Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Quản lý những người hoạt động không chuyên trách ở phường, tổ dân phố tại quận bắc từ liêm, thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1005.71 KB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ TUN TRUYỀN

NGƠ ĐÌNH CHUNG

QUẢN LÝ NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH
Ở PHƯỜNG, TỔ DÂN PHỐ TẠI QUẬN BẮC TỪ LIÊM
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ XÃ HỘI

HÀ NỘI - 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ TUN TRUYỀN

NGƠ ĐÌNH CHUNG

QUẢN LÝ NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH
Ở PHƯỜNG, TỔ DÂN PHỐ TẠI QUẬN BẮC TỪ LIÊM
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY


Chuyên ngành

: Quản lý xã hội

Mã số

: 8310201

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Xuân Học

HÀ NỘI - 2021


Luận văn đã được chỉnh sửa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm luận
văn thạc sỹ
Hà Nội, ngày ...... tháng ....... năm 2021
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

TS Vũ Thị Thu Quyên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHỮNG NGƯỜI HOẠT
ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH Ở PHƯỜNG, TỔ DÂN PHỐ ........... 10
1.1.Khái niệm, đặc điểm của người hoạt động không chuyên trách ở phường,
tổ dân phố ......................................................................................................... 10
1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước những người hoạt động

không chuyên trách ở phường, tổ dân phố ....................................................... 16
1.3. Vai trò quản lý, chủ thể, phương pháp, nội dung quản lý những người hoạt
động không chuyên trách ở phường, tổ dân phố .............................................. 26
Chương 2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ
NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH Ở PHƯỜNG,
TỔ DÂN PHỐ TẠI QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........... 36
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý những người hoạt động không chuyên
trách ở phường, tổ dân phố tại quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội .............. 36
2.2. Thực trạng quản lý những người hoạt động không chuyên trách ở phường,
tổ dân phố tại quận Bắc Từ liêm, Thành phố Hà Nội ...................................... 48
2.3. Đánh giá, nhận xét về thực trạng quản lý những người hoạt động không
chuyên trách ở phường, tổ dân phố quận Bắc Từ liêm, Thành phố Hà Nội .... 58
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ
NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH Ở PHƯỜNG, TỔ
DÂN PHỐ TẠI QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG
THỜI GIAN TỚI............................................................................................... 69
3.1. Phương hướng ........................................................................................... 69
3.2. Giải pháp ................................................................................................... 70
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 87
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 92
TÓM TẮT LUẬN VĂN .................................................................................... 99


KÝ HIỆU CÁC TỪ VIẾT TẮT

CBCC

Cán bộ, cơng chức


CQĐP

Chính quyền địa phương

ĐVHC

Đơn vị hành chính

HĐND

Hội đồng nhân dân

KTXH

Kinh tế xã hội

TP

Thành phố

UBND

Ủy ban nhân dân


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chính quyền cấp xã là của chính quyền nhà nước ở cơ sở, có vị trí, vai trị

đặc biệt quan trọng, là nền tảng của bộ máy nhà nước, là chỗ dựa, là công cụ sắc
bén để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm cơ sở cho chiến
lược ổn định và phát triển đất nước, là yếu tố chi phối mạnh mẽ đến đời sống
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng dân cư trên địa bàn. Thực tế
cho thấy, đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó có đội ngũ những người hoạt động
khơng chun trách tại cơ sở có vai trị rất quan trọng trong việc thực hiện chức
năng làm cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Đội ngũ những người hoạt
động không chuyên trách trực tiếp tuyên truyền, phổ biến, vận động và tổ chức
nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước trên địa bàn dân cư, giải quyết mọi nhu cầu của dân cư, bảo đảm sự
phát triển kinh tế của địa phương, duy trì trật tự, an ninh, an tồn xã hội trên địa
bàn cấp cơ sở.
Bên cạnh đó, do tính chất công việc của cấp cơ sở, đội ngũ người hoạt
động không chuyên trách vừa giải quyết những công việc hàng ngày, vừa phải
quán triệt các Nghị quyết, Chỉ thị của cấp trên, lại phải nắm tình hình thực tiễn ở
địa phương để từ đó đề ra kế hoạch, chủ trương, biện pháp đúng đắn, thiết thực,
phù hợp. Vai trò của đội ngũ này có tính then chốt xét cả trong quan hệ giữa
Đảng với dân, giữa công dân với Nhà nước, trong việc phát huy sức mạnh của
hệ thống chính trị, tạo dựng các phong trào cách mạng của quần chúng, góp
phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
(KTXH) ở địa phương. Sức mạnh của hệ thống chính trị, sự ổn định của xã hội,
sự phát triển sâu rộng và hiệu quả của phong trào cách mạng của quần chúng
luôn gắn liền với năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ những người hoạt
động không chuyên trách. Khẳng định vai trò của đội ngũ này, Nghị quyết
Trung ương 5, khoá IX về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở


2

cơ sở xã, phường, thị trấn” (2002) nêu rõ: “ở cấp xã có cán bộ chun trách và

cán bộ khơng chuyên trách; cán bộ chuyên trách có chế độ làm việc và được
hưởng chính sách về cơ bản như cán bộ, công chức nhà nước”.
Bắc Từ Liêm là một quận thuộc thành phố Hà Nội được thành lập theo
Nghị quyết số 132/NQ-CP ngày 17 tháng 12 năm 2013 của Chính phủ.
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, chính
quyền các cấp, chế độ chính sách những những người hoạt động không chuyên
trách ở phường, tổ dân phố đã được quan tâm bố trí một cách có hệ thống, đồng
bộ, nhằm động viên cho đội ngũ người hoạt động khơng chun trách hồn
thành các nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng chính quyền cơ sở vững
mạnh. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý đội ngũ người hoạt động khơng
chun trách nói chung, q trình thực hiện, chế độ chính sách những những
người hoạt động khơng chun trách trong thực tiễn nói riêng đã nảy sinh những
vấn đề như số lượng những người hoạt động không chuyên trách nhiều, ngân
sách chi trả lớn nhưng phụ cấp cho từng chức danh cịn thấp, chưa khuyến khích
cho những người hoạt động không chuyên trách yên tâm hoạt động, đồng thời
chưa thu hút được người có chun mơn, năng lực, kinh nghiệm, thạo việc tham
gia vì mức phụ cấp chưa tương xứng; vẫn còn những hạn chế, vướng mắc, bất
cập về chức danh…
Nhằm đánh giá một cách tổng thể việc quản lý những người hoạt động
không chuyên trách ở phường, tổ dân phố tại Quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội với
những ưu điểm, kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập cịn tồn tại từ đó
đưa ra những giải pháp góp phần tăng cường quản lý những người hoạt động
không chuyên trách ở quận Bắc Từ Liêm nói riêng, ở TP Hà Nội nói chung nêm
tơi lựa chọn đề tài “Quản lý những người hoạt động không chuyên trách ở
phường, tổ dân phố tại Quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội hiện nay” làm
luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý xã hội.


3


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hiện nay, những các nghiên cứu về cán bộ, công chức nói chung có rất nhiều
cơng trình, tuy nhiên những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn,
tổ dân phố thì chưa được tập trung nghiên cứu. Sau đây là một số cơng trình
nghiên cứu về cán bộ, cơng chức, về xây dựng chính quyền địa phương trong đó
có đề cập đến người hoạt động khơng chun trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố,
cụ thể như sau:
2.1. Nghiên cứu về cán bộ, công chức, công chức cấp xã và người hoạt
động không chuyên trách
- Trần Anh Tuấn (2018), “Xây dựng chính quyền cấp xã dưới góc độ
đội ngũ những người làm việc”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ, Hà Nội.
Bài viết đã khái quát quá trình hình thành đội ngũ những người làm việc ở
cấp xã, đề cập đến những vấn đề đặt ra trong quản lý cán bộ, công chức cấp xã
như: về thể chế, về chức danh, số lượng, chất lượng cán bộ, công chức cấp xã,
người hoạt động không chuyên trách cấp xã, về nguồn chi trả và cơ chế
khoán phụ cấp ở thơn, làng, bản, ấp, bn, phum, sóc, khóm, khu phố, tổ dân
phố…Qua đó bài viết đưa ra một số giải pháp nhằm tinh gọn, nâng cao chất
lượng đội ngũ làm việc ở cấp xã.
- Trần Anh Tuấn (2017), Cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ xây dựng và
kiện tồn đội ngũ cán bộ, cơng chức và người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã, Đề tài cấp nhà nước mã số ĐTĐLXH.12/14, cơ quan chủ trì Bộ Nội vụ.
Đề tài đã làm rõ được một số vấn đề về người hoạt động không chuyên trách cấp
xã, thôn tổ dân phố nhưng mới chỉ giới thiệu sơ qua về một số chính sách những
người hoạt động không chuyên trách mà chưa đưa ra được vấn đề cần giải quyết
những người hoạt động không chuyên trách.
- Thang Văn Phúc (2009), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng
yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đề tài cấp nhà nước
KX.04.09, cơ quan chủ trì Bộ Nội vụ, Hà Nội.Đề tài đã luận chứng tính tất yếu
khách quan của việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của



4

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và yêu cầu về số lượng, chất lượng
những đội ngũ cán bộ, cơng chức trong điều kiện mới. Trong đó có đề cập đến
yêu cầu chung của bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặc điểm của
hệ thống chính trị cơ sở và đội ngũ nhân lực chuyên môn địa phương. Theo đó,
chế độ đãi ngộ những cơng chức cơ sở hiện nay chưa hợp lý, tích chất làm việc
không liên tục, đặc thù tiếp xúc trực tiếp với người dân. Qua đó tác giả cũng đề
ra một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp cơ sở thông qua
nguồn nhân lực ở địa phương như là một bộ phận hữu cơ của đội ngũ cán bộ
công chức (CBCC) nhà nước, báo gồm cán bộ chun trách và khơng chun
trách, bố trí sử dụng cán bộ cơ sở theo hướng tăng cường lồng ghép, kiêm nhiệm
giã các chức danh Đảng, chính quyền, đồn thể và giữa các chức danh chuyên
môn với nhau; tăng cường các hình thức dân chủ trực tiếp trong việc tuyển chọn,
bố trí cán bộ chủ chốt.
- Nguyễn Duy Hùng (Chủ biên, 2008), Luận cứ khoa học và một số giải
pháp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Cuốn sách đã tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ sở lý luận và cơ sở
thực tiễn về đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường và công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo phường ở nước ta hiện nay. Cuốn sách đã phản ánh tương đối toàn
diện, hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về đội ngũ cán bộ lãnh đạo
phường và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường ở nước ta hiện
nay. Tuy nhiên, sách mới chỉ đề cập đến đối tượng nghiên cứu là cán bộ lãnh
đạo phường, một bộ phận của đội ngũ cán bộ cơ sở nhưng cũng là tiền đề để
người hoạt động không chuyên trách ở phường hướng đến được chức năng,
nhiệm vụ và những giải pháp của luận văn sau này đề cập đến.
- Trần Hữu Thắng (2001), Đổi mới chính sách những cán bộ, chính quyền
cơ sở đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, Đề tài cấp khoa học cấp Bộ, Bộ Nội
vụ, Hà Nội. Đề tài đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực trạng

đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở và chính sách, chế độ những cán bộ chính
quyền cơ sở của nước ta hiện nay; vị trí, vai trò và yêu cầu xây dựng đội ngũ cán


5

bộ chính quyền cơ sở đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính; phương hướng và
các giải pháp nhằm từng bước hồn thiện chính sách, chế độ những đội ngũ cán
bộ chính quyền cơ sở. Trên cơ sở đó, tác giả liệt kê các chính sách những cán bộ
chính quyền theo các giai đoạn. Đề tài nhấn mạnh nhóm giải pháp xây dựng đội
ngũ cán bộ chính quyền cơ sở có phẩm chất chính trị, có kiến thức, năng lực, có
nhiệt tình cách mạng, tận tuỵ phục vụ nhân dân bao gồm: tiến hành phân loại
đơn vị hành chính (ĐVHC) cấp xã; xây dựng chế định về cán bộ chính quyền cơ
sở; quy định về chính sách, chế độ những cán bộ chính quyền cơ sở.
2.2. Các cơng trình nghiên cứu về chính quyền địa phương
- Trương Quốc Việt (2019), Hồn thiện mơ hình tổ chức chính quyền xã ở
nơng thôn Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Quản lý cơng, Học viện Hành
chính Quốc gia, Hà Nội. Luận án đã làm rõ những vấn đề lý luận về cơ sở khoa
học hồn thiện tổ chức chính quyền xã ở nơng thơn; tập trung đánh giá thực
trạng mơ hình tổ chức chính quyền xã ở nơng thơn Việt Nam từ năm 1945 đến
nay (được chia ra các giai đoạn: 1945-1960; 1960-1980; 1980-1992; 1992-2013
và 2013 đến nay). Luận án tập trung nghiên cứu về chính quyền xã ở nơng thơn
Việt Nam, chứ không nghiên cứu về người hoạt động không chuyên trách tuy
nhiên nội dung của Luận án mang tính tham khảo cho đề tài về chính quyền xã
ở nơng thôn để làm cơ sở thêm cho những nhận đinh, những giải pháp, phương
hướng tăng cường quản lý với người hoạt động không chuyên trách hoạt động ở
phường, tổ dân phố.
- Dương Bạch Long (2011), Chính quyền cấp xã và việc tổ chức, điều
hành hoạt động của Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Bên cạnh việc phân tích vị trí, vai trị của chính quyền cấp xã trong hệ

thống tổ chức bộ máy nhà nước, tác giả đề cập đến nội dung chức trách, nhiệm
vụ và tiêu chuẩn của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Tuy nhiên, sách mới chỉ
dừng lại ở việc liệt kê, trích dẫn văn bản, chưa có phân tích, đánh gía liên hệ thực
tiễn vấn đề nên có thể coi đây là sách tham khảo cho cán bộ, công chức cấp xã.


6

- Nguyễn Quang Ngọc, Đoàn Minh Huấn, Bùi Xuân Dũng (đồng chủ
biên) (2010), Hồn thiện mơ hình tổ chức và quản lý đơ thị Hà Nội, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách tập trung nghiên cứu chính quyền đơ thị, chính
quyền phường, UBND phường.
- Đàm Bích Liên (2007), Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của chính quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học
Luật, Hà Nội. Luận án tập trung nghiên cứu sâu về giác độ pháp luật dành cho
chính quyền cấp xã, có đề cập đến việc cần đổi mới hệ thống chính quyền
phường ở đơ thị phải khác với chính quyền cấp xã ở nơng thơn và tác giả cũng
có đề xuất ở các thành phố nên tổ chức hai cấp chính quyền, cấp thành phố có
HĐND và UBND, cấp phường chỉ nên thiết lập UBND, Chủ tịch UBND
phường do nhân dân trực tiếp bầu và UBND thành phố phê chuẩn.
- Vụ Chính quyền địa phương- Bộ Nội vụ (2005), Xây dựng và kiện toàn
tổ chức chính quyền cơ sở (xã) trong điều kiện cải cách hành chính, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Nội vụ, Hà Nội.
- Viện khoa học tổ chức nhà nước - Ban Tổ chức Cán bộ chính phủ
(2000), Chính quyền cấp xã và quản lý nhà nước ở cấp xã, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Cuốn sách đề cập đến các nội dung về chính quyền cấp xã và quản lý
hành chính nhà nước ở cấp xã bao gồm các vấn đề liên quan đến chức năng,
nhiệm vụ và tổ chức, hoạt động của chính quyền cấp xã. Những nội dung trong
sách góp phần làm phong phú thêm trong công tác cán bộ cấp xã, giúp họ có
những kiến thức về chun mơn, kỹ năng hồ thành tốt trọng trách của mình khi

thực hiện cơng vụ. Tuy nhiên, những vấn đề trong sách chỉ đề cập đến một số
vấn đề về nguyên tắc hoạt động của cán bộ chính quyền cấp xã mà ko đề cập đến
người hoạt động khơng chun trách nên sách này chỉ có tính chất tham khảo.
Qua một số tình hình nghiên cứu như trên, trước hết phải khẳng định rằng
những tài liệu trên sẽ là nguồn tham khảo quý giá giúp tác giả hình thành được
hệ thống cơ sở lý luận của đề tài cũng như kinh nghiệm thực tiễn. Tuy nhiên, các
nghiên cứu trên cũng chỉ đề cập tới từng vấn đề, từng khía cạnh riêng rẽ, chưa


