Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Bài thu hoạch, cnxh khoa học phát huy dân chủ xhcn ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.48 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
NỘI DUNG.......................................................................................................3
1. Nhận thức về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa.................................3
2. Sự vận dụng chủ nghĩa xã hội sáng tạo ở Việt Nam.................................5
2.1. Những thành tựu trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và xây
dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới..............................................................5
2.2. Những hạn chế trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và xây
dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới............................................................9
2.3. Những đổi mới căn bản trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội sau đổi mới.................................................11
KẾT LUẬN....................................................................................................21

1


MỞ ĐẦU
Nền dân chủ của dân tộc ta ra đời trong cuộc Cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân; đã được thử thách, trải nghiệm trong các cuộc kháng chiến
chống xâm lược, đánh bại những kẻ thù hung bạo nhất của chủ nghĩa đế quốc,
để lại dấu ấn thời đại. Bước vào giai đoạn xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa
(XHCN), nền dân chủ đó cũng đã được trải nghiệm trong mơ hình cũ của chủ
nghĩa xã hội, mà đặc trưng của nó là: Về chính trị, đó là nhà nước chun
chính vơ sản…; về kinh tế, đó là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu
với hai thành phần duy nhất: Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Tại Đại
hội VI, năm 1986, Đảng ta đã quyết định chuyển sang xây dựng xã hội
XHCN theo mơ hình mới-mơ hình được hồn thiện từng bước từ Đại hội VII
đến nay. Những thành tố của mô hình đó là: Về chính trị, đó là xã hội do nhân
dân làm chủ với nhà nước pháp quyền do Đảng ta lãnh đạo; về kinh tế, đó là
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Mặc dù đã đạt được những thành quả to lớn, song sau gần 30 năm đổi


mới, xã hội ta đã xuất hiện nhiều vấn đề kinh tế, xã hội cần giải quyết. Đó là
tình trạng phân hóa giàu nghèo, tham nhũng, lợi ích nhóm, “bệnh nhiệm
kỳ”… có xu hướng gia tăng; quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên
một số lĩnh vực cịn bị vi phạm… Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đã công
khai, thẳng thắn chỉ ra nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là sự suy thối
về tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên
các cấp. Nếu chúng ta khơng kịp thời ngăn chặn, loại trừ tình trạng suy thối
đó thì có thể dẫn đến những bất ổn xã hội, xóa nhịa những thành quả của
cơng cuộc đổi mới trong nhiều thập kỷ qua. Để khắc phục tình trạng trên,
trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung bảo đảm và phát huy
mạnh mẽ dân chủ XHCN, mà cốt lõi là quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy,
phát huy dân chủ XHCN ở nước ta hiện nay là vấn đề rất quan trọng.

2


NỘI DUNG
1. Nhận thức về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ trong tiếng Hy lạp cổ được hiểu nhân dân cai trị, sau được các
nhà chính trị giản lược là quyền lực của nhân dân hay quyền lực thuộc về
nhân dân.
Lý luận về dân chủ chiếm một phần quan trọng trong lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin. Theo C. Mác và Ph. Ăng-ghen, từ dân chủ chủ nô đến
dân chủ tư sản rồi đến dân chủ vô sản (dân chủ xã hội chủ nghĩa) là những
bước tiến của lịch sử. Các ông đã đánh giá một cách khách quan nền dân chủ
tư sản, mặc dù nó cịn rất nhiều hạn chế, khiếm khuyết, song là bước tiến bộ
so với chế độ chuyên chế phong kiến. Đồng thời, các ông đã vạch ra bản chất
giai cấp của dân chủ tư sản, đó là dân chủ đối với thiểu số bóc lột và chun
chính đối với đa số nhân dân lao động. Theo C. Mác và Ph. Ăng-ghen, trong
giai đoạn thứ nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản phải trở

