triển mạnh mẽ của các TCTD cả về chiều rộng
và bề sâu cũng đòi hỏi hoạt động quản lý nhà nước của NHNN phải được đổi mới,
theo đó, thanh tra trên cơ sở rủi ro đối với TCTD là bước đi tất yếu của NHNN.
I. Khái quát chung về điều kiện nền kinh tế hiện nay
Kinh tế - xã hội nước ta năm 2013 tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn. Mặc dù
các điều kiện về tài chính toàn cầu đã và đang được cải thiện; những rủi ro ngắn
hạn đang có dấu hiệu giảm bớt; một số nền kinh tế lớn đang áp dụng chính sách
nới lỏng tiền tệ và tài chính nhằm tăng cầu trong nước nhưng nhìn chung, kinh
tế thế giới chưa hoàn toàn phục hồi, tăng trưởng chậm và vẫn tiềm ẩn nhiều

nguy cơ bất lợi. Chính sách bảo hộ hàng hóa nội địa diễn ra tại nhiều nước gây
ảnh hưởng đến thị trường cầu. Thất nghiệp vẫn là mối quan tâm chính ở các
nước phát triển. Sản xuất kinh doanh trong nước vẫn trong tình trạng khó khăn,
thị trường cầu nội địa yếu. Sản phẩm hàng hóa tiêu thụ chậm. Nợ xấu đang là
gánh nặng cho nền kinh tế. Tình trạng doanh nghiệp ngừng hoạt động, giải thể
hoặc phá sản từ cuối năm 2012 tiếp tục xảy ra trong những tháng đầu năm 2013.
Việc làm của người lao động bấp bênh dẫn đến thu nhập giảm sút.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO vào cuối năm 2006, các doanh nghiệp trong nước
đã đẩy mạnh tăng trưởng. Trong lĩnh vực ngân hàng, các tổ chức tín dụng (TCTD)
cũng mở rộng mạng lưới và quy mô hoạt động, trong khi năng lực quản trị điều
hành cải thiện chậm chạp.
Trong khi đó, hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng chủ yếu là thanh tra tuân
thủ, thanh tra hành chính, thiếu trọng tâm, trọng điểm; năng lực thanh tra, giám sát
rủi ro và an toàn còn hạn chế, đặc biệt là khả năng phân tích, đánh giá và cảnh báo
rủi ro đối với từng TCTD cũng như toàn hệ thống;hiệu lực, hiệu quả chưa cao,
chưa xử lý kịp thời và nghiêm các rủi ro trọng yếu.
Nhiều văn bản quy định về nghiệp vụ, an toàn hoạt động ngân hàng, hệ thống kiểm
tra, kiểm soát nội bộ của các TCTD còn bất cập, chưa thực sự phù hợp với sự phát
triển nhanh về quy mô và sản phẩm, dịch vụ ngân hàng.
II. Thanh tra tuân thủ
1. Khái niệm
Thanh tra, giám sát tuân thủ là 1 loại thanh tra, giám sát truyền thống. Ở loại thanh
tra giám sát này được dựa trên cơ sở quy định của pháp luật, các quy định của nội
bộ để thực hiện thanh tra, giám sát.
Thanh tra, giám sát tuân thủ các tổ chức tín dụng ở Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa
vào so sánh giữa hoạt động diễn ra thực tế và các quy định hiện hành. Phương pháp
này chủ yếu nhằm đảm bảo việc chấp hành các quy định pháp luật về tiền
tệ, hoạt động ngân hàng và những quy định trong giấy phép hoạt động của các
TCTD. Thanh tra tuân thủ sử dụng một hệ quy chiếu là các quy định của pháp luật.
Các căn cứ để thực hiện thanh tra giám sát tuân thủ là Luật Ngân Hàng Nhà Nước

Việt Nam, luật các tổ chức tín dụng, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan,
các quy định nội bộ của các tổ chức tín dụng.
- Phương pháp thanh tra tuân thủ có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, thanh tra tuân thủ kiểm tra các thông tin, các sự kiện đã xảy ra trong
quá khứ
của TCTD, từ đó góp phần bảo vệ pháp luật và giữ gìn kỷ cƣơng trong hoạt động
kinh doanh
ngân hàng.
Thứ hai, thanh tra tuân thủ chỉ đánh giá trên một phạm vi hạn chế.
Thứ ba, thực hiện phương pháp thanh tra tuân thủ, thanh tra viên chưa chỉ
ra được những kẽ hở trong quản lý, chưa đưa ra những khuyến cáo về khả năng có
thể xảy ra tổn thất của TCTD do những biến động của thị trường, kinh tế, chính trị,
xã hội
Thứ tư, yêu cầu để thực hiện phương pháp thanh tra tuân thủ là không cao so với
thanh tra trên cơ sở rủi ro.
Thứ năm, thanh tra tuân thủ thực hiện phƣơng pháp luận phản ứng (reactive
approach).
Căn cứ vào các quy định của pháp luật.
- Quy trình thanh tra tuân thủ gồm những bƣớc cơ bản sau:
Bước 1: Xác định những quy định bắt buộc TCTD phải thực hiện.
Bước 2: Thực hiện đánh giá mức độ tuân thủ các quy định đó của TCTD.
Bước 3: Đưa ra biện pháp xử lý đối với các vi phạm của TCTD (nếu có).
Bước 4: Kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền các biện pháp khắc phục.
Các bước của quy trình thanh tra tuân thủ nêu trên được lặp đi, lặp lại trong suốt
quá trình thực hiện giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ của Thanh tra ngân hàng đối
với các TCTD.
Như vậy, có thể hiểu, thanh tra, giám sát tuân thủ các tổ chức tín dụng là hoạt động
thanh tra giám sát dựa trên các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để xác định
quy trình tuân thủ, để xác định sai, đúng của từng vụ việc, từng loại hoạt động
nghiệp vụ của một tổ chức tín dụng.

