Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

kinh tế việt nam giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535 KB, 70 trang )

I- TỔNG QUAN:
1. Vị trí địa lý
Vị trí địa lý: Việt Nam có diện tích 327.500 km
2
, đường bờ biển dài 3.260 km
và đường biên giới trên đất liền dài 4.550 km, phía Bắc tiếp giáp với Trung
Quốc, phía Tây tiếp giáp với Lào và Campuchia; phía Đông giáp biển Đông.
Việt Nam là trung tâm của khu vực Đông Nam Á.
2. Điều kiện tự nhiên
2.1. Địa hình
Bao gồm đồi núi, đồng bằng, bờ biển và thềm lục địa. Địa hình thấp dần
theo hướng Tây Bắc - Đông Nam.
Đồi núi chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ, chủ yếu là đồi núi thấp. Đồi núi Việt
Nam tạo thành một cánh cung lớn hướng ra Biển Đông, chạy dài 1.400 km, từ
Tây Bắc tới Đông Nam Bộ.
Đồng bằng chỉ chiếm ¼ diện tích trên đất liền và bị đồi núi ngăn cách
thành nhiều khu vực. Nước ta có hai đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu là đồng
bằng sông Hồng (rộng 16.700 km2) và đồng bằng sông Cửu Long (rộng 40.000
km2) và có nhiều đồng bằng nhỏ hẹp khác.
Việt Nam có một mạng lưới sông ngòi dày đặc, chảy theo hai hướng
chính là tây bắc- đông nam và vòng cung.
2.2 Khí hậu:
Việt Nam quanh năm có nhiệt độ cao và độ ẩm lớn. Khí hậu nhiệt đới gió
mùa ẩm không thuần nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam, hình thành nên các miền
và vùng khí hậu khác nhau rõ rệt.
Việt Nam có thể được chia ra làm hai đới khí hậu lớn: (1) Miền Bắc (từ
đèo Hải Vân trở ra) là khí hậu nhiệt đới gió mùa, với 4 mùa rõ rệt, chịu ảnh
hưởng của gió mùa Đông Bắc và gió mùa Đông Nam . (2) Miền Nam (từ đèo
Hải Vân trở vào) do ít chịu ảnh hưởng của gió mùa nên khí hậu nhiệt đới khá
điều hòa, nóng quanh năm và chia thành hai mùa rõ rệt (mùa khô và mùa mưa).
Bên cạnh đó, có nơi có khí hậu ôn đới như tại Sa Pa, tỉnh Lào Cai; Đà


Lạt, tỉnh Lâm Đồng; có nơi thuộc khí hậu lục địa như Lai Châu, Sơn La. Đây là
những địa điểm lý tưởng cho du lịch, nghỉ mát.
Việt Nam có lượng bức xạ mặt trời rất lớn với số giờ nắng từ 1.400 -
3.000 giờ/năm. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.500 đến 2.000 mm. Độ
ẩm không khí trên dưới 80%.
3. Tài nguyên thiên nhiên
Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú bao gồm:
3.1 Tài nguyên đất:
Việt Nam có trên 39 triệu ha đất tự nhiên, diện tích đất đã sử dụng vào
các mục đích kinh tế - xã hội là 18,881 triệu ha, chiếm 57,04% quỹ đất tự nhiên,
trong đó đất nông nghiệp chiếm 22,20% diện tích đất tự nhiên và 38,92% diện
tích đất đang sử dụng. Hiện còn 14,217 triệu ha đất chưa sử dụng, chiếm
43,96% quỹ đất tự nhiên.
3.2 Tài nguyên nước:
Nước ta có mạng lưới sông ngòi dày đặc. Tổng lượng dòng chảy của tất
cả các con sông chảy qua lãnh thổ Việt Nam là 853 km
3
, trong đó tổng lượng
dòng chảy phát sinh trên nước ta chỉ có 317 km
3
.
Nước ta có trữ lượng nước ngầm phong phú.Ở vùng đông bằng châu thổ,
nước ngầm ở độ sâu từ 1 – 200m, ở miền núi nước ngầm thường ở độ sâu 10 –
150m, còn ở vùng núi đá vôi nước ngầm ở độ sâu khoảng 100m. Nước ta cũng
đã phát hiện được 350 nguồn suối khoáng, trong đó có 169 nguồn nước có nhiệt
độ trên 30
0
C.
3.3 Tài nguyên biển:
Việt Nam có 3260 km bờ biển, diện tích có khả năng nuôi trồng thuỷ sản

là 2 triệu ha trong đó 1 triệu ha nước ngọt; 0,62 triệu ha nước lợ và 0,38 triệu ha
nước mặn. Phần lớn diện tích này đã được đưa vào sử dụng để khai thác hoặc
nuôi trồng thuỷ sản.
Biển nước ta còn có 2.028 loài cá biển, trong đó có 102 loài có giá trị
kinh tế cao, 650 loài rong biển, 300 loài thân mềm, 300 loài cua, 90 loài tôm,
350 loài san hô… Biển nước ta có trữ lượng cá khoảng 3,6 triệu tấn, tầng trên
mặt có trữ lượng 1,9 triệu tấn, tầng đáy có trữ lượng 1,7 triệu tấn. Ngoài ra còn
có 40.000 ha san hô ven bờ, 250.000 ha rừng ngập mặn ven biển có sự đa dạng
sinh học cao. Trong đó có 3 khu sinh quyển thế giới là: vườn quốc gia Xuân
Thủy (Nam Định), rừng Sác Cần Giờ (TP. Hồ Chí Minh) và vườn quốc gia Cát
Bà (hải Phòng). Đồng thời nước ta còn có 290.000 ha triêu lầy, 100.000 ha đầm
phá.
3.4 Tài nguyên rừng:
Nước ta có tới 3/4 diện tích là đồi núi và rừng che phủ hơn 30% diện tích.
Rừng Việt Nam là kho tài nguyên quí báu, là bộ phận quan trọng của môi
trường sinh thái, rừng làm cho không khí trong lành, điều hoà khí hậu.
Độ che phủ của rừng cao và hợp lý làm giảm dòng chảy mặt ngay sau
mưa, làm chậm lũ, điều hoà dòng chảy giữa mùa mưa và mùa khô
Việt Nam có hơn 100 khu bảo tồn thiên nhiên. Để nâng cao độ che phủ
của rừng, Chính phủ đang tiến hành giao trên 1 triệu ha đất lâm nghiệp cho các
hộ gia đình cá nhân, hơn 5 triệu ha cho các tổ chức kinh tế xã hội để quản lý.
Nhờ việc cấm khai thác rừng tự nhiên để xuất khẩu gỗ, trong thời gian quan độ
che phủ rừng đã bước đầu lên.
3.5 Tài nguyên khoáng sản:
Nước ta có nguồn tào nguyên khoáng sản phong phú đa dạng, đó là điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế.
Các loại khoáng sản có quy mô lớn :
- Sắt: phân bố ở phía bắc Thái Nguyên, Cao Bằng, Hà Giang, ven sông Hồng .
- Than: chủ yếu là ở Quảng Ninh, Thái Nguyên
- Apatit: có nhiều ở Lào Cai

- Boxit : tập trung nhiều ở Nam Việt Nam .
- Thiếc: ở Tĩnh Túc - Cao Bằng
- Ðá vôi: ở miền Bắc, miền Trung có trữ lượng lớn và miền Nam
- Cát thủy tinh: phân bố dọc theo bờ biển từ Quảng Bình đến Bình Thuận
- Dầu mỏ: tập trung trong các trầm tích trẻ tuổi ở đồng bằng ven biển và thềm
lục địa.
3.6 Tài nguyên du lịch
Núi non đã tạo nên những vùng cao có khí hậu rất gần với ôn đới, nhiều
hang động, ghềnh thác, đầm phá, nhiều điểm nghỉ dưỡng và danh lam thắng
cảnh như: Sa Pa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Đà Lạt (Lâm Đồng), núi Bà
Đen (Tây Ninh) Di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng
Bình) ; thác Bản Giốc (Cao Bằng), hồ Ba Bể (Bắc Kạn), hồ thuỷ điện Sông Đà
(Hoà Bình - Sơn La), hồ thuỷ điện Trị An (Đồng Nai),, vịnh Hạ Long (Quảng
Ninh, đã hai lần được UNESCO công nhận là di sản của thế giới), Côn Đảo (Bà
Rịa - Vũng Tàu), đảo Phú Quốc (Kiên Giang) Với 3.260 km bờ biển có 125
bãi biển, trong đó có 16 bãi tắm đẹp nổi tiếng như: Trà Cổ, Bãi Cháy (Quảng
Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò (Nghệ An), Lăng
Cô (Thừa Thiên Huế), Non Nước (Đà Nẵng), Nha Trang (Khánh Hoà), Vũng
Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu)
Việt Nam có trên bảy nghìn di tích (trong đó khoảng 2.500 di tích được
nhà nước xếp hạng bảo vệ) lịch sử, văn hoá, dấu ấn của quá trình dựng nước và
giữ nước, như đền Hùng, Cổ Loa, Văn Miếu Đặc biệt quần thể di tích cố đô
Huế, phố cổ Hội An và khu đền tháp Mỹ Sơn đã được UNESCO công nhận là
Di sản Văn hoá Thế giới. Hàng nghìn đền, chùa, nhà thờ, các công trình xây
dựng, các tác phẩm nghệ thuật - văn hoá khác nằm rải rác ở khắp các địa
phương trong cả nước là những điểm tham quan du lịch đầy hấp dẫn.
4. Đặc điểm về dân cư, xã hội:
4.1. Dân cư:
 Đông dân, nhiều thành phần dân tộc:
- Số dân: 84.156 nghìn người (2006)