thành giai cấp thống trị, phải “giành lấy dân chủ”. Chỉ có giành được chính
quyền nhà nước, giai cấp vơ sản mới xây dựng và phát huy được nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, mới hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình là đưa nhân
dân, trước hết là nhân dân lao động trở thành người chủ của xã hội, là chủ thể
tối cao và duy nhất của mọi quyền lực. 
V.Lênin quan niệm “Chế độ dân chủ là chế độ thống trị của đa số đối
với thiểu số”. Do vậy, dân chủ được nhìn nhận như là một hình thức, một hình
thái nhà nước, trong đó thừa nhận sự tham gia của đơng đảo quần chúng nhân
dân vào công việc quản lý nhà nước để thực hiện sự thống trị đối với thiểu số
những kẻ vi phạm dân chủ của nhân dân.
Kế thừa và phát triển những tư tưởng về dân chủ của chủ nghĩa Mác Lê-nin, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm đặc sắc về dân chủ bằng diễn đạt
rất ngắn gọn: “Dân là chủ”, “Dân làm chủ”, “Dân là gốc”, “Nước ta là nước
dân chủ”, “Dân chủ là cái chìa khóa vạn năng”. Khẳng định vai trò làm chủ xã

3


hội của nhân dân, Hồ Chí Minh nói: “quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân”, và quan trọng hơn Hồ Chí Minh cịn khẳng định phải làm cho dân được
hưởng quyền làm chủ xã hội trên thực tế. Từ “dân là chủ” tiến lên thành “dân
làm chủ” là một bước tiến về chất của dân chủ. Theo Hồ Chí Minh, phải làm
sao cho người dân có quyền làm chủ, có điều kiện làm chủ, biết hưởng quyền
làm chủ, đồng thời biết dùng quyền làm chủ. Muốn vậy nhân dân phải có
năng lực làm chủ. Năng lực đó khơng phải bỗng dưng mà có, khơng phải từ
trên trời rơi xuống, khơng phải do “ban phát” mà, một mặt, Đảng, Nhà nước
phải tạo ra cơ chế, chính sách, luật pháp thích hợp; mặt khác, người dân phải
phấn đấu, rèn luyện, phải học dân chủ, phải nâng cao trình độ hiểu biết về dân
chủ, phương pháp thực hành dân chủ và bản lĩnh thực hành dân chủ. Có như
vậy, nhân dân mới có quyền dân chủ thực sự, tránh tình trạng dân chủ chung
chung, dân chủ hình thức.

Theo Hồ Chí Minh, để các quyền dân chủ được thực hiện trong cuộc
sống, các quyền đó phải được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật và được
thực hiện bằng những thiết chế tương ứng của Nhà nước. Ở đây, dân chủ và
pháp luật, dân chủ và kỷ cương không bài trừ, phủ định nhau, trái lại, chúng
nằm trong sự thống nhất biện chứng, là điều kiện, tiền đề phát triển của nhau.
Thực tế cho thấy, cả vơ chính phủ lẫn độc đoán chuyên quyền đều trái với bản
chất của nền dân chủ xã hợi chủ nghĩa. Khơng thể có dân chủ mà thiếu pháp
luật, kỷ luật, kỷ cương.
Kế tục tư tưởng vì dân của Hồ Chí Minh, Đảng ta chủ trương xây dựng
chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân và khẳng định, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển
đất nước; dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa
bằng pháp luật, được pháp luật đảm bảo; dân chủ là nguyên tắc tổ chức, hoạt
động của các tổ chức chính trị - xã hội (nguyên tắc tập trung dân chủ). Như
vậy, Dân chủ là một giá trị xã hội phản ánh chủ thể quyền lực là nhân dân,

