Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Quá trình thống nhất liên minh tiền tệ châu âu và khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.24 KB, 23 trang )

I-Quá trình thống nhất liên minh tiền tệ châu Âu
1.Cơ sở,điều kiện thống nhất
1.1 Hình thành 1 thị trường thống nhất về hàng hóa, vốn và sức lao động:
Nhìn lại lịch sử phát triển của Liên minh tiền tệ châu Âu, chúng ta thấy rằng
Liên minh châu Âu đã tuần tự trải qua các giai đoạn phát triển từ thấp đến cao
trước khi đạt tới trình độ của một liên minh kinh tế và tiền tệ. Đó là: khu vực
thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, giai đoạn hài hoà và
phối hợp chính sách kinh tế và cuối cùng là một liên minh kinh tế hoàn chỉnh với một
số chính sách kinh tế được hoạch định ở cấp độ khu vực. Hoàn thành ba giai đoạn đầu
chính là đã hình thành được một thị trường thống nhất về hàng hoá, vốn và sức lao
động.
- Với châu Âu, hai giai đoạn đầu: khu vực thương mại tự do và liên minh thuế
quan được hoàn thành 1 cách nhanh chóng cụ thể :
+ Khoảng năm 1960,các nước cam kết cắt giảm ,xóa bỏ hàng rào thuế quan,phi
thuế quan với nhau.
+ Tính đến ngày 1/7/1968, tất cả các hàng rào thuế quan về số lượng đối với hàng
hoá và dịch vụ xuất và nhập khẩu đã được dỡ bỏ, Việc xóa bỏ các hàng rào phi thuế
quan như các tiêu chuẩn về y tế, vệ sinh, an toàn, kỹ thuật thì gặp nhiều khó khăn hơn
do đó, dỡ bỏ các hàng rào này đòi hỏi phải phối hợp nhiều chính sách và luật lệ chứ
không chỉ đơn giản là cắt giảm thuế như trường hợp các hàng rào thuế quan. Phải đến
giữa những năm 1980, Cộng đồng châu Âu mới đạt được những tiến bộ quan trọng
trong lĩnh vực này.
- Giai đoạn "thị trường chung" (ngoài việc tự do hóa thương mại ,tự do hóa dịch
vụ, bảo hộ đầu tư, thúc đẩy thương mại điện tử,liên minh thuế quan còn cộng thêm
các yếu tố như tự do di chuyển các yếu tố sản xuất (vốn, lao động) giữa các nước
thành viên) được coi là chính thức hoàn thành ngày 31/12/1992.Tuy nhiên, kể cả cho
tới ngày hôm nay, vẫn còn nhiều lĩnh vực như dịch vụ tài chính, năng lượng, viễn
thông cần được tiếp tục cải cách để thị trường của Liên minh châu Âu thực sự là một
thị trường chung.
1.2 Điều chỉnh kinh tế của các nước thành viên để hội nhập theo tiêu chí
thống nhất


Sự ra đời của Hiệp ước Masstricht năm 1991 đã đề ra những chi tiết về thời gian
cũng như điều kiện để các nước tham gia vào quá trình hội nhập liên minh tiền tệ châu
Âu
- Mục đích của hiệp ước Masstricht : Nhằm hạn chế sự biến động của tỷ giá hối đoái
thực tế giữa các nước thành viên EMU và tránh khả năng một số nước thi hành chính
sách tài khoá lỏng, dẫn đến áp lực lạm phát trong toàn bộ liên minh.
1
-Nội dung :
. (1) Đạt được mức độ ổn định cao về giá cả, thể hiện ở tỷ lệ lạm phát (trong 12
tháng trước đó) không quá 1,5% so với tỷ lệ lạm phát của 3 nước thành viên có tỷ lệ
lạm phát thấp nhất.
. (2) Duy trì tỷ lệ lãi suất dài hạn ổn định sao cho trung bình của thời kỳ mười
hai tháng trước đó không quá 2% so với mức trung bình của ba nước thành viên có giá
cả ổn định nhất khu vực.
=>Hai tiêu chí (1) và (2) chủ yếu nhằm mục đích hạn chế sự biến động của tỷ giá thực
tế khi tỷ giá danh nghĩa đã được ấn định.
. (3)Tuân thủ biên độ dao động bình thường mà cơ chế tỷ giá hối đoái của EMS
cho phép cụ thể là một nước thành viên không được chủ ý phá giá đồng tiền của mình
so với tỷ giá trung tâm với một đồng tiền của một nước khác.
=>Tiêu chí (3) sẽ buộc các nước thành viên tương lai khi hoạch định chính sách tiền tệ
phải cân nhắc đến lợi ích của cả khối chứ không chỉ là lợi ích của nước mình.
. (4) Duy trì tình hình tài chính của chính phủ ổn định, ngân sách
chính phủ thâm hụt không quá 3% GDP và tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP không vượt
quá 60%.
=>Mục đích của tiêu chí (4) là để tránh sự mất cân đối của một nước thành viên ảnh
hưởng tiêu cực đến một nước thành viên khác thông qua áp lực thực hiện chính sách
tiền tệ lỏng quá mức hay thậm chí là cho vay để cứu nguy cho chính phủ nước đó.
Bên cạnh đó các điều kiện này còn nhằm tạo ra một môi trường ổn định giá cả và
dần dần chuyển các chính sách kinh tế vĩ mô từ phục vụ lợi ích của từng nước sang
phục vụ lợi ích của cả liên minh.

 Như vậy, điều chỉnh kinh tế để hội nhập là một tiền đề quan trọng để tránh sự bất
ổn định về kinh tế vĩ mô và do đó, là một yêu cầu quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị
cho sự ra đời của một đồng tiền chung.
1.3 Thiết lập 1 cơ chế liên kết tỷ giá
Quá trình phát triển của cơ chế liên kết tỷ giá ở châu Âu đã trải qua ba giai
đoạn lớn như sau:
1.3.1. Giai đoạn 1: Bắt đầu từ khi thành lập Cộng đồng vào năm 1957 cho đến khi
thiết lập Hệ thống tiền tệ châu Âu năm 1979.
Sự phối hợp trên lĩnh vực tỷ giá hối đoái ở giai đoạn này nhìn chung còn lỏng lẻo.Sau
khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ và cuộc khủng hoảng dầu lửa lần thứ nhất nổ ra
năm 1973, các nước đã không thể thống nhất được về một biện pháp đối phó chung.
Mỗi nước tự đưa ra chính sách tài khoá và tiền tệ riêng của mình để đối phó và tỷ giá
2
hối đoái càng trở nên bất ổn định. Cuối cùng, các nước áp dụng chính sách kinh tế vĩ
mô lỏng đã buộc phải thả nổi đồng tiền của mình.
1.3.2 Giai đoạn 2: đánh dấu bằng sự ra đời của Hệ thống tiền tệ châu Âu(ECU)
và kéo dài đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng cơ chế tỷ giá ERM vào năm 1992-1993.
Giai đoạn này, các nước châu Âu dần dần đã đạt được một mức độ phối hợp đáng kể
trong lĩnh vực chính sách tài chính, tiền tệ. Giai đoạn đầu của Hệ thống tiền tệ châu
Âu gặp phải những vấn đề khó khăn, các nước thành viên liên tục phải điều chỉnh tỷ
giá hối đoái. Dần dần, với một ngân hàng trung ương độc lập và chính sách tiền tệ
theo đuổi mục tiêu ổn định giá cả, đồng Mark Đức đã trở thành nước neo giá danh
nghĩa cho đồng tiền các nước trong hệ thống.
Thời kỳ cuối của giai đoạn này đã chứng kiến một cuộc khủng hoảng tỷ giá, Italia và
Anh rời bỏ cơ chế tỷ giá còn biên độ dao động của các nước còn lại được mở rộng tới
±15%.
1.3.3 Giai đoạn 3: bắt đầu từ năm 1993 và kéo dài cho tới nay.
Đây là giai đoạn phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô thành công với các mục tiêu
chung về các chính sách tài khoá, tiền tệ, và tỷ giá hối đoái theo Hiệp ước Masstrict.
Việc biên độ dao động được mở rộng tới ±15% vào tháng 8/1993 đã cho phép các