Tuy nhiên
Từ giữa năm 2011 đến nay, hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng đã tập
trung làm rõ những vấn đề nổi cộm, rủi ro, yếu kém và những vi phạm của các
TCTD. Theo đó, đã phát hiện nhiều vi phạm pháp luật, yếu kém của TCTD về
quản trị, điều hành, kiểm toán, kiểm soát nội bộ; hạch toán kế toán; huy động vốn;
hoạt động tín dụng, quy định về sở hữu cổ phần, thu - chi tài chính; an toàn kho
quỹ; phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, hoạt động liên ngân hàng, an toàn
hoạt động của TCTD. Trên cơ sở kết quả thanh tra, kiểm tra, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam đã xử lý nghiêm các vi phạm, kể cả chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra,
đồng thời tiến hành tái cơ cấu các TCTD phù hợp với thực trạng TCTD và quy
định của pháp luật.
Hiện nay, công tác thanh tra, giám sát được đổi mới mạnh mẽ theo hướng
thanh tra, giám sát pháp nhân; kết hợp giữa thanh tra, giám sát tuân thủ với thanh
tra, giám sát trên cơ sở rủi ro. Công tác thanh tra, giám sát ngân hàng được chỉ đạo
tập trung, thống nhất từ trung ương đến các địa phương nhằm thực hiện yêu cầu,
mục đích của kế hoạch thanh tra hàng năm. Hoạt động thanh tra, giám sát ngân
hàng tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro và vi phạm pháp luật.
Trong giai đoạn này, NHNN đẩy mạnh triển khai xây dựng, hoàn thiện hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể là:
Thứ nhất, NHNN đã ban hành quy định mới về phân loại nợ và trích lập dự
phòng rủi ro trong hoạt động của TCTD theo hướng phản ánh đúng, đầy đủ hơn rủi
ro tín dụng, quy định về hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ theo hướng phân định
rõ trách nhiệm, bộ máy, quy trình kiểm tra, kiểm soát nội bộ nhằm nâng cao năng
lực tự kiểm tra, kiểm soát nội bộ của từng TCTD. Trong thời gian tới, NHNN sẽ
sớm ban hành bộ quy định mới về an toàn hoạt động ngân hàng và quy chế quản trị
rủi ro tối thiểu. Đây sẽ là những văn bản quan trọng góp phần hoàn thiện hệ thống
văn bản về an toàn hoạt động ngân hàng của NHNN. Ngoài ra, NHNN đang nghiên
cứu để ban hành các quy định về tổ chức và hoạt động của các loại hình TCTD
khác như TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô, TCTD là hợp tác xã để tạo
lập khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của từng loại hình theo đúng bản chất hoạt

động và phục vụ cho quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD.
Thứ hai, NHNN ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể các điều kiện cấp
phép và tổ chức hoạt động của TCTD, quy định về phát triển mạng lưới các TCTD
theo hướng thắt chặt điều kiện cấp phép và tổ chức hoạt động nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động đối với TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Thứ ba, NHNN đang tiếp tục sửa đổi, ban hành các văn bản hướng dẫn về
hoạt động nghiệp vụ của các TCTD (như ủy thác và nhận ủy thác; góp vốn, mua cổ
phần) cho phù hợp với quy định hiện hành cũng như tình hình phát triển sản phẩm,
dịch vụ của hệ thống TCTD.
Thứ tư, NHNN ban hành, trình cấp có thẩm quyền ban hành một số văn bản
pháp luật tạo cơ sở pháp lý hỗ trợ quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD như quy
định về kiểm soát đặc biệt TCTD, góp vốn, mua cổ phần bắt buộc đối với TCTD
được kiểm soát đặc biệt, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại TCTD Việt
Nam. NHNN sẽ trình Chính phủ sửa đổi, thay thế quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo hướng tăng cường
trách nhiệm và nghiêm khắc hơn đối với các sai phạm trong hoạt động của TCTD.
Tóm lại, từ cuối năm 2011 đến nay, trên cơ sở đổi mới phương thức hoạt
động thanh tra, giám sát ngân hàng và tăng cường xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật, hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước của NHNN trong lĩnh vực tiền tệ,
ngành Ngân hàng đã đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, bảo
đảm an toàn hệ thống và nâng cao chất lượng hoạt động, quản trị điều hành của các
TCTD, góp phần triển khai thành công Đề án cơ cấu lại các TCTD.
III. Thanh tra trên cơ sở rủi ro
1. Khái niệm
Trong lĩnh vực ngân hàng, rủi ro là khả năng các sự kiện được dự đoán trước hay
không được dự đoán trước có thể gây ra tác động bất lợi đối với vốn hay thu nhập
của tổ chức tín dụng.
Có nhiều cách phân loại các rủi ro trong hoạt động ngân hàng, thực tế hoạt động
của các tổ chức tín dụng Việt Nam hiện nay bị chi phối chủ yếu bởi các loại rủi ro
chính:

