Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự ở quận tây hồ, thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

PHẠM VIỆT ANH

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ Ở QUẬN TÂY HỒ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

Chuyên ngành:
Mã số:

Xây dựng đảng và chính quyền nhà nƣớc
8 31 02 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƢỚC

Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. NGUYỄN THỊ NGỌC HOA

HÀ NỘI – 2022


XÁC NHẬN LUẬN VĂN ĐÃ ĐƢỢC CHỈNH SỬA
Luận văn đã được chỉnh sửa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm luận
văn thạc sĩ.
Hà Nội, ngày……..tháng…….năm 202…..
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG



PGS, TS. Phạm Minh Sơn


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

PHẠM VIỆT ANH


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ CẤP HUYỆN............ 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước đối với hoạt động thi
hành án dân sự cấp huyện .............................................................................. 7
1.2. Nội dung và phương pháp quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành
án dân sự cấp huyện ..................................................................................... 15
1.3. Các điều kiện đảm bảo để quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành
án dân sự cấp huyện ..................................................................................... 26
Chƣơng 2: QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ Ở QUẬN TÂY HỒ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY –
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG, THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ
KINH NGHIỆM ............................................................................................ 32

2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước về thi hành án
dân sự ở quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội hiện nay..................................... 32
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự ở
quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội hiện nay ................................................... 45
2.3. Nguyên nhân và kinh nghiệm ............................................................... 56
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở
QUẬN TÂY HỒ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI ................... 63
3.1. Phương hướng tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành
án dân sự ở quận Tây Hồ ............................................................................. 63
3.2. Giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động
THADS ở quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội................................................. 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 92
TÓM TẮT LUẬN VĂN ................................................................................ 97


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHV

Chấp hành viên

Nxb

Nhà xuất bản

QLNN

Quản lý nhà nước


QPPL

Quy phạm pháp luật

THA

Thi hành án

THADS

Thi hành án dân sự

THAHC

Thi hành án hành chính

THAHS

Thi hành án hình sự

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Thi hành án dân sự là hoạt động của Nhà nước để đưa bản án, quyết
định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án, của các cơ quan có thẩm
quyền khác được tôn trọng và thực hiện trên thực tế nhằm bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần giữ vững
kỷ cương, phép nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy,
thi hành án nói chung, THADS nói riêng đã trở thành một nguyên tắc hiến
định. Điều 106 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Bản án, quyết định của Tịa
án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn
trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Điều 4 Luật Thi hành án dân sự 2008, được sửa đổi bổ sung năm 2014 quy
định “Bản án, quyết định quy định tại Điều 2 của Luật này phải được cơ quan,
tổ chức và mọi công dân tơn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan
trong phạm vi trách nhiệm của mình chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết
định và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án”.
Từ Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta chính thức khởi
xướng và lãnh đạo đổi mới đất nước. Việc xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung
bao cấp chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã làm thay
đổi sâu rộng mọi mặt đời sống xã hội, đưa nước ta sang một giai đoạn phát
triển mới. Công cuộc đổi mới đất nước làm xuất hiện những yêu cầu khách
quan, tất yếu phải cải cách và hoàn thiện bộ máy nhà nước để phù hợp với
tình hình mới.
Hoạt động THADS tại Việt Nam có xu hướng gia tăng về quy mô và
phức tạp của các đối tượng bị tác động. Đảng và Nhà nước ta ln có chủ
trương thực hiện các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật một
cách kịp thời và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức,



2

cơng dân. Hoạt động THADS đã phần nào góp phần quan trọng trong thực
hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động thi hành án dân sự ngày càng hoàn
thiện và đồng bộ với hệ thống pháp luật chung của Nhà nước. Ngồi ra mơ
hình tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ thực hiện hoạt động thi hành án từng
bước được hoàn thiện và đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ.
Hoạt động quản lý công tác THADS ở quận Tây Hồ bên cạnh những
kết quả đạt được, tuy nhiên trong thực tế hoạt động này vẫn còn nhiều vướng
mắc: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa điều chỉnh sâu và đầy đủ các
hình thức hoạt động thi hành án dân sự trong thời kỳ mới: Điển hình như tại
một số bản án được Tịa án nhân dân xét xử đã có hiệu lực pháp luật quyết
định việc xử lý tài sản thế chấp của cá nhân (hay tổ chức) khi cá nhân (hay tổ
chức) đó khơng cịn khả năng trả nợ thì tài sản tại thời điểm kê biên ln có
sự thay đổi so với thời điểm thế chấp gây nhiều khó khăn trong quá trình giải
quyết thi hành án hoặc khi kê biên, phát mại tài sản của người phải thi hành
án trong khối tài sản của hộ gia đình, khó khăn lớn nhất là việc xác định tài
sản là tài sản của hộ gia đình hay của vợ chồng và xác định các thành viên tại
thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình….Đội ngũ
cán bộ chưa thực sự đáp ứng với các yêu cầu của quá trình cải cách tư pháp.
Theo báo cáo thống kê từ năm 2016 – 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự
quận Tây Hồ, tổng số việc và tiền phải thi hành trong năm 2016 số việc phải
giải quyết là: 734 việc, tổng số tiền phải giải quyết là: 308.122.388.000 đồng.
Tuy nhiên sang đến năm 2020: tổng số việc phải giải quyết là: 1491 việc,
tổng số tiền phải giải quyết là: 1.086.791.791.000 đồng. Kết quả cho thấy, tỷ
lệ việc và tiền phải giải quyết ngày càng có xu hướng tăng mạnh nhưng chỉ
tiêu biên chế công chức công tác tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Tây Hồ
được giao tại thời điểm hiện tại là 14 người.



