Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Vai trò của luật sư trong việc giải quyết các vụ án có người chưa thành niên phạm tội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.32 KB, 26 trang )

Vai trò của luật sư trong việc giải quyết các vụ
án có người chưa thành niên phạm tội
Lời mở đầu
Trong những năm gần đây thực tiễn xét xử cho thấy rằng tỷ lệ các
vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội được các toà
án đưa ra xét xử chiếm tỷ lệ đáng kể. Vấn đề này thật đáng báo động, là
mối quan tâm của toàn xã hội nói chung và của các ngành lập pháp, tư
pháp nói riêng.
Theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan chức năng thì
người chưa thành niên phạm tội là những người từ đủ 14 đến chưa đủ
18 tuổi. Do tâm sinh lý còn chưa hoàn chỉnh, việc trang bị những kiến
thức cần thiết về các lĩnh vực tự nhiên và xã hội còn nhiều khiếm
khuyết, và nhất là các kiến thức về pháp luật. Vì vậy, năng lực hành vi
tố tụng có phần hạn chế, các đối tượng này được hưởng chính sách
khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước từ góc độ hình sự cũng như tố tụng
hình sự, được bảo hộ đặc biệt của Nhà nước cũng như xã hội về các
quyền và lợi ích hợp pháp. Xuất phát từ đặc điểm mang tính đặc trưng
như vậy nên bộ luật tố tụng hình sự nước ta dành hẳn một chương riêng
(Chương 32) quy định thủ tục về những vụ án mà bị can, bị cáo là người
chưa thành niên.
Là luật sư trong tương lai, tôi chọn đề tài “ Vai trò của luật sư trong việc
giải quyết các vụ án có người chưa thành niên phạm tội” nhằm mục
đích góp một phần làm rõ các các chính sách của Nhà nước đối với
người chưa thành niên để có thể bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp
pháp của người chưa thành niên khi phạm tội. Luật sư vận dụng chính
sách nhân đạo thông qua các quy định của pháp luật, giúp cho người
chưa thành niên phạm tội có cơ hội sửa chữa sai lầm, phát triển lành
mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
1
****
NỘI DUNG CƠ BẢN :


VAI TRÒ LUẬT SƯ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN
CÓ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI.
I/ Khái niệm và các quy định của pháp luật về người chưa thành
niên :
1. Khái niệm người chưa thành niên :
Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ
về nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân.
Pháp luật ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành
niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này,
trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng
đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất
trong Hiến Pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi
bổ sung một số điều của bộ luật hình sự năm 2009 (sau đây gọi chung là
Bộ Luật hình sự) ,ộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Lao động,
Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản
quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định
tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những
chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ
thể.
2
Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều
1 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là
công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự
phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá
bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia.
Theo đó, người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người

chưa thành niên.
Như vậy, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18
tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.
Tham khảo thêm các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến người
chưa thành niên gồm: Công ước về Quyền trẻ em (United Nations
Convention on the Rights of the Child) được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 20-11-1989; Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên
hợp quốc về áp dụng pháp luật với người chưa thành niên (United
Nations Standard Minimum Rules for the Administration of Juvenile
Justice /Beijing Rules) ngày 29-11-1985; Hướng dẫn của Liên hợp quốc
về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên (United Nations
Guidelines for the Prevention of Juvenile delinquency/ Riyadh
Guidelines) ngày 14-12-1990. Theo quan niệm quốc tế thì trẻ em
(Child) là người dưới 18 tuổi, người chưa thành niên (Juvenile) là người
từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên (Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi, người
trẻ tuổi (Young persons) bao gồm trẻ em, người chưa thành niên và
thanh niên.
Ở Việt Nam, tuổi kết nạp Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh là từ
10 đến 15 tuổi, tuổi kết nạp Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là
từ 15 đến 30 tuổi. Trong tuổi Đoàn gọi là thanh niên, trong tuổi Đội là
thiếu niên, dưới tuổi Đội gọi là nhi đồng. Ở mỗi lứa tuổi, người chưa
thành niên được Nhà nước và xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục để phát triển tốt nhất về thể chất và nhân cách, trở thành người khỏe
mạnh, có ích cho xã hội.
2. Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra
3
Điều 12 Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy
định tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội

phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng”.
Như vậy, người chưa thành niên phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình
sự có thể là:
-Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố
ý, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
- Nguời từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm một tội được quy định
trong Bộ luật Hình sự.
Đối với người chưa thành niên, việc xác định một trường hợp cụ thể
người có hành vi phạm tội có trở thành tội phạm hay không còn căn cứ
vào nguyên tắc được quy định tại Điều 69 Bộ luật Hình sự:
“1. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục,
giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân
có ích cho xã hội.
Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của
người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác
định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
2. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình
sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây
hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ
quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và
áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần
4
thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc
điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
4. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với

người chưa thành niên phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện
pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này.” …
Như vậy, tội phạm do người chưa thành niên gây ra chỉ xuất hiện (phát
sinh) khi có đầy đủ 3 điều kiện sau đây:
Một là, có hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện.
Hai là, người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự tương ứng với loại tội phạm và lỗi gây ra tội phạm.
Ba là, người đó thực tế phải chịu trách nhiệm hình sự sau khi các cơ
quan có thẩm quyền cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà
không thể áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc các biện pháp khác để
quản lý, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
Những điều kiện trên cũng cho thấy tầm quan trọng trong việc xác định
tội phạm do người chưa thành niên gây ra. Tội phạm do người chưa
thành niên gây ra bao giờ cũng gắn liền với một người chưa thành niên
có hành vi phạm tội cụ thể nhưng không phải mọi trường hợp một
người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội đều trở thành tội
phạm.
Tội phạm do người chưa thành niên gây ra có những đặc điểm riêng so
với tội phạm do người đã thành niên gây ra. Tội phạm do người đã
thành niên gây ra là những hành vi nguy hiểm cho xã hội có đủ dấu hiệu
tội phạm và đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Tội phạm do người chưa
thành niên gây ra ngoài những dấu hiệu và yếu tố pháp lý còn được xác
định bằng sự nhận định, cân nhắc cụ thể của cơ quan có thẩm quyền khi
quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội.
Theo một số nghiên cứu khoa học, việc truy cứu trách nhiệm hình sự và
áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội được xem là
“cần thiết” khi hội đủ 3 điều kiện sau đây ( 1 ) :
5
- Người chưa thành niên phạm tội có nhân thân xấu.

