Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Bài thu hoạch, chinh tri hoc các giá trị đặc trưng của văn hoá chính trị việt nam và một số giải pháp nâng cao văn hoá chính trị ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.08 KB, 19 trang )

A. MỞ ĐẦU
Lịch sử cách mạng Việt Nam và lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước
thống nhất với nhau là đấu tranh và phấn đấu thực hiện những ước mơ, khát
vọng của con người Việt Nam. Lịch sử đó đã hình thành nên những giá trị văn
hóa chính trị tiêu biểu Việt Nam và hợp thành một nền chính trị nhân đạo, nhân
văn, tất cả vì con người của văn hóa chính trị Việt Nam. Đó là những giá trị nền
tảng và cũng chính là trình độ, là sức sống và sức mạnh của sự nghiệp tiếp tục
xây dựng và phát triển nền văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay.
Văn hố chính trị Việt Nam là tồn bộ những giá trị, năng lực, trình
độ, phương thức chính trị của con người - dân tộc Việt Nam từ trong lịch sử;
là năng lực, trình độ, phương thức hoạt động chính trị mang trong mỗi chủ thể
chính trị của dân tộc Việt Nam; và từ đó, cũng thể hiện trình độ phát triển
tồn diện các phẩm chất của các chủ thể chính trị Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng nền văn hóa chính trị Việt
Nam tiên tiến, hiện đại phải có sự kế thừa các giá trị văn hóa chính trị của các
nước trên thế giới, kế thừa giá trị của các nền văn hóa chính trị các dân tộc,
đặc biệt là kế thừa và phát huy văn hóa chính trị của ơng cha ta - một nền văn
hóa chính trị có lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm oanh liệt…
Nghiên cứu văn hố chính trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn lớn lao nhằm
nâng cao tính tích cực chính trị của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt
động chính trị xã hội nói chung và nâng cao trình độ kỹ năng, kỹ xảo, nghệ
thuật lãnh đạo và quản lý của đội ngũ cán bộ nói riêng ở nước ta hiện nay. Vì
vậy, em xin chọn đề tài “Các giá trị đặc trưng của văn hố chính trị Việt
Nam và một số giải pháp nâng cao văn hố chính trị ở Việt Nam hiện nay”
làm đề tài tiểu luận hết học phần mơn Chính trị học.

1


B. NỘI DUNG
I. CÁC GIÁ TRỊ ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HỐ CHÍNH TRỊ


VIỆT NAM
1. Khái niệm về văn hóa chính trị:
1.1 Khái niệm về văn hố:
Cho đến nay, có hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hoá, cho thấy
sự phức tạp và đa dạng của đối tượng nghiên cứu. Văn hố có thể được hiểu
theo một số cách sau:
Văn hố là tồn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sang tạo
ra. Theo cách hiểu này, tất cả những gì khơng có sẵn trong tự nhiên là kết quả của
sự sáng tạo của con người, đều được coi là một sản phẩm văn hố. Nó bao gồm
hai khía cạnh: khía cạnh tinh thần của xã hội như ngơn ngữ, tư tưởng, giá trị và
các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện,…
Từ một cách nhìn khác, các nhà nghiên cứu cho rằng, văn hoá là hệ
thống các giá trị, niềm tin và những biểu tượng được các thành viên trong một
cộng đồng chia sẻ. Theo cách hiểu này, văn hoá là các định hướng cho các lựa
chọn, cách suy nghĩ, hành xử của các thành viên trong cộng đồng theo một
chuẩn mức đã được cộng đồng chấp nhận.
1.2 Khái niệm văn hố chính trị
Trong nghiên cứu về văn hố chính trị hiện có nhiều cách tiếp cận
khác nhau; trong bài này, đề cập đến hai cách hiểu văn hố chính trị hiện nay.
Cách hiểu thức nhất, văn hố chính trị được hiểu là một bộ phận, một
phương diện của văn hoá trong xã hội có giai cấp. Nó biểu hiện khả năng,
năng lực của con người trong việc giác ngộ lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc,
trong việc tổ chức, hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền lực nhằm hiện thực hố
lợi ích giai cấp, hay lợi ích nhân dân phù hợp với mục tiêu chính trị và sự tiến
bộ xã hội. Văn hố chính trị cũng thể hiện khả năng, mức độ điều chỉnh
những quan hệ chính trị phù hợp với truyền thống và những chuẩn mực giá trị
cộng đồng.
2