7

có đề tài hoặc nghiên cứu nào đánh giá một cách toàn diện về vấn đề quản lý
những người hoạt động khơng chun trách cấp xã nói chung, những người hoạt
động không chuyên trách tại phường, tổ dân phố nhất là lại trên cơ sở thực tiễn
của một địa phương cụ thể như quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội. Do vậy, có thể
khẳng định đề tài tác giả lựa chọn nghiên cứu khơng có sự trùng lắp về nội dung
và đối tượng nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý và thực trạng
quản lý đối vớ những người hoạt động không chuyên trách ở phường, tổ
dân phố tại quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội, luận văn đề xuất phương hướng
và giải pháp nhằm tăng cường quản lý những người hoạt động không chuyên trách
ở phường, tổ dân phố tại địa phương trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn xác định có những
nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận quản lý những người hoạt động không
chuyên trách ở phường, tổ dân phố.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý những người hoạt động

không chuyên trách ở phường, tổ dân phố tại quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội.
Ba là, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường quản lý người
hoạt động không chuyên trách ở phường, tổ dân phố tại quận Bắc Từ Liêm, TP
Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quản lý những người hoạt động không
chuyên trách ở phường, tổ dân phố tại quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội.
4.2 . Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Nghiên cứu công tác quản lý những người hoạt động không


8

chuyên trách ở các phường, tổ dân phố tại quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội.
Về thời gian: Công tác quản lý những người hoạt động không chuyên trách ở
phường, tổ dân phố tại quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội từ năm 2015 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận theo tư tưởng Hồ Chí Minh;
chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước
về CBCC cấp xã nói chung và người hoạt động khơng chun trách cấp xã
nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; bên cạnh đó, luận văn sử dụng các
phương pháp như: phương pháp hệ thống, phân tích và tổng hợp; phương pháp
lịch sử; phương pháp so sánh; phương pháp nghiên cứu tài liệu.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa khoa học

Kết quả nghiên cứu của luận văn là những luận cứ góp phần bổ sung lý
luận quản lý những người hoạt động khơng chun trách tại quận Bắc Từ Liêm
nói riêng và đóng góp xây dựng chính sách quản lý nhà nước những người hoạt
động không chuyên trách trong cả nước.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những giải pháp mà luận văn đề xuất có ý nghĩa thiết thực trong việc
nâng cao hiệu quả trong quản lý nhà nước những người hoạt động không chuyên
trách tại quận Bắc Từ Liêm hiện nay.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
quản lý nhà nước trong việc nghiên cứu hoạch định chính sách quản lý nhà nước
về người hoạt động không chuyên trách cấp xã, thôn, tổ dân phố.


9

7. Đóng góp mới của luận văn
Kiến nghị, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
trong quản lý những người hoạt động không chuyên trách tại phường và
tổ dân phố tại quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương.


10

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHỮNG NGƯỜI HOẠT
ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH Ở PHƯỜNG, TỔ DÂN PHỐ
1.1.Khái niệm, đặc điểm của người hoạt động không chuyên trách ở
phường, tổ dân phố

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
* Khái niệm quản lý
Quản lý là một hoạt động đặc biệt, là yếu tố không thể thiếu được
trong đời sống xã hội, gắn liền với quá trình phát triển. Theo Các Mác, quản lý
xã hội là chức năng được sinh ra từ tính chất xã hội hóa lao động. Nó có tầm
quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội đều thông qua hoạt động của
con người và thông qua quản lý. Song quản lý chỉ trở thành khoa học và được
vận dụng vào thực tiễn có tính chất phổ biến chỉ mới bắt đầu vào thập niên đầu
của thế kỷ XX (năm 1911 khi Taylor - nhà tâm lý học, quản lý học người Mỹ
công bố tác phẩm nổi tiếng Những nguyên lý quản lý khoa học). Tuy nhiên, cho
đến nay trong các tài liệu chuyên ngành xuất hiện nhiều định nghĩa về quản lý,
song về cơ bản khái niệm quản lý có những dấu hiệu chung như sau:
- Một là, sự tác động của chủ thể quản lý đến các đối tượng quản lý nhằm
phối hợp hành động để đạt được mục tiêu đề ra.
- Hai là, phải có ít nhất một chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động
và ít nhất là một đối tượng bị quản lý tiếp nhận trực tiếp các tác động của chủ thể
quản lý tạo ra, các khách thể khác chịu các tác động gián tiếp của chủ thể quản lý.
Tác động có thể chỉ một lần mà cũng có thể là liên tục, nhiều lần.
- Ba là, phải có một mục tiêu và một quỹ đạo đặt ra cho cả chủ thể quản lý
và đối tượng quản lý, mục tiêu này là căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động.
Như vậy, có thể đi đến khái niệm quản lý là sự tác động và điều chỉnh
bằng một hệ thống các biện pháp, phương pháp và các công cụ của chủ thể
quản lý tới các đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức, cá nhân
đề ra.