4


khẳng định những quyền cơ bản của con người; là một hình thức tổ chức nhà
nước của giai cấp cầm quyền thành một chế độ chính trị xac hội mà ở đó
những quyền cơ bản của con người (tự do, bình đẳng…) được pháp luật thừa
nhận và bảo vệ; đồng thời những quyền này được thể chế thành các nguyên
tắc (quyền lực thuộc về nhân dân, mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật…) để quy định quyền lợi, trách nhiệm của nhân dân đối với nhà nước,
cộng đồng và ngược lại.
2. Sự vận dụng chủ nghĩa xã hội sáng tạo ở Việt Nam
2.1. Những thành tựu trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và
xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới
Trước đổi mới, Việt Nam nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và xây

dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước đổi mới được thể hiện ở những nội dung
cơ bản sau:
Một là, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội
Đây là nhận thức lý luận vơ cùng quan trọng có ý nghĩa chỉ đạo xun
suốt của cách mạng nước ta. Trải qua nhiều giai đoạn, nhiều thời kỳ đấu tranh
cách mạng đầy gian khổ, chủ nghĩa xã hội vẫn là lý tưởng và là mục tiêu
hướng tới của cách mạng Việt Nam. Việc kiên định mục tiêu, lý tưởng này
vừa thể hiện nhận thức đúng đắn logic khách quan của sự vận động của
cách mạng nước ta, vừa tạo động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của cách
mạng Việt Nam.
Nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội là một nhận thức khoa học và trở thành tư tưởng lớn
xuyên suốt và chủ đạo của cách mạng Việt Nam. Trong đó, độc lập dân tộc là
điều kiện tiên quyết để đi đến chủ nghĩa xã hội; còn chủ nghĩa xã hội là đảm
bảo đầy đủ, thực chất và triệt để nhất của độc lập dân tộc.

5


Trước thời kỳ đổi mới đất nước, nhận thức lý luận này của Đảng ta là
nhất qn và khơng có sự hoài nghi, dao động về con đường đã lựa chọn, mặc
dù chủ nghĩa xã hội hiện thực vào cuối những năm 80 đầu những năm 90 của
thế kỷ XX ở nhiều nơi trên thế giới đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Đồng
thời, tư tưởng này cũng chỉ rõ tiến trình phát triển của Việt Nam là quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Hai là, phác thảo trên những nét căn bản về đặc điểm và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hợi ở Việt Nam
Q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta có nhiều nét đặc thù so
với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước trên thế giới. Chúng ta

xây dựng chủ nghĩa xã hội với việc thực hiện đồng thời các nhiệm vụ: vừa
xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; vừa cải tạo
xã hội chủ nghĩa ở miền Nam vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả
nước. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nhận thức rõ mối quan
hệ giữa cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, cải tạo để mở đường,
để chuẩn bị những tiền đề, điều kiện cần thiết cho xây dựng; xây dựng là tiếp
tục hoàn thiện nhiệm vụ cải tạo và tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật cần thiết
cho chủ nghĩa xã hội. Nhìn một cách tổng thể, đường lối chung của cách
mạng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta vạch ra thời kỳ trước đổi mới là đúng đắn
và phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh thực tiễn của đất nước.
Thời kỳ trước đổi mới, thông qua đường lối, Cương lĩnh, chiến lược
của Đảng từ năm 1954 đến 1986 có thể khái quát chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam được phác thảo trên những lĩnh vực chủ yếu sau:
Về kinh tế: Đảng chủ trương “xây dựng một nền kinh tế quốc dân có
cơng nghiệp hiện đại, nơng nghiệp hiện đại, khoa học, kỹ thuật tiên tiến" làm
cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Trong giai đoạn
1954 – 1957, Đảng cũng đưa ra quan điểm thừa nhận ở nước ta vẫn tồn tại