- Dân tộc: 54, trong đó dân tộc Kinh chiếm khoảng 86,2%
 Cơ cấu dân số trẻ:
- 0-14 tuổi : 27%
- 15-59 tuổi: 64%
- >= 60 tuổi: 9%
(2005)
 Phân bố dân cư không đều giữa các vùng, chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng.
 Phân bố dân cư không đều giữa thành thị và nông thôn.
4.2. Chính trị:
 Trong cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay có thể phân
biệt ba loại thiết chế là:
- Tổ chức chính trị (Đảng cộng sản Việt Nam), Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam;
- Tổ chức chính trị - xã hội: Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng như
Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ, Công đoàn, Hội nông dân, Hội cựu
chiến binh; và một số tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp như Liên hiệp các
hội khoa học, kĩ thuật Việt Nam, Liên hiệp các hội hữu nghị Việt Nam, Hội nhà
báo Việt Nam
- Tổ chức xã hội: Các hiệp hội kinh tế, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và các tổ
chức xã hội khác
 Về tình hình chính trị của Việt Nam tương đối ổn định, đây là điều kiện quan
trọng giúp các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài tập
trung đầu tư phát triển kinh tế một cách thuận lợi.
4.3. Giáo dục
Nước ta đã và đang đặt mục tiêu Giáo dục – Đào tạo là một trong những quốc
sách hàng đầu. Chúng ta đã xây dựng nhiều trường Đại học, Cao đẳng, các
trường dạy nghề nhằm tạo ra nguồn lao động có hiệu quả. Hiện nay có khoảng
412 trường ĐH, CĐ. Hàng năm Bộ giáo dục vẫn tiến hành cải cách giáo dục để
ngày một hoàn thiện và có sự đồng bộ trong hệ thống giáo dục của cả nước .
4.4. Y Tế

Nước ta chú trọng đến vấn đề chăm sóc y tế. Chúng ta xây dựng nhiều bệnh
viện, trạm y tế ngày càng có chất lượng tốt với đội ngũ cán bộ y tế được đào tạo
chuyên sâu với hy vọng ngày càng phục vụ tốt nhất cho người dân.
4.5. Giao thông
Mạng lưới giao thông ngày càng dày đặc, hiện đại và được hoàn thiện hơn.
Nước ta xây dựng nhiều cảng biển thuận lợi cho việc giao thương.
5. ĐẶC ĐIỂM VỀ KINH TẾ
5.1. Tổng quan về kinh tế Việt Nam
Kinh tế VN đang phát triển theo hướng tự do hóa kinh tế và hội nhập kinh
tế quốc tế. Chính phủ đã thực hiện các biện pháp tái cấu trúc cần thiết nhằm
hiện đại hóa nền kinh tế và xây dựng nhiều ngành công nghiệp có khả năng
cạnh tranh và hướng vào xuất khẩu. Tính đến nay Việt Nam đã gia nhập vào
nhiều tổ chức quốc tế như: ASEAN, ASEM, OPEC, WTO…
Các nhà đầu tư coi Việt Nam là điểm đầu tư hấp dẫn nhất trong khu vực.
Chúng ta nhận được sự đầu tư từ rất nhiều nguồn vốn: ODA, FDI, FII,…
Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đó là điều kiện thuận
lợi giúp chúng ta tận dung lợi thế của mình để phát triển kinh tế. Cơ cấu kinh tế
đang có sự dịch chuyển theo hướng: tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và
dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông .
5.2. Kinh tế VN trong thời kì trước khi đổi mới (trước 1986)
 Thực trạng kinh tế:
a, Cải tạo và phát triển nông nghiệp
Ở Miền Bắc:
Năm 1976-1980: các HTX tổ chức lại sản xuất theo hướng tập trung chuyên
môn hóa và cơ giới hóa. Tuy nhiên, bộ máy quản lý cồng kềng làm cho sản xuất
kém hiệu quả.
Năm 1981-1985: sản xuất nông nghiệp tăng gần 40% do tác động của khoán.
Ở Miền Nam: Khắc phục hậu quả chiến tranh, CP điều chỉnh ruộng đất, đưa
nông dân vào HTX và cách thức quản lý cũng như ở MB. Tuy nhiên ở miền
Nam tiến hành “hợp tác hóa đi đôi với thủy lợi hóa và cơ giới hóa”. Trong

khi đó ở miền Bắc thì “hợp tác hóa đi trước cơ giới hóa”.
b, Đối với cải tạo và phát triển công nghiệp
-Cải tạo đối với công nghiệp tư bản tư doanh: ở MN, công tác này khó hơn ở
MB vì giai cấp tư sản có thực lực kinh tế và kinh nghiệm hoạt động hơn MB.
Tuy nhiên việc cải tạo này đã được đẩy nhanh hơn thông qua các hình thức
quốc hữu hóa và chuyển thành xí nghiệp quốc doanh.
-Cải tạo tiểu thủ công nghiệp: Tính đến cuối năm 1985, số cơ sở sản xuất tiểu
thủ công nghiệp ở MN là 2937 HTX chuyên nghiệp; 10124 tổ sản xuất chuyên
nghiệp; 3162 HTX nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp và 920 hộ tư nhân cá
thể.
Nhà nước đã đầu tư nhiều vào các ngành công nghiệp. Do vậy giá trị tổng sản
lượng công nghiệp năm 1985 tăng 58% so với năm 1976. Tuy nhiên sản xuất
công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu trong nước.
-Củng cố QHSX trong các xí nghiệp quốc doanh: 21/1/1981: Hội đồng chính
phủ ban hành quyết định 25/CP về một số chủ trương và biện pháp nhăm phát
huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của
XNQD.
c, Đối với giao thông vận tải và bưu điện
Trong 10 năm (1976-1985), Nhà nước đã đầu tư cho ngành GTVT là 16,6% số
vốn của đầu tư nhưng hiệu quả của đầu tư thấp do cơ cấu đầu tư bất hợp lý, ko
đáp ứng đc nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân.
Trong ngành bưu điện, cơ sở vật chất cũng tăng lên đáng kể. Số trung tâm bưu
điện tăng 2,2 lần. Từ 34 cơ sở năm 1976 lên đến 75 cơ sơ năm 1985. Dù vậy
trình độ của ngành thông tin liên lạc vẫn vô cùng thấp kém. Điển thoại chỉ dùng
trong các công sở là chủ yếu.
d, Đối với thương nghiệp và tài chính tiền tệ
Về thương nghiệp: Đảng đã chủ trương “xóa bỏ ngay thương nghiệp tư bản tư
doanh” và “tổ chức lại thương nghiệp nhỏ, chuyển phần lớn tiểu thương sang
sản xuất” thông qua các biện pháp kiểm kê, tịch thu hàng hóa, đánh thuế.Đến
năm 1978 thì cuộc cải tạo này cơ bản được hoàn thành.

