Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bài thu hoạch, môn chính sách dân tộc chính sách dân tộc, tôn giáo của đảng, nhà nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.3 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG.......................................................................................................4
1. Một số vấn đề trong việc thực hiện chính sách bình đẳng giữa các dân
tộc ở nước ta hiện nay.....................................................................................4
1.1. Bình đẳng giữa các dân tộc ở Việt Nam - Chính sách nhất quán của
Đảng và Nhà nước...........................................................................................4
1.2. Quyền bình đẳng của các dân tộc thiểu số trên mọi phương diện luôn
được khẳng định trong Hiến pháp qua các thời kỳ........................................5
1.3. Dành nhiều ưu tiên hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế
- xã hội..............................................................................................................7
1.4. Bảo đảm quyền và hỗ trợ đồng bào thiểu số gìn giữ, phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc.................................................................................................8
2. Một số vấn đề thực tiễn đặt ra trong thực hiện bình đẳng giữa các dân
tộc hiện nay......................................................................................................9
3. Giải pháp tiếp tục thực hiện nhất qn chính sách bình đẳng giữa các
dân tộc ở Việt Nam hiện nay........................................................................12
KẾT LUẬN....................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................15

1


MỞ ĐẦU
Trong suốt chiều dài lịch sử đất nước, biết bao thăng trầm, biến cố đã
hằn trên vai dân tộc Việt Nam để rồi kết tinh thành những giá trị không bao
giờ tan biến. Các dân tộc sinh sống trên dải đất hình chữ S đã đồn kết, kề vai,
sát cánh, nắm chặt bàn tay vượt qua tất cả những khó khăn, thủ thách, chiến
thắng tất cả các kẻ thù xâm lược, 54 dân tộc đã cố kết thành một sức mạnh
của một dân tộc vô địch để hướng tới một giấc mơ giàu có và hùng mạnh.
Việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là một trong những yếu tố
hết sức quan trọng tạo nên sức mạnh của đất nước, các cộng đồng dân tộc là


một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam. Cộng đồng các dân tộc
Việt Nam hiện nay là kết quả của một quá trình hình thành và phát triển lâu
dài trong lịch sử của dân tộc Việt Nam, có nhiều đặc điểm riêng so với các
dân tộc khác trên thế giới. Các dân tộc ở Việt Nam có tỷ lệ số dân không đều
nhau, song các dân tộc luôn coi nhau như anh em trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam, khơng có tình trạng dân tộc đa số cưỡng bức, đồng hóa, thơn tính
các dân tộc thiểu số, khơng có tình trạng các dân tộc thiểu số chống lại dân
tộc đa số.
Đảng và nhà nước luôn đặc biệt coi trọng vấn đề dân tộc và là chủ
trương nhất quán, xuyên suốt, trong đó có việc thực hiện tốt vấn đề bình đẳng
giữa các dân tộc là một vấn đề hết sức quan trọng; đồng thời là một trong
những nhân tố rất quan trọng bảo đảm cho xã hội Việt Nam ln ổn định và
phát triển. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc ở Việt Nam đã được thể hiện
trong cuộc sống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, trước yêu
cầu mới của công cuộc đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục bổ sung, phát triển, hồn thiện và thực hiện
tốt hơn chính sách bình đẳng giữa các dân tộc ở Việt Nam.
2


NỘI DUNG
1. Một số vấn đề trong việc thực hiện chính sách bình đẳng giữa
các dân tộc ở nước ta hiện nay
1.1. Bình đẳng giữa các dân tộc ở Việt Nam - Chính sách nhất quán
của Đảng và Nhà nước
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong hơn 88 năm
qua, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến vấn đề dân tộc, nhất là vấn
đề bình đẳng dân tộc, đoàn kết dân tộc trong hoạch định đường lối, chủ
trương, chính sách của mình. Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Đảng đã chỉ
rõ, các dân tộc sống trên đất Việt Nam đều được bình đẳng về quyền lợi và