- Rủi ro tín dụng
- Rủi ro thị trường: rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro về giá.
- Rủi ro thanh toán
- Rủi ro hoạt động
- Rủi ro chiến lược
- Rủi ro tuân thủ.
Chấp nhận và quản lí rủi ro là nguyên tắc cơ bản trong kinh doanh ngân hàng. Tuy
nhiên các loại rủi ro chấp nhận được phải được tổ chức tín dụng tính đến trong
chiến lược kinh doanh của mình và cần phải được hiểu thấu đáo, được đo lường,
kiếm soát và nằm trong phạm vi khả năng sẵn sàng ứng phó với những bất lợi có
thế chấp nhận được của tổ chức tín dụng.
Phương pháp thanh tra ngân hàng trên cơ sở rủi ro là phương pháp thanh tra trong
đó tập trung vào việc đánh giá mức độ rủi ro mà TCTD gặp phải khi không tuân
thủ các quy định, quy trình đã có và khi không có các thủ tục, quy trình hoạt động
phù hợp.
- Đặc điểm cơ bản của phƣơng pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro:
Thứ nhất, thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro tập trung đánh giá tổng thể TCTD
thông qua việc xem xét, kiểm tra hồ sơ tài liệu, các chính sách, quy trình, hệ thống
và thực tiễn công tác quản lý của TCTD.
Thứ hai, thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro cho phép định hƣớng t hanh tra, giám
sát vào những lĩnh vực, những TCTD có mức độ rủi ro cao và rủi ro có khả năng
tác động tới sự an toàn của hệ thống các TCTD.
Thứ ba, thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro dựa rất nhiều vào báo cáo kiểm toán
nội bộ của bộ phận kiểm toán nội bộ của TCTD.
Thứ tư, thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro kết hợp cả đánh giá khách quan và chủ
quan của thanh tra viên.
Thứ năm, thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro đòi hỏi Thanh tra Ngân hàng thực
hiện cả việc dự báo.
Thứ sáu, thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro thực hiện đánh giá mức độ
rủi ro của TCTD theo khung đánh giá rủi ro, trong đó tập trung đánh giá mức độ

rủi ro TCTD gặp phải khi không tuân thủ các quy định, quy trình đã có và khi
không có các thủ tục, quy trình hoạt động phù hợp.
Thứ bảy, yêu cầu để thực hiện thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro là rất cao đối
với cả Thanh tra Ngân hàng cũng như TCTD.
 Mục tiêu: góp phần giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng,
giữ ổn định cho từng tổ chức tín dụng, và đảm bảo an toàn, ổn định phát
triển cho cả hệ thống tổ chức tín dụng.
2. Quy trình thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro
Một ví dụ đơn giản: ngân hàng thương mại X cho vay một khách hàng tới 14,8%
vốn tự có. Bằng thanh tra tuân thủ, kết luận ngân hàng chấp hành nghiêm pháp
luật. Tuy nhiên, quan sát trên khía cạnh rủi ro ngân hàng vẫn có thể không thu hồi
được nợ do vi phạm quy trình nội bộ về cấp tín dụng dẫn đến thẩm định không
chính xác về tài chính của khách hàng vay vốn.
Dưới đây mô tả thanh tra trên cơ sở rủi ro là một quy trình liên tục gốm 6 bước:
Bước 1, 2, 6 liên quan đến việc lập kế hoạch, giành ưu tiên giám sát và thanh tra
đối với một TCTD; những bước này thường được hoàn thành tại NHNN bởi bộ
phận giám sát từ xa, bộ phận phân tích, Ban lãnh đạo Cơ quan Thanh tra, giám sát
ngân hàng và bởi thanh tra viên tại chỗ được giao nhiệm vụ giám sát và báo cáo về
TCTD giữa các kỳ thanh tra. Bước 3, 4 và 5 liên quan đến việc xác định, thực hiện,
báo cáo và ra kết luận thanh tra; những bước này được hoàn thiện bởi đoàn thanh
tra tại chỗ với kết luận và các biện pháp sửa chữa do Chánh Thanh tra, giám sát
ngân hàng đưa ra.
Bước 1: Hiểu biết về TCTD và đánh giá rủi ro của TCTD
Bước này xuất phát từ nguyên tắc cơ bản 19 của Ủy ban Basel. Người được giao
nhiệm vụ lập bản Tình hình và chiến lược của tổ chức tín dụng phải hiểu và tóm
lược các thông tin về quy mô, sở hữu, lãnh đạo, hoạt động kinh doanh và địa điểm
kinh đoanh, kết quả thanh tra trước đây và tính hình hiện tại.
Ngoài ra, người lập phải đánh giá lĩnh vực có rủi ro lớn nhất của tổ chức tín
dụng và đề xuất chiến lược thanh tra để tóm lược các vấn đề và lĩnh vực cần phải
thanh tra tại chỗ. Bằng cách tập trung vào các lĩnh vực cần phải thanh tra tại chỗ.