Với cách tiếp cận này, văn hố chính trị là những giá trị, lý tưởng cao
đẹp mà con người hướng tới trong hoạt động chính trị, thể hiện ở sự hiểu biết
về chính trị, ở trình độ tổ chức hệ thống quyền lực, ở hành động chính trị theo
một chuẩn giá trị xã hội nhất định. Văn hố chính trị, do vậy, góp phần định
hướng mục tiêu hoạt động cho các chủ thể chính trị trong xã hội.
Cách hiểu thứ hai, văn hố chính trị chủ yếu được nghiên cứu dựa trên
các hoạt động, các quyết định lựa chọn của con người khi họ tham gia vào đời
sống chính trị. Nếu hiểu văn hoá là một hệ thống các giá trị và ý nghĩa, thì
văn hố chính trị sẽ là hệ thống các giá trị và ý nghĩa liên quan đến chính trị,
nghĩa là liên quan đến quan hệ quyền lực giữa các cá nhân, giữa các nhóm
trong một quốc gia cũng như giữa các quốc gia với nhau.
Nói tóm lại, theo cách hiểu thứ hai, văn hố chính trị là tập hợp các
giá trị, niềm tin được cộng đồng chia sẻ và nó có thể chi phối định hướng hoạt
động của các cá nhân và tổ chức khi các chủ thể này tham gia vào đời sống
chính trị.
2. Các giá trị đặc trưng của văn hóa chính trị của Việt Nam
Văn hố chính trị Việt Nam hình thành từ khi nhà nước sơ khai đầu
tiên - nhà nước Văn Lang, ở thời đại các vua Hùng ra đời. Đó là kết quả của
một quá trình lâu dài hàng ngàn năm của các nền văn minh sông Hồng, mà
nền văn hố - văn minh Đơng Sơn là đỉnh cao, là hội tụ khả năng của dân tộc
trong dựng nước và giữ nước. Văn hố chính trị Việt Nam là tồn bộ những
thái độ, lịng tin, chủ nghĩa u nước, tình cảm của con người Việt Nam với
tư tưởng cốt lõi là “khơng có gì q hơn độc lập, tự do”. Văn hố chính trị
Việt Nam là một thể thống nhất, vơ cùng phong phú và đa dạng, nó là thành
quả của hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh ngoan cường dựng nước
và giữ nước của dân tộc, là kết quả của giao lưu và tiếp thu của nhiều nền văn
hoá thế giới. Trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đang trong quá trình đổi