3

Xuất phát từ những lý do cơ bản nêu trên, tác giả đã chọn và nghiên
cứu đề tài: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự ở quận
Tây Hồ, thành phố Hà Nội hiện nay” là yêu cầu khách quan, cấp bách cả về
phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, đã có một số cơng trình nghiên cứu có liên quan
đến đề tài trên; cụ thể như sau:
- Hoàng Kim Chiến (1997), “Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự”,
Luận văn thạc sỹ luật học, Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật.
- Nguyễn Quang Thái (2008), “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt
động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ, Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Đậu Thị Thủy (2008), “Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự qua
thực tế ở Thanh Hóa”, Luận văn thạc sỹ luật học, Viện Nhà nước và Pháp
luật.
- Nguyễn Thanh Thủy (2008), “Hoàn thiện pháp luật về thi hành án
dân sự ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ, Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
- Bộ Tư pháp (2009), “THADS, thực trạng và hướng hoàn thiện của dự
án VIE/98/001”.
- Cục THADS và Bộ Tư pháp (2010),“Mơ hình quản lý thống nhất
cơng tác thi hành án”, mã số 96-98-027/ĐT.
- Nguyễn Thế Ánh (2011), “Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự
qua thực tiễn tỉnh Hưng Yên”, Học viện Khoa học xã hội.
- Phan Thị Thu Hằng (2011), “Quản lý nhà nước đối với hoạt động thi
hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện
Khoa học xã hội.



4

- Phạm Huy Ân (2012), “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành
án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện
Khoa học xã hội.
- Trần Phương Hồng (2012), “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Luật văn thạc sỹ Luật học, Học viện
Khoa học xã hội.
- Giáp Văn Bền (2013), “Quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt
động thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang”, Luận văn thạc sỹ luật
học ,Học viện Khoa học xã hội.
- Trần Minh Nam (2013), “Tổ chức và hoạt động của Chi cục Thi hành
án dân sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sỹ luật học, Học
viện Khoa học xã hội.
- Nguyễn Văn Vạn (2013), “Thi hành án hành chính ở Việt Nam”,
Luận văn thạc sỹ Quản lý hành chính cơng, Học viện Hành chính Quốc gia.
- Lê Văn Hữu (2014), “Quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân
sự thực tiễn tại tỉnh Quảng Nam”, Luật văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa
học xã hội.
- Lê Quỳnh Nga (2014), “Thi hành án dân sự - qua thực tiễn tỉnh Bắc
Ninh”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Những công trình nói trên đã nghiên cứu về lĩnh vực THADS ở những
góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau, ít nhiều cũng đã có đề cập đến vấn đề
vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực THADS. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn
chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu về nội
dung này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Từ những lý luận về hoạt động thi hành án dân sự ở cấp huyện và quản
lý nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự ở quận Tây Hồ; phân tích,


5

đánh giá và đưa ra phương hướng, giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối
với hoạt động thi hành án dân sự ở quận Tây Hồ trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của
luận văn được đặt ra như sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm của hoạt động thi hành án dân sự ở
cấp huyện.
- Phân tích, đánh giá quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành án
dân sự ở quận Tây Hồ.
- Trên cơ sở đó đưa ra phương hướng, giải pháp tăng cường quản lý nhà
nước đối với hoạt động thi hành án dân sự ở quận Tây Hồ trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự ở quận Tây Hồ,
thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực tiễn quản lý Nhà nước đối với hoạt
động thi hành án dân sự ở quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội giai đoạn năm
2016 đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng về cải cách bộ máy
hành chính nhà nước.

5.2. Cơ sở thực tiễn
Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động THADS ở quận Tây
Hồ, thành phố Hà Nội từ giai đoạn năm 2016 đến năm 2020.


6

5.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng
các phương pháp như: nghiên cứu tài liệu, phân tích các cơ sở lý luận, tổng
hợp, so sánh giữa lý luận và thực tiễn áp dụng, thống kê các số liệu báo cáo
của hoạt động quản lý nhà nước về thi hành án dân sự tại quận Tây Hồ…
6. Đóng góp mới của đề tài
Đưa ra những đóng góp mới để tăng cường cơng tác quản lý nhà nước
về thi hành án dân sự ở Việt Nam nói chung và của quận Tây Hồ nói riêng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về mặt lý luận: Đề tài góp phần làm sáng tỏ phương diện lý luận, làm
cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thiện việc quản lý nhà nước đối với hoạt động thi
hành án dân sự ở Việt Nam nói chung và với hoạt động thi hành án dân sự ở
quận Tây Hồ nói riêng.
- Về mặt thực tiễn: Đề tài góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn
để giúp cho cơ quan có thẩm quyền tham khảo, vận dụng những kết quả
nghiên cứu của luận văn trong việc triển khai và thực hiện có hiệu quả cơng
tác quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung chính của luận văn gồm 03 chương, 8 tiết.