11

Quản lý thực hiện nhiều chức năng khác nhau, tuỳ theo cách phân loại mà
có các chức năng cụ thể không giống nhau song dù với cách phân loại nào chúng

ta cũng thấy có nội dung quản lý con người. Quản lý nhân lực hay quản lý con
người là một chức năng đặc biệt quan trọng mà bất kỳ chủ thể quản lý nào cũng
quan tâm.
Trong phạm vi của Luận văn, tiếp cận khá niệm quản lý trên phương diện
quản lý nguồn nhân lực, cụ thể như sau:
Theo cuốn “Một số thuật ngữ hành chính”, Học viện hành chính quốc
gia (tr.158) quản lý nguồn nhân lực là “tổng thể các hoạt động mà đối tượng
của nó là con người trong tổ chức, được các chủ thể quản lý thực hiện bằng
pháp luật và các biện pháp cụ thể (tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng...) nhằm
thu hút tài năng, nâng cao phát huy hết tiềm năng của cá nhân trong việc đáp
ứng các nhu cầu, mục tiêu định trước của tổ chức với hiệu quả cao”.
Theo Học viện Hành chính quốc gia, “Quản lý nguồn nhân lực của tổ
chức là quản lý con người có liên quan đến hoạt động của tổ chức”, Giáo trình
tổ chức nhân sự hành chính nhà nước. Học viện Hành chính quốc gia, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, trang 25, 37. Hoạt động quản lý nguồn nhân lực của tổ
chức có vai trị rất quan trọng, góp phần cung cấp cho tổ chức những người lao
động được đào tạo tốt và có động cơ rõ ràng; khai thác có hiệu quả năng lực,
kiến thức của người lao động nhằm đạt được mục tiêu, lợi ích chung của tổ
chức; tạo điều kiện để duy trì đạo đức và cách ứng xử trong tổ chức; gia tăng sự
hài lòng và thỏa mãn của người lao động...
* Khái niệm người hoạt động không chuyên trách
Theo Nghị quyết số 17/NQ-TW ngày 18 tháng 3 năm 2002 của Hội nghị
lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX, hệ thống chính trị ở cơ sở
có cán bộ: chun trách và không chuyên trách. Trên tinh thần của Nghị quyết,
cán bộ ở cấp xã được chia làm (cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên
trách). Tuy nhiên, kể từ khi Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của
Chính phủ quy định về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách những


12


cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã được ban hành và có hiệu lực đến nay (được sửa đổi bởi
Nghị định 34/2019/NĐ-CP sửa đổi quy định về cán bộ, công chức cấp xã và
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố), Nghị định
chính thức dùng thuật ngữ “những người hoạt động khơng chuyên trách” thay
cho thuật ngữ “cán bộ không chuyên trách”.
Hiện nay, Luật cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi năm 2019) và một
số văn bản pháp luật hiện hành khác điều chỉnh rất cụ thể và rõ ràng về đối
tượng cán bộ cấp xã. Song, những đối tượng “những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã” các văn bản này lại không quy định cụ thể thế nào là
những người hoạt động khơng chun trách ở cấp xã.
Vì vậy, để nêu lên một khái niệm phù hợp, rõ ràng về những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã là một việc không hề dễ dàng. Tuy nhiên,
trên quy định của các cơ sở pháp lý liên quan đến đối tượng này cũng như căn
cứ vào tình hình thực tế, có thể khái quát lên được khái niệm “những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã” như sau:
Những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là cơng dân Việt Nam
được bố trí làm cơng việc chuyên môn nhưng không thường xuyên, liên tục;
là lực lượng giúp cấp ủy, chính quyền, các tổ chức đồn thể giải quyết công việc ở
cơ sở và trực tiếp giải quyết các vấn đề của người dân, góp phần đảm bảo
phát triển KTXH, ổn định chính trị, an ninh trật tự trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng chế độ phụ
cấp, chế độ bảo hiểm xã hội và chế độ bảo hiểm y tế. Ngân sách nhà nước thực
hiện khoán quỹ phụ cấp, bao gồm cả hỗ trợ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế để
chi trả hàng tháng những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã theo
quyết định phân loại ĐVHC xã, phường, thị trấn.
Người hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố được hưởng phụ
cấp hàng tháng từ ngân sách nhà nước và chỉ áp dụng những các 03 chức danh
(Bí thư Chi bộ; Trưởng thôn hoặc Tổ trưởng tổ dân phố; Trưởng Ban công tác