Về tài chính tiền tệ giữa 2 miền, 5/1978, chính phủ đã cho phát hành tiền trong
cả nước quy định mức giá thống nhất đối với các hàng hóa nhu yếu phẩm. Đồng
thời Nhà nước còn thực hiện chính sách 2 giá (giá cung cấp và giá kinh doanh)
đối với các mặt hàng bán lẻ khác.
Tuy nhiên chỉ số giá cả tăng lên nhanh chóng do cung cầu hàng hóa trên thị
trường mất cân đối làm cho lạm phát càng trầm trọng. Trước tình hình đó Hội
Nghị TW 8 khóa V (6/1985) đã đề ra chủ trương điều chỉnh giá-lương-tiền với
nội dung chủ yếu là xóa bỏ ba cấp trong giá-lương-tiền, điều chỉnh mặt giá bằng
làm cho giá cả phù hợp hơn với giá trị và sức mua đồng tiền.
Mặc dù có những cải cách bộ phận trong thời kì này nhưng nền kinh tế vẫn tiếp
tục lâm vào tình trạng khó khăn. Hàng hóa thiếu, giá cả tăng nhanh, tiền lương
thực tế giảm.
Mở trộng quan hệ kinh tế đối ngoại:
Tháng 7/1978 Việt Nam gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV). Thời kì
này ngoại thương tăng 4,7 lần, mức tăng buôn bán bình quân là 16,9%, xuất
khẩu tăng nhanh hơn nhập khẩu (18,5% so với 16,4%)
5.3. Kinh tế Việt Nam thời kì đổi mới
Tổng quan kinh tế Việt Nam giai đoạn 1986 – 2007:
1, Những thành tựu đạt được từ khi đổi mới 1986 - 2007
a-Kinh tế tăng trưởng liên tục trong nhiều năm
-Từ 1986-1990: tốc độ tăng trưởng bình quân GDP: 3,9%/năm. Giai đoạn này
tốc độ tăng trưởng còn ở mức thấp và chưa ổn định do tác động của chuyển đổi
từ cơ chế cũ sang cơ chế mới, khi Nhà nước xóa bỏ bao cấp thì khu vực kinh tế
quốc doanh và tập thể lâm vào tình trạng khó khăn, trong khi các thành phần ktế
khác chưa phát triển.
Thời gian này các DNNN và HTX gặp nhiều khó khăn khi chế độ bao cấp bị
xóa bỏ dần, kinh tế tư nhân chưa phát triển nên tốc độ tăng là 3,9%/năm.
-Từ 1991-2000 tốc độ tăng trưởng bỉnh quân GDP: 7,4%(trừ năm 1998 và 1999,
GDP tăng trưởng chậm hơn là 5,8% và 4,8% do thiên tai và ảnh hưởng của
khủng hoảng tài chính trong khu vực. Năm 1995 đại tốc độ tăng trưởng cao nhất

là 9,5%)
-Từ năm 2001-2005, tốc độ tăng trưởng bình quân GDP đạt 7,5%: (GDP 2002:
7,04%; 2003: 7,3%; 2004: 7,7% & 2005: 8,4%; 2006: 8,17%; năm 2007: 8,5%)
b- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực.
(Đơn vị: %)
Chỉ tiêu 1986 1995 2000 2005 2006 2007
nông-lâm-
ngư trong
GDP:
38,1 27,2 25 20,5 20,2 20
Công nghiệp
và xây dựng
trong GDP
28,9 28,8 36,7 41 41,6 42
Dịch vụ
trong GDP
33 44 39,8 38,5 38,3 38
Dịch vụ phát triển mạnh đặc biệt trong các ngành kết cấu hạ tầng kinh tế, phát
triển đô thị , ngành vận tải, bưu chính viễn thông.
c- Kinh tế đối ngoại:
+ Quan hệ hợp tác ngày càng được mở rộng, chúng ta đã kí được nhiều hiệp
định song phương và đa phương với các nước và khu vực. Đặc biệt là năm
2000, kí hiệp định song phương với Hoa Kỳ, kim ngạch buôn bán giữa hai nước
khônng ngừng tăng lên, nhất là xuất khẩu của Việt Nam sang Hồng Kông với
một số mặt hàng như thủy hải sản, dệt may, thủ công mỹ nghệ…Ngoài ra chúng
ta đã gia nhập một số tổ chức như: ASEAN, APEC, ASEM, WTO…
+Hoạt động xuất khẩu có tiền bộ vượt bậc, kim ngạch xuất khẩu tăng lên nhanh
chóng:
Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2005-2008
2005 2006 2007 2008

10^6
USD
% 10^6
USD
% 10^6U
SD
% 10^6
USD
%
XUẤT
KHẨU
32447 100 39826 100 48561 100 62700 100
Trong
nước
13893 42,8 16765 42,1 20786 42,8 28200 45,0
Nước
ngoài
18554 57,2 23061 57,9 27776 57,2 34500 55,0
Dầu thô 7387 22,8 8311 20,9 8487 17,5 10330 16,5
NHẬP
KHẨU
36761 100 44891 100 62764 100 80714 100
Trong
nước
23121 62,9 28402 63,3 41247 65,7 52815 65,4
Nước
ngoài
13640 37,1 16489 36,7 21517 34,3 27899 34,6
CÂN ĐỐI -4314 -5065 -14202 -18014
(Nguồn: Tổng cục thống kê)

d- Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 8590 dự án ĐTNN còn hiệu lực với số
vốn đăng kí khoảng 83,1 tỉ USD (riêng năm 20007 thu hút được 20,3 tỉ USD:
cao nhất từ trước đến nay). Trong đó lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỉ
trọng lớn nhất với 5475 dự án với số vốn đăng kí trên 50 tỉ USD, chiếm 66,8%
về số dự án, 61% tổng vốn đăng kí và 86,5% vốn thực hiện. Lĩnh vực lông-lâm-
ngư nghiệp có 993 dự án với số vốn đăng kí hơn 4,4 tỉ USD, chiếm 10,8% số
dự án; 5,37% tổng số vốn đăng kí và 6,9% vốn thực hiện. Lĩnh vực dịch vụ
chiếm 47,7% tông vốn đăng kí của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006)
Hiện đã có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào VN. Trong đó các nước
châu Á chiếm 69%; khối ASEAN chiếm 19% tổng vốn đăng kí. EU chiếm 10%,
châu Mĩ chiếm 5% trong đó Hoa Kì chiếm 3,6%.
+ODA: Hiện có khoảng 50 nhà tài trợ song phương và đa phương cung cấp
ODA cho hầu hết các lĩnh vực ưu tiên phát triển của VN. Tính đến năm 2007,
cộng đồng quốc tế dã cam kết dành cho Việt Nam số vốn với tổng giá trị 36,97
tỉ USD, đã kí kết 26,3 tỉ USD và đã giải ngân 17,9 tỉ USD. Riêng năm 2006-
2007, tông vốn ODA kí kết đạt 6,53 tỉ USD. Tổng vốn ODA giải ngân trong
năm 2007 đạt 2 tỉ USD, vượt 5% so với kế hoạch đề ra và tăng 10% so với năm
2006.
e- Về giáo dục đào tạo
Đã có sự chuyển biến tích cực. Mạng lưới các trường được phát triển với nhiều
hình thức đa dạng (như công lập và dân lập). Hầu hết các xã phường đều có
trường tiểu học và trung học cơ sở; Các ngành nghế đào tạoc được đa dạng hóa
phú hộ với nhu cầu phát triển của kinh tế xã hội. Nhiều trường đại học đang
được trao quyền tự chủ về tài chính… Tính đến hết năm 2006 đã có 35 tỉnh
được cộng nhận phổ cập giáo dục phổ thông trung học.
f- Xóa đói giảm nghèo: tỉ lệ hộ nghèo được giảm liên tục qua các năm
Từ 55% (1989) > 19,9% (1993) > 17,5% (2001) > 14,5% (2002) > 11% (2003)
> 8,3% (2004) > 7%(2005) > kết quả này tính theo chuẩn nghèo cũ; 2006: tỉ lệ
hộ nghèo là 19%; năm 2007 là 14,8% (tính theo chuẩn mới)