Bằng cách tập trung vào các lĩnh vực có rủi ro lớn, thanh tra viên có thể giám sát
mỗi tổ chức tín dụng cũng như toàn hệ thống tổ chức tín dụng một cách hiệu quả
hơn…
Tình hình và chiến lược của tổ chức tín dụng là một tài liệu được thiết kế để tóm
lược những thông tin quan trọng nhất về mỗi tổ chức tín dụng, tài liệu này bao gồm
các phần sau:
+ Thông tin chung và cơ cấu của tổ chức tín dụng
+ Kết quả của cuộc thanh tra trước
+ Tóm tắt tình hình hiện tại
+ Các rủi ro chính
+ Đề xuất chiến lược thanh tra.
Thông thường thì Bản tình hình và chiến lược của tổ chức tín dụng do bộ phận
phân tích lập. Nhằm thu thập các thông tin cần thiết đề hoàn thiện nhiệm vụ này,
người lập tài liệu trên cần phải xem xét các tài liệu được thảo luận. Lưu ý rằng việc
hoàn thiện bản tình hình và chiến lược của tổ chức tín dụng có thể mất vài ngày
hoặc 1 tuần, phụ thuộc vào quy mô và mức độ phức tạp của tổ chức tín dụng và
mức độ sẵn có của thông tin.
Các dữ liệu này phải có thông qua giám sát từ xa, Người lập cũng phải xác định
xem có thay đổi gì về sở hữu và cơ cấu đang hoặc được dự kiến sẽ xảy ra là không.
Đang xảy ra có nghĩa là tổ chức tín dụng đã xin phép thực hiện các hoạt động mới,
mở chi nhánh mới, hoặc thay đổi về sở hữu. Dự kiến xảy ra là lãnh đạo Ngân hàng
Nhà nước biết sẽ có những thay đổi này qua tiếp xúc với tổ chức tín dụng. Người
lập phải sử dụng thông tin thu thập được
Vì hoạt động thanh tra trên cơ sở rủi ro nhằm mục đích kiểm soát rủi ro liên tục,
việc hiểu biết về mỗi TCTD là điểm bắt đầu tốt nhất, do đó nên có quy trình phù
hợp để phát triển và duy trì việc hiểu biết toàn diện về tình hình rủi ro của mỗi
TCTD.
Bước 2 : lập kế hoạch thanh tra đối với mỗi TCTD
Khi rủi ro của mỗi TCTD đã được xác định thì Cơ quan thanh tra, giám sát có thể
đánh giá các rủi ro đó trong hệ thống TCTD và đặt ra thứ tự ưu tiên cho các nhiệm

vụ thanh tra cần thực hiện. Phải có sự ưu tiên này trong toàn hệ thống và cho mỗi
TCTD. Thanh tra giám sát trên cơ sở rủi ro nhằm đặt thanh tra, giám sát viên vào
chỗ cần họ nhất. Rủi ro đôi khi là lớn đối với một TCTD nhưng lại không lớn đối
với hệ thống TCTD. Trong những trường hợp như vậy, người lãnh đạo phải cân
đối rủi ro của các TCTD nhỏ (đặc biệt nếu rủi ro đó liên quan đến khả năng tiếp tục
tồn tại của TCTD đó) so với rủi ro lớn trong hệ thống TCTD. Thường thì nguồn
nhân lực của thanh tra là không đủ để đáp ứng cho tất cả các vấn đề cần quan tâm
của cả hệ thống cũng như của mỗi TCTD, do đó cần thiết phải để chủ động trong
hoạt động thanh tra.
Bước 3: Thành lập đoàn thanh tra và công tác chuẩn bị
Khi rủi ro được nhận dạng và đánh giá, và khi đã lập xong kế hoạch, Ban lãnh đạo
Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng sẽ ra quyết định thanh tra và giai đoạn lập
kế hoạch trở nên rất chi tiết. NHNN sẽ lựa chọn một đoàn thanh tra và một trưởng
đoàn để tiến hành thanh tra tại chỗ. Trưởng đoàn lập bản phạm vi công việc xác
định các mục tiêu chi tiết dự kiến đạt được liên quan đến những công việc cần làm
trong quá trình thanh tra tại chỗ. Trưởng đoàn cũng dự thảo một thư yêu cầu gửi
đến TCTD, yêu cầu TCTD chuẩn bị các báo cáo và tài liệu cụ thể. Một số nội dung
trong thư yêu cầu này có thể được gửi trước cho TCTD, một số nội dung khác
được thu thập và lưu giữ cho đến khi đoàn thanh tra đến làm việc tại TCTD.
Bước 4: Tiến hành hoạt động thanh tra
Thanh tra trên cơ sở rủi ro cần phải chú trọng vào các lĩnh vực có rủi ro cao
nhất của TCTD và cách thức mà TCTD quản lý những rủi ro này. Các thành
viên của đoàn thanh tra tiến hành đánh giá từng lĩnh vực rủi ro và bộ phận
chức năng mà họ được phân công. Các thành viên này lập hồ sơ thanh tra để
ghi chép lại các hoạt động và các phát hiện trong quá trình tiến hành thanh
tra. Hồ sơ thanh tra (gồm cả báo cáo của từng thành viên được nộp cho
trưởng đoàn)
Bước 5: Kết luận và các biện pháp sửa chữa
Trưởng đoàn là người lập báo cáo cuộc thanh tra, đây là báo cáo chính thức
về những phát hiện của đoàn thanh tra. Từ báo cáo của đoàn thanh tra, các