7


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ CẤP HUYỆN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nƣớc đối với hoạt
động thi hành án dân sự cấp huyện
1.1.1. Khái niệm
Quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự được nghiên
cứu trên cơ sở lý thuyết về QLNN theo ngành và lĩnh vực, đồng thời chú
trọng tới nội hàm QLNN đối với các hoạt động mang tính chất hành vi cụ thể.
Đó là hoạt động quản trị nhà nước do các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền và các chủ thể có liên quan được nhà nước trao quyền
tiến hành theo từng ngành, lĩnh vực cụ thể hoặc theo hình thức quản lý đa
ngành, đa lĩnh vực. Do đó, khi nghiên cứu QLNN đối với hoạt động THADS
cần xem xét về những đặc điểm chung của QLNN theo ngành, lĩnh vực. Đồng
thời, cần thấy rằng, QLNN đối với hoạt động THADS là một bộ phận của
QLNN đối với hoạt động mang tính chất đặc trưng, điển hình của hành chính
- tư pháp: hoạt động THADS. QLNN đối với hoạt động THADS được tiến
hành thông qua hoạt động tổ chức, điều hành của các cơ quan nhà nước, tổ
chức, cá nhân được nhà nước giao quyền nhằm tổ chức và phối hợp để giải
quyết những nhiệm vụ của THADS, mà cụ thể là đảm bảo các yếu tố vật chất,
tinh thần, pháp lý... cho hoạt động THADS được triển khai trong thực tiễn.
Quá trình QLNN đối với hoạt động THADS là quá trình chấp hành luật pháp,
ban hành các văn bản cụ thể hóa các QPPL điều chỉnh hoạt động THADS; tổ
chức điều hành để đưa các văn bản QPPL đó vào thực tiễn THADS; xây dựng
và hồn thiện tổ chức bộ máy tiến hành hoạt động THADS; đào tạo, quản lý
nguồn nhân lực phục vụ hoạt động THADS; tiến hành kiểm tra việc thực hiện
chủ trương, chính sách của Đảng pháp luật của nhà nước và những văn bản



8

QPPL về THADS; kịp thời uốn nắn và xử lý các vi phạm trong hoạt động
THADS; đảm bảo cơ sở vật chất, phương tiện cho hoạt động THADS; nâng
cao hiệu quả, hiệu lực QLNN đối với THADS nhằm đảm bảo cho mọi bản án
quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành nhanh chóng,
đầy đủ và đúng pháp luật.
Như vậy, QLNN đối với hoạt động THADS là q trình tác động có
mục đích của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở Hiến pháp và pháp
luật đối với hoạt động THADS theo các nguyên tắc và phương pháp quản lý
nhằm đảm bảo rằng hoạt động THADS tiến hành đúng pháp luật, đáp ứng
được mục tiêu đảm bảo quyền con người, quyền công dân, lợi ích nhà nước,
cơng bằng xã hội và phát triển bền vững.
Cụ thể hơn, QLNN đối với hoạt động THADS được hiểu là hoạt động
của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền nhằm đảm bảo cho: một là, bản án,
quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật được chấp hành đầy đủ,
nghiêm chỉnh, đúng luật; hai là, đảm bảo hiệu lực điều hành, quản lý hoạt
động THADS của bộ máy nhà nước; ba là, tuân thủ nghiêm ngặt những quy
định của pháp luật về THADS, đảm bảo pháp chế và những yêu cầu khác đối
với THADS; bốn là, tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án một cách
đầy đủ, hiệu quả buộc những người bị THA phải thi hành bản án, quyết định
của Tòa án; năm là, ngăn chặn, phòng ngừa, tiếp tục đấu tranh với những
hành vi vi phạm trật tự quản lý ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực QLNN trong
lĩnh vực THADS.
Như vậy, QLNN đối với hoạt động THADS là một bộ phận của quản lý
hành chính - tư pháp, do những cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền
tiến hành trên cơ sở những quy định của pháp luật về THADS nhằm hiện thực
hóa những quy định của pháp luật THADS về thực hiện từng vấn đề cụ thể
trong bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên và đã có hiệu lực pháp luật;
thơng qua hoạt động tổ chức quản lý, THADS để hoàn thiện pháp luật, chính