3



mới và hội nhập quốc tế, những giá trị tích cực của văn hóa chính trị truyền
thống nước ta vẫn đang được tiếp tục kế thừa và phát huy.
Một số giá trị đặc trưng của văn hố chính trị Việt Nam:
Một là, Chủ nghĩa yêu nước, ý thức dân tộc
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã phát triển qua các thời kỳ lịch sử
khác nhau, từ thời vua Hùng dựng nước cho tới tận ngày nay. Trong mỗi giai
đoạn, chủ nghĩa yêu nước lại có những biểu hiện khác nhau do tính lịch sử
quy định. Thời kỳ trung đại, yêu nước là “trung quân, ái quốc”, nhưng đến
thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa, yêu nước lại mang một ý nghĩa khác, đó
là yêu nhân dân, yêu dân tộc.
Một thời kỳ phát triển của chủ nghĩa yêu nước lại nổi lên những nhân
vật quan trọng. Họ là anh hùng dân tộc, là danh nhân văn hoá. Tư tưởng yêu
nước của họ đại diện cho cả một giai đoạn phát triển của lịch sử như Trần
Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh…
Chủ nghĩa u nước biểu hiện ở việc ln đặt lợi ích của Tổ quốc lên
trên, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Có lẽ ít dân tộc nào trên thế giới mà thời
gian dành để chống thiên tai và chống ngoại xâm lại nhiều như dân tộc Việt
Nam. Từ thời các vua Hùng dựng nước, nhân dân ta đã phải xây dựng đất
nước trong điều kiện khơng bình thường là liên tục phải giữ nước bằng các
cuộc chiến tranh chống xâm lượt kéo dài suốt lịch sử. Với một lịch sử đầy rẫy
những cuộc xâm lược, đô hộ như vậy, nhưng chúng ta vẫn khơng bị đồng hố,
chủ yếu vì bọn xâm lượt, bọn đơ hộ khơng phá vỡ nổi cơ sở sản xuất văn hoá
tinh thần của người Việt, đó là những ngơi làng. Mất nước cịn làng, đó là một
cách lý giải về tư tưởng độc lập tự do và lòng yêu nước của dân tộc ta.
Chủ nghĩa u nước Việt Nam thậm chí cịn được tâm linh hố thành
một tín ngưỡng. Lịng u nước khơng đơn giản là một thứ tình cảm thuần
t, mà nó có thể trở thành thứ được mọi người thờ phụng. Nhiều gia đình ở

4



vùng nơng thơn Việt Nam vẫn cịn lập bàn thờ Tổ quốc với lá cờ đỏ sao vàng
và ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Kế thừa những giá trị truyền thống, trong giai đoạn cách mạng hiện
đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa khẩu hiệu: “Khơng có gì q hơn độc lập
tự do”. Khẩu hiệu này đáp ứng đúng tâm tư, nguyện vọng của người Việt
Nam và là một giá trị chính trị được cả xã hội đề cao, nên qua năm tháng nó
trở thành một đạo lý chính trị của người Việt Nam.
Hai là, tính cộng đồng
Tính cộng đồng là nền móng của truyền thống đồn kết, tương trợ, ý
thức tập thể của người nông dân Việt Nam. Tinh thần cộng đồng được hình
thành dựa trên cơ sở kinh tế, do tác động của quá trình sản xuất, Lịch sử đã
chứng minh, ngay từ khi thành lập Nhà nước Văn Lang, điều kiện quan trọng
nhất để nhà nước đó hình thành là cơng cuộc đắp đê ngăn lũ để sản xuất; chứ
khơng phải do phân hố xã hội. Chính cơng cuộc đắp đê địi hỏi phải có sự cố
kết của cộng đồng.
Từ một chiều cạnh khác, tinh thần cộng đồng của người Việt được
hình thành dựa trên cơ sở tổ chức các thiết chế xã hội, thể hiện rõ nét qua
trục: nhà – làng – nước, trong đó nhà bao gồm cả gia đình, dịng tộc là hình
thành tổ chức theo nguyên tắc huyết thống; còn làng tổ chức theo nguyên tắc
địa vựa, láng giềng. Tuy nhiên, trong làng, quan hệ huyết thống vẫn giữa vai
trò quan trọng. Nước là yếu tố bao trùng cả nhà và làng. Làng là thành trì
chống ngoại xâm từ phương Bắc xuống, cưỡng lại sự đồng hoá của Trung
Quốc, cố thủ tinh thần dân tộc. Trong các cộng đồng ấy, các tổ chức phí quan
phương phe, giáo hình thành cố kết con người với nhau. Làng là sự mở rộng
tính cộng đồng của nhà và nước là sự mở rộng tính cộng đồng của làng.
Tính cộng đồng của người Việt được giải thích dựa trên cơ sở lịch sử
đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Vì nhiều lý do khác nhau, trong lịch sử,
người Việt nhiều lần phải đương đầu với giặc ngoại xâm hùng mạnh. Đứng