tài liệu liên quan và qua thảo luận với các đơn vị chức năng của NHNN, lãnh
đạo TCTD được thanh tra, Người ra quyết định thanh tra ban hành kết luận
thanh tra và quyết định việc cần thiết phải áp dụng hình thức xử lý, biện
pháp chỉnh sửa tương ứng với mức độ sai phạm của TCTD.
Bước 6: Giám sát việc TCTD chấn nhỉnh sau thanh tra
Các báo cáo định kỳ của TCTD cung cấp cho Cơ quan thanh tra, giám sát
những thông tin cần thiết để đánh giá mức độ đầy đủ trong việc thực hiện
của TCTD. Khi TCTD tuân thủ đầy đủ tất cả các yêu cầu theo kết luận thanh
tra, Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng sẽ quyết định việc chuyển sang
giám sát thường xuyên đối với TCTD. Trường hợp TCTD không thực hiện
đúng tiến độ chấn chỉnh sau thanh tra hoặc tiếp tục có biểu hiện kém an toàn,
Chánh thanh tra, giám sát ngân hàng sẽ quyết định các cấp độ xử lý tương
xứng.
Thanh tra trên cơ sở rủi ro là phương pháp thanh tra tiên tiến. Tuy nhiên, việc áp
dụng phương pháp thanh tra này vào Việt Nam cần có lộ trình thích hợp phù hợp
với thực trạng quản trị rủi ro của TCTD và năng lực giám sát TCTD của NHNN.
Từ năm 2007, Đề án Cải cách tổ chức và hoạt động Thanh tra Ngân hàng (Quyết
định số 1976/QĐ-NHNN) đã nêu lên 7 nội dung cơ bản trong đó nhấn mạnh việc
chuyển hướng từ thanh tra tuân thủ sang thanh tra trên cơ sở rủi ro. Theo đó
NHNN cần “Xây dựng khuôn khổ quy trình và phương pháp thanh tra - giám sát
dựa trên cơ sở rủi ro và hợp nhất kết hợp với thanh tra - giám sát tuân thủ phù
hợp với thông lệ quốc tế và các nguyên tắc của Uỷ ban Giám sát ngân hàng Basel
nhằm nâng cao năng lực cảnh báo sớm rủi ro trong hoạt động ngân hàng”.
Cho đến nay, mặc dù tiến độ triển khai đề án còn chậm nhưng NHNN đã có khung
cơ bản về giám sát từ xa theo CAMELS và sổ tay thanh tra trên cơ sở rủi ro phiên
bản 1. Cơ quan Thanh tra, giám sát đã từng bước áp dụng thí điểm thanh tra trên cơ
sở rủi ro với một số pháp nhân NHTM. Đó là tiền đề quan trọng để có thể thực
hiện Điều 51 Luật NHNN có hiệu lực từ tháng 1 năm 2011.
Vấn đề quan trọng nhất hiện nay là Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng cần
phải sớm làm rõ ba việc sau đây khi triển khai thanh tra, giám sát theo hai Luật về

ngân hàng:
1. Cách thức kết hợp giữa thanh tra tuân thủ với thanh tra trên cơ sở rủi ro để
thực hiện đúng Điều 51 Luật NHNN, Luật Thanh tra trên cơ sở hướng tới
các thông lệ quốc tế về giám sát ngân hàng;
2. Làm rõ khái niện về thanh tra toàn bộ để thực hiện “nguyên tắc thanh
tra, giám sát toàn bộ hoạt động của tổ chức tín dụng” theo Điều 51.3 Luật
NHNN.
3. Và để thực hiện được hai nội dung trên, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân
hàng phải sớm xây dựng “trình tự, thủ tục thanh tra, giám sát ngân
hàng” trong đó xác định rõ phạm vi thanh tra, giám sát của NHNN chi
nhánh tỉnh, thành phố khi thực hiện thanh tra, giám sát toàn bộ hoạt động
của TCTD.
3. Yêu cầu thực hiện phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro
- Yêu cầu về thể chế, khung pháp lý (hệ thống pháp luật).
- Yêu cầu về phương pháp thanh tra.
- Liên hệ thường xuyên với lãnh đạo cấp cao của các TCTD;
- Có khả năng đánh giá đƣợc hệ thống quản lý rủi ro của các TCTD;
- Thanh tra viên ngân hàng phải có đủ năng lực, trình độ để thu thập, phân
tích, đánh giá, xếp loại TCTD một cách khách quan và chính xác;
- Hệ thống kế toán của các TCTD phải đạt tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo
được tính chính xác, kịp thời và minh bạch của các loại báo cáo
4. Thực trạng về thực hiện phương pháp thanh tra ngân hàng tại Việt Nam
Hoạt động thanh tra của Thanh tra Ngân hàng đối với các TCTD trước đây chủ yếu
theo phương pháp thanh tra tuân thủ trên cơ sở sử dụng kết hợp hai quy chế giám
sát từ xa và thanh tra tại chỗ. Từ năm 2004, Thanh tra ngân hàng đã có bước sơ
khai trong việc sử dụng phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro. Tuy nhiên, khung
pháp lý cho phương pháp này vẫn đang trong quá trình soạn thảo.
- Thực hiện phương pháp thanh tra tuân thủ
a) Kết quả đạt được
Hàng năm, trên cơ sở nguồn lực hiện có và kết quả của giám sát từ xa,