6


nền kinh tế nhiều thành phần và “để phát huy mặt tích cực và hạn chế đến
mức thấp nhất mặt tiêu cực trong một nền kinh tế có nhiều thành phần, sự chỉ
đạo và quản lý của Nhà nước phải rất sắc bén, nắm vững kế hoạch hoá, đồng
thời khéo vận dụng các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ để thúc đẩy sản xuất
phát triển”1, đặc biệt là thừa nhận và bảo đảm trên thực tế quyền sở hữu ruộng
đất của nơng dân. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát
triển kinh tế đã góp phần xác lập và khẳng định vị trí chủ thể của kinh tế hộ
nông dân; tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp - hoạt động kinh tế chủ yếu
khi đó có bước phát triển nhanh.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhận thức lý luận quan
trọng này lại khơng được hiện thực hố bằng các quyết định, chính sách phát
triển kinh tế lâu dài và nhất quán để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
quá độ.
Về chính trị: quan điểm đúng đắn xuyên suốt từ khi thành lập đảng cho
đến thời kỳ này vẫn là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Việt Nam là
nước duy nhất thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược cùng một lúc:
tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc. Đường lối chiến lược đúng đắn này đã thể hiện phương
châm chiến lược sáng tạo của Đảng về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Về văn hoá: Vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
văn hố vơ sản - văn hoá xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ
trương phải xây dựng nền văn hoá mới – nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Về xã hội: Thực hiện cơng bằng, bình đẳng xã hội, chủ trương thực
hiện nhất quán hình thức phân phối theo lao động; quan tâm đến các gia
đình chính sách.
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H., tập 36, tr.410-411

7


Về con người: Thiết lập quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người,
thể hiện trong xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam – đó là
điều kiện, tiền đề để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hợi.
- Về chính sách đối ngoại: Việt Nam chủ trương tranh thủ tối đa sự
giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, của các lực lượng u chuộng hồ
bình, dân chủ và tiến bợ trên thế giới. Việt Nam luôn trung thành với tinh thần

của chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp với chủ nghĩa yêu nước
chân chính của dân tộc Việt Nam.
Có thể thấy rằng, thời kỳ này Đảng Cộng sản Việt Nam đã có một số
nhận thức đúng về chủ nghĩa xã hội, vận dụng những nét khái quát về đặc
trưng phổ biến của xã hội xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin.
Ba là, nhận thức lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Nhận thức luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lần đầu tiên
được Đảng ta nêu ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (2/1951) với
quan niệm về ba giai đoạn, trong đó, giai đoạn thứ ba của cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân được coi là thời kỳ quá độ với nhiệm vụ xây dựng, củng cố
và hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân.
Trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ
quá đợ, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: đặc điểm lớn nhất của Việt Nam là quá độ từ
một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, do vậy nhiệm vụ quan trọng là phải xây dựng cơ
sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế nhiều thành
phần, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên
tiến. Người cũng chỉ rõ tính chất quá độ là lâu dài, khó khăn trải qua nhiều
bước2.
2

Xem: Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.10, tr.13 và t.7, tr.540

8


Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành, Hồ Chí Minh chỉ rõ
phải có tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, không giáo điều, rập khuôn, tìm tòi
cách đi cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam3.

Tuy vậy, những tư tưởng chỉ đạo này của Hồ Chí Minh đã không được
kiên trì thực hiện do chủ quan, nóng vội muốn mau chóng xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hợi.
Từ Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ III (1960), nhiều vấn đề lý luận
về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tiếp tục được đặt ra nghiên cứu và làm
sáng tỏ như: lý luận phân kỳ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những mâu
thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, đấu tranh giai cấp v.v…
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3/1982), tư duy lý luận của
Đảng ta về chủ nghĩa xã hội đã có nhận thức mới phù hợp hơn với thực tiễn
của Việt Nam, thể hiện ở sự điều chỉnh trong nhận thức về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội và lần đầu tiên khái niệm chặng đường đầu tiên của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội được sử dụng trong Văn kiện với mục tiêu tạo ra
những tiền đề cho quá trình cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, thời
kỳ trước đổi mới, lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn chưa được
làm sáng tỏ.
Tóm lại, mặc dù những nhận thức về chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước đổi
mới cịn mang tính chất từng mặt, từng bộ phận, chưa triệt để và toàn diện,
nhưng là những bước chuẩn bị quan trọng tạo tiền đề cho sự nghiệp đổi mới đất
nước và làm sáng tỏ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta sau này.
2.2. Những hạn chế trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và
xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới

3

Xem: Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.8, tr.227

9



Ở thời kỳ này, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhận
thức về chủ nghĩa xã hội, về mơ hình của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
vẫn còn rất nhiều hạn chế, khiếm khuyết. Việc xác định mục tiêu xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chưa được phân biệt rõ, đơi lúc cịn nhầm lẫn
giữa mục tiêu lâu dài với những nhiệm vụ cấp bách trước mắt. Những đặc
trưng mang sắc thái từ đặc điểm lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hoá của Việt
Nam chưa được đề cập cụ thể trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội mà chúng
ta cần xây dựng. Trong nhận thức về xã hội xã hội chủ nghĩa thời kỳ này còn
nhiều hạn chế, giáo điều, máy móc, như đồng nhất mục tiêu cuối cùng của
chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều
quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình qn, khơng thấy đầy đủ u cầu
phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ; đồng nhất kinh tế thị
trường với chủ nghĩa tư bản, coi nhẹ những thành tựu, giá trị mà nhân loại đã
đạt được trong thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản; muốn nhanh chóng
xóa bỏ sản xuất hàng hóa, cơ chế thị trường, xóa bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế
tư nhân; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...
Thời kỳ trước năm 1986 ở cả hai miền Bắc, Nam (sau khi thống nhất
đất nước) đều duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Cơ chế này
đã làm triệt tiêu nhiều động lực để phát triển đất nước.
Phương hướng phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội khi đưa
ra đã khơng chú ý đúng đắn đến các lợi ích chính đáng; chưa giải quyết thoả
đáng mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân - tập thể - xã hội.
Nhiều vấn đề khác như dân chủ xã hội chủ nghĩa, văn hoá xã hội chủ
nghĩa, con người mới xã hội chủ nghĩa cũng có nhiều nhận thức mơ hồ, chủ
quan, duy ý chí…Các phương hướng, giải pháp để xây dựng chủ nghĩa xã hợi
cịn chung chung, trừu tượng. Một số vấn đề về xã hội như bình đẳng xã hội,
cơng bằng xã hội giữa các tộc người, giữa miền núi với miền xuôi, giữa nông

10



thơn và thành thị… đều có những nhận thức chưa đầy đủ. Tính hiệu quả, thiết
thực của các chính sách xã hội còn nhiều hạn chế.
Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và
nghiên cứu lý luận, Đảng ta từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu
sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta;
từng bước khắc phục được một số quan niệm giản đơn, ấu trĩ trước đây.
2.3. Những đổi mới căn bản trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội sau đổi mới
Trên cơ sở nhận thức về thời đại, nhận thức về dân tộc và sức mạnh dân
tộc từ thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước dựa trên nền tảng của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Đảng ngày càng rõ hơn.
Trong quá trình đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa
xã hội, Đảng nhận thấy việc xác định đúng mơ hình chủ nghĩa xã hội là yếu tố
có ý nghĩa quyết định đến sự thành cơng của công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Bởi đó là cơ sở, là định hướng để Đảng và Nhà nước ta
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật nhằm hiện thực
hoá mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội năm 1991, mơ hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng đã
được phác hoạ với 6 đặc trưng. Đại hội lần thứ X (năm 2006) của Đảng đã bổ
sung, phát triển làm cho mơ hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam toàn diện hơn,
gồm 8 đặc trưng. Trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đảng ta
tiếp tục xác định 8 đặc trưng trên cơ sở kết hợp, bổ sung, phát triển những đặc
trưng của chủ nghĩa xã hội trong các văn kiện nói trên.
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng trong
Cương lĩnh 2011 là thành quả của quá trình vận động của cách mạng Việt
Nam, đặc biệt là của gần 30 năm đổi mới, trước hết là thành quả của sự đổi
mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam trong điều
kiện hiện nay.
11