5


trước kẻ thù lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần, để bảo vệ quyền tự chủ, sự tồn
tại của mình, chỉ có tinh thần đồn kết, tính cộng đồng mới có thể giúp người
Việt tạo nên sức mạnh chiến thắng kẻ thù.
Sống trong môi trường của quan hệ làng xã suốt mấy nghìn năm,
người Việt Nam ưa trợ giúp nhau. Dần dần, những tập quán ứng xử đó cũng
trở thành đạo lý, thành chuẩn mực để xét đoán. Để tồn tại và phát triển đến
ngày nay, dân tộc Việt Nam đã phải trải qua những thử thách vô cùng hiểm
nghèo. Vũ khí mạnh mẽ nhất giúp dân tộc Việt Nam thành cơng trước những
thử thách đó là tính cộng đồng, tinh thần đồn kết dân tộc. Để duy trì tính
cộng đồng và sự đoàn kết thống nhất, người Việt Nam có một chuẩn mực xã
hội truyền thống là quyền lợi cá nhân phải phục tùng quyền lợi của cộng
đồng, quyền lợi của các cộng đồng nhỏ phải phục tùng quyền lợi của cộng
đồng lớn, quyền lợi của cả dân tộc.
Ba là, trọng lão
Từ góc độ hành vi, có thể thấy, trọng lão trở thành một chuẩn mực
quan trọng trong các ứng xử xã hội nói chung và trong ứng xử chính trị nói
riêng của người Việt. Chuẩn mực này tương đối nhất quán, được thể hiện
trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Trong xã hội truyền thống, các tri
thức, hiểu biết mà con người có được phần lớn thống qua sự tích luỹ kinh
nghiệm trong ứng xử với môi trường, trong sản xuất và thực hành xã hội. Do
vậy, người sống lâu là người có nhiều tri thức, kinh nghiệm trong ứng xử với
môi trường, trong sản xuất và thực hành xã hội. Do vậy, người sống lâu là
người có nhiều tri thức, kinh nghiệm và học có vai trị quan trọng trong sinh
hoạt gia đình, xã hội. Trong một cộng đồng, người lớn tuổi, người già luôn
được tơn trọng. Nó xuất phát từ một triết lý được tổng kết trong thực tiến:
“khôn không đến trẻ, khoẻ không đến già”. Từ hành động triệu tập Hội nghị
Diên Hồng của vua Trần để hỏi ý kiến các bô lão về việc có đánh qn

Ngun Mơng hay khơng, cho tới các ứng xử mang tính cá nhân đều cho thấy
văn hoá trọng lão được đề cao.
6


Bốn là, tự hào dân tộc, đề cao trí tuệ và tôn trọng hiền tài
Hiền tài là tinh hoa của dân tộc. Khát vọng tự do, ý chí kiên cường,
bất khuất luôn là động lực thôi thúc các thế hệ người Việt đứng lên đấu tranh
chống lại ách đô hộ của kẻ thù. Một đất nước nhỏ, yếu về kinh tế, trong lịch
sử lại phải luôn đương đầu với những đế quốc to, tinh thần và ý chí quyết tâm
đánh bại dã tâm xâm lược càng tăng thêm tinh thần tự tơn dân tộc, tự hào nền
văn hiến của mình. Ý thức dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ, khẳng định chủ
quyền quốc gia đã được hun đúc và tôi luyện trong các cuộc kháng chiến oai
hùng của nhân dân ta. Nhờ đó mà nhiều lần chúng ta giành lại được độc lập
dân tộc, cũng như vượt qua được âm mưu đồng hố nước ta của kẻ thù. Lịng
tự tôn, tự hào dân tộc luôn là động lực và là bệ đỡ vững chắc tạo nên biết bao
hành động cao đẹp, làm rạng danh dân tộc ta từ xưa đến nay.
Nền văn hoá nước ta trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại có thể tự hào
vì đã sản sinh ra được một đội ngũ những người tri thức, những người yêu
nước mang hào khí của tổ tiên làm nên những sự nghiệp lớn. Các nhân vật ưu
tú ấy đã có những cống hiến to lớn cả về tài năng và sức lực cho sự nghiệp
bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Sự xuất
hiện của các đại biểu tinh hoa với chiều cao trí tuệ của họ và trên cái nền trình
độ văn hố phổ qt của nhân dân sống trong một cộng đồng nhất định đã cho
thấy đất nước ta có một nền văn hố cao.
Với truyền thống của mình, dân tộc ta đã sản sinh ra nhiều người con
ưu tú, trí tuệ un thâm, có khả năng vận dụng một cách sáng tạo phù hợp với
điều kiện thực tiễn để đạt được nhiều thành quả to lớn, đóng góp tích cực
trong việc xây dựng và thực thi các nhiệm vụ chính trị, phát triển đất nước, vì
sự tiến bộ của xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn vinh. Quan điểm