2-Những khó khăn hạn chế
+ Nền kinh tế vẫn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn nhỏ bé,
kết cấu hạ tầng kém phát triển, cơ sở vật chất kĩ thuật, chưa xây dựng được bao
nhiêu.
+ Nước ta còn nghèo và kém phát triển nhưng chưa thực hiện tốt cần kiệm trong
sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế và đầu tư phát
triển còn thấp. Nhập siêu qua các năm tăng mạnh. Năm 2007 nhập siêu 12,36 tỉ
USD, tăng gần 35,5% so với năm 2006.
+ Nền kinh tế có mức tăng trưởng khá nhưng năng suất , chất lượng và hiệu quả
còn thấp.
+ Vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế-xã hội còn yếu: khả năng
kiềm chế lạm phát chưa vững chắc, ngân sách không đủ chi, tỷ lệ bội chi ngân
sách còn cao. Lạm phát năm 2006: 6,4%; năm 2007: 12,6%)
+Tình trạng bất công xã hội, tham nhũng buôn lậu. vi phạm kỉ cương còn phổ
biến.
Tổng quan về kinh tế Việt Nam năm 2008:
Ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế toàn cầu, kinh tế Việt Nam 2008 gặp rất nhiều
khó khăn. Mặc dù vậy, nhà đầu tư nước ngoài vẫn “đặt trọn niềm tin” về một sự
phát triển bền vững, tạo ra nhiều giá trị gia tăng tại mảnh đất hình chữ S này.
1. Lạm phát chạm ngưỡng 20%, Chính phủ giảm mục tiêu tăng trưởng
2. Nhật tạm ngừng cấp mới ODA cho Việt Nam
3. Lãi suất ngân hàng tăng cao chưa từng có
Đã có lúc lãi suất ngân hàng lên mức đỉnh 24 - 25%/năm, lãi suất huy động
cũng đạt đỉnh 20%/năm. Nhiều ngân hàng thương mại cho vay cầm chừng,
doanh nghiệp vay vốn khó khăn cả về lãi suất cao lẫn khả năng tiếp cận vốn, tín
dụng tiêu dùng gần như bị cắt bỏ, tốc độ tăng trưởng tín dụng bước vào vùng
thấp nhất trong năm (liên tục tăng dưới 1%/tháng, cả năm ước chỉ tăng khoảng
21% thay vì mức dự kiến khống chế 30%).
Từ cuối tháng 7 đến nay, cùng với cơ chế cho vay mới, sự hỗ trợ của NHNN với
nguồn vốn khả dụng của hệ thống tăng mạnh lên, lãi suất trên thị trường bắt đầu

có đợt thoái trào, lãi suất cho vay tối đa về còn 12,75%/năm và lãi suất huy
động rút về quanh mốc 8%/năm.
4. Giá xăng dầu vận hành theo cơ chế thị trường
5. Công bố gói 1 tỷ USD kích cầu đầu tư
Vào cuối năm nay, kinh tế đất nước có dấu hiệu rơi vào giảm phát, hàng nghìn
doanh nghiệp đối mặt khó khăn, sức mua của người dân chững lại, Chính phủ
đã công bố gói kích cầu 1 tỷ USD (khoảng dưới 1,2% GDP).
Theo Bộ Kế hoạch - Đầu tư, 17.000 tỷ đồng kích cầu này được tập trung vào
những lĩnh vực chịu ảnh hưởng nhiều nhất của cuộc khủng hoảng tài chính.
Công nhân, học sinh, sinh viên, ký túc xá, trường học, nhà ở dành cho công
nhân, sân bay, cầu đường sẽ là những đối tượng, lĩnh vực chính được rót vốn từ
gói kích cầu này.
Gói kích cầu 1 tỷ USD cũng sẽ dùng để hỗ trợ 4% lãi suất cho vay đối với các
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Dự tính, khi gói kích cầu có hiệu lực thực hiện sẽ có
khoảng 420.000 tỷ đồng vốn vay ưu đãi cung cấp cho nền kinh tế; tương tự, nếu
hỗ trợ lãi suất 4% cho các doanh nghiệp, nguồn vốn cần huy động có thể lên
đến 400.000 tỷ đồng.
6. Lần đầu tiên chỉ số giá chứng khoán giảm gần 70% trong một năm
7. Thị trường bất động sản đóng băng
8. “Bão giá” gạo bùng lên vào giữa năm
9. Các tập đoàn kinh tế chịu nhiều chỉ trích
Đầu tư tràn lan ra ngoài ngành,vào những ngành nhiều rủi ro của các tập đoàn
kinh tế với tổng mức huy động vốn quá lớn là nguyên do khiến Bộ Tài chính
trình Chính phủ Nghị định sửa đổi, bổ sung Quy chế quản lý tài chính của công
ty nhà nước và quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác. Theo đó,
các tập đoàn, doanh nghiệp Nhà nước đầu tư ra ngành ngoài không được vượt
quá 30% tổng vốn.
Đặc biệt, việc Tập đoàn Điện lực (EVN) xin trích thưởng hơn 1.000 tỷ đồng,
sau khi vừa đề nghị tăng giá điện lên 20% và trả lại 13 dự án điện cũng đã nhận
nhiều lời chỉ trích của dư luận.

10. Thiên tai gây hại nặng nề đến kinh tế
Tổng thiệt hại do thiên tai, lũ lụt, rét mướt mà các vùng miền trên cả nước phải
chịu trong năm 2008 lên tới hơn 13,3 nghìn tỷ đồng, hàng trăm người thiệt
mạng. Tính riêng đợt mưa lũ lịch sử kỷ lục kéo dài từ 30/10 - 7/11 tại các tỉnh
phía Bắc, thiên tai đã gây thiệt hại hơn 6.300 tỷ đồng, trong đó Hà Nội chiếm
tới 3.000 tỷ đồng.
Cũng trong đợt mưa lũ lịch sử, Hà Nội bị cô lập giữa mênh mông biển nước, lần
đầu tiên các doanh nghiệp bảo hiểm phải chi trả khoản tiền bảo hiểm cho xe ô tô
ngập nước lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng.
Việt Nam: Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu – 2008
( Đơn vị: Triệu USD)
1 Dầu thô 10450
2 Dệt may 9108
3 Da giầy 4697
4 Hải sản 4562
5 Lúa gạo 2902
6 Đồ gỗ 2779
7 Điện tử, máy tính 2703
8 Cà phê 2022
9 Cao su 1597
10 Than đá 1444
11 Dây & cáp điện 1014
12 Khác 19622
(nguồn Tổng cục Thống kê)
 VIỆT NAM: Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu - 2008
(Đơn vị: triệu USD)
1 Máy móc, thiết bị 13712
2 Xăng 10888
3 Théo 6566
4 Trong đó: phôi thép 1657

5 Điện tử, máy tính và linh kiên 3722
6 Nhựa 2924
7 Dệt may, da 2376
8 Hóa chất 1768
9 Thức ăn gia súc 1738
10 Chế phẩm hóa học 1607
11 Khác 33442
(nguồn Tổng cục Thống kê)
Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2009
Vượt qua những khó khăn do khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu,
nền kinh tế nước ta năm 2009 vẫn duy trì được mức tăng trưởng hợp lý,
lạm phát được kiềm chế, nông nghiệp được mùa. Tuy nhiên, hạn chế và bất
cập vẫn còn nhiều, công nghiệp tăng chậm, đầu tư và xuất khẩu giảm, bội
chi ngân sách cao…
Năm 2009, kinh tế nước ta phát triển trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn hơn các
năm trước. Ở trong nước, thiên tai xẩy ra trên diện rộng với mức độ rất nặng nề.
Dịch bệnh, nhất là cúm A/H1N1, sốt xuất huyết, sâu bệnh bùng phát ở nhiều
vùng và địa phương. Ở ngoài nước, thị trường giá cả thế giới biến động phức
tạp. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động trực
tiếp đến nhiều ngành kinh tế nước ta như công nghiệp, xuất khẩu, thu hút vốn
đầu tư, du lịch. Thuận lợi tuy có nhưng không nhiều.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị, Quốc Hội, Chính phủ đã kịp thời đề ra các
quyết sách thích hợp và cụ thể bằng các chủ trương, chính sách kinh tế, tài
chính nhằm vượt qua khó khăn, phát huy thuận lợi, tập trung mọi nguồn lực cho
phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Tháng 12-2008, Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết số 30 về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm
kinh tế, duy trì tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội. Gói kích cầu hỗ trợ các
doanh nghiệp và hộ gia đình được thực hiện với nhiều giải pháp thích ứng như
giảm lãi suất cơ bản, hỗ trợ lãi suất vay vốn lưu động 4%/năm, bảo lãnh tín
dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giãn thời gian nộp thuế Nhờ sự lãnh

