Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

bài tập nhóm dân sự module1 về phân chia quyền sử dụng đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.47 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
I.Những căn cứ pháp lý để giải quyết vụ án……………………………… 1
II.Bình luận về việc giải quyết của vụ án………………………………… 5
1.Sơ thẩm………………………………………………………… 5
2.Phúc thẩm………………………………………………………… 8
III.Quan điểm của nhóm về giải quyết vụ án…………………………… 9
VỤ ÁN THỨ TƯ

Vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà giữa:
Nguyễn Văn MinhHoàng
Thị Kim Anh
 !"#$%&''&(&)*
+Nguyễn Văn HạnhBùi Thị Thủy

,-". !/') '
*0+Nguyễn Thúy Quỳnh123*Nguyễn Hoàng Tùng,
3
04 !"#$%*
5*0+Nguyễn Thị Lan Hương,21
*Nguyễn Văn Thắng1
06",7"4&89&:(;2<"=(2;>?,-@ABC5
D,-EF:B GB'H8,&D(BI*
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Tại đơn khởi kiện đề ngày 09/6/2008 (BL 15) và quá trình tố tụng, nguyên
đơn ông Nguyễn Văn Minh, đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của
đồng nguyên đơn là bà Hoàng Thị Kim Anh trình bày:
3
JKL"M&&:(;2<+'"N"=(2;>?,-@ABC5
D,-EF:B GB'H8,&D(BI".C(""'
"'O$P&"DC&"',Q"&R*
>O$"S&1"'$"S&*T'UKL"M&&8"N".


I'V$I'V$W@B:<X"'$?YU)
"6"'XZ6"[Z6"DC&"N"\P&"C
$B:"4'"#"'$B:"C$"4'"#"'$
<$B:,-P&"DC&?*JKL""]^
YU)_Z#`>
3
"\UKL"ASDKU4"*a6
&8VYU)'V$B:b"`&:#8'M&,Z$D]'&8,Q","
UKL"Z#`
3
"\$"="`&:#,"Z#`33
3
M&,
Z$[D]'&8#*
3>>>c3>>'X$b"4'de!8''&X#
++f0g(QUKL"M&&8#DC&3
3
b
,""MDM"PG ![h !YU)M&[
3f1f3>>&8#.".>,-P&C[h"C$
"C$B:*
H7"&S&R&8,Q"S''V$YU)UKL"D]'&8#
'V$B:YU)UKL"#A"$&8VD)3'
VYU)"*H#IUKL"&8##id"'''Vb
,"jA&,-'#8K&Z$".7&8'"MDQ"6"I!Z!*
a6&8VYU)UKL"M&&8h''V$I'V
$B:b".A&k"&l&R!'*J#G$!+
H\'6"'UKL"&8#idUKL"#id"#3I&8"[
5
DmDno&GeK"#K"YU)UKL"&8#id"'^

_UKL"#id"'"$p*JKL"#idD]'&8,Q"U#
'V$B:"QYU)UKL"#idD]'&8#<'SD
q0?U#$"QYU)&R2S'*@K".&SM&&V'
'V"4.De!.*JKL"#idb,"ZZ'&R3>>
,",',""MDM"PG !YU)M&*
H:j&'i"rZ[ZK&:`\'`
3f3f3>>1>f5f3>>$%s&'iIU"r
Z[ZK!+H\'6DA"'UKL"M&&8#M"PG
![h !YU)M&[(QUKL"3
3
"\UK
L"#M"PG ![h !YU)M&[$
Z$"rH\'6` S&*
2. Tại bản tự khai ngày 18/6/2008 và quá trình tố tụng, bị đơn ông
Nguyễn Văn Hạnh và bà Bùi Thị Thủy trình bày:
@!C("M&&:(;2@ABC59,
&8V*T'Z"'$B:"S&1&VDCP&
4H+H'".&"6"&"''V$%*FS&-
o'&X#++f0g&VDCCh,-".&'
W@B:4H+HWH+E'B,W@Ht
W@%B#H+sWH9auWB#
H4*
a6&8VYU)'V$"."Q8'D]'&8,Q","UK
L"Z#`
3
D]''SDq0"Q,"UKL"Z#`35
3
*