“chiêu hiền đãi sĩ” trong lịch sử thực chất là chính sách dùng người hiền tài
với cả một hệ thống quan niệm và ứng xử kiên trì, tế nhị, bao gồm: phát hiện
nhân tài, chân thành cầu người hiền tài, tin tưởng vào hiền tài với tầm nhìn xa
trông rộng, ...
7


II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO VĂN
HỐ CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Thực trạng văn hố chính trị ở nước ta hiện nay
Sự kết hợp Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với truyền
thống chính trị quý báu của dân tộc đã tạo thành nhân tố mới về chất lượng
văn hoá chính trị nước ta hiện nay. Trong nền văn hố chính trị đó độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội thống nhất là một. Một nhà nước của dân, do dân
và vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng đang từng bước được hồn thiện,
một hệ thống chính trị với tư cách là cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân đang không ngừng được nâng lên theo hướng từng bước hình thành nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa mà nội dung cơ bản của nó là tồn bộ quyền lực
chính trị thuộc về nhân dân.
Đất nước ta đang có sự chuyển hướng căn bản từ một nền kinh tế vận
hành theo cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những biến đổi tích cực trong đời sống xã
hội, tận dụng mọi năng lực sản xuất, mọi trình độ lực lượng sản xuất và đòi
hỏi một nhu cầu lao động mới với chất lượng cao hơn. Trong xã hội tính tích
cực chính trị của nhân dân được tiếp tục phát huy, động lực tinh thần của xã
hội phát triển theo hướng tiếp tục ủng hộ đối với Đảng, Nhà nước, với công
cuộc đổi mới được nâng cao. Kinh tế - xã hội phát triển đã tạo điều kiện thuận
lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, con người Việt Nam có bước
phát triển tồn diện về trình độ học vấn, kiến thức, khoa học hiện đại, tư duy
năng động, sáng tạo và khả năng hội nhập.

Đời sống tinh thần xã hội ngày càng sinh động, nhân dân yên tâm thực
hiện những chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước. Nhiều chủ trương
chính sách mới đã thể hiện quan điểm mở rộng dân chủ, ngun tắc cơng
bằng, khuyến khích những người biết làm giàu chính đáng, biết quan tâm đối
với những người có cơng với nước, những người bất hạnh gặp khó khăn. Giáo
8