nước có được một sự linh hoạt nào đó trong vấn đề tỷ giá hối đoái, giảm bớt sự căng
thẳng của thị trường ngoại hối và nguy cơ các cuộc tấn công đầu cơ.
Giai đoạn này đem lại một bài học bổ ích cho bất cứ nhóm nước nào xem xét việc
thành lập một liên minh tiền tệ trong tương lai
1.4 Tạo lập một đồng tiền khu vực và hình thành 1 ngân hàng trung
ương độc lập với chính sách tiền tệ thống nhất.
- Liên minh tiền tệ không thể tồn tại nếu thiếu một đồng tiền chung. Ở Liên minh
tiền tệ châu Âu, đồng tiền chung với tên gọi đồng Euro đã được phát triển từ đơn vị kế
toán của châu Âu lên thành đơn vị tiền tệ châu Âu,đồng ECU không chỉ được sử dụng
để tính toán mà còn được sử dụng làm giá trị trung tâm của cơ chế tiền tệ châu Âu,
làm phương tiện thanh toán trong các giao dịch giữa các NHTW trong Cộng đồng.
- Ngày 1/1/1999 đồng Euro đã chính thức ra đời và tồn tại với đầy đủ các chức
năng của một đồng tiền, nó được thay thế cho đồng ECU với tỷ lệ 1:1 .
Mục tiêu quan trọng nhất của ECB là duy trì sự ổn định giá cả của toàn khu vực đồng
Euro, vì EU cho rằng sự ổn định giá cả sẽ là điều kiện tiên quyết để tạo ra một môi
trường ổn định để khuyến khích các hoạt động kinh tế, tạo công ăn việc làm, và nói
một cách tổng quát là tăng phúc lợi xã hội, do đó, sẽ góp phần đạt được các mục tiêu
chung của Cộng đồng.
3
- Ngân hàng trung ương của liên minh và hệ thống các ngân hàng trung ương
quốc gia phải đảm bảo sự độc lập trong quá trình hoạch định và thực thi các nhiệm vụ
về chính sách tiền tệ của mình. Chỉ khi có được sự độc lập đó thì mục tiêu ổn định giá
cả mới có thể được thực hiện một cách hiệu quả. Trên thực tế, hệ thống ngân hàng
trung ương châu Âu đã và đang tồn tại độc lập, không chịu sức ép của một thế lực
chính trị nào nhằm phục vụ cho các mục tiêu và lợi ích ngắn hạn của họ.
2.Quá trình thống nhất
2. 1. Ý tưởng về đồng tiền chung châu Âu
* Cơ sở khoa học của việc thống nhất tiền tệ:
- Jacque Rueff - chuyên gia tiền tệ người Pháp đã nói “hoặc là châu Âu hình thành
nhờ tiền tệ hoặc không có châu Âu”. Cho đến nay quan điểm trên vẫn được coi là

khẩu hiệu mỗi khi bàn đến liên minh chính trị, kinh tế và tiền tệ châu Âu. Đỉnh cao
của phát triển liên kết kinh tế châu Âu chính là việc thống nhất tiền tệ. → thống nhất
tiền tệ là một tất yếu khách quan của sự phát triển quan hệ kinh tế quốc tế và các quan
hệ tiền tệ quốc tế.
- Cuối những năm 1960, đầu những năm 1970, Hệ thống tỷ giá chuyển đổi cố định
Bretton Woods bắt đầu rạn nứt và sụp đổ → Vào tháng 1 - năm 1970, Ủy ban Werner
đã lập ra một kế hoạch thành lập “Liên minh kinh tế và tiền tệ” trong vòng 10 năm.
Lần đầu tiên, ý tưởng về một đồng tiền chung châu Âu được nhen nhóm.
- Kế hoạch Werner đã bị sụp đổ bởi các biến cố kinh tế xảy ra ngay sau đó:
+ 15 - 8 - 1971, Hệ thống tiền tệ Bretton Woods tan vỡ và Mỹ chấm dứt chế độ
chuyển đổi dollar ra vàng gây rối loạn thị trường tiền tệ thế giới.
+ Tháng 3 - 1973, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 nên kéo
theo đó xảy ra đợt khủng hoảng mới của đồng dollar.
→ Với những biến cố như vậy nên ý định thành lập liên minh tiền tệ châu Âu chưa thể
thực hiện được, nhưng thay vào đó năm 1972, Liên Minh tỷ giá hối đoái châu Âu đã
được thành lập, và tiếp đó là Hệ thống tiền tệ châu Âu năm 1979. Hệ thống tiền tệ
châu Âu đã vận hành khá tốt (tạo sự ổn định và giảm rủi ro về tiền tệ), đơn vị tiền tệ
châu Âu (european currency unit - ECU) - một đơn vị thanh toán, ra đời vì mục đích
này và có thể xem như là tiền thân của đồng Euro.
2.2. Các giai đoạn thực hiện thống nhất tiền tệ châu Âu
Đến năm 1987, việc thực hiện thống nhất tiền tệ châu Âu đã được văn kiện châu Âu
thống nhất. Tháng 4 - 1989, Jacques Delors đã đưa ra kế hoạch thống nhất tiền tệ theo
3 giai đoạn, và tháng 12 - 1992 kế hoạch đã được ký tại Maastricht - Hà Lan.
- Giai đoạn 1: Tạo tiền đề (1990 - 1993)
Thực hiện tự do hóa lưu thông vốn và thanh toán. Sự tự do hóa này thông qua tăng
cường hợp tác các chính sách kinh tế và chính trị, tăng cường phối hợp hoạt động của
12 ngân hàng trung ương của các nước thành viên.
4
 Việc lưu chuyển vốn được tự do trong các nước EU
- Giai đoạn 2: Giai đoạn chuẩn bị (1994-1999)

+ Tăng cường triển khai chiến lược hội tụ về kinh tế và thị trường giữa các nước thành
viên nhằm ổn định giá.
+ Hoàn chỉnh các công tác về mặt thể chế cho đồng Euro ra đời.
+ Quyết định tỷ giá chuyển đổi, tên các đơn vị tiền tệ, căn cứ vào các tiêu chuẩn xét
các nước đủ điều kiện tham gia đồng Euro đợt đầu.
Ngoài ra Viện tiền tệ châu Âu (EMI) bước vào hoạt động cho việc chuẩn bị thành lập
Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB)
- Giai đoạn 3: 1/1/1999- 30/6/2002: Đồng Euro chính thức đi vào lưu thông
+ 1/1/1999, đồng Euro chính thức thay thế cho đồng ECU, thay thế các đồng tiền bản
tệ của các quốc gia.
+ Cơ chế tỷ giá mới giữa đồng tiền các nước chưa đủ điều kiện với đồng Euro được
thiết lập tạo điều kiện hội nhập cho các quốc gia trong khối châu Âu.
+ 1/1/2002, tiền giấy và tiền xu Euro được chính thức đi vào lưu thông, các đồng tiền
nội tệ rút khỏi lưu thông.
+ 28/1/2002, Hà Lan là nước đầu tiên hoàn thành việc thay thế hoàn toàn nội tệ bằng
đồng tiền chung.
+ cho đến ngày 28/2/2002, 11 quốc gia còn lại cũng đã hoàn tất việc thay thế nội tệ
bằng đồng tiền chung châu Âu.
3.Ảnh hưởng của đồng Euro với khu vực và trên thế giới
3.1 Đối với các quốc gia trong EU
Việc 11 nước ban đầu tham gia EMU với 290 triệu dân sẽ hình thành một thị trường rộng lớn trên
thế giới và nền kinh tế gần tương đương với Mỹ có trình độ phát triển kinh tế cao.
Như vậy các nước EU sẽ trở thành một khối kinh tế vững mạnh hơn, liên kết chặt chẽ
hơn, và do đó địa vị của EU sẽ được nâng cao, nhất là trong quan hệ kinh tế với Mỹ.
EMU và đồng EURO ra đời sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước EU, thúc
đẩy quá trình liên kết kinh tế giữa các nước này, tạo điều kiện thực hiện liên minh
kinh tế tiền tệ châu Âu, tiến tới thống nhất châu Âu về kinh tế và chính trị. Đồng tiền
chung ra đời sẽ góp phần hoàn thiện thị trường chung châu Âu, góp phần gỡ bỏ những
hàng rào phi quan thuế còn lại, tác động tích cực đến hoạt động kinh tế, tài chính, đầu
tư, tiết kiệm chi phí hành chính. Theo bản báo cáo năm 1988 và Uỷ ban châu Âu, việc