9

sách, cơ chế, tổ chức bộ máy, chế độ kiểm tra, thanh tra... trong THADS; tăng
cường ý thức tôn trọng pháp luật và pháp chế XHCN, góp phần đảm bảo sự
ổn định chính trị - xã hội của đất nước, tạo tiền đề thuận lợi cho việc thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo phát triển bền vững và
tạo nền tảng cho tính nhân văn trong THADS.
1.1.2. Đặc điểm
- Chủ thể tiến hành QLNN đối với hoạt động THADS cấp huyện là cơ
quan cấp trên trực tiếp quản lý và UBND cấp huyện. Ngoài ra, hoạt động
quản lý của cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thẩm quyền đối với hoạt
động THADS có quan hệ chặt chẽ với cơ quan Tư pháp (Tòa án) và Viện
kiểm sát. Hiệu quả, hiệu lực QLNN đối với hoạt động THADS phụ thuộc rất
nhiều vào việc thực thi trách nhiệm, nhiệm vụ của Tòa án, Viện kiểm sát đối
với hoạt động THADS. Tính đặc thù của QLNN đối với hoạt động THADS
giúp phân biệt rõ chức năng thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan quản lý và
cơ quan Tòa án (thực hiện chức năng xét xử) trong lĩnh vực THADS, từ đó
xây dựng cơ chế phối hợp trong thực hiện những nhiệm vụ cụ thể của QLNN
đối với hoạt động THADS. Như vậy, tính chất quan trọng của đối tượng
QLNN là hoạt động THADS đòi hỏi chủ thể quản lý - cơ quan hành chính nhà
nước có thẩm quyền phải có năng lực quản lý cao, đảm bảo đầy đủ các yếu tố
chính trị, tư tưởng, văn hóa, pháp lý, vật chất, lực lượng... cho hoạt động
QLNN trong đối với hoạt động này.
- Khách thể: đối tượng chịu sự QLNN đối với hoạt động THADS là
hoạt động của cơ quan THADS cấp huyện, cán bộ, công chức, người lao động
công tác tại cơ quan THADS cấp huyện và hoạt động chấp hành bản án của
người phải THA, người được THA và những cá nhân, tổ chức có liên quan.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành án cấp huyện gồm quản lý về tổ

chức và quản lý về nghiệp vụ THADS, nhằm đảm bảo hoạt động THADS là
hoạt động đưa pháp luật THADS vào đời sống thực tiễn, khắc phục những


10

khó khăn phức tạp của q trình quản lý, thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế xã
hội phát triển. Thông qua quản lý về tổ chức, khẳng định các cơ quan THADS
thống nhất đầu mối QLNN từ trung ương đến địa phương. Trao trách nhiệm
cho từng cá nhân trong hệ thống thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ thuộc
thẩm quyền, chống lạm quyền, tham nhũng, lãng phí trong quá trình THADS.
Đồng thời, hướng dẫn nghiệp vụ, phổ biến, tuyên truyền chủ trương, quan
điểm mới của Đảng, các văn bản pháp luật mới của nhà nước về lĩnh vực
THADS để hoạt động THADS được thơng suốt.
- Mục đích: QLNN đối với hoạt động THADS cấp huyện là quá trình
tác động có mục đích. Chủ trương của Đảng và nhà nước ta là quản lý xã hội
bằng pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân đã được thể chế hóa trong các chế định pháp
luật cụ thể. Điều 8, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước được tổ chức
và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và
pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Các cơ quan nhà nước,
cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân
dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của
Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện
quan liêu, hách dịch, cửa quyền”. Việc đảm bảo thực thi trên thực tế những
bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật có ý nghĩa hết sức
quan trọng nhằm thực hiện nhiệm vụ chung đã được quy định tại Điều 106,
Hiến pháp 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Tịa án nhân dân đã có
hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ
chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Từ những nhiệm vụ

và yêu cầu trên mục tiêu cơ bản của QLNN đối với hoạt động THADS cấp
huyện là: đảm bảo cho mọi bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp
luật đều phải được thi hành kịp thời, đầy đủ, nghiêm minh và đúng pháp luật,
phát huy hiệu lực xét xử của Tòa án, giáo dục nhân dân ý thức tôn trọng pháp


11

luật, phục vụ đắc lực nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN.
1.1.3. Vai trò
Quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự cấp huyện là
hoạt động quản trị nhà nước đặc biệt nhằm mục đích nâng cao tính hiệu lực,
hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước và bảo vệ quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân. QLNN đối với hoạt động THADS cấp
huyện nếu được sử dụng đúng mục đích sẽ mang lại những vai trị như sau:
Thứ nhất, QLNN đối với hoạt động THADS nhằm đảm bảo cho các
chủ thể quản lý và đối tượng chịu sự quản lý hoạt động đúng pháp luật. Để
đảm bảo các chủ thể quản lý hoạt động THADS hoạt động đúng pháp luật,
địi hỏi trước hết ở chính các chủ thể đó phải có sự hiểu biết về pháp luật,
trước hết là Luật THADS, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố
tụng Hành chính, Luật Trọng tài và các quy định pháp luật khác liên quan đến
chuyên ngành dân sự như Luật Thương mại, Luật Hợp tác xã, Luật Cạnh
tranh, Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật lao động… Bên cạnh đó là sự tôn
trọng pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật, trên cơ sở đó các chủ thể mới
đảm bảo thực hiện trọn vẹn quyền và nghĩa vụ của người phải THADS, phát
huy được vai trò của họ trong đảm bảo trật tự xã hội, không để hoạt động
chây ỳ, chậm THADS ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể khác. Nhà nước
với nhiệm vụ và quyền năng của mình đề ra pháp luật, tuyên truyền pháp luật
và đảm bảo việc tuân thủ pháp luật về THADS, đồng thời thông qua các biện

pháp cưỡng chế thi hành nếu có biểu hiện vi phạm pháp luật. Trong quá trình
THADS, người được THADS, người phải THA, CHV và công chức, người
lao động công tác tại cơ quan THADS cấp huyện và các chủ thể có liên quan
đều có những quyền được pháp luật xác định và bảo hộ, đồng thời cũng có
những nghĩa vụ đối với nhà nước, đối với xã hội. Đây là những quyền và
nghĩa vụ pháp lý do pháp luật xác định và đảm bảo thực hiện.