dục truyền thống được coi trọng, nâng cao lòng yêu nước và ý thức tự hào của
dân tộc, đạo lý uống nước nhớ nguồn được khơi dậy, sự tôn trọng những giá
trị cách mạng mà các thế hệ cha anh đã dày công xây đắp bằng cả mồ hôi và
máu thịt được nâng cao, đẩy lùi một bước thái độ hoài nghi, phủ nhận lịch sử,
phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, phủ nhận những giá trị của chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, nước ta vẫn trong tình trạng một nước nghèo, đời sống của
nhân dân cịn nhiều khó khăn, trong xã hội vẫn cịn khơng ít băn khoăn, là
những tiềm ẩn về sự bất ổn trong tâm trạng, tư tưởng do thực tiễn có nhiều
diễn biến phức tạp như: thiên tai bão lụt liên tục, hạn hán kéo dài trong các
năm; khủng hoảng kinh tế thế giới và khu vực xảy ra thường xuyên hơn; tình
trạng khiếu kiện của nhân dân tăng tập trung vào việc quản lý đất đai, cấp đất
bán đất sai thẩm quyền, thiếu công bằng, chính sách đền bù chưa thoả
đáng, ... Hơn nữa việc giải quyết đơn thư khiếu nại cịn kéo dài, có hiện tượng
đùn đẩy giữa các cấp, các ngành dẫn đến tình hình khiếu kiện vượt cấp. Mặt
trái kinh tế thị trường là mảnh đất thuận lợi cho các trào lưu lạc hậu, phi văn
hố tồn tại; đã có sự phân hoá giàu nghèo, khác nhau về mức sống, tư tưởng,
tâm lý, tình cảm trong xã hội. Xuất hiện nhiều vấn đề đáng lo ngại về đạo đức
như lối sống thực dụng, sùng bái đồng tiền, tư tưởng tự do cá nhân, thị hiếu
khơng lành mạnh có thể làm băng hoại những giá trị văn hoá truyền thống.
Một lổ hổng lớn trong văn hóa chính trị của cán bộ và nhân dân, đặc biệt đối
với thế hệ trẻ là sự hiểu biết hời hợt về lịch sử dân tộc, truyền thống lịch sử
dân tộc đang là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới.

Đặc biệt chủ nghĩa cá nhân đã làm xuất hiện và phát triển nhiều tiêu
cực, tệ nạn xã hội đáng lo ngại, nhiều người đã tuyệt đối hố lợi ích kinh tế,
xem thường định hướng chính trị. Bên cạnh đó, sự mở cửa, giao lưu hợp tác
quốc tế đã tạo điều kiện cho sự du nhập các quan điểm chính trị phản động, tư
tưởng đa nguyên, đa đảng, quan điểm tự do dân chủ, nhân quyền tư sản, ... đã
làm nhiễu loạn phần nào tư tưởng chính trị, gây nên tâm trạng bi quan, hoài
9


nghi, tiêu cực, mất lòng tin định hướng trong một bộ phận nhân dân và cán bộ
đảng viên. Thêm vào đó chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch vẫn khơng
từ bỏ âm mưu xố bỏ hồn tồn chủ nghĩa xã hội ở nước ta bằng diễn biến
hoà bình đang đe doạ đến độc lập dân tộc, an ninh quốc gia, đến sự nghiệp
cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Đối với Đảng ta, với tư cách là chủ thể lãnh đạo tồn diện mọi tiến
trình của cách mạng Việt Nam và là một Đảng cầm quyền, văn hố chính trị
của Đảng ta chính là văn hố cầm quyền. Qua thực tiễn bước đầu của sự
nghiệp đổi mới mà chúng ta đang tiến hành đã thể hiện một bước phát triển
cao về văn hố chính trị của Đảng. Với đường lối đó, Đảng ta đã kiên quyết
từ bỏ những sai lầm, thiếu sót trong tư duy chính trị trước đây, vươn tới
những nhận thức mới thích ứng với thời đại, phù hợp nhu cầu phát triển của
đất nước tạo nên những động lực mới, khởi sắc mới trên quê hương vốn
nghèo nàn lạc hậu. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên rõ
rệt, điều đó chứng tỏ sự vững vàng của Đảng trước mọi thách thức và là sự
khẳng định vai trò lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội của Đảng. Trước
những khó khăn, thử thách lớn ở trong nước, những biến động bất lợi trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trước sự chống phá của các thế lực
thù địch, Đảng ta đã giữ vững bản chất cách mạng của giai cấp công nhân,
kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động của Đảng; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và