thực hiện liên minh tiền tệ có thể đem lại lợi cho các nước EU khoảng 200 ty ECU và
giúp làm tăng thêm 1% GDP của các nước thành viên.
Sự ra đời của đồng EURO sẽ giúp cho các nước thành viên tránh được sức ép của việc
phá giá đột ngột các đồng tiền quốc gia (sau này sẽ không còn tồn tại) cũng như việc
các nhà đầu cơ tiền tệ tranh thủ sự không ổn định của đồng tiền để đầu cơ làm ảnh
hưởng đến sự phát triển chung của toàn khối.
Cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) năm 1992 là một ví dụ. Để thu hút
ngoại tệ trang trải cho những tốn kém trong việc khôi phục lại nền kinh tế bị phá sản
của Đông Đức, nước Đức đã áp dụng chính sách giữ lãi suất rất cao làm cho các nhà
tư bản quốc tế bị lợi nhuận quyến rũ đã đổ tiền vào Đức; trong khi đó, với mục tiêu
5
chống lạm phát, Pháp muốn duy trì lãi suất thấp vừa phải. Nhưng do tất cả các đồng
tiền trong EMS vốn liên quan mật thiết với nhau nên Pháp không thể đơn phương hạ
lãi suất mà không làm cho đồng phrăng Pháp (FF) hạ giá so với đồng mác Đức (DM).
Giới đầu cơ tính toán rằng đã đến lúc đồng FF sẽ phải phá giá và họ đã tập trung vào
tấn công đồng FF. Hậu quả là đồng FF bị phá giá và làm cho cả EMS bị lung lay.
Cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) vào năm 1992-1993 đã làm cho hệ
thống tiền tệ châu Âu cũng như nền kinh tế các nước thành viên bị chao đảo và chịu
nhiều thiệt hại. Sự bất ổn định của tiền tệ châu Âu đã làm cho các nước thành viên EU
bị mất 1,5 triệu việc làm trong năm 1995.
Việc ra đời của đồng EURO với ngân hàng trung ương độc lập - Ngân hàng Trung
ương châu Âu (ECB) - thay thế các ngân hàng trung ương các nước thành viên, với
mục tiêu thực hiện một chính sách tiền tệ theo hướng giữ ổn định sẽ tạo cơ sở cho
kinh tế phát triển không còn lạm phát, đem lại những điều kiện thuận lợi cho việc
hoạch định một chính sách tài chính vĩ mô cho liên minh, là một bảo đảm giữ cho nền
kinh tế ở khu vực này ổn định và phát triển hơn trước. Trước mắt, người tiêu dùng và
các doanh nghiệp ở mỗi nước thành viên sẽ bớt được một khoản chi phí chuyển đổi
ngoại tệ trong giao dịch quốc tế mà các nhà kinh tế cho rằng việc này sẽ tiết kiệm
được một khoản tiền 100 tỷ mác hoặc không dưới 1% GDP của các nước thành viên.
Hơn nữa, khi đồng EURO được lưu hành trên thị trường, mọi hàng hoá bày bán trong

các nước thành viên đều được niêm yết giá bằng đồng EURO nên sẽ làm giảm sự
chênh lệch giá hay phiền phức về tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia. Người ta
dự đoán là có thể sẽ xuất hiện một hiện tượng bùng nổ mua sắm và như vậy sẽ kích
cầu rất mạnh và làm tăng trưởng kinh tế khu vực.
Do buôn bán trong các nước EU chiếm đến 60% ngoại thương của cả khối, nên việc
sử dụng một đồng tiền chung sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh trao đổi ngoại thương giữa
các nước EU và ít bị ảnh hưởng xấu do sự giao động tỷ giá của đồng USD vì sẽ không
còn tình trạng đồng tiền này mất giá so với USD trong khi đồng tiền khác lại lên giá.
Tuy nhiên, việc ra đời EMU và duy trì đồng tiền chung ổn định và mạnh không chỉ có
những mặt thuận mà sẽ còn gây không ít khó khăn cho những nước tham gia EMU;
+ Trong việc phối hợp chính sách kinh tế tiền tệ; Việc ngân hàng Trung ương châu
Âu đảm nhiệm chức năng điều hành chính sách tiền tệ của cả khối sẽ làm cho các
nước tham gia EMU mất đi công cụ để điều tiết nền kinh tế và sẽ rất khó khăn cho các
nước này mỗi khi kinh tế gặp khủng hoảng.
+ Việc duy trì được một đồng EURO mạnh là một vấn đề khó khăn cho các nước
tham gia vì các nước này có các nền kinh tế phát triển ở những mức độ khác nhau,
mỗi nước đều có những khó khăn riêng. Việc dung hoà lợi ích của các nước là một
cuộc đấu tranh gay go đòi hỏi phải có sự thoả hiệp lớn của mỗi nước. Mặt khác, để
đảm bảo cho EMU vận hành tốt, các nước tham gia phải tiếp tục phấn đấu đảm bảo
các chỉ tiêu EMU áp đặt, buộc chính phủ các nước này phải có những chính sách ngặt
nghèo trong ngân sách chi tiêu, chính sách thuế phải thắt lưng buộc bụng, cắt giảm
chi tiêu cho phúc lợi xã hội. Điều này có thể gây ra những phản ứng mạnh mẽ trong
dân chúng, nhất là trong tầng lớp dân nghèo, trong ngành giáo dục, như đã từng diễn
ra ở nhiều nước Tây Âu trong mấy năm gần đây, và sẽ gây khó khăn cho các chính
phủ đương quyền mỗi khi các cuộc bầu cử đến gần.
3.2 Đối với thế giới:
6
3.2.1 Ảnh hưởng cuả EURO đến ngoại thương
Xem xét mức độ ảnh hưởng của EURO tới ngoại thương giữa các nước thì
phải tính đến trước tiên là những tác động của EURO tới nội bộ giữa các nước

Châu Âu. Điều này cũng sẽ gián tiếp ảnh hưỏng đến ngoại thương của Châu Âu
với các nước ngoài liên minh Châu Âu.
Các doanh nghiệp Châu Âu sẽ sử dụng EURO như một phương tiện tính
toán trong các giao dịch thương mại nằm trong nội bộ của liên minh. Giao dịch
thương mại trong lòng EMU (khu vực EURO) chiếm tới 60% tổng kim nghạch
ngoại thương của các nước thành viên. Các nhà nhập khẩu Châu Âu sẽ sử dụng
EURO trong tất cả các giao dịch thương mại vì việc sử dụng EURO sẽ tránh
được những rủi ro về tỷ giá do không chuyển đổi giữa các đồng tiền quốc gia.
Chẳng hạn như một nhà xuất khẩu Pháp xuất khẩu hàng hoá sang Đức. Dù lùa
chọn đồng tiền thanh toán nào thì một trong hai bên Ýt nhất phải thực hiện một
đồng tiền chuyển đổi. Điều này một mặt làm cho sự tính toán, thanh toán phức
tạp hơn. Mặt khác nó cũng sẽ làm tăng chi phí do việc chuyển đổi gây ra họăc có
thể gặp phải những rủi ro tỷ giá nếu không có biện pháp bảo đảm hối đoái thích
hợp.
Việc cho ra đời EURO và sư phát triển ổn định của các nước thuộc khu vực
làm cho thị trường trở nên hấp dẫn hơn với hàng hoá các nước khiến các nước
tìm cách tăng xuất khẩu vào vùng EURO. Như vậy, buôn bán nội bộ 11 nước sẽ
tăng nhanh hơn. EURO sẽ đẩy nhanh được quá trình hình thành các tập đoàn
kinh tế lớn siêu quốc gia chi phối xuất nhập khẩu trên thị trường Châu Âu. Điều
này có thể dễ dàng lý giải cùng một đồng tiền, nhất thể hoá kinh tế kéo theo sự
dễ dàng mở các chi nhánh sang các nước Châu Âu thuộc liên minh của các công
ty Châu Âu đồng thời cũng là nhân tố làm cho các công ty Châu Âu dễ hợp nhất
với nhau để tăng cưòng sức cạnh tranh trên trường quốc tế.
Ngoài ra, đồng EURO sẽ làm mạnh thêm tiềm lực ngoại thương của các nước
trong khối, làm cho khối thị trường chung Châu Âu củng cố tăng cường trở
thành một trung tâm kinh tế thương mại mạnh nhất thế giới
Bên cạnh việc tác động đến ngoại thương của nội bộ các nước trong khu
vực EU, đồng EURO còn tác động đến ngoại thương các nước khác.
-Tại khu vực Trung và Đông Âu: Vì thực tế những nước này đa phần là
những ứng cử viên gia nhập EU và có truyền thống quan hệ thương mại với