12

Thứ hai, QLNN đối với hoạt động THADS cấp huyện nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, người phải THA và người
được THA. Đồng thời hạn chế những rủi ro, thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân
và chính các CHV, cơng chức, người lao động công tác tại cơ quan THADS
cấp huyện. Trong xã hội hiện nay, khi đất nước ta đang trong giai đoạn phát
triển nền kinh tế thị trường và hịa nhập chung vào sự phát triển kinh tế sơi
động của thế giới, hoạt động THA là yếu tố quan trọng tháo bỏ nút thắt trong
các tranh chấp đã được Tòa án ra phán quyết để đưa các quan hệ tài sản và
nhân thân về đúng trật tự của nó, đảm bảo cho các chủ thể có tài sản sử dụng
tài sản của mình nằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Hơn nữa, những nội
dung cơ bản trong QLNN đối với hoạt động THADS như đối tượng quản lý,
hình thức, nội dung, chất lượng QLNN đối với THADS được xác định cụ thể
sẽ có tác động tốt đến toàn bộ hoạt động THADS như: chất lượng, hiệu quả
hoạt động THADS, thời gian, kinh phí, tranh chấp vướng mắc trong THADS,
thậm chí vấn đề đạo đức, xã hội, kinh tế cũng được kiểm soát khi THADS
được quản lý chặt chẽ.… vì vậy, cơ quan có thẩm quyền cần phải đứng ra quản
lý hoạt động THADS để đảm bảo xã hội được hài hòa và ổn định.
Hoạt động THADS không chỉ diễn ra giữa người được THA và người
phải THA với nhau, mà nó cịn có mối liên hệ mật thiết giữa các chủ thể khác
có liên quan tới đối tượng phải THADS trong xã hội. Vì vậy, hoạt động

QLNN là hướng tới bảo vệ cho các chủ thể khách nhau trong xã hội, và cuối
cùng chính là bảo vệ xã hội trong vòng trật tự cần thiết vốn có của nó. Để
đảm bảo quyền và và lợi ích hợp pháp của người được THA, người phải THA
và các tổ chức, cá nhân trong xã hội, nhà nước ban hành nhiều văn bản pháp
luật có liên quan đến THADS nhằm tăng cường hoạt động QLNN.
Thứ ba, QLNN đối với hoạt động THADS nhằm đảm bảo hiệu lực xét
xử của Tòa án, củng cố niềm tin của người dân đối với cơng lý. Mặc dù, pháp
luật đó quy định “Bản án, quyết định phải được cơ quan, tổ chức và mọi công


13

dân tơn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan trong phạm vi trách
nhiệm của mình chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định và phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án” (Điều 106 Hiến pháp 2013)
[42; tr.15]. Tuy nhiên, trên thực tế không phải mọi bản án, quyết định đó có
hiệu lực pháp luật đều được thi hành nghiêm chỉnh. Nguyên nhân của thực
trạng này có thể xuất phát từ bản thân phía người phải THA, từ bản thân bản
án, quyết định của Tồ án; từ phía các cơ quan THA hoặc từ các cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác. Như vậy, trên thực tế một bản án, quyết định có được thi
hành nghiêm chỉnh hay khơng nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, có cả yếu tố
chủ quan và khách quan. Có thể nói, pháp luật đó quy định khá rõ ràng về
trình tự, thủ tục các bước THA nhằm đảm bảo mọi bản án, quyết định đó có
hiệu lực pháp luật phải được thi hành. Tuy nhiên quá trình thi hành một bản
án, quyết định lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố chủ quan của cơ quan, cán
bộ trực tiếp làm công tác THA. Hai giai đoạn cơ bản ảnh hưởng đến việc
THA và là ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên THA đó là giai
đoạn hoà giải, thuyết phục để các bên tự nguyện THA và giai đoạn xác minh
điều kiện THA để làm cơ sở cho việc hoặc là sẽ cưỡng chế THA hoặc là xếp
vụ án vào loại khơng có điều kiện thi hành.

Thứ tư, QLNN đối với hoạt động THADS đóng vai trò tăng cường khả
năng phát hiện và xử lý vi phạm đối với người làm cơng tác THADS. Trong
q trình QLNN đối với hoạt động THADS, CHV có nhiệm vụ thi hành đúng
nội dung bản án, quyết định của Toà án, đồng thời áp dụng đúng các quy định
của pháp luật về trình tự, thủ tục THA, đảm bảo lợi ích của nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. CHV
và các cán bộ có liên quan đồng thời phải thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực
đạo đức của cán bộ ngành Tư pháp ... Việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của
CHV, của các cơ quan THADS cấp huyện có ảnh hưởng trực tiếp và rất lớn
đến quyền, lợi ích của bên được THA nói riêng, của cơ quan, tổ chức, cá nhân