chủ nghĩa xã hội; kiên trì đường lối đổi mới; tiếp tục nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng. Nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp
lịng dân của Đảng đã đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng.
Việc thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, thực hiện chính sách đại đồn kết tồn dân tộc có tiến
bộ. Cán bộ, đảng viên và nhân dân tin tưởng vào công cuộc đổi mới và sự
lãnh đạo của Đảng. Việc thực hiện tự phê bình và phê bình, đẩy mạnh đấu
10


tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, xử lý nghiêm những
cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật nghiêm trọng được nhân dân đồng tình.
Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến
bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quy chế dân chủ ở cơ
sở bước đầu được thực hiện có hiệu quả. Quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân
dân được tiếp tục phát huy; nhân dân hăng hái tham gia xây dựng và thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Bên cạnh những ưu điểm cơ bản đó, chúng ta cũng nhận rõ những
khuyết điểm, yếu kém của Đảng. Nổi lên là năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng còn nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; chậm
làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, về sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng;
chậm cụ thể hóa, thể chế hóa một số quan điểm lớn, đúng đắn về sự lãnh đạo
của Đảng và công tác xây dựng Đảng đã đề ra trong Cương lĩnh và các Nghị
quyết Đại hội Đảng; tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Dân chủ trong Đảng
và trong xã hội còn bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực
không nghiêm. Sự đồn kết, nhất trí ở khơng ít cấp uỷ cịn yếu. Quan hệ giữa
Đảng và nhân dân có lúc, có nơi bị xói mịn do những hạn chế, yếu kém trong
cơng tác tư tưởng chính trị, cơng tác vận động quần chúng, công tác tổ chức
cán bộ, công tác quản lý nhà nước và những khó khăn phát sinh trong quá

trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế - xã hội. Khơng ít tổ chức đảng yếu
kém, nhất là ở cơ sở, khơng làm trịn vai trị hạt nhân chính trị và nền tảng của
Đảng, khơng đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh từ cơ sở, thậm
chí có những tổ chức cơ sở đảng tê liệt, mất sức chiến đấu.
Đội ngũ cán bộ đảng viên chúng ta, bên cạnh mặt ưu điểm, tiến bộ là
đa số phát huy được vai trò tiên phong, năng động, sáng tạo trong công tác,
lao động, rèn luyện phẩm chất, năng lực, có bước trưởng thành, đóng vai trị
nịng cốt trong cơng cuộc đổi mới, góp phần xứng đáng vào thành quả chung
11


của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữ vững được phẩm chất đạo
đức cách mạng, lối sống trong sạch lành mạnh, giữ vững kỷ cương, chấp hành
tốt chính sách, pháp luật Nhà nước, năng động sáng tạo, trình độ kiến thức và
năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội ngày được nâng cao, có lối sống giản
dị lành mạnh, gắn bó với nhân dân, thực sự là những người thể hiện bản lĩnh
vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý Nhà nước đối với tồn xã hội thì cịn
nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao. Cơ cấu đội
ngũ cán bộ trong tương quan giữa số lượng và chất lượng bị mất cân đối, tổ
chức lực lượng nhiễu chỗ chưa phù hợp, thiếu cơ sở khoa học. Phẩm chất và
năng lực một bộ phận cán bộ còn chưa tương xứng với nhiệm vụ, chức trách,
chưa ngang tầm với thời đại và yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp
cơng nghiệp hố và hiện đại hố đất nước. Thậm chí một số người dao động,
giảm sút niềm tin, nhận thức mơ hồ về Chủ nghĩa Mác - Lênin và Chủ nghĩa
xã hội, hoài nghi đường lối của Đảng; có người do bất mãn cá nhân đi đến
phản bội Đảng và lợi ích của nhân dân, ... Một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và
năng lực; thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý
tưởng; một số ít có biểu hiện bất mãn, mất lịng tin, nói và làm trái với quan