- Tội phạm đã được thực hiện có tính chất nghiêm trọng.
- Những biện pháp giáo dục, phòng ngừa như giáo dục tại xã, phường,
đưa vào trường giáo dưỡng không có hiệu quả để cải tạo người chưa
thành niên phạm tội mà cần áp dụng hình phạt đối với họ.
Từ những phân tích trên có thể khái niệm: Tội phạm do người chưa
thành niên gây ra là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bởi
người dưới 18 tuổi và người đó phải chịu trách nhiệm hình sự tương
ứng với hành vi và lỗi của mình theo phán xét của cơ quan tiến hành tố
tụng
Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra không đồng nhất
với khái niệm người chưa thành niên phạm tội nhưng hai khái niệm đó
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Khái niệm người chưa thành niên
phạm tội là khái niệm dùng để chỉ một dạng chủ thể đặc biệt (người
chưa thành niên) thực hiện hành vi phạm tội, còn khái niệm tội phạm do
người chưa thành niên gây ra là khái niệm dùng để chỉ tội phạm đã
được thực hiện bởi một dạng chủ thể đặc biệt (người chưa thành niên).
3. Một số vấn đề rút ra trong công tác phòng ngừa, điều tra tội
phạm và xử lý người chưa thành niên phạm tội
Người chưa thành niên do chưa phát triển hoàn thiện về mặt thể chất và
nhân cách nên việc bảo vệ, chăm sóc người chưa thành niên; việc phòng
ngừa và điều tra tội phạm, xử lý người chưa thành niên phạm tội là vấn
đề vừa mang tính pháp lý vừa mang tính nhân văn.
Khi tiến hành phòng ngừa và điều tra tội phạm, xử lý người chưa thành
niên phạm tội chúng ta cần chú ý:
- Xác định đối tượng tác động trong phòng ngừa tội phạm: Trong các kế
hoạch phòng ngừa tội phạm phải xác định đối tượng là trẻ em hay người
chưa thành niên hay thanh, thiếu niên. Mỗi đối tượng đó rõ ràng khác
6
nhau về độ tuổi, do vậy khác nhau về đặc điểm tâm lý cho nên phương
pháp tác động của chúng ta cũng phải khác nhau.

- Tính thân thiện trong điều tra tội phạm: Cán bộ Cảnh sát nhân dân
trong khi tiến hành điều tra tội phạm do người chưa thành niên gây ra
ngoài việc vận dụng đúng các quy định pháp luật, sử dụng linh hoạt
nghiệp vụ, cần phải là người có kiến thức sâu sắc về tâm lý, đặc biệt là
tâm lý thân thiện với người chưa thành niên. Thái độ của cán bộ công
an, lời nói và biện pháp được sử dụng, môi trường và các điều kiện vật
chất để tiến hành điều tra luôn luôn gắn với tính từ “thân thiện”. Trong
giai đoạn điều tra, cán bộ điều tra phải thực hiện đầy đủ các thủ tục tố
tụng đặc biệt đối với người chưa thành niên như việc bắt, tạm giữ, tạm
giam; việc giám sát đối với người chưa thành niên phạm tội; việc bào
chữa; việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, tổ chức. Cũng có
nghĩa là, thái độ hà khắc, gây gắt, vô cảm và những biện pháp cứng
nhắc, vi phạm tố tụng là điều “cấm kị” đối với cán bộ Cảnh sát nhân
dân trong hoạt động điều tra tội phạm do người chưa thành niên gây ra.
- Tính cụ thể, nhân văn trong xử lý người chưa thành niên phạm tội:
Không phải tất cả những người chưa thành niên phạm tội đều phải xử lý
bằng hình sự. Trong công tác điều tra, cán bộ Cảnh sát nhân dân cần thu
thập thông tin, chứng cứ để không chỉ làm rõ tất cả những vấn đề phải
chứng minh trong vụ án hình sự mà còn nhằm xác định rõ những vấn đề
khác theo quy định tại Điều 302 Bộ luật Tố tụng hình sự. Phải vận dụng
một cách có căn cứ những nguyên tắc quy định tại Điều 69 Bộ luật Hình
sự. Chúng ta thấu hiểu và đồng tình với quan niệm “Nhà tù là lựa chọn
cuối cùng để xử lý người chưa thành niên phạm tội”. Và đương nhiên,
khi không phải lựa chọn một biện pháp nào để xử lý người chưa thành
niên phạm tội mới là điều tốt lành không chỉ là lý tưởng mà còn là
những hành động chiến lược lâu dài và rất cụ thể của tất cả chúng ta./.
- Quyết định hình phạt với người chưa thành niên phạm tội là trường
hợp đặc biệt. Tính chất đặc biệt của trường hợp này là ở chổ hình phạt
được quy định nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội có các tình
tiết khác tương đương và mức giảm nhẹ phụ thuộc vào mức tuổi của

người phạm tội. Sở dĩ người chưa thành niên được hưởng chính sách
giảm trách nhiệm Hình sự của Nhà nước khi có hành vi phạm tội vì họ
có những đặc điểm đặc biệt về nhân thân.
7
Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm
sinh lí, chưa thể nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi mà mình thực hiện. Nhận thức của họ thường non nớt, thiếu
chính chắn và đặc biệt họ dễ bị kích động, lôi kéo bởi những người
xung quanh, nếu ở môi trường xấu và không được chăm sóc giáo dục
chu đáo, người chưa thành niên dễ bị ảnh hưởng thói hư tật xấu dẫn đến
phạm pháp. Bên cạnh đó, so với người đã thành niên ý thức phạm tội
của người chưa thành niên nói chung chưâ sâu sắc, họ dể tiếp thu sự
giáo dục của xã hội, nhà trường cũng như gia đình để từ bỏ con đường
phạm tội. Do vậy, không thẻ coi người chưa thành niên phải chịu trách
nhiệm Hình sự giống như người đã thành niên. Chính vì thế, hình phạt
áp dụng với người chưa thành niên phạm tội phải nhẹ hơn so với người
đã thành niên.
Khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, trước
hết tòa án phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Việc xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên chủ yếu nhằm
giáo dục, giúp đỡ họ sữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công
dân có ích cho xã hội.
Người chưa thành niên có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự
nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây thiệt
hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình cơ quan tổ
chức nhận giám sát giáo dục.
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và
áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần
thiết và phải căn cứ tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc
điểm của nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Nếu thấy