đạo, chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự nỗ lực cố gắng của các bộ, ngành, địa
phương, các cơ sở sản xuất và doanh nghiệp vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng
hợp lý.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả năm tăng 5,2%. Diễn biến trong năm, xu
hướng tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước: quý I tăng 3,14%, quý II tăng
4,46%, quý III tăng 5,76% và quý IV ước tăng 6,8%. Cả 3 khu vực kinh tế đều
đạt tốc độ tăng trưởng dương, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
tăng 2%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5% và khu vực dịch vụ tăng
trên 6,5%.
Mức tăng trưởng như trên cho thấy, xu hướng phục hồi của nền kinh tế nước ta
năm 2009 là rõ nét. Kết quả đó đánh dấu sự thành công bước đầu của Chính phủ
trong chỉ đạo, điều hành vĩ mô nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế. Đến nay, có
thể khẳng định chắc chắn rằng Việt Nam đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế
tồi tệ nhất của thế giới trong vòng 80 năm qua và bắt đầu lấy lại đà tăng trưởng.
Về kim ngạch xuất khẩu thì hàng hóa cả năm ước đạt 57 tỉ USD, giảm 11% so
với năm 2008, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 6,7%, khu vực FDI
giảm 15,5% (kể cả dầu thô), nếu không kể dầu thô thì khu vực FDI chỉ giảm
4%. Một số mặt hàng xuất khẩu tăng trong năm là gạo, cà-phê, than đá, dầu thô,
cao-su. Nét mới trong xuất khẩu năm 2009 là thị trường Hoa Kỳ đạt kim ngạch
lớn nhất, gần 10 tỉ USD (tăng mạnh so với các năm trước), EU đạt 8 tỉ USD và
thị trường ASEAN gần 8 tỉ USD. Về kim ngạch nhập khẩu thì cả năm ước đạt
69 tỉ USD, giảm 17% so với năm 2008, bao gồm khu vực kinh tế trong nước
giảm 20%, khu vực FDI giảm 13%. Các mặt hàng nhập khẩu năm 2009 chủ yếu
là máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, phụ liệu dệt may phục vụ sản
xuất và hàng tiêu dùng thiết yếu, nhưng có xu hướng giảm cả lượng và giá. Thị
trường nhập khẩu lớn nhất vẫn là Trung Quốc, Nhật Bản
Tổng thu ngân sách cả năm ước đạt 390 nghìn tỉ đồng. Các khoản thu lớn đều
đạt và vượt dự toán cả năm và tăng so với năm 2008. Tổng chi ngân sách nhà
nước cả năm đạt 104% dự toán cả năm, trong đó chi đầu tư phát triển tăng 8%;
(riêng đầu tư xây dựng cơ bản tăng 9%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã

hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể tăng 5%, chi trả nợ
và viện trợ tăng 3%. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại trong cân đối ngân sách nhà
nước năm 2009 là bội chi ngân sách nhà nước còn cao - 6,9% GDP, trong khi
khoản bội chi này chưa tính đến các khoản chi từ nguồn trái phiếu chính phủ,
các khoản chính phủ vay về cho doanh nghiệp vay lại. Năm 2008, khi lạm phát
gần 20% bội chi ngân sách chỉ có 5%, nhưng năm nay lạm phát dưới 6,9% mà
bội chi ngân sách như trên là quá lớn, rất đáng phải suy nghĩ. Tỷ lệ nợ nước
ngoài so với GDP bằng 29,7%, tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia
Ngân hàng Thế giới (WB), thì vẫn nằm trong mức an toàn. Nhưng, nếu tính
thêm yếu tố tỷ giá hối đoái tăng, thì tổng nợ nước ngoài lên tới mức cao hơn
tổng thu ngân sách nhà nước năm 2009, là điều đáng quan ngại.
Tóm lại, kinh tế nước ta năm 2009 về cơ bản đã phục hồi và tăng trưởng hợp lý,
nhất là những tháng cuối năm. Trong bối cảnh tác động tiêu cực của khủng
hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu, những kết quả đạt được là rất đáng ghi
nhận. Các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB đều đánh giá cao kết
quả này, như IMF nhận định: Trong năm 2009 tăng trưởng dự kiến 5,2% của
Việt Nam được xem là rất khả quan so với các nền kinh tế khác. Tuy nhiên,
đánh giá của Chính phủ trong báo cáo trước Quốc Hội khóa XII kỳ họp thứ sáu
cũng thừa nhận: Tăng trưởng chủ yếu vẫn theo chiều rộng, năng suất lao động,
chất lượng và sức cạnh tranh còn thấp. Việc điều hành tỷ giá và ngoại hối chưa
thật linh hoạt, dẫn đến găm giữ USD, cán cân thanh toán bị thâm hụt (dự báo
1,9 tỉ USD). Bội chi ngân sách tăng và chính sách tiền tệ nới lỏng luôn tiềm ẩn
nguy cơ lạm phát cao trở lại. Tình hình này đang đặt ra cho năm 2010 những
vấn đề mới cần nghiên cứu và giải đáp.
Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2010
Tăng trưởng kinh tế
Năm 2010, kinh tế của Việt Nam tiếp tục có sự phục hồi nhanh chóng sau tác
động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn
phục hồi chậm chạp và trong nước gặp phải nhiều khó khăn, kinh tế Việt Nam
đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao như trên là một thành công. Với kết

quả này tốc độ tăng trưởng GDP cả giai đoạn 2006-2010 đạt bình quân 7%/năm
và thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm 2010 ước đạt 1.160 USD.
Các chỉ số tăng trưởng cho các ngành cũng thể hiện một xu hướng phục hồi rõ
rệt. Công nghiệp tiếp tục là đầu tàu của tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Giá trị
sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2009 và
năm 2010 ước tăng 14% so với năm 2009. So với khu vực công nghiệp thì khu
vực dịch vụ cũng có sự phục hồi sau khủng hoảng kinh tế thế giới những ở mức
độ thấp hơn. Tốc độ tăng trưởng trong 9 tháng đầu năm là 7,24% và triển vọng
tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cả năm 2010 có thể đạt 7,5%. Đối với lĩnh
vực nông nghiệp, năm 2010 gặp nhiều khó khăn: đầu năm hạn hán nghiêm
trọng, giữa năm nắng nóng gay gắt, cuối năm mưa lũ lớn kéo dài ở miền Trung
và Tây Nguyên. Những khó khăn này đã gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất vụ
mùa, nuôi trồng thuỷ sản và chăn nuôi. Tuy nhiên, do thực hiện nhiều chính
sách và giải pháp hỗ trợ hộ nông dân và các doanh nghiệp về vốn, vật tư, tiêu
thụ kịp thời, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 9 tháng đầu năm đã
tăng 2,89% so với cùng kỳ năm 2009, và ước cả năm 2010 tăng khoảng 2,8%.
Đầu tư
Kinh tế phục hồi là một nguyên nhân quan trọng trong việc thúc đẩy đầu tư phát
triển. Ước tính tổng đầu tư toàn xã hội năm 2010 đạt 800 nghìn tỷ đồng, tăng
12,9% so với năm 2009 và bằng 41% GDP. Trong đó, nguồn vốn đầu tư của tư
nhân và của dân cư dẫn đầu bằng 31,2% vốn đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn đầu
tư nhà nước bằng 22,5%, tăng 4,7% so với năm 2009. Những kết quả này cho
thấy các nguồn lực trong nước được huy động tích cực hơn. Về vốn đầu tư FDI,
tính đến hết tháng 11, cả nước thu hút được 833 dự án mới với tổng số vốn đăng
ký đạt 13,3 tỷ USD, bằng 60% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó vốn thực
hiện ước đạt 10 tỷ USD, tăng 9,9%. Mặc dù vốn FDI đăng ký có thấp hơn nhiều
so với năm 2009 nhưng tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đăng ký lại cao hơn nhiều.
Đây có thể được coi là điểm sáng trong thu hút FDI năm 2010. Điều này cũng
cho thấy sự cam kết lâu dài các nhà đầu tư nước ngoài ở thị trường Việt Nam.
Tốc độ tăng vốn đầu tư cao và nhanh một mặt thể hiện quan hệ tích lũy – tiêu