13

mặt trận). Người tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố ngồi 03 chức danh nêu
trên khơng hưởng phụ cấp hàng tháng mà được hưởng bồi dưỡng khi trực tiếp
tham gia vào công việc của thôn, tổ dân phố từ đồn phí, hội phí khốn cho các
đồn thể và từ các nguồn quỹ khác (nếu có).
* Khái niệm quản lý những người hoạt động không chuyên trách
Từ những phân tích về khái niệm quản lý và khái niệm người hoạt động
khơng chun trách, có thể hiểu quản lý những người hoạt động không chuyên
trách cũng giống như quản lý nguồn nhân lực của tổ chức nhằm tạo ra một
nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của tổ chức. Quản lý người
hoạt động không chuyên trách là “sự tác động của các chủ thể quản lý có thẩm
quyền nhằm tạo ra đội ngũ người hoạt động không chuyên trách vững mạnh,
chuyên nghiệp, hiện đại, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ”.
Quản lý những người hoạt động không chuyên trách là các hoạt động
nhằm đáp ứng một cách tốt nhất các nhu cầu về nhân lực (cả về số lượng và chất
lượng) giúp cơ quan có thẩm quyền đạt được mục tiêu đã định trong quá trình tổ
chức và hoạt động, bao gồm thu hút, tuyển chọn, bố trí, sử dụng, đánh giá, đào
tạo, phát triển đội ngũ người hoạt động không chuyên trách bảo đảm về số lượng
và chất lượng đáp ứng yêu cầu thực hiện có hiệu lực, hiệu quả các chức năng,
nhiệm vụ được giao. Xây dựng, phát triển đội ngũ người hoạt động không
chuyên trách phải hướng tới đáp ứng được yêu cầu của từng giai đoạn xây dựng và
hoàn thiện nhà nước, cải cách nền hành chính nói chung và yêu cầu quản lý
mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội.
1.1.2. Đặc điểm, vai trị của người hoạt động không chuyên trách ở
phường, tổ dân phố
1.1.2.1. Đặc điểm của người hoạt động không chuyên trách
Người hoạt động không chuyên trách ở phường, tổ dân phố mang những

đặc điểm chung của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói chung,
bên cạnh đó có một số đặc điểm mang yếu tố ở địa phương, cụ thể như sau:


14

Thứ nhất, những người hoạt động khơng chun trách có một số lượng
lớn là dân bản địa, cư trú, sinh sống tại địa phương, có quan hệ họ hàng, gắn bó
với các mặt đời sống của người dân như: kinh tế, văn hóa, tình cảm và trong
sinh hoạt hàng ngày. Bên cạnh đó, có một bộ phận người hoạt động không
chuyên trách là người dân ở địa phương khác đến và sinh sống, lập nghiệp ở địa
phương lâu năm.
Thứ hai, đội ngũ những người hoạt động khơng chun trách có trình độ
chun mơn khơng đồng đều. Một bộ phận người hoạt động khơng chun trách
có trình độ cao, được đào tạo bài bản một số ngành nghề, một bộ phận có trình
độ chun mơn vẫn cịn hạn hẹp, ít được đào tạo chính quy và hay có sự biến
động – chủ yếu chỉ đạt đến trình độ Trung cấp, trình độ chuyên môn của họ vẫn
chưa được quan tâm, chú trọng nhiều như cán bộ chuyên trách. Mặc dù các chức
danh được quy định rõ ràng song một số trong họ cũng phải kiêm nhiệm thêm
chức danh khác. Bên cạnh đó, chế độ và lề lối làm việc của họ chưa chuyên
nghiệp, họ làm việc không theo quy định mà chỉ phụ thuộc vào tình hình cụ thể
của Phường, Tổ dân phố để bố trí giải quyết cơng việc.
Thứ ba, những người hoạt động không chuyên trách là những người trực
tiếp giải quyết những vấn đề liên quan đến người dân như: thắc mắc, tâm tư nguyện vọng của người dân, biết lắng nghe và tiếp thu ý kiến của người dân ở
địa phương để từ đó điều chỉnh cách thức làm việc phù hợp nhằm đảm bảo lợi
ích chung cho người dân.
Thứ tư, những người hoạt động không chuyên trách không được: Hưởng
lương, mà được hưởng phụ cấp dù họ là nhóm người gần dân nhất, gắn bó và
hiểu dân nhất so với cán bộ chuyên trách, họ trực tiếp triển khai đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho dân hiểu và dân thực hiện; được

nhân dân tính nhiệm bầu ra, đại diện ý chí của người dân ở Phường, Tổ dân phố,
Thứ năm, đa số người hoạt động không chuyên trách ở tổ dân phố đều là
người nhiều tuổi, đã về hưu, nghỉ công tác, sức khỏe có phần hạn chế có tâm lý


15

muốn nghỉ ngơi, trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ có những khó
khăn nhất định.
Thứ sáu, những người hoạt động khơng chun trách mang tính ổn định
thấp so với cán bộ chuyên trách, được thể hiện qua công việc mà họ làm không
thường xuyên, không liên tục như làm việc khơng theo biên chế, số lượng thì
thường xun bị biến động.
1.1.2.2. Vị trí, vai trị của người hoạt động không chuyên trách
Hiện nay, khi chúng ta đang từng bước tiến tới xây dựng Nhà nước Pháp
quyền, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, mở
rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đội ngũ cán bộ cấp xã nói chung - những người
hoạt động khơng chun trách ở cấp xã nói riêng có một vị trí, vai trị rất quan
trọng trong cơng cuộc triển khai thực hiện các chính sách, đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước xuống địa phương góp phần giúp người dân hiểu và
nắm bắt được các chủ trương, chính sách đó. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ
giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình của dân
chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng”.
Mặc dù khơng phải là cán bộ, công chức cấp xã không trực tiếp làm
nhiệm vụ quản lý, điều hành ở cấp xã, song, những người được xem là “cánh
tay nối dài” của chính quyền cơ sở là những người hoạt động khơng chun
trách cũng có những đóng góp khơng hề nhỏ trong cơng tác xây dựng chính
quyền ở cơ sở - một đội ngũ chiếm tỷ lệ không nhỏ so với cán bộ, công chức cấp
xã và được luật định là “những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”.