EURO nên do đó đồng EURO có thể được sử dụng trong ngoại thương phổ biến
tại khu vực này
-Tại Châu Phi: vì rất nhiều quốc gia thuộc khu vực này vốn là thuộc địa
của Pháp trước kia, các đồng tiền của họ có xu hướng gắn liền với đồng Franc.
Hơn nữa, buôn bán của Châu Phi với Châu Âu chiếm tỷ trọng lớn trong thương
mại của Châu Phi nên để tiếp tục trao đổi ngoại thương, khu vực này nhất thiết
phải sử dụng đồng EURO và sẽ chịu tác động bởi đồng EURO đến hoạt động
kinh tế- tài chính của mình.
-Các nước ven Địa Trung Hải: Có hai lý do để khẳng định EURO có thể
gây ảnh hưởng mạnh tới ngoại Thuương của khu vực này. Thứ nhất, do truyền
thống quan hệ thương mại chặt chẽ với EU. Thứ hai là triển vọng xây dựng khu
vực mậu dịch tự do EU - Địa Trung Hải vào năm 2010.
7
Nói chung thì EURO ra đời sẽ làm cho quan hệ ngoại thương EMU trở
thành thuận lợi hơn. Nhưng mức độ thuận tiện của mỗi nước lại khác. Chẳng
hạn như Trung Quốc lại cho rằng do hàng hoá của mình xuất khẩu vào Châu Âu
có ít những thuận lợi hơn so với các nước Đông Âu. Các nhà xuất khẩu của
Trung Quốc lo ngại sẽ bị các doanh nghiệp đó đánh bật ra khỏi thị trường Châu
Âu. Trên thực tế trong thời kỳ từ khi EURO ra đời, xuất khẩu của Trung Quốc
sang EMU đã giảm hẳn. Trong khi đó ngược lại với Trung Quốc, Nga nhận định
sẽ đặc biệt có lợi cho ngoại thương của Nga, chẳng hạn nhập khẩu của Nga từ
EMU sẽ rẻ hơn từ khoảng 30 – 40% so với trước đây.
-Khu vực các nước ASEAN: EU và ASEAN đã có quan hệ từ lâu, ngay sau
khi ASEAN được thành lập năm 1967. Đến năm 1980, ký kết hiệp định hợp tác
EU – ASEAN, đặc biệt đánh dấu quan hệ ngoại thương EU - ASEAN phát triển
mạnh từ hai cuộc Hội nghị thượng đỉnh hợp tác Á- Âu ASEM I tại BangKok và
ASEM II tại London mà quan hệ EU- ASEAN là nòng cốt. Trong xu thế tăng
cường hợp tác như thoả thuận hai khối tại hai hội nghị thượng đỉnh trên, hợp tác
thương mại sẽ có nhiều cơ hội để khai thác, đặc biệt trước bối cảnh của sự ra đời
đồng tiền chung Châu Âu. Đồng tiền chung EURO ra đời sẽ tạo nhiều cơ hội và

thách thức cho sự phát triển hợp tác EU - ASEAN.
Các chuyên gia kinh tế đề cập nhiều tới tác động của EURO tới việc thúc
đẩy tăng trưởng xuất khẩu của các nước Đông Nam Á.
3.2.2 Ảnh hưởng của EURO tới thanh toán quốc tế.
EURO ra đời là một sự kiện lớn trong đời sống kinh tế quốc tế vì nó sẽ
được sử dụng khá rộng rãi trong quan hệ kinh tế và trong thanh toán quốc tế
giữa các nước trên thế giới. Theo dự báo thì việc sử dụng EURO trong quan hệ
thanh toán quốc tế bước đầu sẽ chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch thương mại
toàn cầu, tỷ lệ này có khả năng tăng nhanh trong khi tỷ lệ đôla ngày càng giảm.
Từ ngày 01/01/1999 EURO được đưa vào sử dụng, quan hệ thanh toán
quốc tế vì thế cũng có những thay đổi lớn để phù hợp với những yêu cầu và điều
kiện của đồng EURO.Sau khi đồng EURO ra đời hệ thống tài chính thế giới sẽ bị thay
đổi cơ bản. Những thay đổi này sẽ bắt đầu từ việc thanh toán các loại dịch vụ và buôn
bán quốc tế, kể cả các giao dịch thị trường chứng khoán, sau đó đến việc giải toả dự
trữ ngoại tệ ở các quốc gia. Hơn nữa, bên cạnh việc sử dụng USD như trước đây, trên
thị trường sẽ xuất hiện thêm EURO, do đó trong tương lai không xa, nhu cầu sử dụng
USD giảm bắt buộc sẽ dẫn đến việc giảm giá của USD, và như vậy việc ra đời của
EURO không chỉ tác động đến lĩnh vực tiền tệ mà sẽ tác động cả đến lĩnh vực kinh tế
và chính sách kinh tế của các quốc gia.
- Sự cạnh tranh về tiền tệ giữa đồng USD và đồng EURO có thể sẽ gây ra một số rạn
nứt trong quan hệ giữa Mỹ và EU và thúc đẩy xu thế đa cực, đa trung tâm trong quan
hệ quốc tế phát triển.
Chính phủ Mỹ tuy bên ngoài đã có những tuyên bố hoan nghênh sự ra đời của đồng
EURO và EMU, nhưng thực tế bên trong cũng hết sức lo ngại. Trước hết như đã phân
tích, đồng EURO ra đời sẽ là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm đối với đồng USD và
từng bước làm giảm vị trí truyền thống của đồng USD. Để đảm bảo cho đồng EURO
ổn định và vững mạnh, các chính phủ các nước tham gia EMU cũng như Ngân hàng
Trung ương châu Âu sẽ cần phải có những chính sách bảo vệ và khuyến khích sử dụng
8
đồng EURO, điều này chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng bất lợi cho vị trí của đồng USD ở

châu Âu và do đó sẽ gây một số thiệt hại về lợi ích cho Mỹ ở châu lục này. Cuộc đấu
tranh vì lợi ích và ảnh hưởng kinh tế ở châu Âu giữa Mỹ và Liên minh Châu Âu sẽ trở
nên quyết liệt hơn.
- Sau khi EURO ra đời, do những thuận lợi của thị trường thống nhất có trình độ phát
triển cao và ổn định, khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài của các
nước EU sẽ mạnh hơn trên các mặt hàng công nghệ cao và đòi hỏi vốn lớn. Do đó có
thể thấy trước được là một phần vốn đầu tư của thế giới sẽ dồn vào các nước EU sau
khi đồng EURO ra đời. Trong mấy năm qua, các công ty lớn của Mỹ và Nhật đã có
những biện pháp và chuẩn bị cho sự kiện này và họ đã ít nhiều thiết lập được chỗ
đứng của mình thông qua các đối tác nội địa để tận dụng được lợi thế của việc sản
xuất tại chỗ đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tránh được thuế nhập khẩu khi liên
minh hình thành.
- Một trong những vấn đề đặt ra cho các nước bạn hàng và con nợ của các nước thành
viên EMU là tỷ lệ chuyển đổi giữa đồng tiền quốc gia nước chủ nợ với đồng EURO.
Tuy đồng ECU đã tồn tại trong thanh toán quốc tế được một thời gian và quy định
chuyển đổi ngang bằng với đồng EURO làm dễ dàng phần nào những giao dịch
thương mại mới, nhưng những khoản nợ từ viện trợ, đầu tư bằng đồng tiền quốc gia
cần có hướng giải quyết thoả đáng. Vì tuy rằng tỷ giá chuyển đổi đồng tiền quốc gia
sang đồng EURO là cố định, nhưng lãi suất sẽ có sự khác nhau giữa các nước tham
gia EMU. Cho nên điều quan trọng là các nước nợ phải có những trao đổi và thương
lượng để đi đến thống nhất một tỷ lệ lãi suất thích hợp sao cho số nợ không bị gia tăng
do việc ra đời của đồng EURO./.
3.3.3 Ảnh hưởng của EURO tới dự trữ quốc tế.
Ảnh hưởng đầu tiên và trước hết là sự ra đời của EURO sẽ thay thế cho
đồng tiền dự trữ của các quốc gia thành viên. Khi chưa ra đời, thì các đồng tiền
quốc gia thuộc liên minh cũng chiếm một phần dự trữ quốc tế đáng kể trên thế
giới. Khi các quốc gia này chuyển đổi sang đồng EURO sẽ đẩy số tiền dự trữ
bằng đồng EURO tăng lên.
Bên cạnh đó, với những quốc gia hiện đang dự trữ bằng các đồng tiền như:
FRF, DEM vốn đã là những ngoại tệ mạnh của các nước thuộc liên minh sẽ