14

và đến ổn định trật tự xã hội, đến niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo
của Đảng nói chung. Do đó, mọi hành vi vi phạm pháp luật của CHV, cơ
quan THADS cấp huyện phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh.
Việc phát hiện và xử lý vi phạm này trước hết phải được thực hiện ngay trong
bản thân nội bộ các cơ quan THA. Đó là việc tự phát hiện để khắc phục, sửa
chữa vi phạm của mỗi CHV, cán bộ làm công tác THA; việc kiểm tra và phát
hiện xử lý của thủ trưởng cơ quan THA đối với CHV; của cơ quan THA cấp
trên đối với cơ quan THA cấp dưới. Ngoài ra, việc tăng cường kiểm tra, giám
sát từ bên ngoài đối với hoạt động THA nhằm kịp thời phát hiện và xử lý vi
phạm của CHV và cơ quan THA cấp huyện cũng hết sức cần thiết. Việc kiểm
tra, giám sát này nhằm mục đích trước tiên là ngăn chặn, phịng ngừa vi phạm
pháp luật của cán bộ, cơng chức cơ quan THA cấp huyện, qua đó đảm bảo
quyền lợi của các bên trong quan hệ THA. Việc vi phạm pháp luật của cá
nhân, cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động THADS có thể được thể hiện
dưới nhiều hình thức từ mức độ nhẹ đến mức độ nặng. Trong phạm vi thẩm
quyền kiểm sát THADS, Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện có quyền kháng

nghị với Tồ án nhân dân, cơ quan THA cùng cấp, CHV, cơ quan, tổ chức,
đơn vị có trách nhiệm trong việc thi hành; yêu cầu đình chỉ việc THA, sửa đổi
hoặc bài bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc THA; nếu có dấu hiệu
tội phạm thì khởi tố hình sự. Ngồi ra, trong q trình QLNN về kiểm tra,
giám sát hoạt động THADS nếu phát hiện có hành vi cản trở THA thì có thể
sẽ bị xử lý theo về tội cản trở việc THA theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Việc QLNN đối với hoạt động THADS thơng qua cơ chế kiểm tra giám
sát có thể dẫn đến phải đình chỉ THADS, sửa đổi, huỷ bỏ quyết định THADS;
kháng nghị bản án, quyết định đó được thi hành, thậm chí đề nghị xử lý hình
sự nếu việc THADS là sai, cố tình vi phạm pháp luật. Do vậy, kết quả của nó
đem lại đó là bản thân mỗi CHV, mỗi cơ quan THADS cấp huyện phải nâng


15

cao tinh thần, trách nhiệm của mình, phải trung thực và thi hành đúng, chính
xác bản án, quyết định của Toà án.
1.2. Nội dung và phƣơng pháp quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động
thi hành án dân sự cấp huyện
1.2.1. Nội dung
- Tham mưu cho cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật đối với hoạt động thi hành án dân sự cấp huyện:
Trong khoa học pháp lý, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được
hiểu từ khái niệm xây dựng pháp luật được giới luật học thừa nhận là: “Xây
dựng pháp luật là một hoạt động phức hợp bao gồm một phạm vi rộng lớn các
hành vi kế tiếp nhau, quan hệ chặt chẽ với nhau, do nhiều chủ thể có vị trí,
chức năng, quyền hạn khác nhau tiến hành nhằm chuyển hố ý chí của giai
cấp cầm quyền thành những quy tắc pháp lý, thể hiện chúng dưới những hình
thức pháp luật”. Điều này cho thấy, ban hành văn bản QPPL quản lý hoạt
động THADS là một nội dung QLNN đặc thù, nhằm tạo nên các quy phạm

pháp luật điều chỉnh các hoạt động THADS theo mục đích, đảm bảo hiệu lực
của bản án, quyết định của Tòa án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh Trọng
tài thương mại được các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng, đồng
thời, đảm bảo rằng các cơ quan, tổ chức có liên quan trong phạm vi trách
nhiệm của mình phải nghiêm chỉnh chấp hành bản án, quyết định và phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc THADS. Việc ban hành Luật THADS
năm 2008 (sửa đổi năm 2014) đã góp phần quan trọng để các cơ quan quản lý
THA các cấp xây dựng hành lang pháp lý nhằm triển khai thực hiện Hiến
pháp và pháp luật, quyết định các hình thức, phương pháp QLNN cũng như
việc áp dụng pháp luật trong hoạt động THADS. Việc xây dựng, ban hành các
văn bản QPPL trong QLNN ngày càng bài bản, nền nếp, bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp và tính khả thi. Tuy vậy, q trình triển khai thực hiện vẫn cịn
có sự nhận thức chưa thống nhất về việc xác định, phân biệt giữa các văn bản


16

pháp luật và văn bản dưới luật về QLNN đối với hoạt động THADS. Việc nhà
nước ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo nên hệ thống các
nguyên tắc, chuẩn mực chung để các chủ thể khi tham gia mối quan hệ xã hội
trong lĩnh vực THADS phải tn theo mà khơng có ngoại lệ. Các văn bản
QPPL điều chỉnh hoạt động THADS mang tính bắt buộc chung, phổ quát,
không tạo ra ngoại lệ nên là đại lượng chung, mẫu số chung để từ đó, tạo cơ
sở cho nhà nước quản lý, người được THA, người phải THA và những chủ
thể có liên quan thực hiện một cách tự giác. Trên cơ sở văn bản QPPL, nhà
nước tạo khung pháp lý để điều chỉnh và tiến hành các hoạt động tổ chức thực
hiện thống nhất pháp luật THADS trên tồn quốc. Trường hợp có khiếu nại,
tố cáo hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật, hoạt động THADS đi ngược lại
quyết định của bản án thì các chủ thể QLNN có cơ sở để tiến hành các biện
pháp thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, đưa các quan hệ pháp luật