Thanh tra ngân hàng đã góp phần nâng cao chất lượng quản lý điều hành đối
với các loại hình TCTD thông qua việc đƣa ra hàng nghìn kiến nghị trên các
lĩnh vực công tác nguồn vốn, sử dụng vốn, kết quả kinh doanh và quản trị
điều hành, kiểm tra, kiểm toán nội bộ của TCTD.
Qua thanh tra tại chỗ, nhiều sai phạm của TCTD đã đƣợc các đoàn thanh tra
phát hiện, kiến nghị xử lý, thu hồi tài sản cho TCTD. Đặc biệt, việc chấn
chỉnh và sắp xếp lại NHTM cổ phần, chấn chỉnh, củng cố hệ thống QTDND
trong những năm gần đây đã cho thấy những đóng góp quan trọng của
Thanh tra ngân hàng trong việc củng cố, duy trì và ổn định hệ thống TCTD
ở nước ta. Cũng thông qua hoạt động thanh tra, giám sát, Thanh tra Ngân
hàng đã góp phần chỉ ra những điểm chưa phù hợp cần đƣợc bổ sung, sửa
đổi hoặc ban hành mới cơ chế, chính sách của ngành ngân hàng để tạo hành
lang pháp lý cho các TCTD hoạt động an toàn,
hiệu quả, đồng thời nâng cao đƣợc ý thức trách nhiệm, tính tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của TCTD về kết quả hoạt động của chính bản thân TCTD.
Giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ bƣớc đầu có sự gắn kết giúp hoạt động
thanh tra của Thanh tra ngân hàng đối với các TCTD tại Việt Nam thời gian
qua đạt được những thành tựu nhất định. Thanh tra ngân hàng đã góp phần
đáng kể trong thực hiện tái cơ cấu và chấn chỉnh, củng cố hoạt động các
TCTD, bảo đảm an toàn hệ thống tín dụng trong thời gian qua. Tuy nhiên,
phương pháp thanh tra tuân thủ vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.
b) Hạn chế của phương pháp thanh tra tuân thủ
Một cách khái quát, có thể nhận thấy các hạn chế này được thể hiện trên
những khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, khả năng phát hiện, cảnh báo sớm, phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro
trong hoạt động ngân hàng của Thanh tra ngân hàng thông qua phương pháp
thanh tra tuân thủ là yếu kém. Thanh tra ngân hàng hầu như chỉ có khả năng
phát hiện các vi phạm pháp luật và tập trung xử lý các vi phạm phát hiện
được, các rủi ro (biến cố) đã xẩy ra trong thực tế.
Thứ hai, phương pháp thanh tra tuân thủ ngày càng tỏ ra kém hiệu quả so

với yêu cầu giám sát an toàn hoạt động TCTD trong điều kiện các TCTD
đang phát triển nhanh về quy mô, phạm vi, mức độ phức tạp và đa dạng của
dịch vụ ngân hàng, với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, viễn thông tiên
tiến, đồng thời tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Thứ ba, phương pháp thanh tra tuân thủ chưa giúp Thanh tra ngân hàng đánh
giá được tổng thể rủi ro của từng TCTD và toàn hệ thống TCTD, trong khi
thực tế cho thấy rằng các TCTD luôn phải đối mặt với nhiều loại rủi ro
trong suốt quá trình hoạt động, ở tất cả các khâu, các lĩnh vực.
Thứ tư, phương pháp thanh tra tuân thủ làm giảm tính chủ động của bộ máy
kiểm tra, kiểm toán nội bộ và tính tự chịu trách nhiệm của TCTD, do những
hoạt động làm thay TCTD của Thanh tra ngân hàng.
Thứ năm, phương pháp thanh tra tuân thủ sẽ không khuyến khích phát triển
khả năng và kinh nghiệm của các thanh tra viên trong việc đánh giá, đo
lường, giảm thiểu rủi ro.
Thứ sáu, phương pháp thanh tra tuân thủ không đảm bảo các nguồn lực của
Thanh tra ngân hàng được phân bổ một cách hợp lý và hiệu quả theo nguyên
tắc tập trung cho những lĩnh vực mà TCTD bị đánh giá có tiềm ẩn rủi ro cao
hơn đối với sự an toàn hệ thống.
Thứ bảy, phương pháp thanh tra tuân thủ cũng không đảm bảo phạm vi và
chất lượng thanh tra tại mỗi TCTD là thống nhất và phù hợp với mức độ rủi
ro của TCTD.
Những tồn tại, bất cập của Thanh tra ngân hàng trong việc thanh tra, giám
sát các TCTD tại Việt Nam, trong đó có việc thực hiện phƣơng pháp thanh
tra tuân thủ, được đề cập một cách tổng hợp tại phụ lục 1 (Kết quả tự đánh
giá hệ thống thanh tra ngân hàng theo 25 nguyên
tắc cơ bản của Ủy ban Basel). Theo đó, 19/25 nguyên tắc phần lớn chưa
tuân thủ, 2/25 nguyên tắc tuân thủ phần lớn, 1/25 nguyên tắc tuân thủ, 3/25
nguyên tắc chưa áp dụng.
- Thực hiện phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro
Mặc dù, hoạt động thanh tra của Thanh tra ngân hàng đối với các TCTD thời