3>>'V$'V$%b'&X#+

+f0gb,",Q"6"MDM"PG ![h
 !YU)M&[3f1f3>>(QUKL"3
3
&8#D
CUKL"#idD]'&8,Q"D]''&R&8,Q"S'!U#'
V$YU)",',""MDM"PG !YU)M&*
H:`\'`3f3f3>>1f5f3>>$B:
H 'oCn"'&6"UKL"M&&8#id3
3

"\UKL"#id'V$'&7 `&VZ$"'*
H:D&\'&vD&\'D9"&v$B:H"#
8pM&&8&I"[h8"'$VH"DC
&$Z$"MDG"r"'"'"C$%s
*
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày:
3.1. Chị Nguyễn Thúy Quỳnh và anh Nguyễn Hoàng Tùng (là con của ông
Minh bà Kim Anh) trình bày:
M&&8'"MD&`&I"[h""'"'O'"+
"6"6"B:H"4P&&8#id*F!+H\'6` &
&X#D6DG&*
3.2. Chị Nguyễn Thị Lan Hương và anh Nguyễn Văn Thắng (con của ông
Hạnh, bà Thủy) trình bày:
H(M&Q-&8V"'$B:H*
QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT

1. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 06/2009/DS-ST ngày 25/5/2009 Tòa án
nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội quyết định
0MDG"r"'&`&I"[h""'$%s
(QUKL"b,""MDM"PG ![h

!YU)M&&:(;2@ABC5cB'H8,cBI*
0' ![h[ !YU)M&"#'I'V$
B:H9I'V$%s")&o,'
wJI&(o'IYU)"".Z]"&,Q">1j313
<"!8IL&Re&,-""]q0"Q$J=
P"&,-A&VL&RxD&8#&8[#*0!U":Uy"&R##
SS&&,-Gq0?p&8UKL",""MDM"PGp
D]'&'&86eSD6DQ&,-"$J=*
w0'$UKL"M&"\:I'V$B:H,"
[hYU)_UKL"M&".Z]"&,Q"311jz22
3
[
D]'#&86P&RUKL"M&"QD]'#"'(V
#*0'"#I'V$%s,"[hYU)_UK
L"M&"\:CUKL""]311j>3z>
3
UKL"
A3j53z>3
3
UKL"SD31j321z22
3
*HiUK
L"M&I'V$%s,""'22
3
p[D]'
&8#D`P&RUKL""QD]'#"'(V#*
wBI$B:H,"[hG&KjAU7,""'6&8+
jAU7&,P2*323*1>*

wBI$%s,"[hG&KjAU7,""'

6&8+jAU7&,P**3*
wBI$B:HD`&'&#6"#I$%s(
e!6&8+jAU7"K"3*2*3*
wB'D`hK&8:"(&#6&,Q""'"6"M&I
`!Z!"'' 'UKL"M&"'I'VZ$,""`&8[
#{""{U\"``,[S#:&"". !U|
dDrD]'&8(UKL"q0o&:#("D`&7&:#
"$&8VD)oYU)8&8DrUKL"M&,""'*
T'Zjx&jY&v>5ff3>>$B:H"+B,
'Ht".Z6"6#*
2.Tại bản án dân sự phúc thẩm số 276/2009/DS-PT ngày 30/10/2009,
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định sửa bản án sơ thẩm về phần án
phí (mỗi hộ được giảm 2/3 án phí vì có đơn xin miễn giảm án phí).
2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ luật dân sự 2005
[2] Luật đất đai 2003
[3] Luật nhà ở 2005
[4] Bộ luật tố tụng dân sự 20
1
I.Những căn cứ pháp lý để giải quyết vụ án
Để giải quyết mỗi vụ án, người thẩm phán cùng hội đồng xét xử phải dành
thời gian nghiên cứu kĩ lưỡng về các quy định pháp luật liên quan, từ đó đưa ra
những phán xét công bằng, minh bạch. Trong vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà
này, chúng ta cần phải dựa vào những căn cứ pháp lý sau đây để giải quyết vụ
án:
Thứ nhất, về việc vợ chồng ông Minh và vợ chồng ông Hạnh mua lại căn
nhà thuộc sở hữu Nhà nước vào năm 2000 – 2001 theo Nghị định số 61/CP ngày
05/07/1994 (sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 21/CP ngày 16/04/1996) về mua
bán và kinh doanh nhà ở của Chính phủ. Điều 5 Nghị định này quy định: “Nhà