chuyển phần dự trữ này sang đồng EURO. Điều này sẽ là đương nhiên xảy ra,
cho đến tháng 1 năm 2002 thì nội tệ của các nước thuộc liên minh EMU sẽ rút
khỏi lưu thông , nhường chỗ cho EURO.
Hơn nữa, trước sức mạnh to lớn của liên minh Châu Âu chắc chắn sẽ có
nhiều quốc gia chuyển một phần dự trữ từ vàng và đôla Mỹ sang EURO. Việc
nhận định EURO có độ tin cậy là hoàn toàn có cơ sở. Hạ tầng kinh tế đảm bảo,
EURO lại được quản lý bởi Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) độc lập chỉ
có mục tiêu duy nhất ổn định giá cả.
Ngoài ra, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước khu vực Châu Á
mới đây mà thực chất là sự mất giá nghiêm trọng của đồng nội tệ so với đồng
USD đã phá hoại nền kinh tế của các nước khu vực này. Kết cục là nhiều nước
đã đặt dấu chấm hỏi về tình trạng dùa dẫm quá nhiều một ngoại tệ là đồng đôla.
Theo công bố gần đây của các nước như Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore,
9
Hàn Quốc, Đài Loan quyết định chuyển một phần dự trữ ngoại tệ từ USD sang
đồng EURO. Chẳng hạn như ngân hàng Trung ương Thái Lan đã chuyển 10%
dự trữ ngoại tệ sang đồng EURO.
Theo bộ tài chính Nhật Bản, tính tới cuối tháng 9/2000, dự trữ ngoại tệ của
Nhật Bản đạt mức kỷ lục là 348,95 tỷ USD, tăng 4,09 tỷ so với tháng trước.
Mức tăng này một phần là do sù can thiệp chung của các ngân hàng Trung ương
châu Âu, Mỹ, Nhật Bản và Canada vào việc mua đồng EURO. Dự trữ này gồm
các chứng khoán và tiền gửi bằng các đồng ngoại tệ, các quỹ dự trữ của Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF), các quyền rút vốn đặc biệt (SDR) và vàng của IMF đã
vượt mức kỷ lục là 344,89 tỷ USD trong tháng 7.
Nói tóm lại, sự ra đời của đồng EURO đã có ảnh hưởng đáng kể đến toàn
bộ nền kinh tế- tài chính- tiền tệ thế giới. EURO đã chấm dứt kỷ nguyên tiền tệ
đơn cực với sự thống soái của đồng USD, tạo ra một hệ thống tiền tệ đa cực gồm
các thành tố chủ yếu là EURO, USD và JPY
.Bảng 1. Cơ cấu dự trữ ngoại hối toàn cầu theo loại tiền
Năm 1999 2005 2006 2007 2008 2009 2010

201
1
Tổng dự trữ ngoại hối chính
thức (nghìn tỷ USD) 1,8 4,3 5,3 6,7 7,3 8,2 9,3
10,
2
Dự trữ thống kê được và có
phân loại tỷ trọng tiền
tệ (nghìn tỷ USD) 1,4 2,8 3,3 4,1 4,2 4,6 5,2 5,6
Đôla Mỹ (%) 71,0 66,9 65,5 64,1 64,1 62,0 61,862,1
Đồng Euro (%) 17,9 24,1 25,1 26,3 26,4 27,7 26,025,0
Yên Nhật (%) 6,4 3,6 3,1 2,9 3,1 2,9 3,7 3,7
Bảng Anh (%) 2,9 3,6 4,4 4,7 4,0 4,2 3,9 3,9
Các loại khác (%) 1,8 1,9 2,0 2,0 2,3 3,2 4,6 5,3
3.3 Đánh giá sức mạnh của đồng Euro
3.3.1 Hiện tại: Euro biến động mạnh, vai trò và vị thế suy giảm
Kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, tỷ giá đồng Euro biến động mạnh
hơn và nhìn chung theo xu thế đi xuống. Vai trò và vị thế của đồng tiền chung này
cũng suy giảm theo, đặc biệt trong bối cảnh cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu có
nguy cơ biến thành cuộc khủng hoảng xã hội và thể chế, khiến Eurozone phải đối
mặt với nguy cơ tan rã. Điều này làm nảy sinh câu hỏi về khả năng tồn tại của đồng
Euro.Trước đây, với những tiêu chí chặt chẽ để được tham gia khu vực Eurozone
(như thâm hụt ngân sách quốc gia dưới 3% GDP, nợ công dưới 60% GDP, minh
bạch về ngân sách ), đồng Euro đã tạo sự tin cậy khá cao trong giới tài chính quốc
tế kể từ khi ra đời. Tuy nhiên, kể từ khi Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha rơi vào
10
cuộc khủng hoảng nợ công, cùng với tình trạng nợ công ngày càng xấu đi ở các
nước thành viên khác thì giá trị và sức mạnh của đồng Euro đã bị suy giảm theo.
Tính từ đầu năm 2009 đến 25/6/2012, chỉ số giá Euro đã giảm 16,1%. Đồng Euro
giảm giá 8,6% so với USD, giảm 15,8% so với GBP, giảm 20,5% so với JPY, giảm

19,7% so với CHF và giảm 24,5% so với CAD trong giai đoạn 2009-2012. Đặc biệt,
chỉ trong vòng 1 năm trở lại đây, chỉ số giá đồng Euro giảm 9,8%, trong đó, đồng
Euro giảm 12,3% so với USD, giảm 10% so với GBP, giảm 13,7% so với JPY.Cùng với
sự suy giảm về giá trị, vai trò và vị thế quốc tế của đồng Euro cũng chịu tác động
tiêu cực. Tỷ trọng dự trữ bằng đồng Euro giảm từ mức 27,7% vào năm 2009 xuống
mức 25% vào cuối năm 2011, dù vẫn là đồng tiền dự trữ quốc tế lớn thứ hai trên
thế giới. Lo ngại về khả năng đồng Euro sụp đổ đã lên đến đỉnh điểm trên thị
trường tài chính quốc tế khi các nhà đầu tư từ chối mua một số loại trái phiếu
chính phủ châu Âu. Lãi suất trái phiếu chính phủ nhiều nước thuộc Eurozone đã
tăng lên mức cao kỷ lục trong những tháng cuối năm 2011. Lãi suất trái phiếu của
Italia đã tăng lên mức 7,6-7,9%/năm ; Lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm
của Pháp đã tăng 0,5 điểm phần trăm; Lãi suất trái phiếu 10 năm của Đức cũng
tăng 0,145 điểm phần trăm lên 2,056%, đe dọa nghiêm trọng đến sự ổn định của
khu vực
.Hình 1. Các giai đoạn biến động tỷ giá EUR/USD kể từ khi đồng Euro ra đời
Nhằm tăng cường củng cố và bảo vệ đồng Euro, tại Hội nghị Thượng đỉnh EU
tháng 12/2011, 26/27 thành viên EU (trừ Anh) đã đồng ý đưa ra một thỏa thuận
mới về giám sát tài chính chặt chẽ hơn. Theo đó, giới hạn thâm hụt cơ cấu sẽ ở mức
0,5% GDP của mỗi nước thành viên, trong khi đó trần nợ công vẫn duy trì ở mức
3% GDP, kèm theo điều luật mới quy định nếu nước nào vi phạm sẽ tự động bị
trừng phạt nặng nề.Một giải pháp khác cũng được thông qua nhằm cứu nguy cho
khu vực Eurozone đó là thành lập quỹ cứu trợ thường trực của khu vực có quy mô
500 tỷ Euro với tên gọi là Cơ chế Ổn định châu Âu (ESM), dự kiến có hiệu lực vào
11
tháng 7/2012. ESM sẽ được cấp một giấy phép hoạt động trong lĩnh vực ngân
hàng, giúp ESM có thể tiếp cận thanh khoản của Ngân hàng Trung ương châu Âu
(ECB), nâng cao khả năng của cơ chế này đối phó với cuộc khủng hoảng nợ của khu
vực Eurozone. ESM cũng có khả năng trực tiếp tái cấp vốn cho các ngân hàng. Mặc
dù vậy, để thỏa thuận này được ký kết vào năm tới với sự tham gia của 17 nước
thành viên và 9 nước còn lại sẽ không phải là vấn đề đơn giản.

3.3.2 Triển vọng đồng Euro trong bối cảnh khủng hoảng nợ công châu Âu
Nhìn chung, các giải pháp chính sách tích cực của các nhà lãnh đạo châu Âu đưa
ra trong năm 2011 và nửa đầu 2012 đã tạo nên những bước tiến quan trọng trong
việc giải quyết cuộc khủng hoảng nợ công, tuy nhiên, hầu hết các giải pháp chưa đi
vào giải quyết vấn đề dài hạn của khu vực này.Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng
nợ công vẫn còn có thể lan rộng và gây hậu quả nghiêm trọng, hầu hết các dự báo
đều cho rằng đồng Euro sẽ tiếp tục mất giá so với các đồng tiền chủ chốt trong năm
2012-2013.
Kết quả khảo sát ngày 7/6/2012 do Reuters thực hiện đối với 55 tổ chức, ngân
hàng, công ty tài chính cho thấy đồng Euro sẽ yếu đi so với USD, JPY và GBP trong
vòng 1 năm tới. Tỷ giá Euro/USD sẽ giảm xuống mức 1,24 Euro/USD trong vòng 3
tháng tới và tiếp tục giảm xuống 1,253 Euro/USD trong vòng 12 tháng tới.Dự báo
của các tổ chức, tập đoàn tài chính gồm Morgan Stanley, Barclays Capital, Nomura,
Scotiabank (tháng 6/2012) cho thấy triển vọng còn bi quan hơn của đồng Euro
trong vòng 1 năm tới. Theo đó, tỷ giá Euro/USD sẽ giảm xuống mức 1,21-1,23 trong
vòng 3 tháng tới, tiếp tục giảm xuống mức 1,19-1,23 Euro/USD trong vòng 6 tháng
tới và thậm chí giảm tiếp còn 1,15 – 1,18 Euro/USD(theo Barclays Capital and
Morgan Stanley) trong vòng 1 năm tới.
Triển vọng của đồng Euro còn phụ thuộc vào diễn biến của cuộc khủng hoảng nợ
công châu Âu vẫn chưa đến hồi kết và dự báo về khả năng khu vực Eurozone có
vượt qua được khủng hoảng bằng các biện pháp cải cách của mình hay không, hay
phải buộc tách nhóm (một số nước khủng hoảng trầm trọng như Hy Lạp, Tây Ban
Nha có thể rút ra khỏi khu vực đồng tiền chung) hoặc thậm chí tan rã - theo như
kịch bản xấu nhất được dự báo.
Tuy nhiên, theo tác giả bài viết, kịch bản khu vực Eurozone sẽ hướng đến cải
cách mạnh mẽ nhằm vượt qua khủng hoảng có phần khả thi hơn cả trong bối cảnh
hai nước lớn là Đức và Pháp, cùng với cả khu vực đang rất nỗ lực với hàng loạt các
biện pháp cải cách (thành lập Quỹ bình ổn châu Âu, nâng cao vai trò của ECB, tái cơ
cấu các nền kinh tế yếu kém, kiểm soát chặt chẽ hệ thống tài chính ngân hàng và
chi tiêu công của các nước thành viên). Mặc dù vậy, ngay cả trong kịch bản lạc