THADS đi đúng quy phạm mà nhà nước đã đặt ra. Việc ban hành văn bản
QPPL về hoạt động THADS được tiến hành thường xuyên, liên tục trên cơ sở
phát hiện những bất câp trong thực tiễn, ảnh hưởng đến quyền con người,
quyền cơng dân thì văn bản QPPL đó sẽ được các chủ thể kiến nghị đến cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và Bộ Tư pháp - chủ thể thay mặt Chính phủ
thống nhất QLNN đối với hoạt động THADS sẽ soạn thảo dự thảo luật sửa
đổi, bổ sung trình Chính Phủ để Chính phủ trình Quốc hội thơng qua. Trường
hợp cần hướng dẫn thi hành thống nhất, Bộ Tư pháp soạn thảo Nghị định
trình Chính phủ thơng qua hoặc tự mình ban hành Thơng tư của bộ trưởng Bộ
Tư pháp để quản lý kịp thời.
Việc tham mưu, góp ý xây dựng ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật đối với hoạt động thi hành án cần đảm bảo những tiêu chí sau:
Thứ nhất, đảm bảo tính tồn diện. Tính tồn diện trong hệ thống văn
bản QPPL về hoạt động THADS thể hiện trong việc hầu hết tất cả hoạt động
THADS, từ nguyên tắc, quy trình, thủ tục thi hành bản án, quyết định, hệ


17

thống tổ chức THADS và CHV, quyền nghĩa vụ của người được THA, người
phải THA, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan, tổ chức cá nhân trong hoạt động THA phải được điều chỉnh đầy
đủ bằng các QPPL cụ thể. Không thể có hoạt động THA nào, chủ thể nào
tham gia và có liên quan đến THADS khơng chịu sự điều chỉnh của pháp luật.
Có như vậy mới đảm bảo rằng hoạt động THADS chịu sự quản lý bằng pháp
luật một cách chặt chẽ và tồn diện.
Thứ hai, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ. Hệ thống pháp luật nói
chung và văn bản QPPL về THADS nói riêng bao gồm nhiều bộ phận, nhưng
chúng ln có liên quan và thống nhất với nhau. Do vậy, tính đồng bộ của hệ
thống pháp luật đòi hỏi phải loại bỏ mọi mâu thuẫn, trùng lặp hay chồng chéo

trong bản thân hệ thống. Nếu một hệ thống pháp luật không đồng bộ, giữa các
bộ phận của nó chứa đựng mâu thuẫn, chồng chéo, thì hệ thống ấy khơng thể
tạo ra sự điều chỉnh pháp luật có hiệu quả.Trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, văn bản QPPL về hoạt động THADS là một bộ phận quan trọng gồm hệ
thống các QPPL được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp, thể hiện dưới hình thức
Luật THADS, Nghị định, Thông tư liên tịch… Các văn bản pháp luật này
được ban hành trên cơ sở Hiến pháp, phù hợp với từng thời điểm lịch sử nhất
định và không được xây dựng cùng một lúc nên đòi hỏi phải đảm bảo tính hệ
thống, thống nhất. Luật THADS phải phù hợp với quy định của Hiến pháp.
Nghị định có nhiệm vụ cụ thể hóa Luật, quy định chi tiết những vấn đề Luật
yêu cầu phải quy định nên không được trái với Luật. Đồng thời, hệ thống
thông tư liên tịch được ban hành nhằm điều chỉnh thống nhất hoạt động chấp
hành và thi hành pháp luật giữa các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền QLNN
riêng biệt.
Việc ban hành thơng tư và thông tư liên tịch điều chỉnh hoạt động
THADS nhằm đảm bảo cho quá trình triển khai thực hiện luật được thông


18

suốt. Do vậy, các quy định trong thông tư không được trái với Luật THADS
và Hiến pháp hiện hành.
Thứ ba, đảm bảo tính khả thi và ổn định. Văn bản QPPL về THADS
hướng hoạt động THADS phát triển theo một trật tự mà nhà nước mong muốn
thiết lập. Chức năng điều chỉnh của pháp luật và hiệu quả QLNN đối với hoạt
động THADS chỉ có thể được thực hiện khi luật pháp được xây dựng phù hợp
với những điều kiện cụ thể của xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Xã hội nào, pháp luật ấy. Do vậy, các QPPL điều chỉnh hoạt động THADS
phải đảm bảo phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, tạo ra một quy
trình THADS linh hoạt, nhanh chóng, hiệu quả, làm cơ sở để thúc đẩy kinh tế,