nghĩa vụ, phải đoàn kết giúp đỡ nhau để kháng chiến và kiến quốc. Tháng 81952, Bộ Chính trị có Nghị quyết về “Chính sách dân tộc thiểu số của Đảng
hiện nay”. Sau đó, ngày 22-6-1953, Chính phủ ban hành chính sách dân tộc
của Nhà nước Việt Nam, trong đó khẳng định đồn kết các dân tộc trên
ngun tắc bình đẳng, tương trợ để kháng chiến, kiến quốc, giúp nhau tiến bộ
về mọi mặt.
Bác Hồ của chúng ta đã từng nói: “Chính sách dân tộc của chúng ta là
nhằm thực hiện sự bình đẳng giúp nhau giữa các dân tộc để cùng nhau tiến
lên chủ nghĩa xã hội”, những thành quả cách mạng là do công sức của cộng
đồng các dân tộc tạo nên, không một tộc người nào dám nhận đó là thành quả
của riêng mình và khơng thể coi mình là tộc người thượng đẳng hơn các dân
tộc khác trên đất nước Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định các
dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và
giúp nhau cùng phát triển. Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ XII của Đảng
nêu rõ: “Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình
3


đẳng, tơn trọng, đồn kết, giải quyết hài hịa quan hệ giữa các dân tộc, giúp
nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội vùng có đơng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây
Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải miền Trung”.
1.2. Quyền bình đẳng của các dân tộc thiểu số trên mọi phương diện
luôn được khẳng định trong Hiến pháp qua các thời kỳ
Việt Nam là một quốc gia thống nhất, đa dân tộc gồm 54 dân tộc cùng
chung sống, trong đó, dân tộc Kinh chiếm đa số với 85,7% dân số, còn lại là
đồng bào các dân tộc thiểu số với trên 12,253 triệu người, chiếm tỷ lệ 14,3%.
Hiến pháp nước ta qua các thời kỳ đều ln khẳng định chính sách đồn kết
dân tộc. Hiến pháp năm 2013, bản hiến pháp đã nâng tầm chế định về quyền
con người, quyền công dân, khi đề cập đến quyền bình đẳng giữa các dân tộc,

đã khẳng định: “Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia
thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân
tộc bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm
mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,
chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy những phong tục, tập quán, truyền
thống và văn hố tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển
tồn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng
phát triển với đất nước” (Điều 5). “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Khơng ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội” (Điều 16).
Nguyên tắc trên của Hiến pháp đã được thể hiện xuyên suốt trong toàn
bộ hệ thống pháp luật Việt Nam, được thể chế và cụ thể hóa trong các văn bản
luật: Luật Bầu cử Quốc hội, Luật Quốc tịch, Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng
4


Hình sự; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Tố tụng Dân sự; Luật Lao động; Luật Giáo
dục; Luật Bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân; Luật Trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước, nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác.  Bên cạnh đó, các quy
định về quyền bình đẳng giữa các dân tộc cịn được thể chế hóa bằng chế định
về Hội đồng Dân tộc, với nhiệm vụ nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về
công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc,
các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có
đồng bào dân tộc thiểu số. Trong Chính phủ có một cơ quan cấp bộ là Uỷ ban
Dân tộc, chuyên trách công tác dân tộc.
Với quan điểm mọi công dân đều được bảo đảm quyền tham gia hệ
thống chính trị, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, ứng cử vào Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp, những năm gần đây tỷ lệ người dân tộc thiểu số
tham gia vào bộ máy chính trị ngày càng tăng. Nhiệm kỳ Quốc hội Khóa X có

66 đại biểu dân tộc thiểu số đại diện cho 27 thành phần dân tộc thiểu số,
chiếm 16,7% tổng số ĐBQH. Nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XI có 86 đại biểu dân
tộc thiểu số, đại diện cho 31 thành phần dân tộc thiểu số, chiếm 17,27% tổng
số ĐBQH. Nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XII có 86 đại biểu dân tộc thiểu số, đại
diện cho 30 thành phần dân tộc thiểu số, chiếm 17,27% tổng số ĐBQH.
Nhiệm kỳ QH Khóa XIII có 78 đại biểu, đại diện cho 29 thành phần dân tộc
thiểu số, chiếm 15,6% tổng số ĐBQH.
Không chỉ ở Quốc hội, tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham gia đại biểu
HĐND các cấp đều tăng qua các nhiệm kỳ bầu cử. Nhiệm kỳ 2004 – 2009, tỷ
lệ đại biểu dân tộc thiểu số trong HĐND cấp tỉnh là 18,2%, cấp huyện 18,9%,
cấp xã 23,3%. Đại biểu đại diện cho đồng bào các dân tộc thiểu số tham gia
hoạt động trong hệ thống chính trị ngày càng đông, nhiều người đã và đang
giữ các chức vụ quan trọng trong Đảng, QH, Chính phủ như: Tổng bí thư,