quan nhất này, khu vực Eurozone vẫn phải đối mặt với những khó khăn và thách
thức trong nỗ lực cải cách, xuất phát từ nhiều khía cạnh:
(i) Một là, nợ của các nước PIIGS (gồm Bồ Đào Nha, Italia, Ailen, Hy Lạp và Tây Ban
Nha) đã tăng từ mức 75% năm 2007 lên mức 87% trong năm 2011. Trong số 2.200
tỷ Euro mà các thể chế tài chính và các ngân hàng EU ngoài nhóm PIIGS cho các
nước này vay, có 567 tỷ Euro là nợ chính phủ, 534 tỷ Euro là cho các công ty phi
ngân hàng vay và 1.000 tỷ Euro cho các ngân hàng vay. Việc các ngân hàng thương
12
mại châu Âu (trong đó có cả ECB) nắm giữ một lượng lớn nợ của các nước PIIGS sẽ
khiến nợ xấu của các ngân hàng này tăng mạnh và làm lan truyền rủi ro cho cả hệ
thống ngân hàng châu Âu.
(ii) Hai là, Hiệp ước Maatstrict thiết lập một đồng tiền chung dựa trên liên minh
tiền tệ và các quy tắc ngăn chặn tình trạng mất cân bằng ở khu vực công, nhưng
chưa tính đến các quy tắc điều chỉnh đối với các thể chế tài chính ngân hàng của
khu vực cũng như biến động trên thị trường tiền tệ;
(iii) Ba là, khả năng thanh khoản và định mức tín nhiệm của các ngân hàng trong
khu vực đồng Euro đã và đang giảm sút, nguy cơ khủng hoảng ngân hàng tăng lên;
(iv) Bốn là, để vượt qua khủng hoảng, khu vực này cần điều chỉnh được tình trạng
mất cân bằng trong một thập kỷ qua để hướng đến cải cách tài chính bền vững
hơn, lấy lại niềm tin của các thị trường tài chính.
Nếu không vượt qua được những thách thức trên, khu vực Eurozone và đồng Euro
có thể sẽ phải đối mặt với sự tan rã trong những năm tới. Theo như nhận định của
ông Joseph Stiglitz - chuyên kinh tế đoạt giải Nobel thì: “Các chuyên gia kinh tế sẽ
không còn phải thảo luận câu hỏi liệu đồng Euro có sụp đổ hay không nữa mà là khi
nào và bao giờ điều đó sẽ xảy ra”.
II-Khả năng thống nhất tiền tệ của khu vực ASEAN
1 Đánh giá về các điều kiện của khối ASEAN
1.1 Khả năng hình thành một thị trường tự do di chuyển các yếu tố:
* Sự tự do lưu thông hàng hoá:
Cho đến nay các nước ASEAN đã đạt được những kết quả đáng khích lệ

trong việc tạo lập một thị trường hàng hoá tự do lưu thông.:
+ Hiệp định CEPT của AFTA năm 2003 các nước ASEAN 6 đã cắt giảm thuế quan
xuống 0-5%.2007 dự định 80% danh mục mặt hàng IL (mặt hàng thuộc danh mục
xóa bỏ thuế quan) và PIS sẽ giảm thuế nhưng chỉ có Malaixia và Singapore thực
hiện được.Theo lộ trình thì đến 2010 tất cả các mặt hàng IL sẽ giảm thuế xuống
0%.
Do Việt Nam gia nhập sau nên lộ trình thực hiện cam kết của Việt Nam đến năm
2013 sẽ cắt giảm thuế xuống 0-5% tất cả các danh mục mặt hàng. Đồng thời, theo
Hiệp định e-ASEAN, Việt Nam sẽ phải xoá bỏ thuế quan cho hơn 300 mặt hàng
thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin trong giai đoạn từ 2008-2010. Hàng rào thuế
quan sẽ được xoá bỏ hoàn toàn vào năm 2015, ngoại trừ một số mặt hàng thuộc
danh mục nhạy cảm như hàng nông sản, ô tô, sẽ xoá bỏ trong năm 2018 (hiện đang
tiếp tục đàm phán về lộ trình thực hiện cụ thể).
Biểu đồ1 : tỷ lệ thuế quan năm 2009
13
Tính đến năm 2009, tỷ lệ thuế quan của 6 nước Asean bao gồm Singapo, Thái Lan….
Là 0,79%, của 4 nước còn lại (CLMV) gồm Campuchia, Lào, Mianma, Việt Nam là
3% và của Asean nói chung là 1,65%.
Biểu đồ 2 :Tỷ lệ các mặt hàng nhóm IL được cắt giảm thuế quan theo CEPT
Các nhóm mặt hàng IL bao gồm các mặt hàng thuộc danh mục xóa bỏ hoàn toàn
thuế quan. Dự vào biểu đồ 2 có thể thấy so với năm 2000, tỷ lệ các mặt hàng thuộc
nhóm Il được cắt giảm thuế quan đã tăng đáng kể. Đặc biệt là ở 4 nước Campuchia,
Lào, Mianma và Việt nam tỷ lệ này tăng lên gần 2 lần từ 52,1% năm 2000 đến
98,6% năm 2009.
Nhìn chung trong toàn khối Asean, tỷ lệ này cũng đã lên tới 99,1% năm 2009.
=>mục tiêu dỡ bỏ hàng rào thuế quan đối với các mặt hàng nhóm IL của Asean sẽ
được hoàn thành trong tương lai gần.
* Sự tự do lưu chuyển vốn và lao động
Nói đến khả năng ASEAN trở thành một khu vực tự do di chuyển các dòng
vốn, chắc chắn phải nhắc đến Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA) với

những mục tiêu của Hiệp định này là:
Xây dựng một Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA) có môi trường đầu tư thông thoáng và
rõ ràng hơn giữa các quốc gia thành viên, nhằm:
i). đẩy mạnh đầu tư vào ASEAN từ các nguồn cả trong và ngoài ASEAN;
ii). cùng thúc đẩy ASEAN thành khu vực đầu tư hấp dẫn nhất;
iii). củng cố và tăng cường tính cạnh tranh của các lĩnh vực kinh tế của
ASEAN;
iv). giảm dần hoặc loại bỏ những quy định và điều kiện đầu tư có thể cản trở
các dòng đầu tư và sự hoạt động của các dự án đầu tư trong ASEAN;
v).Đảm bảo rằng việc thực hiện những mục tiêu trên sẽ góp phần hướng tới
tự do luân chuyển đầu tư vào năm 2020.
=>Như vậy :các nước Asean đang tiến tới thực hiện một khu vực thị trường tự do di
chuyển các yếu tố sản xuất nhằm bước đầu tiến tới thống nhất tiền tệ.
1.2 khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của khối:
Ổn định kinh tế vĩ mô là 1 trong những điều kiện quan trọng để hình thành một
liên minh tiền tệ. Môi trường kinh tế vĩ mô tương lai của các nước thành viên càng
ổn định thì các nước càng ít sử dụng đến các chính sách tiền tệ của riêng nước
14
mình để đối phó với các cú sốc. vì thế các nước chỉ cần sử dụng một chính sách tiền
tệ chung và như vậy sẽ dễ dàng tham gia vào một khu vực đồng tiền chung hơn.
Các nước ASEAN hiện đang hợp tác với nhau để hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ
mô của nước mình tiến tới một môi trường kinh tế vĩ mô ổn đinh. Và ở hội nghị cấp
cao ASEAN 14 - CC14 (27/2 – 1/3/2009), các nước ASEAN đã cam kết thúc đẩy hợp
tác và tăng cường phối hợp trong các chính sách kinh tế vĩ mô.
- Bình quân thu nhập theo đầu người của các nước ASEAN chênh lệch khá xa, cao
nhất là Singapore với 38 064$/người & thấp nhất là Myanmar với 465$/người.
Bình quân thu nhập đầu người của nhóm ASEAN 6 là 3 729$/người, cao gấp 4,6 lần
so với các nước CMLV (813$/người).
- về tốc độ tăng trưởng GDP bình quân, nhóm CLMV có mức tăng trưởng GDP là
6% cao hơn so với nhóm ASEAN 6 là 4.2%