nước thực hiện bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước cho người đang thuê phần diện
tích đang được thuê để người mua nhà ở có điều kiện cải thiện chỗ ở”. Sở dĩ đưa
ra căn cứ như vậy để khẳng định việc mua nhà của vợ chồng ông Minh và ông
Hạnh là hợp pháp.
Vào năm 2000 – 2001, sau khi mua nhà theo Nghị định 61/CP đối với diện
tích nhà đất trong hợp đồng thuê là 46, 2 m
2
, hai bên đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ngày 29/08/2001. Việc cấp các loại
giấy tờ này được quy định tại Luật đất đai năm 2003, Luật nhà ở năm 2005. Cụ
thể:
+ Luật đất đai năm 2003: Khoản 1 Điều 105 quy định về quyền của người
sử dụng đất: “Được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Bên cạnh đó,
khoản 4 Điều 50 quy định: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các
loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đã được sử dụng ổn định trước
ngày 15/10/1993, nay được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất

không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối
với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất”.
Theo đơn khởi kiện của ông Minh và bản tự khai của ông Hạnh, diện tích
nhà đất đang xảy ra tranh chấp có nguồn gốc do cha mẹ hai người đứng tên hợp
đồng thuê của Nhà nước từ năm 1954 và được sử dụng ổn định lâu dài tới năm
2000 – 2001, hai gia đình góp tiền mua lại của nhà nước và căn nhà chính thức
trở thành tài sản thuộc quyền sở hữu của gia đình hai bên. Trong thời gian sử
dụng không có tranh chấp nên theo quy định của Luật đất đai, chủ sở hữu được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
+ Luật nhà ở năm 2005: Điều 4 quy định về quyền có chỗ ở và quền sở
hữu nhà ở: “công dân có quyền có chỗ ở thông qua việc tạo lập nhà ở hợp pháp
hoặc thông qua việc thuê, mượn, ở nhờ nhà theo quy định của pháp luật. Người

tạo lập nhà ở hợp pháp có quyền sở hữu đối với nhà ở đó” và “Nhà nước công
nhận và bảo hộ quyền sở hữu nhà ở của chủ sở hữu” (Điều 5). Bên cạnh đó,
khoản 2 Điều 10 quy định điều kiện chủ thể được cấp giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà: “Có nhà ở được tạo lập hợp pháp thông qua việc đầu tư xây dựng, mua
bán, tặng cho, thừa kế, đổi nhà ở và các hình thức khác theo quy định của pháp
luật”. Mặt khác, khoản 3 Điều 12 quy định cụ thể về vấn đề ghi tên chủ sở hữu
trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở: “Nhà ở thuộc sở hữu chung hợp nhất
thì ghi tên người được các chủ sở hữu thỏa thuận cho đứng tên trong giấy chứng
nhận, nếu không có thỏa thuận thì ghi đủ tên các chủ sở hữu nhà ở đó”.
Gia đình ông Minh và ông Hạnh được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà ở thông qua hình thức bỏ tiền ra mua nhà theo Nghị định số 61/CP. Vì số
tiền mua nhà là đóng góp của hai bên gia đình ông Minh và ông Hạnh nên trong
>
giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà có 04 người đứng tên đồng chủ sở hữu là vợ
chồng ông Minh và vợ chồng ông Hạnh.
Thứ hai, trong quá trình sử dụng diện tích nhà đất trên giữa gia đình ông
Minh và hộ gia đình ông Hạnh đã có mâu thuẫn căng thẳng. Đến ngày
09/06/2008, ông Minh đệ đơn kiện lên Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng,
thành phố Hà Nội. Luật nhà ở năm 2005 quy định tại Điều 5 và khoản 5 Điều 21:
“Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu nhà của chủ sở hữu” và chủ sở
hữu có quyền “Khiếu nại, tố cáo những hành vi vi phạm quyền sở hữu nhà ở hợp
pháp của mình”.
Thứ ba, theo Điều 135 và khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai 2003 thì tranh
chấp đất phải có hòa giải ở ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất. Thời
hạn hòa giải là 30 ngày làm việc, kể từ ngày ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn nhận được đơn. Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại ủy ban nhân dân xã
mà một bên hoặc các bên không nhất trí thì khi đó các bên có quyền nộp đơn
khởi kiện ra Tòa án huyện để được xem xét, giải quyết. Trong bản tóm tắt không
đề cập đến vần đề hai gia đình ông Minh và ông Hạnh đã gửi đơn đến ủy ban
nhân dân phường Lê Đại Hành hay chưa, nếu chưa thì quyết định đồng ý giải