dùng đã có sự chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, nhưng mặt khác lại cho
thấy những hạn chế trong hiệu quả đầu tư. Nếu như năm 1997, chúng ta đạt
được tốc độ tăng trưởng 8,2% với vốn đầu tư chỉ chiếm 28,7% GDP thì cũng
với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ như vậy năm 2007 (8,5%) chúng ta phải đầu tư tới
43,1% GDP. Đến năm 2010, trong khi tổng mức đầu tư toàn xã hội lên tới 41%
GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại chỉ đạt 6,7%. Chỉ số ICOR đã tăng tới mức quá
cao, trên 8 so với 6,6 của năm 2008. Hệ số ICOR của doanh nghiệp và đặc biệt
là doanh nghiệp tư nhân chỉ có 3-4, trong khi đó ICOR của khu vực kinh tế nhà
nước và từ đầu tư của nhà nước tới 9-10
1
. Bên cạnh đó còn xảy ra tình trạng
chậm trễ trong giải ngân nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn
trái phiếu Chính phủ, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá
trình quản lý dự án đầu tư. Những đặc điểm này là đáng báo động về cả trước
mắt cũng như lâu dài.
Lạm phát và giá cả
Năm 2010 lạm phát có những diễn biến phức tạp. Từ đầu năm đến cuối tháng 8
chỉ số giá tiêu dùng diễn biến theo chiều hướng ổn định ở mức tương đối thấp,
trừ hai tháng đầu năm CPI ở mức cao do ảnh hưởng bởi những tháng Tết. Tuy
nhiên, lạm phát đã thực sự trở thành mối lo ngại từ tháng 9 khi CPI tăng bắt đầu
xu hướng tăng cao. Đến hết tháng 11, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng tới 9,58% và
mục tiêu kiềm chế lạm phát cả năm dưới 8% mà Quốc hội đề ra sẽ không thực
hiện được.
Lạm phát và giá cả của năm 2010 tăng cao xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Thứ
nhất, sự phục hồi của nền kinh tế làm cho nhu cầu các loại hàng hóa dịch vụ đều
tăng cao, cộng với thiên tai, lũ lụt ở các tỉnh miền Trung lại càng làm tăng nhu
cầu về lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng… Thứ hai, giá của một số mặt
hàng nhập khẩu của nước ta trên thị trường thế giới tăng lên do sự phục hồi của
kinh tế toàn cầu làm tăng chi phí sản xuất của nhiều doanh nhiệp. Thứ ba, việc
điều chỉnh tỷ giá làm đồng tiền nội tệ mất giá làm cho chi phí nhập khẩu tăng

lên đẩy mặt bằng giá nhiều hàng hóa tăng theo. Bên cạnh đó những nguyên
nhân cơ bản gây ra lạm phát cao ở Việt Nam những năm trước vẫn còn. Đó là
sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động của các doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) và tập đoàn lớn. Do vậy, kích cầu đầu tư thông qua
nới lỏng tín dụng cho các DNNN và tập đoàn cùng với thiếu sự thẩm định và
giám sát thận trọng cũng góp phần kích hoạt cho lạm phát trở lại. Sự điều chỉnh
tăng lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước và sự gia tăng lãi suất cho vay của
các ngân hàng thương mại ở những tháng cuối năm 2010 sẽ tiếp tục gây sức ép
làm tăng lạm phát không chỉ những tháng cuối năm mà có thể cả trong năm
2011.
Tỷ giá
Trong nhiều năm trở lại đây, Ngân hàng nhà nước (NHNN) kiên trì chính sách
ổn định đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la Mỹ. Diễn biến tỷ giá trong năm
2010 là khá phức tạp. Mặc dù NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá liên ngân hàng
hai lần vào tháng 2 và tháng 10, khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá
trên thị trường tự do luôn ở mức cao. Tỷ giá chính thức có thời điểm thấp hơn tỷ
giá trên thị trường tự do tới 10%. Đến cuối tháng 11 năm 2010, tỷ giá trên thị
trường tự do đã đạt mức 21.500 đồng/USD.
Những bất ổn về tỷ giá có nguyên nhân sâu xa từ những bất ổn về kinh tế vĩ mô
đó là bội chi cao, nhập siêu lớn và hiệu quả đầu tư công thấp… làm cho cầu
ngoại tệ luôn lớn hơn cung ngoại tệ. Bên cạnh đó hiện tượng đầu cơ và tâm lý
cũng gây áp lực mạnh mẽ lên tỷ giá. Những bất ổn trên thị trường ngoại hối và
tỷ giá hối đoái đã tiếp tục gây ra những khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Hơn nữa, đồng tiền mất giá còn ảnh hưởng đến lạm phát trong nước do giá hàng
nhập khẩu tăng mạnh. Trong bối cảnh lạm phát có xu hướng gia tăng và tính
không ổn định trên thị trường tiền tệ, đòi hỏi cần phải có sự lựa chọn linh hoạt
cơ chế điều hành tỷ giá để đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định thị
trường tiền tệ.
Thu chi ngân sách
Năm 2010, tình hình kinh tế trong nước chuyển biến tích cực đã tạo điều kiện

để tăng thu ngân sách nhà nước. Thu ngân sách nhà nước năm 2010 ước đạt
520.100 tỷ đồng, vượt 12,7% so với dự toán, tăng 17,6% so với năm 2009, và
đạt tỷ lệ động viên vào ngân sách nhà nước là 26,7%. Mặc dù tỷ trọng thu nội
địa có tăng nhưng chiếm tỷ trọng không lớn (khoảng 60%). Việc chấp hành kỷ
luật ngân sách không nghiêm, thất thu, gian lận, nợ đọng thuế, kể cả thuế nội
địa và thuế xuất nhập khẩu còn lớn. Số nợ thuế chờ xử lý (chiếm hơn 20% tổng
số nợ thuế) tăng khá nhiều. Đây là dư địa quan trọng để tăng thu ngân sách và
giữ kỷ cương luật pháp về ngân sách nhà nước. Tổng chi cân đối ngân sách nhà
nước ước đạt 637.200 tỷ đồng, tăng 9,4% so với dự toán và tăng 9% so với thực
hiện năm 2009. Bội chi ngân sách năm 2010 ước khoảng 117.100 tỷ đồng, bằng
khoảng 5,95% GDP, giảm so với năm 2009 (6,9%) và cũng giảm so với kế
hoạch đề ra (6,2%). Đó là những kết quả rất đáng khích lệ trong bối cảnh nền
kinh tế vừa trải qua cơn suy giảm. Tuy nhiên, bội chi ngân sách vẫn còn cao
(chưa về mức dưới 5% như đã duy trì trong nhiều năm) và là một trong những
nhân tố góp phần làm gia tăng lạm phát. Điều này cũng cảnh báo độ an toàn của
ngân sách trong các năm tiếp theo nếu như không chủ động có các biện pháp cải
cách để tạo nền tảng tăng nguồn thu cũng như tăng cường kỷ luật tài chính cho
ngân sách.

Xuất nhập khẩu và cán cân thương mại
Năm 2010, xuất nhập khẩu khẩu của Việt Nam có nhịp độ tăng trưởng đáng
khích lệ trong bối cảnh kinh tế của những nước vốn là thị trường xuất khẩu lớn
của Việt Nam như Mỹ, Nhật Bản, EU… vẫn phục hồi chậm chạp. Tổng kim
ngạch xuất khẩu năm 2010 ước đạt khoảng 70,8 tỷ USD, tăng 24,9% so với năm
2009. Xuất khẩu tăng là do sự đóng góp lớn của những mặt hàng công nghiệp
chế biến cộng với sự phục hồi của kinh tế thế giới làm cho xuất khẩu hàng
nông, lâm, thủy sản được lợi về giá. Vấn đề tồn tại lớn nhất của xuất khẩu đã
bộc lộ trong nhiều năm qua là việc vẫn phụ thuộc nhiều vào các mặt hàng
khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản, dệt may, da giầy… Hơn nữa, các mặt hàng
công nghiệp chế biến vẫn mang tính chất gia công. Như vậy, xuất khẩu chủ yếu