Về một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác của các nước ASEAN như tỷ lệ thâm hụt
ngân sách so với GDP…
Bảng so sánh thâm hụt ngân sách chung của ASEAN so với GDP
Country 2008 2009 2010 2011 2012
Brunei (21,91) (27,92) (6,19) (25,83) (23,98)
Cambodia 0,5 0,07 6,25 3,13 4,52
Indonesia 1,26 0,08 1,6 0,7 1,6
Lao 5,96 6,1 5,87 8,9 7,73
Malaysia 3,2 4,8 7,4 5,6 5,3
Myanmar 3,83 2,32 4,56 4,48 5,5
The philipines0,1 0,9 3,7 3,5 2
Singapore (12,05) (8,12) 0,5 (0,3) (0,7)
Thailand 0,9 1,3 4,8 2 1,5
Viet nam 4,6 3,1 9,3 6,6 4,4
Đông Timor 0,67 0,6 0,17 (3,61)
Nguồn:Trading economics.com
Nhìn chung, tỷ lệ thâm hụt ngân sách so với GDP của các nước trong ASEAN là
thấp hơn so với các nước trên thế giới.
Như vậy, có thể thấy khả năng hình thành một môi trường kinh tế vĩ mô ổn đinh,
thống nhất của khu vực ASEAN là một điều tất yếu sẽ đến trong tương lai. Đặc biệt,
trong CC14, ASEAN tuyên bố cam kết đến năm 2015 sẽ trở thành 1 cộng đồng với 3
trụ cột. Đó là hợp tác chính trị & an ninh, hợp tác kinh tế, hợp tác văn hóa xã hội.
15
1.3 khả năng thiết lập 1 cơ chế liên kết tỷ giá:
Để có hoàn thành việc thống nhất tiền tệ thì một bước quan trọng là phải
tạo được một cơ chế tỷ giá ổn định và tạo được sự liên kết tỷ giá giữa các nước
trong khối. ASEAN đã có những bước khởi đầu để xây dựng một cơ chế tỷ giá như
trên: đó chính là “sáng kiến Chiềng Mai” với những lộ trình của nó.
 Sáng kiến Chiềng Mai (CMI):
Sáng kiến Chiềng Mai được đưa ra từ năm 2000, sau cú sốc tài chính khu vực 1997

– 1998, mục đích tạo ra một cơ chế bao gồm các thỏa thuận hoán đổi song phương
giữa các nước ASEAN và ASEAN + 3, thông qua việc thành lập một quỹ tiền tệ của
khu vực ASEAN có sự tham gia của các nước Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.
Sáng kiến Chiềng Mai gồm hai nội dung chính là:
- Mở rộng Thoả thuận Hoán đổi ASEAN (ASA) cho 10 nước thành viên ASEAN tham
gia
- Thiết lập một mạng lưới các Thoả thuận Hoán đổi Song phương (BSA) và Thoả
thuận mua lại (Repo) giữa các nước ASEAN và ba nước đối tác Nhật bản, Trung
quốc và Hàn quốc.
=>Trọng tâm của Sáng kiến Chiang Mai là thỏa thuận hỗ trợ tài chính giữa 13
nước, mục đích là tăng cường cơ chế hỗ trợ trong khu vực để đối phó với khủng
hoảng tiền tệ. Thỏa thuận này được xây dựng dựa trên Thoả thuận Swap ASEAN
trước đây (ASA), nhằm bổ sung cho cơ chế hợp tác tài chính quốc tế hiện nay và
góp phần ổn định tỷ giá trong khu vực.
 Bản thỏa thuận đa phương hóa sáng kiến Chieng mai (CMIM).
28/12/2009 Bản thỏa thuận đa phương hóa Sáng kiến Chieng mai (CMIM) giữa Bộ
trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương ASEAN+3 và cơ quan quản
lý tiền tệ Hong Kong, Trung Quốc được ký kết sau khi đạt được sự thống nhất đối
với tất cả các cấu phần chính của CMIM tại Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN+3
(AFMM+3) vào tháng 5/2009 tại Bali, Indonesia.
CMIM được thành lập với mục tiêu tăng cường khả năng của khu vực nhằm đối phó
với các rủi ro và biến động ngày càng tăng của kinh tế toàn cầu. Các mục tiêu chính
của CMIM là giải quyết các khó khăn cán cân thanh toán và thanh khoản ngắn hạn
trong khu vực, đồng thời bổ sung các thỏa thuận tài chính quốc tế hiện hành.
Thỏa thuận CMIM, với tổng quy mô là 120 tỷ đôla sẽ cung cấp các hỗ trợ tài chính
thông qua các giao dịch hoán đổi tiền tệ cho các bên tham gia CMIM khi gặp khó
khăn cán cân thanh toán hoặc thanh khoản ngắn hạn. Từng bên tham gia CMIM
theo các quy định và điều khoản trong thỏa thuận sẽ được quyền hoán đổi đồng
16
bản tệ với đồng đôla Mỹ với số tiền được xác định bằng mức đóng góp của nước đó

nhân với hệ số vay
Về cơ chế ra quyết định của CMIM, các vấn đề căn bản sẽ được quyết định thông
qua cơ chế đồng thuận giữa các nước thành viên ASEAN+3 trong khi các vấn đề cho
vay đối với một nước thành viên sẽ được quyết định thông qua cơ chế biểu quyết
theo đa số.
Nước thành
viên
Vốn góp (tỷ
đô la)
Tỷ lệ vay Nước thành
viên
Vốn góp (tỷ
đô la)
Tỷ lệ vay
Brunei 0,03 2,5 Malaysia 4,77 2,5
Cambodia 0,12 5 Mianmar 0,06 5
China(bao
gồm Hồng
kong)
TQ không
bao gồm
HK 34,2
0,5 Philipin 3,68 2,5
Hồng kong
4,2
2,5 Singapore 4,77 2,5
Indonesia 4,77 2,5 Thai lan 4,77 2,5
Nhật 38,4 0,5 Việt nam 1 5
Hàn quốc 19,2 1 lào 0,03 5
Các vấn đề Các nguyên tắc ra quyết

định
Các vấn đề cơ bản Kiểm điểm (quy mô Quỹ,
mức vốn góp, hệ số vay),
Tái chấp nhận thành viên,
xem xét tư cách thành
viên, các điều khoản cho
vay.
Đồng thuận
Các vấn đề cho vay Quyết định cho vay Biểu quyết theo đa số
Gia hạn khoản vay, đánh
17
giá trường hợp mất khả
năng thanh toán
=>Như vậy có thể thấy những sáng kiến và tiến bộ trên của ASEAN dù còn kiêm tốn
nhưng đã có những đóng góp quan trọng trong nỗ lực ổn định hợp tác của khu vực
để ổn định tài chính, ngăn ngừa và hạn chế tác hại của khủng hoảng, là tiền đề
quan trọng trong việc tiến tới việc kết tỷ giá chặt chẽ hơn trong tương lai.
2.4 Khả năng hình thành một NHTW độc lập với một chính sách tiền tệ và
một đồng tiền thống nhất.
Khi hợp nhất tiền tệ, các nước sẽ cùng nhau thành lập NHTW chung, Ngân
hàng này chịu trách nhiệm đưa ra các biện pháp ổn định tiền tệ chung cũng như
chính sách tiền tệ cho các nước thành viên (như NHTW Châu Âu). Hiện tại các nước
ĐNA chưa có kế hoạch cụ thể về việc thành lập Ngân hàng trung ương chung mặc
dù đã có ý tưởng như việc thành lập Viện tiền tệ Châu Á hay Quĩ tiền tệ Châu á (các
năm 1997 rùi 2000,đến Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN lần thứ 12 (AFMM12)
3-4/4/2008 cũng họp về vấn đề này).
Về đồng tiền chung, hiện các nước ASEAN đang cân nhắc hai khả năng: sử
dụng một đồng tiền bản tệ hoặc hình thành một đồng tiền mới.
Về khả năng lấy một đồng bản tệ trong khu vực làm đồng tiền chung thì
đồng đôla Singapore được có thể được chọn, với lý do nền kinh tế Singapore có khả