quyết vụ án là trái pháp luật.
Trong trường hợp hai bên gia đình đã nộp đơn hòa giải mà một bên hoặc
các bên đương sự không nhất trí thì do mảnh đất tranh chấp đã có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nên được giải quyết như sau: “Tranh chấp về quyền sử
dụng đất mà đương sự có GCNNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5
điều 50 của luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do tòa án nhân
dân giải quyết” (khoản 1 Điều 136 luật đất đai năm 2003). Về vấn đề tranh chấp

quyền sở hữu nhà ở giữa hai hộ gia đình nếu hai bên không tự thỏa thuận được
thì hai bên có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân giải quyết. Điều 147, giải quyết
tranh chấp về nhà ở:
“1. Nhà nước khuyến khích các bên giải quyết tranh chấp về nhà ở thông
qua hoà giải.
2. Tranh chấp về nhà ở do Toà án nhân dân giải quyết theo quy định của
pháp luật”
Cụ thể Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội đã giải
quyết sơ thẩm và Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã giải quyết phúc thẩm.
Thứ tư, về phần diện tích đất được gia đình hai bên cải tạo ngoài sổ đỏ
nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nghĩa là phần diện
tích đó vẫn thuộc quyền sở hữu, sử dụng của Nhà nước nên đương nhiên không
được đem ra chia.
Thứ năm, Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 03/6/2009, ông Hạnh, bà Thủy,
chị Hương và anh Thắng có đơn kháng cáo. Về vấn đề kháng cáo khoản Điều 17
Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2004 quy định:
“Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.
Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án có thể bị kháng cáo, kháng nghị
theo quy định của Bộ luật này.
Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật; đối

3
với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét
xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.”
Như vậy ông Hạnh, bà Thủy, chị Hương và anh Thắng có quyền kháng
cáo khi không đồng ý với bản án sơ thẩm ngày 03/6/2009.
Ngoài ra còn một số căn cứ về mức án phí và thời gian kháng cáo được
quy định tại Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2004.
II. Bình luận về việc giải quyết vụ án của Tòa án
1.Sơ thẩm
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 06/2009/DS-ST ngày 25/5/2009 Tòa án
nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội chấp nhận yêu cầu chia tài sản
thuộc sở hữu chung của ông Minh, bà Kim Anh đối với diện tích nhà đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại số 5 ngõ 76 Vân
Hồ 3 – Hai Bà Trưng – Hà Nội.
Chia quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất cho hai hộ gia đình ông
Hạnh, bà Thúy; hộ gia đình ông Minh, bà Kim Anh, cụ thể như sau:
“- Dành một lối đi để hai hộ sử dụng chung có kích thước 0,8m x 12,82m
(chiều rộng tính từ tim tường chung nhà chính và WC chung với nhà ông Dũng,
bức tường sân thì tính từ mép trong trở vào. Chiều dài chạy dọc từ ngoài vào đến
hết tường hậu nhà WC) nằm trên diện tích được cấp giấy chứng nhận, nằm phía
bên tay trái tiếp giáp với tường chung nhà ông Dũng.
- Chia đôi diện tích nhà đất còn lại, hộ gia đình ông Hạnh, bà Thủy được
sở hữu, sử dụng ½ diện tích nhà đất có kích thước 2,88m x 6,45m = 17,97m
2