không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội thì tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp là giáo dục
tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng.
Đối với người chưa thành niên phạm tội thì không phạt tù trung thân
hoặc tử hình, không áp dụng các hình phạt bổ sung, không áp dụng hình
phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuỏi từ 14 đến
dưới 16 tuổi. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành
8
niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với
người thành niên đã phạm tội tương ứng.
Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi
không được tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Theo Bộ luật hình sự 1999 và Luật sửa đổi bổ sung luật hình sự năm
2009, việc quyết định hình phạt được tiến hành như sau:
+ Đối với phạt tiền: Nếu như BLHS năm 1985 trước khia chưa quy định
áp dụng phạt tiền đối với người chưâ thành niên phạm tội thì BLHS
năm 1999 đã quy định phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với
người chưa thành niên phạm tội nếu họ ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18
tuổi và họ có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Quy định mới này nhằm
hạn chế việc áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên đồng
thời việc áp dụng phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội
trong trường hợp này vẫn đảm bảo được mục đích của hình phạt.
Mức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội không vượt qúa
1/2 mức phạt tiền mà điều luật quy định.
+ Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ: BLHS năm 1999 quy định
giới hạn hình phạt áp dụng cho người thành niên phạm tội không vượt
quá 1/2 thời hạn và điều luật quy định. Đồng thời, do người chưa thành
niên hầu như chưa có thu nhập hoặc tài sản riêng nên BLHS năm 1999
đã không khấu trừ thu nhập của họ khi bị kết án.
+ Đối với hình phạt tù có thời hạn: BLHS năm 1999 đã phân hóa người

chưa thành niên ra làm hai đối tượng là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi với đường lối xử lí khác
nhau. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì được xử lí nhẹ hơn người
từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi. Trong từng đối tượng cụ thể nói trên, nhà làm
luật tách thành hai trường hợp ( trường hợp quy định hình phạt tù chung
thân, tử hình và trường hợp điều luật quy định hình phạt tù có thời hạn )
tương ứng với mức hình phạt khác nhau phù hợp với độ tuổi của người
thành niên cũng như yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Quy định
này thể hiện sự tiến bộ về chất của BLHS năm 1999 khi quy định về
quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Cụ thể,
Điều 74 quy định như sau:
9
1.” Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều
luật được áp dụng quy định hình phạt tù và chung thân hoặc tử hình thì
mức hình phạt cao nhất được áp dụng không vượt quá 18 năm tù; nếu
là tù có thờ hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá
3/4 mức phạt tù có thời hạn.
2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật
được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức
hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù: nếu là tù có
thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 1/2 mức
phạt tù mà điều luật quy định”
Đối với trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội, có tội thực
hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội thực hiện sau khi đủ 18 tuổi thì việc
tổng hợp hình phạt được áp dụng như sau:
Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình
phạt không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74
Bộ luật này ( Khoản 1 Điều 75)
Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi thì hình
phạt chung ấp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội ( Khoản 2

Điều 75)
Thực tiễn vận dụng điều 75 Bộ Luật hình sự cho thấy nảy sinh vấn đề
cần giải quyết, đó là việc xác định tội nặng nhất. Thực tiễn xét xử đã
xác định tội nặng nhất là tội có mức hình phạt tối đa của khung hình
phạt cao nhất cao hơn. Trong trường hợp có mức hình phạt tối đa bằng
nhau thì thì tội nặng hơn là tội có mức hình phạt khởi điểm khung hình
phạt cao nhất cao hơn. Cách xác định này một lần nữa được khẳng định
tại Thông tư số 01/98 TANDTC – VKSNDTC – BNV ngày 02/1/1998.
Tuy nhiên, có những trường hợp không thể xác định được tội nặng nhất
nếu hình phạt tối đa của khung hình phạt cao nhất của hai tội ngang
bằng nhau và cao nhất cũng ngang bằng nhau. Trong khoa học luật
Hình sự hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau .
Ý kiến thứ nhất cho rằng: “Cơ sở để xác định tội nặng nhất trong các
tội mà người chưa thành niên đã phạm là căn cứ và hình phạt cụ thể
10
mà tòa án đã tuyên cho từng tội. Tội nào có hình phạt cao nhất thì đó là
tội nặng nhất trong các tội mà người chưa thành niên đã phạm”.
Ý kiến thứ hai cho rằng “ Trường hợp không thể xác định được tội nặng
nhất nếu hình phạt tối đa của khung hình phạt cao nhất là hai tội bằng
nhau và hình phạt khởi điểm của khung có hình phạt cao nhất cũng
bằng nhau thì trường hợp này tội nặng hơn là tội có hình phạt tối đa
của khung hình phạt nhẹ nhất cao hơn. Nếu hình phạt tối đa của khung
hình phạt nhẹ nhất bằng nhau thì tội nặng hơn là tội có hình phạt khởi
điểm của khung hình phạt nhẹ nhất cao hơn.”
Tôi cho rằng ý kiến thứ nhất tuy có ưu điểm là đơn giản hóa việc vận
dụng khái niệm tội nặng hơn trong thực tế nhưng không hợp lí vì không
thể coi tội trộm cắp tài sản nặng hơn tội giết người nếu ở trường hợp cụ
thể, người phạm tội trộm cắp tài sản bị phạt 10 năm tù, còn ở tội giết
người, bị cáo chỉ bị phạt có 7 năm tù. Theo chúng tôi, ý kiến thứ hai hợp
lí hơn nhưng chưa đủ để giải quyết những vướng mắc còn lại. Cụ thể là