Cương lĩnh 2011 khẳng định:
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân
làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; có nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện; các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng
phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới [i].
Trong 8 đặc trưng nêu trên, so với Cương lĩnh 1991, có những sự bổ
sung, phát triển sau:
Có 2 đặc trưng bổ sung mới là:
Đặc trưng thứ nhất, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Đây vừa là đặc trưng tổng quát, đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội phải làm cho dân giàu, có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc cả về vật chất và tinh thần. Nghèo đói khơng phải là chủ
nghĩa xã hội. Dân giàu nhưng phải làm cho nước mạnh, dân có giàu nước mới
mạnh, phải nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia. Dân giàu nhưng phải đảm
bảo cơng bằng xã hội, đây là thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Lần
này trong Cương lĩnh 2011, khi diễn đạt đặc trưng thứ nhất có sự thay đổi về
trật tự từ so với diễn đạt trong Văn kiện Đại hội X của Đảng: Cụm từ ''dân
chủ'' được đưa lên trước cụm từ ''công bằng''. Sự thay đổi này không phải
ngẫu nhiên và không đơn thuần là sắp xếp lại thứ tự mà phản ánh sự nhận

thức ngày càng sâu sắc hơn của Đảng ta về dân chủ. Dân chủ là bản chất của
chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là nguồn lực phát
triển đất nước, do đó dân chủ phải được đặt ở một vị trí tương xứng với tầm
vóc, giá trị của nó. Và khi đề cao dân chủ, chúng ta không hề xem nhẹ kỷ
luật, kỷ cương phép nước là cái hiện nay chúng ta còn nhiều yếu kém. Càng
coi trọng dân chủ càng phải coi trọng kỷ luật, pháp luật, kỷ cương phép nước

12


trong quản lý đời sống xã hội. Cả dân chủ và kỷ luật đều là những mặt chúng
ta còn nhiều hạn chế, cần phải phấn đấu nâng cao.
Đặc trưng mới thứ hai, là ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo''. Đặc
trưng này là kế thừa Văn kiện Đại hội X của Đảng, phản ánh đường lối xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, phù hợp với thực tiễn
Việt Nam và xu thế của thời đại. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm
quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, song Đảng hoạt động trong khn khổ
Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, để tránh hiểu lầm hoặc sự xuyên tạc của một
số người khi cho rằng ''dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản'' nghĩa là Đảng ta
đứng trên Nhà nước và pháp luật, nêu trong Cương lĩnh 2011 đã thay từ
“dưới'' sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản bằng từ ''do'' Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Trong các đặc trưng còn lại đều có sự bổ sung, phát triển cho phù hợp
với thực tiễn và nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. Ngay cả ở đặc trưng về
văn hóa ''có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc'' tuy khơng có sự
thay đổi gì về câu chữ, song vẫn chứa đụng những nhận thức mới sâu sắc hơn
của Đảng ta về nội hàm khái niệm ''nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc”, về vai trò của văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, về quan hệ giữa
kinh tế và văn hóa.

Đảng ta khẳng định lại đặc trưng ''do nhân dân làm chủ'' (bỏ cụm từ
''lao động'' trong Cương lĩnh năm 1991). Sự khẳng định đó nhằm phát huy cao
độ sức mạnh đại đồn kết toàn dân tộc; mỗi người dân Việt Nam đều là người
chủ đất nước, có trách nhiệm xây dựng đất nước, dù mình sống trong hay
ngồi nước.
Về đặc trưng kinh tế, Đảng xác định: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp''. Trong
đặc trưng này, nếu đặc trưng về lực lượng sản xuất ý kiến khá thống nhất thì
đặc trưng về quan hệ sản xuất vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau cần phải tiếp
tục đi sâu nghiên cứu. Tuy nhiên, ở đây có thể hiểu quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp là quan hệ sản xuất được xét trong chỉnh thể trên cả ba mặt: quan hệ