5
phía ngoài, bên trái đứng từ diện tích đất cơi nới phía ngoài của số nhà nhìn vào.
Chia cho hộ gia đình ông Minh, bà Kim Anh được sở hữu, sử dụng ½ diện tích
nhà đất còn lại gồm: diện tích nhà chính 2,88m x 0,21m = 0,6m
2

, diện tích sân
2,6m x 3,92m = 10,2m
2
, diện tích bếp 2,58m x 2,78m = 7,17m
2
. Tổng diện tích
nhà đất hộ gia đình ông Minh, bà Kim Anh được chia là 17,97m
2
nằm ở phía
trong, bên phải đứng từ diện tích cơi nới phía ngoài của số nhà nhìn vào.”
Theo quan điểm của nhóm thì:
Thứ nhất: Việc vợ chồng ông Minh và vợ chồng ông Hạnh mua lại căn
nhà thuộc sở hữu Nhà nước vào năm 2000 – 2001 theo Nghị định số 61/CP ngày
05/07/1994 (sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 21/CP ngày 16/04/1996) về mua
bán và kinh doanh nhà ở của Chính phủ là hợp pháp nên yêu cầu chia tài sản
thuộc sở hữu chung của ông Minh, bà Kim Anh đối với diện tích nhà đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại số 5 ngõ 76 Vân
Hồ 3 – Hai Bà Trưng – Hà Nội là có căn cứ pháp luật, cụ thể là khoản 1, Điều
224 bộ luật dân sự 2005 quy định: “Trong trường hợp sở hữu chung có thể phân
chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung”. Việc
chấp nhận yêu cầu chia diện tích nhà đất của ông Minh, bà Kim Anh của tòa án
là hợp pháp (nếu hai bên đã nộp đơn hòa giải mà vần không giải quyết được theo
điều 135 luật đất đai năm 2003).
Thứ hai: Trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất
ở ngày 29/8/2001 có 04 người đứng tên đồng sở hữu là vợ chồng ông Minh và
vợ chồng ông Hạnh, như vậy quyền và nghĩa vụ của vợ chồng ông Minh và vợ
chồng ông Hạnh đối với tài sản thuộc sở hữu chung là ngôi nhà và mảnh đất
tranh chấp là như nhau. Vì vậy tòa án chia tài sản thuộc sở hữu chung của ông
Minh, bà Kim Anh đối với diện tích nhà số 5 ngõ 76 Vân Hồ 3 – Hai Bà Trưng –


Hà Nội như trên là công bằng. (Nếu hai gia đình có mức đóng góp vào việc mua
nhà đất đang tranh chấp là như nhau).
Thứ ba: Trước khi vợ chồng ông Minh và vợ chồng ông Hạnh mua lại căn
nhà, bà Thủy chỉ là người đứng tên chủ hợp đồng thuê của Nhà nước, nghĩa là
nhà đất ấy vẫn được xác định chủ sở hữu hợp pháp là Nhà nước. Sau này, sau khi
mua nhà, chủ sở hữu hợp pháp của diện tích đất cùng ngôi nhà ấy là bốn người
ông Minh, bà Kim Anh, ông Hạnh, bà Thủy nên quan điểm của ông Hạnh, bà
Thủy cho rằng nhà đất trên thuộc sở hữu riêng của ông bà vì bà Thủy là chủ hợp
đồng thuê nên ông bà không chấp nhận yêu cầu chia của vợ chồng ông Minh, bà
Kim Anh là không có căn cứ pháp luật.
Cùng với quyết định chia diện tích nhà trên tòa án còn quyết định: Hai bên
phải giữ nguyên hiện trạng, cống thoát nước của các bất động sản liền kề chạy
ngang qua diện tích đất của hộ gia đình, không được cản trở hoặc ngăn chặn
dòng chảy làm ảnh hưởng đến sinh hoạt chung và có quyền dỡ bỏ phần nhà phía
trên lối đi, diện tích nhà WC để tạo lối đi chung, phải tự tạo công trình phụ để sử
dụng riêng trên phần diện tích nhà đất được chia. Quyết định trên của tòa án là
hợp lý, phù hợp với quy định về quyền và nghĩa vụ với bất động sản liền kề được
quy định trong bộ luật dân sự 2005.
Ngoài ra tòa án còn quyết định như sau:
-Hộ ông Hạnh, bà Thủy được sở hữu vật liệu xây dựng và được chia giá trị
xây dựng tương ứng là 7.272.850đ.
- Hộ ông Minh, bà Kim Anh được sở hữu vật liệu xây dựng và được chia
giá trị xây dựng tương ứng là 1.451.925đ.