vẫn dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa xây dựng được các ngành
công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia
tăng xuất khẩu lớn.
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 82,6 tỷ USD, tăng 19,8% so với
năm 2009. Nguyên nhân chính của sự gia tăng nhập khẩu là do kinh tế có sự
phục hồi làm gia tăng nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất (chiếm
khoảng 80% cơ cấu nhập khẩu). Mặc dù cả kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch
nhập khẩu đều tăng, nhưng do tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao hơn tốc độ
tăng kim ngạch nhập khẩu, nên nhập siêu năm 2010 giảm xuống chỉ còn khoảng
11,8 tỷ USD, chiếm 16,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Như vậy, so với những
năm gần đây cán cân thương mại đã có sự cải thiện đáng kể, thể hiện quyết tâm
của chính phủ trong việc kiềm chế nhập khẩu những mặt hàng không cần thiết.
Song mức nhập siêu vẫn còn cao cho thấy việc phát triển các ngành công nghiệp
phụ trợ và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu vẫn còn chậm.
Cán cân thanh toán được cải thiện
Nếu như năm 2009, cán cân thanh toán tổng thể thâm hụt 8,8 tỷ USD, thì năm
2010 đã có sự cải thiện đáng kể. Phần thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai năm
2010 trên thực tế có thể được bù đắp hoàn toàn bởi thặng dư trong cán cân tài
khoản vốn. Tuy nhiên, dự báo cán cân thanh toán năm 2010 vẫn thâm hụt
khoảng trên 2 tỷ USD do phần “lỗi và sai sót” trong cán cân tài khoản vốn gây
ra. Thực tế, tình trạng căng thẳng trên thị trường ngoại hối và việc giá vàng liên
tục leo thang khiến doanh nghiệp và người dân găm giữ đô la và vàng. Như vậy,
việc bố trí lại danh mục đầu tư của doanh nghiệp và người dân sang các loại tài
sản bằng ngoại tệ và vàng sẽ tiếp tục gây ra vấn đề “lỗi và sai sót” và thâm hụt
trong cán cân thanh toán trong năm 2010. Bên cạnh đó, mặc dù cán cân thanh
toán được cải thiện trong năm 2010, lượng dự trữ ngoại hối vẫn không tăng một
mặt do Ngân hàng nhà nước can thiệp vào thị trường để giữ ổn định tỷ giá, mặt
khác có một lượng ngoại tệ lớn đang lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng.
Bảng 2: Cán cân thanh toán 2009 – 2011
2009 2010 (F) 2011 (F)

Cán cân vãng lai
- Cán cân thương mại
- Cán cân dịch vụ
- Cán cân thu nhập đầu tư
- Chuyển giao
- 7440
- 8.306
- 1.129
- 4.532
6527
- 9.405
- -10596
- 1649
- 3859
6698
- 9.470
- 10.422
- 1.645
- 4.755
7.340
Cán cân vốn
- FDI (ròng)
11.452
6900
12113
7565
13.312
7.928
- Vay trung và dài hạn
- Vốn ngắn hạn khác (ròng)

- FPI
4473
- 49
128
2541
439
1627
3.176
581
1.692
Lỗi và sai sót - 12.178 0.0 0.0
Cán cân tổng thể - 8.166 1208 3.842
Nguồn: Báo cáo thường niên 2009 của NHNN; IMF Country Report No.
10/281, September 2010
Nợ công
Đến năm 2010, nợ nước ngoài của Việt Nam ước khoảng 42,2% GDP và tổng
nợ công đã vượt quá 50% GDP. Theo phân tích của IMF (2010), Việt Nam vẫn
ở mức rủi ro thấp của nợ nước ngoài nhưng cần lưu ý rằng khoản nợ này chưa
tính đến nợ của các doanh nghiệp nhà nước không được chính phủ bảo lãnh.
Hơn nữa, vấn đề ở đây không chỉ là tỷ lệ nợ so với GDP mà cả quy mô và tốc
độ của nợ nước ngoài và nợ công của Việt Nam gần đây đều có xu hướng tăng
mạnh. Nếu năm 2001, nợ công đầu người là 144 USD thì đến năm 2010 lên tới
600 USD, tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 18%. Nợ công tăng nhanh
trong khi thâm hụt ngân sách lớn và hiệu quả đầu tư công thấp đặt ra những lo
ngại về tính bền vững của nợ cả trong ngắn hạn và dài hạn. Điều này cũng đặt ra
yêu cầu cấp thiết của việc cần tăng cường quản lý và giám sát nợ công một cách
chẽ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay ở Việt Nam.
(nguồn Tổng cục Thống kê)
Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2011
Năm 2011 đánh dấu năm thành công của nước ta trong công tác chỉ đạo đảm

bảo ổn định kinh tế vĩ mô, đưa ra nhiều quyết sách tái cấu trúc nguồn vốn để
nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh.
1.Thay đổi nhân sự cấp cao nhiệm kỳ mới
Ông Trương Tấn Sang đắc cử Chủ tịch nước; Ông Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục
giữ chức Thủ tướng nhiệm kỳ 2011-2016.
Quốc hội cũng đã phê chuẩn việc bổ nhiệm ông Nguyễn Xuân Phúc, Hoàng
Trung Hải, Nguyễn Thiện Nhân, Vũ Văn Ninh làm 4 phó thủ tướng.
22 Bộ trưởng trúng cử. Trong đó, Bộ trưởng Ngoại giao là ông Phạm Bình
Minh; Bộ trưởng Tài chính là ông Vương Đình Huệ; Bộ trưởng Công thương là
ông Vũ Huy Hoàng; Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư là ông Bùi Quang Vinh; Bộ
trưởng Giao thông là ông Đinh La Thăng; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam là ông Nguyễn Văn Bình.
2. Cả nước tập trung kiềm chế lạm phát
Năm 2011,trước vấn đề nợ công, đầu tư dàn trải, áp lực phá giá đồng tiền và sức
ép tăng giá của hàng loạt mặt hàng quá lớn, Chính phủ đã ra Nghị quyết 11
ngày 24/2 với hàng loạt vấn đề đồng bộ liên quan đến điều hành kinh tế vĩ mô
như tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%; tổng phương tiện thanh toán
khoảng 15- 16%; ưu tiên vốn tín dụng cho phát triển sản xuất, kinh doanh, nông
nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, cắt
giảm đầu tư công, giảm bội chi xuống dưới 5%; nhập siêu không quá 10% tổng
kim ngạch XK Nghị quyết là kim chỉ nam điều hành chính sách kinh tế cả
năm.
Điện điều chỉnh tăng 2 lần, xăng tăng mạnh 2 lần và giảm nhỏ giọt 1 lần gây áp
lực lên chỉ số giá khiến CPI cả nước cả năm 2011 dù đã đi theo xu hướng giảm
dần và bình quân 12 tháng kiểm soát ở mức 18,12%, cao hơn so với trần lạm
phát đầu năm nhưng xoay quanh mức 18% mà Quốc hội đã điều chỉnh.
CPI cả nước qua các tháng và các sự kiện ảnh hưởng đến chỉ số giá
3. Xuất khẩu cao kỷ lục
Kim ngạch xuất khẩu của cả nước ước năm 2011 đạt hơn 96,3 tỷ USD, tăng
33,3% so với năm ngoái. Một phần nhờ đón đầu đợt phá giá tiền đồng, giá trị

xuất khẩu tăng vọt và đây là điểm sáng của nền kinh tế năm nay.
Tổng kim ngạch Nhập khẩu cả năm ước đạt hơn 105,8 tỷ USD, tăng 24,7% so
với năm trước. Nhập siêu cả năm nước ta ước đạt hơn 9,5 tỷ USD. Việc kiểm
soát nhập siêu bằng 9,9% tổng kim ngạch xuất khẩu là một thành công của nước
ta năm nay khi ban đầu kế hoạch khống chế nhập siêu so với kim ngạch xuất
khẩu là 16% và kế hoạch phấn đấu là 10% mà Nghị quyết 11 đưa ra.
Nhờ tăng mạnh xuất khẩu, năm 2011 Việt Nam đã giảm mạnh nhập siêu. Năm
2012, Việt Nam quyết tâm kiểm soát nhập siêu năm 2012 là 12% so với xuất
khẩu.
4. FDI, ODA giảm, giải ngân tăng
Tính đến 15/12/2011, nước ta thu hút được 14,7 tỷ USD vốn FDI (cả đăng ký
mới và tăng thêm), giảm 26% so với năm 2010. Tình hình hút vốn FDI được
đánh giá là có những chuyển biến theo hướng tích cực khi 76,4% tập trung vào
lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Tuy thu hút giảm nhưng chất lượng giải
ngân FDI đã cải thiện đáng kể với 11 tỷ USD năm 2011, bằng mức thực hiện
năm 2010 và đóng góp 25,9% vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Tại hội nghị tư vấn các nhà tài trợ, mức cam kết ODA cho Việt Nam trong năm
2012 đạt tới 7,386 tỷ USD, giảm nhẹ so với mức 7,88 tỉ USD năm 2011. Tuy
mức cam kết giảm nhưng mức thu hút này là một thành công của Việt Nam
trong bối cảnh kinh tế Quốc tế khó khăn. Việt Nam cam kết sử dụng có hiệu quả
sự trợ giúp của cộng đồng tài trợ quốc tế. Trước mắt, chính phủ sẽ thúc đẩy việc
giải ngân các dự án ODA nhanh hơn, hiệu quả hơn.
5. Bội chi dưới trần kế hoạch
Bội chi ngân sách nhà nước cả năm 2011 bao gồm chi trả nợ gốc ước đạt
111.500 tỷ đồng, tương đương 4,9%, loại chi trả nợ gốc bội chi ngân sách cả
năm đạt 2,11%. Mức bội chi này giảm so với dự trù đầu năm là 5,3%. Thành
công này đã tạo tiền đề để Chính phủ đặt mục tiêu tiếp tục kiểm soát giảm bội
chi ngân sách năm 2012 dưới 4,8%.
Tổng thu và viện trợ ước đạt 674.500 tỷ đồng, tăng 20,6% so với năm 2010 (số
ước thực hiện lần 2). Trong đó thu từ thuế 586.151 tỷ đồng, tăng 21,8% so với