gian qua chủ yếu thực hiện theo phƣơng pháp thanh tra tuân thủ, nhƣng
Thanh tra ngân hàng đã sơ khởi thực hiện phương pháp thanh tra trên cơ sở
rủi ro, thể hiện ở các nội dung sau:
Thứ nhất, từ năm 2004 Thanh tra ngân hàng đã bắt đầu thực hiện các cuộc
thanh tra pháp nhân đối với các TCTD có quy mô hoạt động lớn, nhiều
chi nhánh trên địa bàn toàn quốc. Tại các cuộc thanh tra này, Thanh tra
ngân hàng bƣớc đầu tập trung đánh giá nội dung định tính về: quản trị, điều
hành, kiểm soát; kiểm tra, kiểm toán nội bộ của TCTD. Đây cũng chính là
các nội dung định tính mà Thanh tra ngân hàng phải đánh giá khi thực hiện
phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro.
Thứ hai, Thanh tra ngân hàng đã bƣớc đầu có một số cảnh báo về mức độ
rủi ro trong hoạt động của TCTD, chẳng hạn năm 2005 cảnh báo về cho vay
đầu tư bất động sản; gần đây khuyến cáo hạn chế cho vay mua cổ phiếu chưa
được niêm yết, nếu cho vay phải có khả năng kiểm soát được rủi ro tín
dụng…
Thứ ba, hàng năm đã thực hiện xếp loại NHTM cổ phần, QTDND. Trên cơ
sở kết quả xếp loại NHTM cổ phần, QTDND, Thanh tra ngân hàng đã chủ
động đề xuất lên Thống đốc các biện pháp giám sát, thanh tra để chấn chỉnh
và củng cố cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn ở Việt Nam và thông lệ quốc
tế.
Thứ tư, Ngân hàng Nhà nước ban hành đƣợc một số văn bản quy phạm
pháp luật mà về cơ bản được coi là sát với thông lệ quốc tế, làm điều kiện
tiền đề cho Thanh tra ngân hàng thực hiện thanh tra trên cơ sở rủi ro.
Như vậy, mặc dù Thanh tra ngân hàng đã sơ khởi thực hiện phương pháp
thanh tra trên cơ sở rủi ro nhưng xét về phương diện pháp lý và so với thông
lệ tốt và chuẩn mực quốc tế thì có thể đánh giá rằng Thanh tra ngân hàng ở
Việt Nam thực chất chưa thực hiện phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro.
5. Nguyên nhân của việc chậm thực hiện phương pháp thanh tra trên cơ
sở rủi ro
Có thể cho rằng việc chậm chuyển đổi từ mô hình thanh tra tuân thủ sang

mô hình thanh tra trên cơ sở rủi ro ở Việt Nam xuất phát từ các nguyên nhân
chính sau đây:
Thứ nhất, mô hình tổ chức và hoạt động phân tán của Thanh tra ngân
hàng hiện nay chưa cởi trói và tạo điều kiện cho thực hiện phƣơng pháp
thanh tra trên cơ sở rủi ro.
Thứ hai, hiện tại chưa có khung pháp lý phù hợp để Thanh tra ngân
hàng thực hiện phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro.
Trên thực tế, dù đã có nhiều điều khoản của Luật NHNN Việt Nam, Luật các
Tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định trực tiếp hoặc
gián tiếp về hoạt động thanh tra ngân hàng nhưng hầu như chưa tiếp cận
phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro mà chỉ tập trung vào việc thanh tra
chấp hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, việc thực hiện các
quy định trong giấy phép hoạt động ngân hàng (thanh tra tuân thủ).
Như vậy, có thể khẳng định hầu hết các quy định hiện hành trong
Luật NHNN Việt Nam, Luật các TCTD, Luật Thanh tra cho tới Nghị định
91/1999/NĐ-CP, vấn đề thanh tra trên cơ sở rủi ro trong lĩnh vực đặc thù
như lĩnh vực ngân hàng chưa được làm rõ để phân biệt giữa thanh tra ngân
hàng với các cơ quan thanh tra khác của hệ thống hành pháp.
Thứ ba, Thanh tra ngân hàng ở Việt Nam chưa có quy trình thanh tra trên
cơ sở rủi ro và sổ tay thanh tra trên cơ sở rủi ro. Do chưa xây dựng được quy
trình thanh tra trên cơ sở rủi ro và sổ tay thanh tra trên cơ sở rủi ro nên việc
chuyển từ thanh tra tuân thủ sang thanh tra trên cơ sở rủi ro trên thực tế chưa
thể thực hiện được.
Thứ tư, Thanh tra ngân hàng chưa xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu định
lượng, các yếu tố định tính để đánh giá, xếp loại TCTD theo tiêu chuẩn
CAMELS (xếp loại TCTD theo mức độ rủi ro).
Thứ năm, trong quá trình thực hiện phương pháp thanh tra tuân thủ, hoạt
động giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ vẫn còn bộc lộ những yếu kém.
Thứ sáu, năng lực, trình độ của một bộ phận không nhỏ cán bộ thanh tra của
Thanh tra ngân hàng còn nhiều hạn chế, đặc biệt trong việc tiếp cận với công