- Hộ ông Hạnh, bà Thủy phải thanh toán cho hộ ông Minh, bà Kim Anh số
tiền giá trị xây dựng chênh lệch là 2.791.462đ.
Về các quyết định trên do trong tóm tắt vụ án không đề cập tới các tình tiết
có liên quan, nên nhóm không bình luận về các quyết định này của tòa án.
2.Phúc thẩm
Ta biết rằng khi tòa án giải quyết một vụ án dân sự, các đương sự phải

chịu án phí theo quy định của pháp luật, tùy theo loại vụ án dân sự, trên cơ sở lợi
ích, mức lỗi của họ trong quan hệ pháp luật tòa án giải quyết trong mỗi vụ án
khác nhau. Tuy vậy, do tính chất của từng loại vụ án cũng như điều kiện kinh tế
của đương sự nên trong một số trường hợp pháp luật có quy định về việc miễn,
giám án phí. Những quy định này thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, tạo điều
kiện thuận lợi để mọi người dân đều có thể tiếp cận công lý, hạn chế các trường
hợp vì lý do tài chính mà Tòa án không thụ lý vụ án, làm cho quyền lợi hợp pháp
của người dân không được đảm bảo, quyền khởi kiện không thể thực hiện trên
thực tế.
Chính vì vậy, tại bản án dân sự phúc thẩm số 276/2009/DS-PT ngày
30/10/2009 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định sửa bản án sơ thẩm về
phần án phí ( mỗi hộ được giảm 2/3 án phí vì có đơn xin miễn giảm án phí). Việc
miễn giảm án phí của tòa án là hoàn toàn đúng đắn. Quyết định này dựa trên
những căn cứ pháp luật cụ thể là “Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án” được Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 27/02/2009. Pháp lệnh này có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/7/2009. Để triển khai thi hành “Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án”,
ngày 30/6/2009 Toà án nhân dân tối cao đã có công văn số 98/TANDTC-KHXX
hướng dẫn các Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp, các đơn vị trực thuộc

Toà án nhân dân tối cao cần thực hiện đúng các vấn đề sau: “…Đối với các vụ
việc đã được Toà án thụ lý để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm hoặc theo thủ tục
phúc thẩm trước ngày Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án có hiệu lực pháp
luật (ngày 01/7/2009) nhưng sau ngày 01/7/009 Toà án mới giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm, phúc thẩm, thì các quyết định về án phí, lệ phí Toà án được thực
hiện theo quy định của Nghị định 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ “về án
phí, lệ phí Tòa án” và các văn bản trước đây về án phí, lệ phí Toà án. Trường
hợp theo quy định của Nghị định số 70/CP mà đương sự phải chịu án phí, lệ phí
Toà án, nhưng theo quy định của Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án thì đương sự
không phải chịu hoặc được miễn, giảm án phí, lệ phí Toà án, thì áp dụng quy
định của Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án đối với họ”.