5


Chủ tịch QH, Phó chủ tịch QH, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Bộ trưởng, Chủ
nhiệm Ủy ban Dân tộc, Trưởng ban Dân vận Trung ương...
1.3. Dành nhiều ưu tiên hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển
kinh tế - xã hội
Với đặc điểm cư trú phân tán, xen kẽ, tập trung chủ yếu ở các vùng núi,
đặc biệt là vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, trình độ phát triển
cịn thấp so với mặt bằng chung cả nước. Để hỗ trợ đồng bào các dân tộc
thiểu số thực hiện quyền bình đẳng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần,
từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các dân tộc, những năm qua,
Nhà nước đã dành nhiều ưu tiên trong triển khai các chính sách phát triển
kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 
Nhiều chương trình đã đem lại nhiều hiệu quả thiết thực như: Chương
trình hành động 122 của Chính phủ về Cơng tác Dân tộc; Nghị quyết

30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về Giảm nghèo bền vững; Chương trình 135
(giai đoạn 2) về Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa; các chính sách và chương
trình ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng, giải quyết đất sản xuất và đất ở (Quyết định
132); hỗ trợ đất sản xuất, nhà ở và các nhu cầu thiết yếu phục vụ sản xuất và
đời sống cho đồng bào nghèo thuộc dân tộc thiểu số (Quyết định 134); ưu đãi
thuế nông nghiệp và thuế lưu thông hàng hoá, hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp,
trợ giá các mặt hàng thiết yếu cho đồng bào dân tộc như muối ăn, thuốc chữa
bệnh, phân bón, giấy viết, chính sách phát triển rừng, bảo vệ môi trường sống
miền núi (Chương trình 327); chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo; chính
sách ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số…
Nhờ những chính sách và chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước,
tình hình kinh tế, xã hội ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
6


được cải thiện rõ rệt. Từ năm 2007 đến nay đã có 118.530 hộ đồng bào dân
tộc thiểu số đặc biệt khó khăn được vay vốn, 33.969 hộ được hỗ trợ phát triển
sản xuất, 80.218 hộ được hỗ trợ mở rộng quy mô chăn nuôi, 4.343 hộ được hỗ
trợ mở rộng sang ngành nghề dịch vụ. Tổng số hộ nghèo người dân tộc thiểu
số là 1.422.261 hộ, chiếm 5,97% tổng số hộ người dân tộc thiểu số trong cả
nước.
Chất lượng cuộc sống của người dân tộc thiểu số cũng từng bước được
cải thiện. Cơ sở hạn tầng đảm bảo cho việc bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của
đồng bào được đầu tư xây dựng. Đến nay, 100% xã có trạm y tế và cán bộ y
tế, 100% số huyện có trung tâm y tế và bác sỹ; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy
dinh dưỡng giảm xuống dưới 25%. Một số dịch bệnh trước đây phổ biến ở
vùng dân tộc thiểu số và miền núi như sốt rét, bướu cổ, phong, lao được ngăn
chặn và đẩy lùi.
1.4. Bảo đảm quyền và hỗ trợ đồng bào thiểu số gìn giữ, phát huy

bản sắc văn hóa dân tộc
Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc là
chủ trương nhất quán của Nhà nước Việt Nam, coi đó là cội nguồn sức mạnh
đại đồn kết dân tộc và phát triển bền vững đất nước. Trên thực tế, đời sống
văn hóa, tinh thần của đồng bào các dân tộc trong những năm qua được cải
thiện rõ rệt, mức thụ hưởng văn hóa được nâng cao. Nhiều nét văn hóa các
dân tộc thiểu số được bảo tồn, phát triển, được cơng nhận là di sản văn hóa
thế giới như: “Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Ngun”, “Thánh địa Mỹ
Sơn”, “Cao nguyên đá Đồng Văn”. Đến nay, hơn 90% hộ gia đình vùng đồng
bào dân tộc thiểu số được nghe Đài Tiếng nói Việt Nam và trên 80% số hộ
được xem truyền hình. Các chương trình phát thanh, truyền hình bằng cả