13


sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối và sự phù hợp khơng chỉ với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà còn phù hợp với chế độ xã hội,
với từng điều kiện lịch sử - cụ thể, với đặc thù dân tộc... Quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp ở nước ta chính là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đến khi
chúng ta xây dựng xong chủ nghĩa xã hội, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp
đó phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Về con người, Cương lĩnh 2011 xác định ''con người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện”. Muốn có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, tất yếu phải giải phóng con người khỏi áp bức bóc
lột, bất cơng, coi sự phát triển con người là mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa
xã hội. Tất cả vì con người và do con người. Con người là trung tâm của
chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển.
Về quan hệ dân tộc, “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển”. Việc bổ sung cụm từ
“tôn trọng” so với Cương lĩnh 1991 là rất có ý nghĩa bởi vì tơn trọng là một

trong những nguyên tắc cơ bản để giải quyết vấn đề dân tộc trong một quốc
gia đa dân tộc như Việt Nam, nhất là sự tôn trọng của dân tộc đa số đối với
các dân tộc thiểu số. Không tơn trọng thì khơng thể có bình đẳng, đồn kết
thực sự giữa các dân tộc.
Về hợp tác quốc tế, ''Có quan hệ hữu nghĩa và hợp tác với các nước trên
thế giới”. Điều này phản ánh xu thế lớn của tình hình thế giới là hồ bình, hợp
tác và phát triển, xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, và cũng là nguyện
vọng chân thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Chúng ta thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế, góp phần vào hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được nêu ra trên đây trong
Cương lĩnh 2011 là những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng
xong, tức khi đã kết thúc thời kỳ quá độ (mặc dù có một số đặc trưng đã được
thể hiện ra với những mức độ khác nhau ngay trong thời kỳ quá độ). Mặt

14


khác, nhận thức về các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội khơng phải là khép kín,
hồn tồn xong xi, mà là một hệ thống mở bởi vì nhận thức là một quá
trình. Với quá trình phát triển của thực tiễn đổi mới và của nhận thức, Đảng ta
sẽ có những nhận thức mới tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn thiện đặc trưng
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Các đặc trưng là một hệ thống chỉnh thể bao quát các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, quan hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau thể hiện các mối quan hệ hợp quy luật giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế và chính trị,
kinh tế và văn hố - xã hội, kinh tế và quốc phòng - an ninh - đối ngoại, giữa
nội lực và ngoại lực, giữa mục đích và phương tiện... trong đó mục tiêu cao

nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất
cơng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và điều kiện phát triển toàn diện.
Các đặc trưng vừa thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân
dân ta đang xây dựng, vừa là mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các đặc trưng này khơng phải tự
nhiên có, mà phải là kết quả của quá trình phấn đấu gian khổ, lâu dài của tồn
Đảng, tồn dân ta để xây dựng nó. Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội có q
trình hình thành, vận động, phát triển, ngày càng chín muồi tùy thuộc vào các
điều kiện khách quan và sự nỗ lực của nhân tố chủ quan. Đó cũng là q trình
vừa định hướng và từng bước định hình trong hiện thực. Vì vậy, cần phải xem
xét chủ nghĩa xã hội và các đặc trưng nó bằng quan điểm biện chứng.
Để thực hiện các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện hiện
nay là phải kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, phải “nắm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội''. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc là điều
kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở
đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc.
Hiện tại, tuy chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển lâu dài, nhưng
về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất cơng. Vì vậy, ''Theo quy
luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội'' [ ii]. Sự

15


lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa của Đảng và nhân dân ta cũng chính là
sự lựa chọn của lịch sử để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
2.4. Những giải pháp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là bỏ qua chế độ tư bản

chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Với điểm xuất phát từ trình độ phát
triển kinh tế - xã hội rất thấp, quá trình đó tất yếu phải qua một thời kỳ q
độ lâu dài, với nhiều chặng đường.
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng
được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng
tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành
một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến
giữa thế kỷ XXI phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước
công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được những
mục tiêu trên cần thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước gắn với
phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Từ một nền sản xuất nông nghiệp nhỏ, lạc hậu, tất yếu phải tiến hành
cơng nghiệp hố, hiện đại hóa. Trong thời đại bùng nổ cách mạng khoa học
và cơng nghệ, cơng nghiệp hố phải kết hợp ngay từ đầu với hiện đại hoá,
đồng thời phải bảo vệ tài nguyên, môi trường. Như vậy mới đảm bảo cho
việc phát triển nhanh, bền vững, môi trường sống tốt hơn.
Đồng thời, để xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng hiện đại thì trong
quá trình phát triển còn phải gắn với việc phát triển kinh tế tri thức, vì đây là
xu hướng phát triển chung của nhân loại. Không phát triển kinh tế tri thức,
chúng ta không bao giờ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