nếu hình phạt tối đa và hình phạt tối thiểu của khung hình phạt có hình
phạt nhẹ nhất bằng nhau thì việc xác định tội nặng hơn sẽ như thế nào?
Theo chúng tôi, nếu tội nào có quy định hình phạt bổ sung thì tội đó
nặng hơn. Tuy nhiên, nếu cả hai tội đều quy định hình phạt bổ sung thì
tội nặng hơn sẽ là tội có khác thể quan trong hơn.
Quá trình vận dụng Điều 74 Bộ Luật hình sự vào thực tiễn còn gặp
nhiều vướng mắc khác. Đó là do hạn chế về kỷ thuật lập pháp. Cụ thể là
Điều 74 quy định : “ …nếu điều luật được áp dụng có quy định hình
phạt tù chung thân hoặc tử hình” hoặc “ … không quá 3/4 mức phạt tù
mà điều luật quy” hoặc… “ không quá 1/2 mức phạt tù mà điều luật
quy định”. Bởi vì, điều luật quy định về tội phạm cụ thể có thể có một
hoặc nhiều khung hình phạt trong khi đó Điều 74 chỉ dùng từ chung
chung là “ điều luật” mà không chỉ rõ khung hình phạt bị áp dụng. Mặt
khác, cần hiểu rằng nhà làm luật quy định giảm nhẹ hình phạt cho người
thành niên phạm tội so với trong cùng một khung hình phạt ( trong điều
kiện các tình tiết khác tương đương ). Do đó, quy định chung chung như
trên dễ gây hiểu nhầm và vận dụng không thống nhất. Ví dụ: Bị cáo E
phạm tội cướp tài sản theo khoản 1 Điều 133 BLHS năm 1999, khi
phạm tội bị cáo tròn 15 tuổi. Với quy định chưa rõ như trên của Điều
74, bởi vì, tội cướp tài sản có quy định hình phạt tù chung thân, tử hình.
Nếu vận dụng khoản 2 đoạn 1 Điều 74 thì mức hình phạt cao nhất được
11
áp dụng cho bị cáo không quá 12 năm tù trong khi đó mức cao nhất của
khoản 1 Điều 133 chỉ là 10 năm tù ( thấp hơn mức 12 năm tù ) vả mặc
dù đã áp dụng Điều 74 nhưng hình phạt tuyên cho bị cáo tuyên cho bị
cáo có thể còn cao hơn cả trong trường hợp chưa giảm nhẹ hình phạt
cho bị cáo. Trong trường hợp nếu hiểu đúng tinh thần của Điều 74 thì
phải vận dụng đoạn 2 khoản 2 Điều 74 thì mới đúng vì bị cáo E phạm
tội theo Điều 133 khoản 1 và điều 133 khoản 1 quy định hình phạt áp
dụng cho bị cáo là tù có thời hạn. Trường hợp này mức hình phạt cao

nhất mà tòa án tuyên cho bị cáo không quá 5 năm tù – không quá 1/2
mức cao nhất của khoản 1 Điều 133. Như vậy, nếu áp dụng đoạn 2
khoản 2 Điều 74 thì hình phạt áp dụng cho bị cáo rõ ràng được giảm
nhẹ hơn hẳn so với người đã thành niên phạm tội.
Mặt khác, cách diễn đạt “ mức hình phạt cao nhất không quá 18 năm
tù” hoặc “ không quá 3/4 mức phạt tù”… của Điều 74 là còn chưa rõ
nên có thể gây ra nhiều cách hiểu khác nhau.
Cách hiểu thứ nhất cách hiểu phổ biến hiện nay là Bộ Luật hình sự
(BLHS) đã khống chế mức tối đa của khung hình phạt được phép áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong sự so sánh với người
đã thành niên phạm tội và BLHS đã không khống chế mức tối thiểu.
Mức hình phạt cao nhất mà người chưa thành niên chấp hành phải thấp
hơn mức hình phạt cao nhất áp dụng cho người đã thành niên.
Các hiểu thứ hai cho rằng mặc dù Điều 74 quy định như trên nhưng
thực chất điều luật này vẫn còn khống chế mức hình phạt tối đa và mức
tối thiểu quy định cho người đã thành niên.
Tôi cho rằng để các quy định về quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội được áp dụng có hiệu quả trong thực tế, Điều
74 BLHS hiện hành cần khắc phục kịp thời những hạn chế đã phân tích
ở trên để các quy định này thực sự là công cụ hữu hiệu của Nhà Nước
trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm./.
4. Một số vụ án người chưa thành niên phạm tội - Ý kiến của Luật
sư và những người liên quan :
+ Ngày 10-8, TAND TPHCM lại đưa ra xét xử vụ “phá hủy công trình,
phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia”. Trong 4 bị cáo, hết 3
12
người chưa thành niên (tuổi từ 15 đến 17) và thuộc thành phần lao động
nghèo. Lần lượt hỏi từng bị cáo lý do đi cắt trộm dây điện, HĐXX đều
nhận được câu trả lời: “Cắt để bán ve chai lấy tiền chơi game”. Hỏi :
“Có biết cắt trộm dây điện đang vận hành là phạm tội phá hủy công