xã hội phát triển. Nếu việc xây dựng văn bản QPPL đối với hoạt động
THADS được xây dựng khá tồn diện, khơng có mâu thuẫn, nhưng lại khơng
phù hợp với trình độ phát triển của xã hội, hoặc quá máy móc, rập khn,
thiên về QLNN, chỉ quan tâm đến lợi ích nhà nước mà khơng quan tâm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức có liên quan thì đó là một hệ
thống quy phạm thiếu khả thi.
- Tổ chức thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động thi
hành án dân sự cấp huyện:
Về nguyên tắc, bộ máy QLNN được xem là một thiết chế được xây
dựng trên tinh thần quản lý đa ngành và chỉ thành lập cơ quan, tổ chức mới
khi có nhu cầu. Đối với lĩnh vực THADS, bộ máy quản lý được thiết lập trên
cơ sở tính đặc thù của hoạt động THADS. Theo đó, hoạt động THADS chịu
sự quản lý của bộ máy hành pháp thống nhất từ trung ương đến địa phương
(cấp huyện). Trong đó, Chính phủ là chủ thể thống nhất QLNN đối với hoạt
động THADS và tổ chức việc THADS từ trung ương đến địa phương. Tuy
nhiên, đây lại là một chủ thể đặc biệt, bởi với tính chất là cơ quan QLNN
thẩm quyền chung, các hoạt động của Chính phủ được thực hiện theo chế độ
lãnh đạo tập thể, đối với các lĩnh vực công tác đều phải thông qua các cơ quan


19

QLNN chuyên ngành. Do đó, để phù hợp với nguyên tắc QLNN, “Chính Phủ
thống nhất quản lý nhà nước về thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước”.
Chính phủ xây dựng một cơ quan cấp Bộ, giúp Chính phủ QLNN đối với hoạt
động THADS. Cơ quan đó được thực hiện các chức năng quản lý phát sinh
của Chính phủ như ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn
bản QPPL về THADS; làm đầu mối quản lý về mặt tổ chức và hoạt động đối
với các cơ quan THADS và đội ngũ CHV THADS từ trung ương đến địa
phương. Đồng thời triển khai các biện pháp hướng dẫn nghiệp vụ, đào tạo, bồi

dưỡng, chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm trong công tác THADS. Bên cạnh đó, để đảm bảo nguồn lực quản lý, để
QLNN đối với hoạt động THADS một cách toàn diện cần quản lý đối với cả
cơ sở vật chất, kỹ thuật, kinh phí, phương tiện cần thiết cho hoạt động
THADS. Việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động công tác THA là yêu cầu
cấp thiết, Nghị quyết hội nghị lần thứ Tám Ban chấp hành trung ương Đảng
khoá VII đã chỉ rõ: “Sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật thi hành án theo
hướng tập trung nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành án vào Bộ
Tư pháp”. Theo đó, để QLNN đối với hoạt động THADS một cách có hiệu
quả, hiệu lực, bộ máy QLNN đối với hoạt động THADS cần được tổ chức
theo nguyên tắc như sau: Tổ chức, hoạt động của bộ máy QLNN đối với hoạt
động THADS phải đảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bộ máy QLNN đó phải được tổ chức
và hoạt động thuộc về nhân dân, chống chuyên quyền, lạm quyền. Bộ máy
QLNN đối với THADS được tổ chức để quản lý hoạt động THADS trên toàn
lãnh thổ đất nước và trên từng địa phương. Đó là bộ máy quản lý có hiệu quả,
đảm bảo quản lý đối với hoạt động THADS bằng pháp luật, tăng cường pháp
chế XHCN. Các cơ quan QLNN đối với hoạt động THADS được lập thành
một hệ thống chặt chẽ trực tiếp tổ chức và quản lý mọi hoạt động THADS


20

trên phạm vi cả nước hoặc trong từng địa phương, cơ sở. Bộ máy QLNN đối
với hoạt động THADS được tổ chức và hoạt động trên cơ sở nguyên tắc tập
trung dân chủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng trong
hệ thống các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung
và bộ máy QLNN đối với hoạt động THADS nói riêng. Ngun tắc này có vai
trị quan trọng trong hệ thống các nguyên tắc bởi đây là nguyên tắc cơ bản

quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan,
tổ chức trong bộ máy cơ quan QLNN đối với hoạt động THADS; quy định
mối quan hệ giữa Chính phủ với Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS, với các cơ
quan THADS ở địa phương, UBND các cấp; đồng thời nguyên tắc tập trung
dân chủ xác định mối quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới, giữa thủ trưởng cơ
quan Tổng cục trưởng Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp với các cán bộ, nhân
viên trong Tổng cục THADS; quy định cơ chế chuẩn bị, thảo luận, thông qua
Hiến pháp, các văn bản pháp luật, các chủ trương, chính sách, các quyết định
trong hoạt động QLNN đối với hoạt động THADS; quy định lề lối làm việc,
quan hệ lãnh đạo, giám sát, kiểm tra và xử lý công việc trong hoạt động của
bộ máy cơ quan QLNN; mối quan hệ với nhân dân (người được THA, người
phải THA, người có nghĩa vụ và quyền lợi liên quan). Do đó, để đảm bảo yêu
cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ thì chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
QLNN đối với hoạt động THADS của cơ quan QLNN từng cấp của từng loại
cơ quan, của từng cơ quan, cán bộ, nhân viên nhà nước, của chính quyền các
cấp; trong mối quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan nhà nước khác, quan
hệ giữa cơ quan trung ương và chính phủ, quan hệ nội bộ mỗi loại cơ quan
nhà nước và quan hệ nội bộ từng cơ quan, đơn vị của Tổng cục THADS.
- Thực hiện hoạt động kiểm tra, giám sát đối với hoạt động thi hành án
dân sự cấp huyện:
Thanh tra là một nội dung của quản lý nhà nước. Thanh tra là quá trình
các chủ thể nắm quyền lực nhà nước tiến hành thường xuyên, liên tục một


×