Áp dụng những quy định này đối với trường hợp được đưa ra, ta có thể
thấy rằng, bản án dân sự sơ thẩm được Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng,
thành phố Hà Nội công bố vào ngày 25/5/2009, tức là khi Pháp lệnh án phí, lệ
phí Toà án chưa có hiệu lực thi hành, thì các bên tham gia vụ kiện vẫn phải nộp
lệ phí theo quy định của của Nghị định 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ “về
án phí, lệ phí Tòa án” và các văn bản trước đây về án phí, lệ phí Toà án. Tuy
vậy, do bản án dân sự phúc thẩm được đưa ra vào ngày 30/10/2009 là sau khi
“Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án” có hiệu lực, chính vì thế, việc tòa án miễn giảm
án phí cho đương sự do có đơn xin miễn giảm án phí theo quy định của “Pháp
lệnh án phí, lệ phí Toà án” là hoàn toàn hợp lí.
Cùng với quyết định sửa bản án sơ thẩm về phần án phí nêu trên thì phần
còn lại của bản án sơ thẩm vẫn được tòa án giữ nguyên.
2
III. Quan điểm của nhóm về giải quyết vụ án.
Dựa trên việc phân tích và đánh giá cách giải quyết của cả hai tòa án xét
xử vụ sơ thẩm và phúc thẩm, nhóm em nhận thấy vụ án Vụ án tranh chấp quyền
sở hữu nhà giữa nguyên đơn ông Nguyễn Văn Minh và bị đơn ông Nguyễn Văn
Hạnh có các điểm mấu chốt như sau:
+Thứ nhất: Trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng
đất đang tranh chấp có những ai đứng tên đồng sở hữu, có đúng có 04 người
đứng tên đồng sở hữu là ông Nguyễn Văn Minh, bà Hoàng Thị Kim Anh, ông
Nguyễn Văn Hạnh, bà Bùi Thị Thủy không.
+Thứ hai: khi hai gia đình mua nhà theo Nghị định 61/CP đối với diện
tích nhà đất đang tranh chấp thì mức đóng góp của mỗi gia đình là bao nhiêu, có
bằng nhau hay không. Nếu hai gia đình đóng góp bằng nhau khi mua nhà thì
quyết định của tòa án chia công bằng diện tích nhà đất tranh chấp là hợp tình hợp
lý.
+Thứ ba: Căn cứ vào đâu mà tại bản án dân sự sơ thẩm số 06/2009/DS-
ST ngày 25/5/2009 Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội lại
có quyết định:

“- Hộ ông Hạnh, bà Thủy được sở hữu vật liệu xây dựng và được chia giá
trị xây dựng tương ứng là 7.272.850đ.
- Hộ ông Minh, bà Kim Anh được sở hữu vật liệu xây dựng và được chia
giá trị xây dựng tương ứng là 1.451.925đ.
- Hộ ông Hạnh, bà Thủy phải thanh toán cho hộ ông Minh, bà Kim Anh
số tiền giá trị xây dựng chênh lệch là 2.791.462đ.”
1
Căn cứ để tòa án ra những quyết định trên không được đề cập trong bản
tóm tắt vụ án. Nên đề nghị tòa án bổ xung các căn cứ, xác nhận thêm thông tin
về các nguyên vật liệu cũng như cách chia giá trị xây dựng một cách rõ ràng hơn
để hai hộ gia đình có thể biết rõ về quyền lợi hợp pháp mà mình được hưởng
trong vụ việc này. Từ đó, hạn chế việc xảy ra hiểu nhầm và tranh chấp giữa các
đương sự.
+Thứ tư: Theo quan điểm của nhóm, tòa án phải xác nhận hai bên gia
đình đã nộp đơn hòa giải tại phường Lê Đại Hành hay chưa, và ý kiến của hai
bên gia đình thế nào. Vì nhà nước luôn khuyến khích các tranh chấp dân sự có
thể giải quyết thông qua con đường hòa giải, hơn nữa hai bên của vụ án này lại là
anh em ruột, nên việc tòa án giải quyết tranh chấp chỉ nên khi mà cả hai bên
không thể tự hòa giải được, và ủy ban nhân dân phường cũng không thể giúp hai
bên hòa giải.
Nhận xét:
+đã đưa được quan điểm của nhóm về giải quyết vụ án
+cần có lập luận chứng minh ngôi nhà và đất là tài sản sở hữu chung
theo phần.


×