trình an ninh quốc gia, có thể lãnh án chung thân hoặc tử hình không?”,
cả ba run sợ nói: “Dạ không. Bị cáo nghĩ là cắt đây điện để lấy dây đồng
bán ”. HĐXX mời cha mẹ bị cáo lên, họ cùng cho rằng: “Ở nhà nó
ngoan lắm. Suốt ngày lo đi làm phụ giúp gia đình”. Tuy nhiên, khi được
hỏi có biết con kết bạn với ai, làm gì sau giờ đi làm không, họ đều mù
mờ: “Dạ, thì nó đi uống cà phê hay chơi game với bạn một chút, khuya
về ngủ ”.
Theo luật sư Nguyễn Phi Điệp (Đoàn Luật sư TPHCM), cái gốc vẫn là
gia đình. Không thể đổ lỗi cho hoàn cảnh và cái nghèo, bỏ mặc con cái
muốn làm gì thì làm, đi đâu thì đi, chơi với ai cũng được, rồi khi con hư
lại đẩy trách nhiệm về phía xã hội. Như thế là vô trách nhiệm. Chỉ cần
để ý đến con một chút, quản lý con chặt chẽ hơn sẽ hạn chế được phần
nào hành vi phạm tội của đứa trẻ. Ví dụ thấy con đem chiếc xe lạ về
nhà, hỏi xem con lấy xe ở đâu, của ai , nó cũng e dè hơn. Không hỏi
han gì cũng là một kiểu dung túng cho con làm bậy. Hoặc như 11 - 12
giờ đêm mà trẻ vẫn lang thang cùng bạn bè ngoài đường là điều không
thể dễ dàng thỏa hiệp, chấp nhận
Luật sư Lê Nguyễn Quỳnh Thy (Đoàn Luật sư TPHCM) phân tích:
“Thực ra, ở lứa tuổi 13 - 17, trẻ thường liên hệ và chịu sự tác động của
bạn bè nhiều hơn gia đình. Nếu được tiếp tục đến trường, nguy cơ phạm
tội được hạn chế phần nào. Tuy nhiên, chương trình học hiện nay quá
nặng, nhất là đối với những học sinh học lực trung bình, yếu lại không
có khả năng đi học thêm. Không theo kịp bạn bè, chúng dễ nản rồi đòi
nghỉ học. Trong khi đó, gia đình lại thiếu động viên, đôi khi cũng do
không trang trải nổi chi phí học hành, họ buông xuôi. Nghỉ học trong
khi những công việc dành cho lứa tuổi này không nhiều, thời gian rảnh,
các em bắt đầu kết bè, kết bạn. “Gần mực thì đen” Thêm vào đó, xã
hội ngày càng phát triển, bên cạnh những mặt tích cực cũng kéo theo
nhiều hệ lụy. Nếu không được trang bị kiến thức văn hóa, ứng xử, nhận
thức hạn chế, thiếu sự giám sát của gia đình, các em dễ dàng đua đòi, sa

vào những kiểu vui chơi không lành mạnh. Để có tiền đáp ứng được
những nhu cầu cá nhân, ắt phải làm bậy. Và vì còn nhỏ, các em không ý
13
thức hết việc mình làm, hành động phạm tội của các em vì thế thường
dẫn đến hậu quả nghiêm trọng”. Mới đây, TAND TPHCM đã tổ chức
hội thảo về thực trạng người chưa thành niên phạm tội. Theo Tòa Hình
sự TAND TP, từ năm 2002 đến 2006, tỉ lệ người chưa thành niên phạm
tội tăng gần 100%. Một điều đáng nói nữa là, người chưa thành niên
phạm tội thường đóng vai trò chủ động, trong nhiều trường hợp là
những người tổ chức, cấu kết thành băng nhóm. Có thể nhận thấy, giáo
dục lối sống đạo đức chưa thực sự được coi trọng, giáo dục pháp luật
chưa đưa vào học đường nên hiểu biết pháp luật của người chưa thành
niên rất hạn chế. Tuy nhiên, gia đình vẫn là quan trọng nhất. Một thẩm
phán nói: “Đưa những bị cáo tuổi đời còn quá trẻ ra xét xử như thế này,
chúng tôi rất đau lòng. Nhưng buồn nhất là khi ra tòa, các bậc phụ
huynh vẫn chưa thấy hết trách nhiệm của mình trong việc giáo dục con
cái, cũng không thấy mức độ nghiêm trọng của vụ việc. Để rồi, khi nghe
con bị tuyên án bao nhiêu năm tù, họ mới giật mình nhận ra, thì lý lịch
của đứa trẻ đã kịp có vết nhơ rồi ”.
II. Vai trò của luật sư trong việc giải quyết các vụ án có người chưa
thành niên phạm tội.
1. Vai trò của Luật sư khi tham gia vụ án có người chưa
thành niên phạm tội :
Trong các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên bắt
buộc phải có sự tham gia của người bào chữa. Quy định này vừa thể
hiện tính dân chủ của hoạt động tố tụng vừa là một điều kiện bảo đảm
hiệu quả của quá trình giải quyết các vụ án hình sự, bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên phạm tội.
Do đó khi tham gia với tư cách là người bào chữa vào quá trình
giải quyết các vụ án hình sự mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên,

ngoài những kỹ năng chung nếu luật sư còn biết vận dụng những kỹ
năng đặc thù thì hoạt động bào chữa của luật sư trong các vụ án đặc thù
mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên thì công việc bào chữa của
14
luật sư sẽ đạt hiệu quả cao hơn và sẽ bảo vệ được quyền và lợi ích hợp
pháp của họ một cách tốt nhất.
Trong bất kỳ vụ án nào và đặc biệt là trong vụ án bị can là người
chức thành niên, việc bị can hoặc gia đình bị can mời luật sư bào chữa
ngay trong giai đoạn điều tra thể hiện sự bức xúc của chính bị can hoặc
gia đình bị can. Họ muốn nhận được sự trợ giúp pháp lý của luật sư
thông qua sự tư vấn, khuyên nhủ và giúp đỡ thực hiện những công việc
cụ thể mà bản thân họ không thể thực hiện được. Vì vậy việc tiếp xúc
với gia đình bị can, bản thân bị can là rất quan trọng. Trước hết sự tiếp
xúc này giải tỏa về mặt tâm lý cho bị can rằng trong những lúc khó khăn
nhất khi đang bị khởi tố điều tra họ vẫn có gia đình, có luật sư là người
am hiểu pháp luật bên cạnh động viên, an ủi giúp đỡ. Sau nữa, sự tiếp
xúc giữa luật sư với bị can, gia đình bị can còn làm cho người thân của
bị can an tâm hơn, không sợ bị can bị oan sai hoặc bị bức, ép trong quá
trình hỏi cung từ phía cơ quan điều tra và điều tra viên. Mục đích của
việc tiếp xúc với bị can và gia đình bị can là để luật sư thu nhận về
những thông tin về sự việc đã xảy ra, về nhân thân bị can và về những
vấn đề khác như hoàn cảnh gia đình, mối quan hệ cuả bị can với gia
đình và bạn bè ở trường học hoặc nơi cư trú. Qua đó để thu thập được
những thông tin chính xác, luật sư cần phải có thái độ cởi mở, chân tình,
cảm thông chia sẽ với bị can và gia đình bị can. Đối với những bị can là
người lớn, người đã thành niên nếu không có sự hợp tác của bị can, gia
đình bị can, luật sư có thể ngay lập tức từ chối bào chữa, nhưng đối với
bị can là người chưa thành niên thì luật sư không được làm như vậy mà
nếu gặp tình huống này bằng kinh nghiệm sống, kinh nghiệm nghề
nghiệp và kiến thức pháp luật, luật sư cần thuyết phục bị can cung cấp