Tuy không được xem là cán bộ nhưng nhóm người này hoạt động, cơng tác phần
nào cũng như cán bộ. Vì vậy, những người hoạt động khơng chun trách ở
phường, tổ dân phố có vị trí, vai trò quan trọng, phần nào như cán bộ chuyên
trách cấp xã.


16

Trong sự phát triển kinh tế, giữ gìn trật tự, an tồn xã hội ở địa phương có
thể khẳng định một điều có phần đóng góp khơng nhỏ của đội ngũ những người
hoạt động không chuyên trách ở phường, tổ dân phố.
Bên cạnh đó, người hoạt động khơng chun trách có vai trị quan trọng
trong việc chỉ đạo, tập hợp, tuyên truyền, tổ chức nhân dân trong cộng đồng
thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các phong trào, các
cuộc vận động ở khu dân cư.
Thời gian qua, những người hoạt động không chuyên trách ở phường, tổ
dân phố đã có nhiều đóng góp, cống hiến thơng qua các hoạt động, nhất là
những công việc không tên, thầm lặng như: đi phát hành thư mời, xác minh hồ
sơ hộ nghèo - cận nghèo, cho đến việc phải đi để vận động quà, tiền, học
bổng, các loại quỹ ủng hộ, các đối tượng cần hỗ trợ khi gặp khó khăn, thất
nghiệp do ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh... trên địa bàn. Tuy là đội ngũ
hoạt động không chuyên trách nhưng bất kỳ hoạt động nào của Trung ương, địa
phương triển khai xuống đều có sự tham gia của họ.
Đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở phường, tổ dân phố
có một vị trí, vai trị quan trọng không kém so với cán bộ, công chức. Họ luôn
song hành cùng đội ngũ chuyên trách ở cấp xã trong việc làm cầu nối giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, góp phần
phát huy vai trị của hệ thống chính trị, giúp ổn định chính trị, giữ gìn an
ninh, trật tự và phát triển KTXH ở địa phương. Họ chính là lực lượng tuyên
truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến dân nhanh

chóng và hiệu quả nhất. Nếu được xây dựng vững mạnh, họ sẽ là lực lượng
quan trọng tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ và vững chắc trên địa bàn dân cư.
1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước những người
hoạt động không chuyên trách ở phường, tổ dân phố
1.2.1. Quan điểm của Đảng
Chính quyền cấp cơ sở (xã, phường, trị trấn) là của chính quyền Nhà nước
ở cơ sở, có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng, là nền tảng của bộ máy Nhà nước,


17

là chỗ dựa, là công cụ sắc bén để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, làm cơ sở cho chiến lược ổn định và phát triển đất nước, là yếu tố
chi phối mạnh mẽ đến đời sống chính trị, văn hóa, KTXH của cộng đồng dân cư
trên địa bàn. Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ, cơng chức, trong đó có đội ngũ
những người hoạt động khơng chun trách tại cơ sở có vai trị rất quan trọng
trong việc thực hiện chức năng làm cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Những công việc mà những người hoạt động không chuyên trách đảm nhiệm là
rất quan trọng, trong sự phát triển KTXH và giữ gìn trật tự, an tồn xã hội của
các địa phương.
Khẳng định vai trò của đội ngũ này, Nghị quyết Trung ương 5, khoá IX về
“Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”
(2002) nêu rõ: “ở cấp xã có cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách;
cán bộ chuyên trách có chế độ làm việc và được hưởng chính sách về cơ bản
như cán bộ, công chức nhà nước”. Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương
5, khóa IX, Nhà nước (Chính phủ) đã ban hành chính sách những cán bộ, công
chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động khơng chun trách ở cấp
xã. Nhờ có chính sách đãi ngộ phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, cán bộ cấp xã đã nhận thức và thực hiện đầy đủ hơn chức năng,
nhiệm vụ của mình. Kỷ cương hành chính được bảo đảm; phong cách, ý thức

trách nhiệm và lề lối làm việc của cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt ở cơ sở có
chuyển biến tiến bộ theo hướng sát dân và có trách nhiệm với dân hơn, góp phần
củng cố lòng tin của nhân dân những Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, việc triển
khai thực hiện chính sách những CBCC cấp xã nói chung và cán bộ khơng
chun trách ở cấp xã nói riêng cho thấy chính sách vẫn còn những hạn chế,
vướng mắc, bất cập về chức danh; cơ cấu đội ngũ cán bộ; số lượng cán bộ; chế
độ bầu cử, tuyển dụng; quy định tiêu chuẩn cán bộ, công chức; công tác quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng; việc chuẩn hố và thực hiện liên thơng những cán bộ,
công chức cấp trên…


18

Xây dựng đội ngũ cán bộ là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng,
khâu trọng yếu trong quy trình lãnh đạo của Đảng. Đảng phải xây dựng đội ngũ
cho các tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đại hội XII của Đảng
chỉ rõ: “Quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách
nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về
cơng tác cán bộ”. Kết luận Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương khóa XI về
“Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, hồn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương
đến cơ sở”: “thực hiện khốn kinh phí hoạt động cho các tổ chức chính trị xã hội
ở cấp xã, thơn, tổ dân phố và tương đương bảo đảm phù hợp với tình hình thực
tế của địa phương”.
Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản
biên chế và cơ cấu lại đội ngũ CBCC, viên chức nêu rõ: “Đẩy mạnh thực hiện
kiêm nhiệm những một số chức danh của CBCC từ trung ương đến cấp xã, nhất
là kiêm nhiệm những các chức danh cán bộ không chuyên trách ở cấp xã và ở
thơn, tổ dân phố. Khốn kinh phí chi trả phụ cấp để khuyến khích giảm dần số
lượng những người không chuyên trách và tăng thu nhập của CBCC cấp xã.