7


tiếng Việt và 26 thứ tiếng Dân tộc được phát sóng mở rộng tới các bản làng
xa xơi.
Bên cạnh đó, công tác giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí ở vùng có
đơng người dân tộc thiểu số sinh sống cũng được quan tâm đẩy mạnh và đạt
được nhiều thành tựu quan trọng. Hệ thống các trường trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng, trường dạy nghề; các loại hình trường nội trú, bán trú, dự bị
đại học dân tộc tại vùng có đơng dân tộc thiểu số đều đều được đầu tư xây
dựng. Từ năm 2012, 100% xã đã đạt chuẩn phổ cập tiểu học, nhiều nơi đã đạt
chuẩn phổ cập trung học cơ sở, 95% trẻ em dân tộc thiểu số được đến trường.
2. Một số vấn đề thực tiễn đặt ra trong thực hiện bình đẳng giữa
các dân tộc hiện nay
Bên cạnh một số thành tựu đạt được, còn nhiều yếu kém cũng như
thách thức đặt ra cho công tác dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
Thứ nhất, hệ thống chính sách vùng dân tộc và miền núi so với giai
đoạn trước có nhiều ưu điểm, nhưng cịn bộc lộ khơng ít hạn chế, như chưa

bảo đảm gắn kết thống nhất giữa chính sách phát triển dân tộc - tộc người với
chính sách phát triển vùng; thời gian thực hiện chính sách ngắn, thiếu tính
chiến lược; trình tự thủ tục xây dựng và trình một số đề án mất nhiều thời
gian; hầu hết các chính sách đều mang tính chất hỗ trợ; chính sách đầu tư
chưa đáp ứng được yêu cầu cơ bản, do vậy hiệu quả chưa thực sự bền vững;
nhiều chính sách phải kéo dài thời gian thực hiện dẫn đến định mức khơng
cịn phù hợp với thực tế; có chính sách do huy động nhiều nguồn vốn, khi cấp
vốn khơng đồng bộ dẫn đến khó khăn trong triển khai thực hiện; việc bố trí
vốn đối ứng của các địa phương gặp khó khăn do đa số các địa phương vùng
dân tộc và miền núi đều phải nhận trợ cấp từ ngân sách trung ương.

8


Việc xây dựng một số chính sách thiếu thực tế, chưa phù hợp với địa
bàn vùng dân tộc và miền núi. Tổ chức thực hiện chính sách cịn nhiều yếu
kém, phân cơng chủ trì chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa hợp lý; việc phối hợp
giữa các bộ, ngành có lĩnh vực chưa chặt chẽ, chỉ đạo có mặt cịn chồng chéo.
Việc lồng ghép các chính sách trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi cịn
nhiều khó khăn, bất cập. Công tác kiểm tra, đánh giá, sơ kết, tổng kết thực
hiện chính sách cịn hạn chế. Chỉ đạo, thực hiện chính sách ở một số địa
phương cịn lúng túng. Cơng tác lập kế hoạch, rà sốt đối tượng thụ hưởng
trong việc thực hiện một số chính sách chưa sát với thực tế,...
Thứ hai, ở vùng dân tộc và miền núi, kinh tế chậm phát triển so với
tiềm năng của vùng và phát triển chưa vững chắc. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu
lao động chuyển dịch chậm. Mức độ thương phẩm hóa của nông sản còn thấp;
sản phẩm sản xuất ra chưa có thị trường tiêu thụ ổn định, sức cạnh tranh và
hiệu quả kinh tế thấp. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiếu và yếu kém: Hiện
còn 535/1.848 xã có đường đến trung tâm xã chỉ đi được trong mùa khơ;
14.093 thơn, bản chưa có đường ơ-tơ; 204/1.848 xã chưa có điện lưới quốc