15
những thông tin chính xác, khai ra các đồng phạm khác (nếu điều đó
không làm xấu đi tình hình của bị can), thuyết phục gia đình sớm khắc
phục hậu quả, chủ động gặp gỡ, thoả thuận với bên bị hại để sau này
được hưởng tình tiết giảm nhẹ. Người chưa thành niên là những người
trong độ tuổi mà tâm lý chưa ổn định , luôn cần sự tác động nhẹ nhàng,
tình cảm vì vậy nếu có luật sư am hiểu về tâm sinh lý với họ thì họ dễ
dàng khai báo sự thật và điều này giúp cho luật sư có những luận cứ
chính xác trong việc xây dựng bài bào chữa của mình theo hướng có lợi
nhất cho họ.
Theo quy định của tố tụng hình sự, sự tham gia của luật sư, người
bào chữa trong các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên là
bắt buộc. Điều này có nghĩa là, sau khi một người chưa thành niên bị
khởi tố bị can nếu bị can hoặc gia đình bị can không mời luật sư bào
chữa thì cơ quan tiến hành tố tụng mà cụ thể là cơ quan điều tra có
nghĩa vụ yêu cầu Đoàn luật sư cử luật sư bào chữa cho bị can. Tuy
nhiên, trong thực tế ở nước ta hiện nay, nhiều trường hợp khi vụ án
chuyển sang toà án thì Toà án mới yêu cầu cử luật sư, còn trong giai
đoạn điều tra, truy tố, bị can không có luật sư bào chữa. Vì vậy trong
mọi trường hợp, luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa
cho bị can, bị cáo khi có một trong hai điều kiện:
- Bị can, bị cáo hoặc gia đình bị can, bị cáo mời
- Đoàn luật sư chỉ định trên cơ sở đề nghị của cơ quan tiến hành
tố tụng .
Sự tham gia của luật sư trong tố tụng hình sự là rất cần thiết, bằng
hoạt động của mình, luật sư giúp bị can, bị cáo là người chưa thành niên
thực hiện tốt hơn nữa quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp
16
luật, đồng thới giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết và xử lý vụ án
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Nhìn chung vai trò của luật sư trong các giai đoạn khác nhau của
tố tụng hình sự có sự tương đồng. Dù tham gia ở thời điểm nào, trong
giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, xét xử sơ thẩm hay phúc thẩm thì
việc đầu tiên của luật sư là nghiên cứu lại toàn bộ các quy định mà pháp
luật Hình sư và Tố tụng hình sự về trách nhiệm hình sự của bị can, bị
cáo là người chưa thành niên phạm tội và trình tự, thủ tục giải quyết các
vụ án hình sự mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội. Các
quy định trên đây là căn cứ pháp lý để các cơ quan tiến hành tố tụng giải
quyết vụ án đồng thời cũng là căn cứ pháp lý để luật sư thực hiện nhiệm
vụ bào chữa của mình. Góp phần hạn chế các vi phạm pháp luật.
Trong các hoạt động tố tụng, quá trình điều tra vụ án hình sự có
những đặc thù riêng so với các hoạt động tố tụng khác. Đối với những
vụ án mà người chưa thành niên phạm tội ngoài những đặc thù riêng so
với các hoạt động tố tụng khác, còn có các đặc thù về trong thủ tục tố
tụng và một số nét đặc trưng riêng của vụ án này. Những đặc thù của
giai đoạn này có ảnh hưởng, tác động nhất định đến hoạt động bào chữa
được bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can
và kết thúc khi cơ quan này ra quyết định đình chỉ điều tra theo quy
định tại Điều 164 BLTTHS hoặc làm bản kết luận điều tra, đề nghị truy
tố theo các quy định. So với các giai đoạn khác, hoạt động bào chữa
trong giai đoạn này có những đặc điểm riêng, đó là không có sự cọ xát
chứng cứ trực tiếp giữa bên buộc tội với bên gỡ tội như ở giai đọan xét
xử sơ thẩm hay phúc thẩm. Những thông tin, tài liệu, chứng cứ làm cơ
sở cho cho việc xác định sự thật vụ án đối với luật sư không nhiều
17
nhưng những thông tin tài liệu chứng cứ đó lại rất quan trọng đối với
việc bảo vệ quyền lợi cho bị can. Do vậy luật sư phải biết tập trung thời
gian, công sức trí tuệ để nghiên cứu đánh giá tính hợp pháp, tính có căn
cứ của những quyết định, những biên bản về hoạt động điều tra trong
giai đoạn này, kịp thời đưa ra những kiến nghị phù hợp như triệu tập

thêm người làm chứng, huỷ bỏ, thay thế các biện pháp ngăn chặn.
Ngoài ra luật sư còn phải kiểm tra xem xét việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn đối với bị can, bị cáo có đúng quy định của pháp luật không
nhất là biện pháp tạm giam.
Trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự có bị can là người chưa
thành niên, cơ quan điều tra hầu như không lưu giữ trong bản hồ sơ bản
sao giấy khai sinh của bị can, chính vì vậy, việc xác định trách nhiệm
của bị can đôi khi không được chính xác. Khi tiếp xúc với gia đình bị
can, luật sư cần tìm hiểu chính xác ngày, tháng, năm sinh của bị can.
Trong nhiều trường hợp, một việc làm tưởng như đơn giản này lại có
tác dụng rất lớn, nó có thể dẫn đến việc đình chỉ vụ án, thay đổi biện
pháp ngăn chặn áp dụng cho bị can từ nghiêm khắc sang ít nghiêm khắc
hơn. Song song với quy định bị can là người chưa thành niên phải có
luật sư bào chữa, pháp luật tố tụng hình sự còn quy định về vai trò của
người giám hộ, người đại diện hợp pháp của bị can. Những người này
phải có mặt khi hỏi cung bị can và các bản hỏi cung của bị can chỉ có
giá trị pháp lý khi có chữ ký của ngưới giám hộ, người đại diện hợp
pháp kèm theo các chữ ký của bị can và điều tra viên. Xuất phát từ các
quy định trên, qua tiếp xúc với gia đình bị can, luật sư có thể thoã thuận
với người giám hộ, người đại diện hợp pháp của bị can. Cũng qua việc
tiếp xúc với gia đình bị can, luật sư có kế hoạch cụ thể tìm hiểu về nhân
18
thân của bị can, về những mối quan hệ của bị can với các bạn cùng
trường, cùng nơi cư trú. Trong trường hợp cần thiết luật sư phải tìm
hiểu ai là người xúi giục, mua chuộc, lôi kéo bị can thực hiện hành vi
phạm tội.
2. Vai trò Luật sư trong các giai đoạn tố tụng hình sự khi
tham gia vụ án có người chưa thành niên phạm tội :
Luật sư có vai trò quan trọng trong giai đoạn điều tra. Thông qua
việc thực hiện các quyền năng tố tụng của mình theo quy định của pháp