Sớm sửa đổi Quy định về CBCC cấp xã theo hướng tinh gọn, giảm bớt chức
danh. Giải quyết chế độ, chính sách những người hoạt động không chuyên trách
cấp xã khi hết nhiệm kỳ mà không đủ điều kiện tái cử; xây dựng cơ chế quản lý
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và ở thôn, tổ dân phố gắn với phát
huy quyền làm chủ, giám sát của nhân dân và đẩy mạnh thực hiện các hình thức
tự quản tại cộng đồng dân cư”. Chủ trương này nhằm đánh giá được hiệu quả
hoạt động của đội ngũ CBCC nói chung và người hoạt động khơng chun trách
nói riêng ở cấp xã; đồng thời thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến
đối tượng này; từ đó ban hành những chính sách mới phù hợp với tình hình thực
tế nhằm góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội, thực hiện có hiệu quả
cơng tác cải cách hành chính cũng như cải cách hệ thống chính trị cấp cơ sở
trong điều kiện hiện nay.


19

Trên cơ sở kế thừa và đánh giá kết quả thực hiện những nhiệm vụ về xây
dựng Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng đề ra giải pháp
về công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao chất lượng, Tổ chức cơ sở Đảng cụ
thể như sau:
Tiếp tục kiện toàn Tổ chức cơ sở đảng phù hợp với đối tượng mới, sắp
xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của
đảng ở cơ sở. Nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp
vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở, nhất là Bí thư cấp ủy. Thực
hiện chủ trương Bí thư cấp ủy đồng thời là Thủ trưởng cơ quan, đơn vị; cơ bản
thực hiện mơ hình Bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân cùng
cấp; Bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc Trưởng
ban công tác mặt trận.
1.2.2. Chính sách của nhà nước
Việc thực hiện các chế độ, chính sách những những người hoạt động

khơng chun trách ở cấp xã dựa trên các văn bản pháp luật phù hợp với từng
giai đoạn, từng thời kỳ của đất nước. Một số văn bản điều chỉnh về chế độ,
chính sách những những người hoạt động khơng chun trách ở cấp xã như sau:
Trước đây, khi chưa có văn bản thống nhất quy định về CBCC thì tất cả
những người làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Đảng, Nhà nước và tổ chức
chính trị - xã hội đều được gọi chung “cán bộ” hoặc “cán bộ, công chức” hay
“cán bộ, công nhân viên chức”. Ở cấp xã cũng vậy, chưa có sự phân định rõ ràng,
cụ thể nào về “cán bộ cấp xã, công chức cấp xã” và “những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã”. Năm 1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
Pháp lệnh Cán bộ, công chức điều chỉnh cán bộ, công chức trong các cơ quan,
tổ chức của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội nhưng vẫn sử dụng
chung cụm từ "cán bộ, công chức". Pháp lệnh Cán bộ, công chức ra đời đã giúp
các cơ quan nhà nước có cơ sở phân định được “cán bộ, công chức cấp xã” với
“những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”.


20

Trên cơ sở Pháp lệnh Cán bộ, công chức, ngày 21/10/2003, Chính phủ
ban hành Nghị định số 121/2003/NĐ-CP quy định về số lượng, chế độ, chính
sách những cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã; chế độ những cán bộ không
chuyên trách cấp xã. Nghị định số 121/2003/NĐ-CP lần đầu tiên tách bạch “cán
bộ, công chức cấp xã” với những “người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã” và Nghị định này sử dụng thuật ngữ “cán bộ không chuyên trách ở cấp xã”
để chỉ nhóm đối tượng là những người hoạt động không chuyên trách. Nghị định
số 121/2003/NĐ-CP ra đời đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xác định
chế độ, chính sách những đội ngũ ngũ cán bộ cấp cơ sở. Tuy nhiên Nghị định
này ra đời trên cơ sở hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Cán bộ, công chức nên khi
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 ra đời, Chính phủ đã ban hành Nghị định
92/2009/NĐ-CP bãi bỏ Nghị định số 121/2003/NĐ-CP và trong Nghị định này,

Chính phủ sử dụng thuật ngữ “những người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã” để phù hợp và thống nhất với Luật Cán bộ, công chức năm 2008. Đây là
Nghị định đầu tiên quy định cụ thể về chức danh những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã. Số lượng những người hoạt động không chuyên trách căn
cứ vào quy mơ dân số. Tuy nhiên vì đây là Nghị định đầu tiên điều chỉnh về đối
tượng này nên các chế độ, chính sách những họ cịn rất khái quát không rõ ràng
cụ thể như các Nghị định sau.
Từ 1/1/2010, Nghị định số 92/2009/NĐ-CP về chức danh, số lượng, một
số chế độ, chính sách những CBCC ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã có hiệu lực thi hành, kèm theo với Thông tư
liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH ngày 27/05/2010 của Bộ
Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Lao động Thương binh – Xã hội hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ quy định về chức
danh, số lượng, một số chế độ, chính sách những cán bộ, cơng chức ở xã,
phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã (thay
thế Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 quy định về chế độ, chính


×