gia đến trung tâm xã và trên 8.100 thôn, bản chưa được sử dụng điện lưới
quốc gia; 304 xã đặc biệt khó khăn chưa đủ lớp học kiên cố; 15.930 thôn, bản
chưa có nhà trẻ, mẫu giáo; 758 xã chưa có nhà văn hóa;...
Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều vùng dân tộc và miền núi
cao nhất cả nước; tình trạng tái nghèo phổ biến ở nhiều nơi. Năm 2016, tỷ lệ
hộ nghèo khu vực miền núi Tây Bắc là 34,52%, miền núi Đông Bắc: 20,74%;
Tây Nguyên: 17,14%; các tỉnh Bắc Trung Bộ: 12,5%. Kết quả giảm nghèo
thiếu tính bền vững, tỷ lệ tái nghèo cao. Bên cạnh đó, chất lượng giáo dục và
nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi thấp: 21% số người trong độ tuổi đi
học không biết đọc, biết viết chữ phổ thông; số người trong độ tuổi lao động
chưa qua đào tạo chiếm 89,5%, riêng số người trong độ tuổi lao động là người
9


dân tộc thiểu số chưa qua đào tạo chiếm 94,2% (tỷ lệ này ở đồng bào dân tộc
Mông là 98,7%; Khmer: 97,7%; Thái: 94,6%; Mường: 93,3%); chất lượng
đào tạo nghề thấp.
Đội ngũ cán bộ y tế vùng dân tộc và miền núi vừa thiếu, vừa yếu về
chuyên môn nghiệp vụ, nhất là cán bộ người dân tộc thiểu số. Trang thiết bị y
tế thiếu và lạc hậu, phần lớn người nghèo vùng dân tộc và miền núi khơng có
điều kiện tiếp cận với các dịch vụ y tế chất lượng tốt.
Thứ ba, Hệ thống chính trị cơ sở ở một số nơi cịn yếu, đặc biệt đội ngũ
cán bộ có năng lực, trình độ cịn hạn chế, nhất là thiếu đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số hoặc có cán bộ dân tộc nhưng chưa được đào tạo. Tỷ lệ cán
bộ là người dân tộc thiểu số trong chính quyền cấp huyện và tỉnh tại các địa
phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp (khoảng 10,9% và
11,32%). Trong tổng số 48.200 cán bộ dân tộc thiểu số cấp xã, số người có
trình độ học vấn trung học cơ sở chiếm 45%, tiểu học: 18,7%, chỉ có 1,9% có
trình độ cao đẳng và đại học.
Cơng tác dân tộc đang có những thách thức chủ yếu là: Khoảng cách

giàu - nghèo, chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, giữa các nhóm dân
tộc ngày càng lớn; tỷ lệ nghèo ở các vùng dân tộc và miền núi cao hơn 2,5 lần
so với tỷ lệ bình quân chung của cả nước. Đặc biệt, là những khó khăn, thiếu
thốn ở các “vùng lõi” của đói nghèo, vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc và
miền núi từ các tỉnh phía Bắc đến các tỉnh phía Nam.
Thứ tư, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu chống phá cách
Việt Nam bằng nhiều thủ đoạn, hình thức, biện pháp mới. Để thực hiện mục
tiêu chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch đã và đang đẩy
mạnh chiến lược “diễn biến hịa bình”, thúc đẩy q trình “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” từ bên trong Đảng ta. Các thế lực thù địch đã, đang và sẽ đẩy

10


mạnh việc giúp đỡ thành lập các lực lượng đối lập, tạo điều kiện cho các lực
lượng này hoạt động, kích động quần chúng, nhất là vùng có đơng đồng bào
dân tộc thiểu số sinh sống. Các phần tử chống đối, các phần tử thối hóa biến
chất, các tổ chức “phi chính phủ” cũng đã, đang và sẽ được các thế lực thù
địch tài trợ và lợi dụng để tiến hành các hoạt động “diễn biến hồ bình” chống
chế độ từ bên trong, nhất là xuyên tạc quan điểm, đường lối, chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước ta.
3. Giải pháp tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách bình đẳng
giữa các dân tộc ở Việt Nam hiện nay
Để tiếp tục thực hiện tốt chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta
về bình đẳng giữa các dân tộc ở Việt Nam hiện nay, cần quan tâm làm tốt một
số nội dung, giải pháp sau đây:
Một là, đẩy mạnh cơng tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống
của đồng bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu,
vùng xa; trong những năm trước mắt tập trung trợ giúp đồng bào nghèo, các
dân tộc đặc biệt khó khăn giải quyết ngay những vấn đề bức xúc như: tình