luật luật sư góp phần tích cực vào việc giúp cơ quan điều tra thu thập
chứng cứ của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, không
chỉ làm rõ những chứng cứ có tội, tình tiết tăng nặng mà đặc biệt còn
làm rõ những chứng cứ vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự cho bị can, hạn chế được oan sai và vi phạm tố tụng trong quá
trình điều tra, tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng,
kịp thời, đúng pháp luật.
Vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử, khác với giai đoạn
điều tra, giai đoạn xét xử xác định dứt điểm bị cáo có tội hay không có
tội và mức hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội đó, được xác
định tại Điều 9 BLTTHS.
Trong gia đoạn xét xử sơ thẩm luật sư có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo là người
chưa thành niên phạm tội. Những sai lầm dù nhỏ nhất trong quá trình
điều tra, truy tố hoặc xét xử, nếu không được phát hiện cũng có thể dẫn
đến việc kết tội oan sai, ảnh hửng đến quyền lợi của bị cáo. Do vậy luật
sư trong giai đoạn xét xử góp phần thiết thực vào việc giúp cơ quan tiến
19
hành tố tụng xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền và lợi
ích của bị cáo, giúp Toà án ra một bản án có căn cứ, hợp pháp và có sức
thuyết phục. Vai trò của luật sư trong giai đọan xét xử sơ thẩm thể hiện
rõ nét nhất thông qua việc tham gia phiên toà xét xử. Tuy nhiên, để
tham gia phiên toà có hiệu quả trong giai đoạn xét xử sơ thẩm luật sư
phải biết vận dụng những kỹ năng, quyền hạn của mình trong khuôn
khổ của pháp luật để bảo vệ bị cáo.
Trong phần thủ tục bắt đầu phiên toà, luật sư phát hiện những
tình tiết có lợi cho bị cáo, nếu phát hiện có căn cứ để thay đổi kiểm sát
viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký phiên toà, người giám định,
người phiên dịch, thì luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và quyết
định nếu những người này tiến hành hoặc tham gia sẽ làm cho việc giải

quyết vụ án không khách quan hoặc không đúng quy định của pháp luật
tố tụng đối với người chưa thành niên quy định tại Điều 307 BLTTHS.
Pháp luật tố tụng hình sự của nước ta quy định điều tra viên, kiểm sát
viên, thẩm phán tiến hành tố tụng đối với những vụ án người chưa thành
niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học,
về khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh và phòng chống
tội phạm của những người chưa thành niên. Tuy nhiên, trong thực tiễn
quy định trên đây khó được áp dụng bởi khả năng đang còn rất hạn chế
của điều tra viên, thẩm phán về lĩnh vực nêu trên. Vì vậy việc đề nghị
những người tiến hành tố tụng có được trình độ về tâm ly, giáo dục
nhận trách nhiệm giải quyết vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên là
rất kho. Thế nhưng luật sư hoàn toàn có thể yêu cầu toà án thành lập
Hội đồng xét xử trong đó có hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc là cán
bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Trong phần thủ tục bắt đầu
20
phiên toà luật sư còn xem xét xem phiên toà xét xử hôm nay có mặt
ngừơi đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo không, nếu người này vắng
mặt do sư sai xót của cơ quan tiến hành tố tụng không triệu tập hoặc vì
lý do nào khác mà không phải do người đại diện hợp pháp của gia đình
của bị cáo cố ý vắng mặt thì cũng có thể đề nghị Hội đồng xét xử hoãn
phiên tòa. Trường hợp tại phiên toà vắng mặt người làm chứng mà sự
vắng mặt của họ không có lợi cho bị cáo mà mình bảo vệ thì đề nghị
Hội đồng xét xử hoãn phiên toà.
Trong phần xét hỏi tại phiên toà, luật sư theo dõi, phát hiện
những điểm quan trọng có liên quan đến việc bảo vệ cho bị cáo, những
tình tiết có mâu thuẫn với các chứng cứ khác trong vụ án hoặc những
tình tiết không phù hợp với thực tế khách quan của vụ án cần được làm
rõ. Từ đó luật sư đặt câu hỏi nhằm làm rõ những tình tiết có lợi cho bị
cáo mà mình bảo vệ. Có thể yêu cầu Hội đồng xét xử cách ly bị cáo với
bị cáo khác(nếu thấy cần thiết). Luật sư có thể hỏi đại diện gia đình, nhà