năng cạnh tranh cao, dịch vụ và công nghệ cao chiếm tỷ trọng lớn, chính sách kinh
tế vĩ mô thông thoáng và hiệu quả, cơ chế quản lý ngoại hối linh hoạt, dự trữ ngoại
tệ và thặng dư thương mại lớn. Nhưng một số ý kiến khác cho rằng quy mô kinh tế
và thị trường tài chính tiền tệ của Singapore quá nhỏ, đồng đôla Singapore chưa
hoàn toàn chuyển đổi tự do nên khó có thể đảm nhận vai trò đồng tiền chung khu
vực. Mặt khác, việc khu vực hoá đồng đôla Singapore sẽ làm cho quy mô lưu thông
của đồng tiền này lớn hơn, gây khó khăn cho chính phủ nước này trong việc điều
hành chính sách tài chính tiền tệ nên chính phủ Singapore ngần ngại trong việc
chấp thuận đồng tiền nước mình trở thành đồng tiền chung khu vực.
Khả năng thứ hai là hình thành một đồng tiền mới cho ASEAN như kiểu đồng
Euro. Tuy nhiên, hiện nay chưa xuất hiện hình thái chuẩn bị nào cho một đồng tiền
như vậy và các nước ASEAN mới chỉ tích cực nghiên cứu tìm ra giải pháp cho việc
triển khai ý tưởng này dựa trên kinh nghiệm phát hành đồng Euro.
2. Lợi ích mà đồng tiền chung ASEAN có thể mang lại:
• Về lý thuyết, liên minh tiền tệ ra đời sẽ đem lại những lợi ích sau:
18
- Hệ thống tỷ giá hối đoái sẽ có độ tin cậy cao hơn do các nước thành viên
có trách nhiệm hỗ trợ cho nhau để thực hiện cam kết của mình.
- Khả năng chống đầu cơ tiền tệ cao hơn.
- Khuyến khích thương mại đầu tư trong khu vực kể cả nhà đầu tư ngoài
khu vực.
- Tránh được tình trạng đồng tiền phá giá cạnh tranh nhau.
• Những nguồn lợi mà đồng tiền chung ASEAN có thể mang lại:
Sự ra đời của đồng tiền chung ASEAN sẽ mang lại rất nhiều lợi ích
cho các nước thành viên trong mọi mặt cụ thể như Kinh tế, Thương
mại, Ngân hàng, Ngoại hối,… đồng thời cũng là nhân tố cơ bản làm
thay đổi vị trí địa lí kinh tế - tiền tệ - tài chính quốc tế cho khu vực.
Đồng tiền chung ASEAN ra đời cũng sẽ tạo ra một cuộc cạnh tranh
quyết liệt với USD, JYP, EUR. Sự kiện này cũng sẽ đưa vị trí của
châu Á nói chung và ASEAN nói riêng lên một tầm cao mới.

Cụ thể, các nước thành viên sẽ được hưởng những lợi ích quan trọng
và căn bản như sau:
- Châu Á sẽ thực sự đi vào con đường hội nhập quốc tế, có giải
pháp cụ thể ứng phó với quá trình toàn cầu hóa kinh tế.
- Thị trường chung châu Á sẽ trở nên thực sự thống nhất và có hiệu
quả hơn.
- Tiết kiệm đáng kể chi phí giao dịch ngoại hối.
- Giảm thiểu rủi ro và chi phí bảo hiểm rủi ro về tỷ giá hối đoái,
tăng cường sự ổn định tiền tệ và ổn định kinh tế vĩ mô, đồng
thời khuyến khích đầu tư, kích thích tăng trưởng, thúc đẩy kinh
tế phát triển, tìm lại tốc độ tăng trưởng cao, hạn chế thất
nghiệp, tạo thêm nhiều việc làm mới.
3. Những ảnh hưởng của đồng tiền chung ASEAN tới các quốc gia
thành viên
3.1 Ảnh hưởng tích cực
19
Từ những lợi ích mà đồng tiên chung ASEAN có thể mang lại, ta có
thể suy ra được những tác động tích cực nếu ASEAN có một đồng tiên
chung tới các quốc gia thành viên như là:
- Đối với các nước có nhiều giới hạn trong việc thực hiện hiệu quả
chính sách tiền tệ độc lập thì đây là một thuận lợi. Điều này
xuất phát từ thị trường vốn ở các nước này còn nhỏ và Ngân
hàng Trung Ương còn yếu, do đó thành tích trong việc điều
hành chính sách tiền tệ còn chưa cao. Vì vậy, những mất mát về
kinh tế là không lớn đối với các nước này. Mặt khác, việc gia
nhập một Liên minh tiền tệ sẽ giúp các nước này tạo được một
sự ổn định về mặt vĩ mô cho nền kinh tế nhờ vào những nước
mà trước đây đã có được những thành tích tốt trong việc thực
hiện chính sách tiền tệ trước khi tham gia Liên minh tiền tệ.
- Thúc đẩy quan hệ thương mại và đầu tư nội khối, giảm rủi ro gắn

liền với sự biến động của các đồng tiền thanh toán phổ biến
đang sử dụng.
- Khuyến khích đầu tư lẫn nhau giữa các nước, cũng như thu hút
đầu tư nước ngoài. Điều này xuất phát từ việc đồng tiền chung
ASEAN sẽ tạo ra cơ hội cho các nước thành viên giảm chi phí
giao dịch trong kinh doanh xuyên biên giới, đồng thời xóa bỏ sự
không ổn định trong tỷ giá chuyển đổi giữa các nước trong khối.
- Một thị trường tiêu thụ hàng hóa rộng hơn, thuận lợi hơn cũng
được mở ra, tạo điều kiện cạnh tranh mạnh mẽ hơn cho ASEAN.
Tăng cường sức cạnh tranh cơ bản của nền kinh tế, củng cố tiềm lực,
đồng thời mang lại sức mạnh cho ASEAN vững vàng tiến bước trên
con đường hội nhập toàn cầu hóa kinh tế, đủ sức cạnh tranh với các tổ
chức khác.
3.2 Ảnh hưởng tiêu cực
Sự ra đời của đồng tiên chung ASEAN sẽ dẫn đến một số bất lợi
cho các quốc gia thành viên. Công với những nhược điểm vốn có của
mình, đồng tiền chung ASEAN đang gặp phải những trở ngại có thể xảy
ra cần phải được xem xét kĩ nếu một quốc gia nào đó thuộc ASEAN muốn
tham dự vào. Đó là:
20
- Sự mất tự chủ trong việc quyết định chính sách tiền tệ quốc gia.
Điều này xuất phát từ việc trong Liên minh tiền tệ không có
chính sách tiền tệ độc lập. Tuy nhiên, cái giá phải trả này nhiều
hay ít là hoàn toàn phụ thuộc vào việc các nước thành viên đã
thực hiện chính sách tiền tệ trong nước tốt đến mức nào trước
khi gia nhập Liên minh.
- Sự gia nhập Liên minh đôi khi sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp
cho một số nước. Điều này sẽ gây ra những phản ứng không tốt
từ phía dân chúng, làm ảnh hưởng đến tiến trình gia nhập đồng
tiền chung. Sự thất nghiệp này xuất phát từ sự phân công lao

động lại, cũng như tiến trình chuyên môn hóa sản xuất sẽ xảy ra
đối với các quốc gia thành viên.
- Thực tế, mức độ phát triển kinh tế giữa các nước là không đồng đều (về
trình độ công nghiệp hóa, thu nhập, mức sống, dự trữ ngoại tệ, tỉ lệ lạm
phát, vốn đầu tư, trình độ công nghệ,…). Nếu các nước gia nhập Liên
minh thì các nền kinh tế ốm yếu có thể nhanh chóng tạo ra rắc rối cho
những nền kinh tế mạnh hơn như cuộc khủng hoảng khu vực đồng tiền
chung Euro ở Liên minh châu Âu đã minh chứng. Nhưng khoảng cách
giữa Hy Lạp và Đức còn hẹp hơn nhiều so với vực thẳm kinh tế hiện
đang ngăn cách giữa Cam-pu-chia – một trong những quốc gia kém phát
triển nhất thế giới và Singapore – một trong những nước giàu nhất.
- Sự tranh chấp chủ quyền đất liền, vùng biển đảo, đặc biệt là tranh chấp
biển Đông và các cuộc xung đột sắc tộc - tôn giáo, phong trào li khai và
chủ nghĩa khủng bố đang có xu hướng gia tăng cùng với sự bất ổn về
chính trị trong một số nước thành viên cũng sẽ làm cho mâu thuẫn xã
hội thêm sâu sắc, ảnh hưởng trực tiếp đến việc liên minh tiền tệ ASEAN.
21

×