trạng thiếu lương thực, thiếu nước sinh hoạt, nhà ở tạm bợ, không đủ tư liệu
sản xuất, dụng cụ sinh hoạt tối thiểu; xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên
giới, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Giải quyết cơ bản tình trạng
thiếu đất sản xuất, đất ở và tranh chấp đất đai ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, nhất là ở Tây Nguyên, Tây Bắc và vùng đồng bào dân tộc Khơme Nam
Bộ.
Hai là, xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
vùng biên giới. Làm tốt công tác định canh, định cư và di dân xây dựng vùng
kinh tế mới; công tác quy hoạch, sắp xếp, phân bổ lại hợp lý dân cư, nguồn
nhân lực theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững,
gắn với bảo vệ an ninh, quốc phịng. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các
chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình; tăng cường các hoạt động văn
11


hóa thơng tin, tun truyền hướng về cơ sở; tăng thời lượng và nâng cao chất
lượng các chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số,
làm tốt cơng tác nghiên cứu, sưu tầm, gìn giữ và phát huy các giá trị, truyền
thống tốt đẹp trong văn hóa các dân tộc.
Ba là, thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở và các
chương trình giáo dục miền núi, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục,
đào tạo, nhất là trường phổ thông dân tộc nội trú các cấp; đẩy mạnh việc tổ
chức các trường mẫu giáo công lập; mở rộng việc dạy chữ dân tộc. Đa dạng
hóa phát triển nhanh các loại hình đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề ở vùng dân
tộc, đưa chương trình dạy nghề vào các trường dân tộc nội trú; tiếp tục thực
hiện chính sách ưu tiên, cử tuyển dành cho con em các dân tộc vào học tại các
trường đại học và cao đẳng; mở thêm trường dự bị dân tộc ở miền Trung, Tây
Nguyên. Nghiên cứu tổ chức trường chuyên đào tạo, bồi dưỡng trí thức và cán
bộ người dân tộc thiểu số.
Bốn là, củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở các

vùng dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về
kiện tồn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở, kiên quyết khắc phục
tình trạng xa dân của một số cán bộ; thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, luân chuyển cán bộ. Đẩy mạnh phát triển
đảng viên trong đồng bào dân tộc...
Năm là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm cho đồng bào
các dân tộc được bình đẳng về quyền làm chủ đất nước; bình đẳng về quyền
lợi và nghĩa vụ, được thực hiện quyền tham chính của mình thơng qua thực
hiện dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp qua bầu cử và ứng cử. Công dân là
người các dân tộc khơng phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao
hay thấp đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực của đời
sống, như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại,
tạo điều kiện cho đồng bào có cơ hội thuận lợi phát triển về mọi mặt.

12


KẾT LUẬN
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng
và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa
đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.
Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu,
vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; làm tốt công tác định canh,
định cư và xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân
cư, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phịng. Củng cố và nâng
cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số;
động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực

hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là người dân
tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần
gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác
dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hịi, chia rẽ dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới chính là sự kế thừa
và phát triển chính sách dân tộc của Đảng đã được vạch ra cùng với sự ra đời
và trưởng thành của Đảng; là sự vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. Đó chính là
tiền đề, là điều kiện quan trọng nhất để giải quyết thành công vấn đề dân tộc ở
nước ta trên hành trình đổi mới.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Di sản lịch sử về vấn đề dân tộc của Phan Hữu Dật, Lâm Bá Nam: Chính
sách dân tộc của các chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam (XXIX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
5. Phan Hữu Dật (Chủ biên): Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên
quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2001.
6. Các chuyên đề môn Lý luận dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam của
Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học – Học viên Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
7. Các tài liệu tham khảo khác.

14




×