trường để làm rõ nguyên nhân, điều kiện học tập, sinh hoạt của bị cáo.
Luật sư cũng có thể đề nghị Hội đồng xét xử cho phép đại diện gia đình,
nhà trường được trình bày các chứng cứ, đưa ra các yêu cầu. Đồng thời
đề nghị với Hội đồng xét xử hỏi thêm những tình tiết cần làm sáng tỏ
trong vụ án, trình bày nhận xét của mình về vật chứng của vụ án được
đưa ra xem xét tại phiên toà, nhân xét về kết luận giám định và hỏi
những vấn đề chưa rõ hoặc còn mâu thuẫn trong kết luận giám định,
những vấn đề cần làm rõ khi xác định tội danh và quyết định hình phạt
đối với bị cáo.
Vì người chưa thành niên thường là người chưa quen ứng xử
trong nhữnh chỗ đông người đặc biệt là trước công đường, vì vậy trước
21
khi mở phiên toà xét xử với những hiểu biết về tâm lý luật sư gặp lại bị
can động viên, an ủi và giúp họ chuẩn bị tốt tinh thần là điều rất quan
trọng đối với họ. Thường những người chưa thành niên là những người
phạm tội lần đầu, khi bị đưa ra xét xử thì hay hoang mang, thậm chí sợ
hãi, có khi quên hết diễn biến vụ án và những điều đã khai ở giai đoạn
điều tra. Luật sư sẽ động viên giúp họ nhớ lại nội dung khai trước đây
để trả lời tại phiên toà thống nhất với lời khai tại giai đoạn điều tra cũng
như trước Viện kiểm sát ở giai đoạn truy tố. Luật sư có thể cho bị can
biết được những chứng cứ bất lợi cho bị can và hướng dẫn cách lập luận
để bác lại các chứng cứ khi đối chất tại toà.
Trong việc tranh luận tại phiên toà luật sư cũng có vai trò quan
trọng, sau khi kiểm sát viên trình bày lời buộc tội. Luật sư được trình
bày quan điểm của mình để bảo vệ bị cáo. Có thể nói, quyền tranh luận
tại phiên toa là phương tiện để luật sư tiến hành phân tích, đưa ra luận
cứ có tính thuyết phục để bảo vệ bị cáo. Tuy nhiên, để việc tham gia
phiên toà có hiệu quả và vai trò của luật sư thể hiện đúng nghĩa thì
ngoài sự hiểu biết về pháp luật một cách sâu sắc, luật sư còn phải có kỹ
năng bào chữa thành thạo, đặc thù trong kỹ năng bào chữa cho bị cáo là

người chưa thành niên so với bị cáo là người đã thành niên tại phiên toà
là phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự về trách nhiệm hình
sự, tái phạm, định tội danh, quyết định hình phạt, các biện pháp tư pháp
và các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục phiên toà áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Tuỳ thuộc vào tính chất
trong từng vụ án cụ thể, luật sư trong lời bào chữa của mình ngoài
những lập luận phản bác lại lời buộc tội của viện kiểm sát nhằm làm
sáng tỏ bản chất của vụ án như trong bất kỳ vụ án nào. Luật sư có thể
22
đưa ra những tình tiết giảm nhẹ khác nhau, liên quan tới hoàn cảnh gia
đình, tâm lý, lứa tuổi, vai trò thứ yếu của bị cáo trong vụ án, nguyên
nhân và điều kiện dẫn tới hành vi phạm tội của bị cáo. Khi tham gia đối
đáp tại phiên toà luật sư phải tận dụng cơ hội đề nghị Hội đồng xét xử
không chấp nhận những chứng cứ buộc tội bị cáo do Viện kiểm sát đưa
ra không có cơ sở. Luật sư phải lắng nghe để có thể đáp lại những ý
kiến mà mình không đồng ý một cách linh hoạt, kịp thời, chính xác trên
cơ sở pháp luật. Từ đó, đề xuất với Hội đồng xét xử có những quyết
định có lợi cho bị cáo như miễn trách nhiệm hình sự , miễn hình phạt áp
dụng điều luật khác nhẹ hơn mức tối thiểu của khung hình phạt, áp dụng
hình phạt không phải là tù, áp dụng án treo. Những tình tiết này có ý
nghĩa rất lớn trong việc xem xét và quyết định hình phạt đối với bị cáo.
Khi tuyên án, luật sư theo dõi và ghi lại những nhận định của Hội
đồng xét xử về tội danh và hình phạt, quyết định của bản án có liên
quan đến bị cáo mà mình bảo vệ để có thể giúp bị cáo kháng cáo nếu
không đồng ý với bản án sơ thẩm mà Toà án đã tuyên đối với bị cáo.
Sau khi tuyên án, luật sư cũng có thể xem biên bản phiên toà trường hợp
phát hiện biên bản phiên toà có những điểm ghi không đúng, luật sư yêu
cầu toà án sửa chữa cho phù hợp với diễn biến của phiên toà.
Khác với các vụ án bị can, bị cáo là người đã thành niên, trong vụ
án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên, sau phiên toà sơ thẩm

hay pháuc thẩm,công việc bào chữa của luật sư chưa thể coi là kết thúc.
Là người bào chữa luật sư có quyền kháng cáo độc lập theo quy định tại
điều 231 BLTTHS đề nghị toà án cấp trên trực tiếp xét lại vụ án theo
trình tự phúc thẩm. Viết đơn khiếu nại đối với bản án, quyết định của
cấp phúc thẩm nếu không thoả mãn với nội dung của chúng. Luật sư
23
cũng có thể kiến nghị đối với các cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết
định những vấn đề có liên quan tới việc thi hành án, giảm và miễn thời
hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích hoặc khôi phục lại những quyền và
lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên mà theo quy định của pháp
luật họ được hưởng.
****
24
KẾT LUẬN
Trong xã hội khi mà tính nghiêm minh của pháp luật được thừa
nhận thì vai trò của luật sư càng được xã hội công nhận và tôn trọng.
Vai trò của Luật sư càng trở nên quan trọng hơn khi tham gia bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và nhất là bị can, bị cáo là
người chưa thành niên.
Nghiên cứu đề tài này, tôi nhận thấy Nhà nước đặc biệt quan tâm
đến người chưa thành niên phạm tội quy định thành một chương riêng
trong Bộ luật hình sự (chương X), tố tụng hình sự (chương XXXII)
nhằm điều chỉnh đối tượng đặc biệt này, điều này cũng thể hiện chính
sách riêng của Đảng và nhà nước đối với người chưa thành niên phạm
tội. Luật sư là người có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên khi họ là bị can, bị cáo
trong vụ án hình sự. Một đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt do đặc
điểm tâm sinh lý chưa hoàn chỉnh nên khi tham gia phiên toà hình sự
Luật sư phải thay mặt thân chủ để nói lên những điều họ muốn nói,
đồng thời trình bày cho hội đồng xét xử biết những diễn biến tâm lý bất

thường của lứa tuổi chưa thành niên này.
Khi pháp chế xã hội chủ nghĩa đã đi vào cuộc sống hàng ngày của
mọi người. Điều đó cũng là tính nghiêm minh, tôn trọng pháp luật ngày
càng được đặt thành vấn đề quan trọng trong sinh hoạt thường nhật thì
luật sư càng có vai trò quan trọng, đặc biệt quan trọng trong bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo và nhất là người chưa thành niên
25

×