nghệ, nghiệp vụ ngân hàng mới và phương pháp thanh tra, giám sát ngân
hàng theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế (thanh tra trên cơ sở rủi ro).
Thứ bảy, hạ tầng cơ sở hỗ trợ cho hoạt động thanh tra, giám sát ngân
hàng hiệu quả (trong đó có việc thực hiện phương pháp thanh tra trên cơ sở
rủi ro) chưa được đảm bảo.
Thứ tám, nguyên nhân từ phía TCTD: năng lực quản trị, điều hành, đặc biệt
quản trị rủi ro của các TCTD nhìn chung còn nhiều hạn chế. Phương pháp
thanh tra trên cơ sở rủi ro yêu cầu phải có môi trƣờng quản lý rủi ro và các
kỹ năng, trình độ quản trị rủi ro của các TCTD đạt được ở mức nhất định.
Hiện nay, năng lực quản trị rủi ro của các TCTD tại Việt Nam nhìn chung
còn rất hạn chế.
Thứ chín, các nguyên nhân khác liên quan đến việc chưa đảm bảo thanh
tra giám sát ngân hàng hiệu quả:
- Việc phân công chức năng, nhiệm vụ giữa các Vụ, Cục của NHNN chƣa
đảm bảo cho
Thanh tra ngân hàng trở thành tổ chức có đầy đủ quyền hạn và trách nhiệm
trong quá trình
thanh tra, giám sát các TCTD.
- Thiếu cơ chế trao đổi thông tin và phối hợp hành động hữu hiệu giữa
Thanh tra ngân
hàng với các cơ quan thanh tra giám sát tài chính trong nước.
Lộ trình
Trong phạm vi hẹp, thứ nhất đó là việc hoàn thiện cuốn “Sổ tay thanh tra trên cơ
sở rủi ro” (sổ tay). Cuốn sổ tay này sẽ chỉ dẫn cách thức vận dụng tốt nhất các
thông lệ quốc tế về kỹ năng thanh tra, giám sát TCTD vào thực tế Việt Nam. Phiên
bản một của cuốn sổ tay đã ra đời vào tháng 01 năm 2010 với các quy định chung
về thanh tra 7 loại rủi ro. Trong năm 2011, sẽ hoàn thành phiên bản hai của sổ tay
với các mô tả chi tiết cách thức thanh tra cụ thể cho từng hoạt động kinh doanh
ngân hàng.
Thứ hai là việc đổi mới hoạt động giám sát phân tích vì chỉ có như vậy mới có sản

phẩm cho 3 bước trong quy trình thanh tra (bước 6, 1, 2) trước khi tiến hành thanh
tra tại tổ chức tín dụng. Đầu năm 2010, Thống đốc NHNN đã phê duyệt dự án
“Xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ cho hoạt động giám sát từ xa”, đó là điều kiện
tiên quyết cho nâng cao chất lượng giám sát từ xa.
Thứ ba, nhanh chóng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra,
giám sát ngân hàng từ Trung ương đến địa phương thông qua đào tạo và đào tạo lại
hiểu biết về quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng, kỹ năng thanh tra, giám sát
trên cơ sở rủi ro. Công việc này đã thực hiện từ năm 2008 cho cán bộ thanh tra,
giám ở Ngân hàng Trung ương và hai thành phố lớn. Từ năm 2010 trở đi việc đào
tạo sẽ mở rộng đến thanh tra, giám sát chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố với nội
dung chuyên sâu hơn.
Thứ tư, thực hiện bước quá độ sang thanh tra trên cơ sở rủi ro do là kết hợp thanh
tra tuân thủ với thanh tra trên cơ sở rủi ro. Cuối năm 2008, Thống đốc NHNN đã
chỉ đạo từ quý I năm 2009 trở đi, Thanh tra NHNN phải áp dụng dần phương pháp
thanh tra trên cơ sở rủi ro khi thanh tra TCTD. Trong năm 2009 cùng với việc
thanh tra thử nghiệm ở một vài TCTD, Thanh tra Ngân hàng Trung ương đã tiến
hành kết hợp thanh tra tuân thủ với thanh tra trên cơ sở rủi ro trong thực hiện thanh
tra toàn hệ thống một Ngân hàng thương mại, thanh tra công ty con của TCTD và
các TCTD nước ngoài. Năm 2010, cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng đang áp
dụng thí điểm “Bộ quy trình thủ tục thanh tra” khi thanh tra đối với các TCTD
nước ngoài và liên doanh; xây dựng phương pháp thanh tra tổng hợp đối với pháp
nhân ngân hàng và chỉ đạo các NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố việc thanh tra
pháp nhân TCTD trên cơ sở xem xét, đánh giá năng lực quản trị rủi ro đối với đối
tượng được thanh tra.
Với lộ trình trên , hy vọng đến cuối năm 2011 phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi
ro sẽ áp dụng đầy đủ cho các TCTD nước ngoài và liên doanh, và đến năm 2013 sẽ
áp dụng cho tất cả các ngân hàng thương mại, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả
kiểm soát hoạt động của các TCTD.
Đề án Cải cách tổ chức và hoạt động thanh tra NHNN Là bước đi đúng đắn và vẫn
còn nguyên tính thời sự khi thực hiện hai luật về ngân hàng. Vấn đề còn lại là cần

có cuộc rà soát và kiểm điểm về tiến độ thực hiện để đề ra biện pháp triển khai tiếp
theo một cách hiệu quả nhất.
KẾT LUẬN
Cùng với quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế nói chung, trong lĩnh vực tài chính
– ngân hàng nói riêng, hệ thống các TCTD tại Việt Nam đang phát triển
nhanh về quy mô, phạm vi, mức độ phức tạp và đa dạng sản phẩm dịch vụ.
Đồng thời, hoạt động của TCTD cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, do vậy việc giữ cho hệ
thống này phát triển ổn định, bền vững thì yêu cầu tất yếu và không thể thiếu là
phải thường xuyên tăng cường công tác thanh tra, giám sát. Tuy nhiên, phương
pháp thanh tra tuân thủ ngày tỏ ra kém hiệu quả, đòi hỏi phải chuyển đổi sang
phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro. Vì vậy, việc nghiên cứu để đưa ra cơ sở
pháp lý cho quá trình chuyển đổi phương pháp thanh tra từ thanh tra tuân thủ sang
thanh tra trên cơ sở rủi ro của cơ quan Thanh tra Ngân hàng Việt Nam đối với các
TCTD là rất cần thiết và là nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay.

×