16


Đây là bước phát triển mới về lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi
mới. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng
quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Định hướng kinh tế thị

trường được thể hiện qua 4 đặc trưng cơ bản sau:
- Mục tiêu phát triển kinh tế là "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng
bằng, văn minh", giải phóng mạnh mẽ và khơng ngừng phát triển sức sản
xuất, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, đẩy mạnh xố đói, giảm
nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng…
- Thực hiện nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế Nhà nước giữ vai trị chủ đạo, kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể
từng bước trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng
chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn hố, giáo
dục, y tế…, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
đồng thời theo mức đóng góp vốn, cùng các nguồn lực khác, thông qua phúc
lợi xã hội.
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều
tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; xây
dựng con người mới, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện công bằng và
tiến bộ xã hội.
Văn hoá hiểu theo nghĩa chung là toàn bộ đời sống tinh thần của xã
hội. Để xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh phải lấy văn hoá làm
nền tảng tinh thần. Đảng ta khẳng định:
Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,
phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần
nhân văn, dân chủ, tiến bộ, làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu
vào toàn bộ đời sống xã hội trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức

17



mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền
thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn
hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ công bằng, văn minh [iii].
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phịng và an ninh quốc gia, trật tự,
an tồn xã hội.
Dựng nước gắn liền với giữ nước là quy luật lịch sử của dân tộc ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Các Vua Hùng đã có cơng dựng nước, Bác
cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Trong thời kỳ phát triển mới, xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai
nhiệm vụ chiến lược, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bảo đảm an ninh
quốc gia ngày nay bao gồm: An ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư
tưởng văn hoá, an ninh xã hội. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay không phải chỉ bảo
vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn phải bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, nhân dân, bảo vệ kinh
tế, văn hoá, sự nghiệp đổi mới.
Sức mạnh bảo vệ đất nước là sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong đó lực lượng vũ trang
làm nịng cốt, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển, chủ động tích cực hội nhập quốc tế.
Tồn cầu hố là xu thế tất yếu khách quan. Kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại là phải chủ động hội nhập quốc tế, chủ động về đường
lối chính sách và bước đi trong hội nhập, tham gia mạnh mẽ hơn, đầy đủ hơn
vào q trình tồn cầu hố vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế góp phần vào sự nghiệp hồ bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc, tăng cường mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.


18


Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa của nước ta. Dân chủ vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Phát huy dân chủ gắn liền với
việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc. Thực hiện có hiệu quả các
hình thức thực hành dân chủ: Dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và tự quản
trong các cộng đồng dân cư. Đại đoàn kết toàn dân tộc vừa là nguồn lực chủ
yếu, vừa là nhân tố quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Bảy là, xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân.
Nhà nước pháp quyền là thành quả của sự tiến bộ của nhân loại, trong
đó đặc điểm nổi bật là bảo đảm quyền tối cao của pháp luật. Nhà nước pháp
quyền ở nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước, do
Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay là xây
dựng cơ chế kiểm tra, giám sát các cơ quan công quyền, đổi mới lập pháp,
hành pháp và tư pháp; kiên quyết phòng ngừa, chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước
ta. Trong điều kiện hiện nay, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng là "nhiệm vụ then chốt" có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự
nghiệp cách mạng nước ta. Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy
luật tồn tại và phát triển của Đảng.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng

tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ
làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo hệ thống
chính trị và xã hội. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ

19


phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động
trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Chịu trách nhiệm trước nhân dân về
những quyết định của mình.
Như vậy, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là tổng thể
những phương thức nhằm hiện thực hóa những mục tiêu đã đề ra. Đồng thời
gắn với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của đất nước và bối cảnh thế giới./.

20



×