năm 2010; thu từ dầu tho đạt 100.000 tỷ đồng. Tổng chi cân đối ngân sách năm
2011 ước đạt 710.160 tỷ đồng, trong đó chi thường xuyên đạt 535.160 tỷ đồng,
tăng 23,1% so với năm 2010.
6. Giãn, giảm gánh nặng thuế cho nhiều đối tượng
Năm 2011, Chính phủ đã có nhiều quyết định giãn, giảm thuế cho nhiều đối
tượng. Ước khoảng 15 - 19,5 nghìn tỷ đồng tiền thuế được giãn và miễn giảm
trong năm 2011.
Chính sách hỗ trợ đột xuất 250.000 đồng cho các đối tượng có thu nhập thấp;
giãn thời hạn nộp thuế TNDN đối với DNNVV và doanh nghiệp sử dụng nhiều
lao động; giảm 30% số thuế TNDN phải nộp trong năm 2011 đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động; miễn 5% thuế thu
nhập cá nhân đối với thu nhập từ cổ tức của nhà đầu tư chứng khoán; miễn thuế
thu nhập cá nhân đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán của nhà đầu tư
cá nhân; miễn thuế TNCN đối với cá nhân có thu nhập tính thuế từ tiền lương,
tiền công và từ kinh doanh đến mức phải chịu thuế TNCN ở bậc 1 của Biểu thuế
luỹ tiến từng phần đã làm nhẹ gánh nặng cho nhiều đối tượng để họ có thêm
nguồn trang trải cho nhu cầu thiết yếu trong bối cảnh giá cả nhiều mặt hàng
thiết yếu tăng.
Việc miễn, giảm thuế cho doanh nghiệp năm 2012 cũng đang được đệ trình và
Quốc hội xem xét tại kỳ họp đầu năm 2012.
7. Nhà nước vào cuộc thanh tra nhiều bộ ngành, tập đoàn kinh tế lớn
Kiểm toán 2 siêu Bộ Tài chính và Công Thương. 27 tập đoàn kinh tế, tổng công
ty và ngân hàng thương mại nằm trong danh sách kiểm toán trong năm 2011
như Vinashin, EVN, TKV, Vinalines…
Việc Nhà nước vào cuộc thanh tra hoạt động của nhiều tập đoàn kinh tế lớn và
bước đầu có những kết quả như EVN đầu tư tài chính dài hạn lên tới gần 50.000
tỉ đồng và lỗ luỹ kế đến hết năm 2011 lên tới trên 35.000 tỉ đồng; Doanh nghiệp
kinh doanh xăng dầu đầu tư ngoài ngành chưa hiệu quả; kết luận về việc kiểm
toán Quỹ bình ổn xăng dầu…đã thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong việc cơ
cấu lại nền kinh tế.

8. Điểm sáng tái cấu trúc nguồn vốn toàn xã hội
Ngày 8/7/2011, Nghị định số 59/2011/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước thành CTCP được ban hành đã tạo tiền đề tái cấu trúc hàng loạt
DNNN. Mục tiêu hàng đầu của CPH là huy động vốn của các nhà đầu tư trong
và ngoài nước để nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới
phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Khá nhiều chủ trương CPH được nhà đầu tư trong và ngoài nước quan tâm như
cổ phần hóa 10 DN thuộc Bộ Công Thương; 6 DN thuộc Vinachem; các DN
thuộc Vietnam Airlines; 6 doanh nghiệp thuộc TCT đường sắt; Tập đoàn Phát
triển nhà và đô thị; Các đơn vị thành viên của Tập đoàn Sông Đà; BIDV;
VNSteel; CPH Mobifone; PV Oil, Điện Nhơn Trạch
9. Tài nguyên khoáng sản được đưa vào quy hoạch
Trước tình hình khai thác khoáng sản bừa bãi, xuất khẩu thô quá nhiều, Chính
phủ đã có Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Chiến lược đã nêu rõ khoáng sản là tài nguyên không tái tạo, phải điều tra nắm
chắc trữ lượng từng loại khoáng sản để xây dựng quy hoạch, kế hoạch khai thác
đảm bảo hiệu quả cao nhất ở cả ba mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường.
Chính phủ không khuyến khích xuất khẩu tài nguyên và dứt khoát không xuất
khẩu thô khoáng sản. Việc cấp phép mới dự án phải chặt chẽ, nằm trong quy
hoạch đã được phê duyệt và được chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.
Tổng quan về kinh tế Việt Nam năm 2012
Đối với Việt Nam, nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2012 là ưu tiên kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì mức tăng trưởng một cách hợp lý gắn với
đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế, nâng cao chất lượng,
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Kết quả thực hiện trong 9 tháng đầu
năm 2012 được thể hiện ở một số điểm dưới đây:
Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) - lạm phát đã giảm mạnh so với năm
2011 (đặc biệt trong hai tháng 6 và 7 có mức tăng trưởng âm). So với tháng 12
năm 2011. chỉ số CPI 9 tháng đầu năm 2012 tăng khoảng 5%.
Tỷ giá hối đoái ít thay đổi.

Thị trường vàng không ổn định, tăng giảm bất thường.
Mặt bằng lãi suất có xu hướng giảm.
Cán cân thanh toán quốc tế trong 9 tháng ước thặng dư khoảng8 tỷ USD.
Lao động, việc làm trong 9 tháng đầu năm 2012 ước giải quyết được
khoảng 1.165 nghìn lao động, tăng khoảng 3,3% so với cùng kỳ năm 2011 và
đạt 72,8% kế hoạch năm 2012.
Số doanh nghiệp mới thành lập trong khoảng 10 tháng đầu năm 2012 đạt hơn
46.000 doanh nghiệp (giảm khoảng 12% so với cùng kỳ năm 2011.
Số doanh nghiệp đã giải thể và dừng hoạt động trong 9 tháng đầu năm 2012 là
hơn 35.483 doanh nghiệp (tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2011).
Thu NSNN tính đến 15 tháng 8 năm 2012 đạt 418 nghìn tỷ đồng (56,5% dự
toán, tăng 1,7% so cùng kỳ 2011)
Chi NSNN tính đến 15 tháng 8 năm 2012 đạt 534 nghìn tỷ đồng (59,1% dự
toán tăng 18,6% so cùng kỳ 2011).
Tổng đầu tư xã hội ước 9 tháng đầu năm 2012 đạt 708,6 nghì tỷ đồng, bằng
35,2% GDP và tăng 8,6% so cùng kỳ năm 2011.
Xuất khẩu 9 tháng 2012 ước đạt 82 tỷ USD (tăng 16,4% so cùng kỳ năm 2011).
Nhập khẩu ước đạt 82,5 tỷ USD (tăng 5% so cùng kỳ năm 2011). Như vậy
nhập siêu khoảng 0,5 tỷ USD.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký trong 8 tháng đầu năm 2012 đạt 8,5 tỷ
USD, bằng 66,1% cùng kỳ năm 2011. Đầu tư trực tiếp thực hiện 8 tháng đầu
năm 2012 đạt 7,28 tỷ USD, bằng 99,7% cùng kỳ năm 2011.
Như vậy, so với mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 6 - 6,5% thì năm 2012 sẽ là
năm thứ hai liên tiếp Việt Nam không đạt kế hoạch như đã dự kiến.
Từ đó, có thể tạm nhận xét rằng các chính sách kiềm chế lạm phát và ổn định
kinh tế vĩ mô về cơ bản có phát huy tác dụng, mức lạm phát đã giảm và kinh tế
vĩ mô giữ được ở mức khá ổn định trong tầm ngắn hạn. Mức lạm phát cả năm
có nhiều khả năng kiềm chế được ở mức một chữ số. Tuy nhiên, nếu xét về

×