điểm, đường lối của Đảng, vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong
một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; vẫn cịn tình trạng
“chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”. Thối hóa, biến chất
về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra
nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan
công quyền, các lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, quản lý doanh
nghiệp nhà nước và quản lý tài chính, tài sản cơng làm giảm lịng tin của nhân

12


dân đối với Đảng. Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của
Đảng, của chế độ.
Do vậy, nâng cao văn hố chính trị của quần chúng nhân dân và cán
bộ đảng viên trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa chiến lược cho sự ổn định
chính trị và phát triển bền vững mà Đảng và Nhà nước ta đang tích cực tập
trung giải quyết nhiều vấn đề có liên quan. Vấn đề cấp bách đặt ra là phải có
những giải pháp cụ thể để nâng cao trình độ văn hố chính trị quần chúng
nhân dân và cán bộ đảng viên.
2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao văn hố chính trị ở
nước ta hiện nay
Bên cạnh những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong thời gian qua
đã nói lên những giá trị cao quý và tốt đẹp của nền chính trị Việt Nam, nói lên
trình độ và năng lực chính trị của đảng ta cũng như của từng chủ thể chính trị
nói riêng của nền chính trị Việt Nam. Chúng ta cũng nhận thấy rằng văn hố
chính trị nước ta vẫn cịn nhiều hạn chế cần phải khắc phục đã và đang đặt ra
mà chúng ta cần phải giải quyết. Để làm được điều này, bên cạnh việc chúng
ta cần phải thực hiện hoàn loạt các giải pháp đồng bộ cần tập trung thực hiện

một số giải pháp chủ yếu sau:
2.1. Phải đối mới q trình xã hội hố chính trị:
Nghiên cứu các cách thức để truyền bá các giá trị của văn hố chính
trị truyền thống cho thế hệ trẻ, cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tiếp tục
nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lê nin để chắt lọc những nội dung vẫn cịn có
giá trị, có ý nghĩa và chỉ ra những nội dung đã bị lịch sử vượt qua, khơng cịn
có ý nghĩa trong thời đại ngày nay, tạo cơ sở cho việc định hướng và bồi đắp
các giá trị chính trị phù hợp.
Bên cạnh đó, để làm cho văn hố chính trị thấm sâu vào đời sống của
người dân, trước hết phải chủ trọng xây dựng văn hố chính trị từ trong Đảng,
trong bộ máy nhà nước và các tổ chức đoàn thể, mà nội dung quan trọng là
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
13


2.2 Chú trọng xây dựng lòng tin và vốn xã hội
Để xây dựng một mơi trường chính trị lành mạnh, cần phải hoàn thiện
các thể chế của nhà nước pháp quyền, trong đó nhấn mạnh tinh thần thượng
tơn pháp luật. Cần áp dụng nguyên tắc công khai, minh bạch và trách nhiệm
giải trình trong các hoạt động của bộ máy nhà nước; kiểm sốt tình trạng tham
nhũng, lạm quyền. Đây là tiên đề của việc xây dựng lòng tin trong xã hội.
Xây dựng cơ chế ni dưỡng lịng tin giữa con người với con người,
đồng thời chữa căn bệnh suy thối đạo đức, tâm trạng hồi nghi trong xã hội;
cần tôn trọng và đề cao lương tâm và tinh thần tự quản, tự chịu trách nhiệm
của mỗi cá nhân.
Ngoài ra, cần tôn trọng và thực hành các giá trị dân chủ, tạo điều kiện
cho từng người dân phát huy tối đa năng lực sáng tạo của bản thân.
2.3. Xây dựng những cơ sở để văn hố chính trị thực hiện tốt chức
năng điều chỉnh hành vi:
Để thực hiện tốt chức năng điều chỉnh, mỗi chủ thể chính trị, đặc biệt

là đội ngũ cán bộ quản lý cần nêu cao tinh thần tự tu dưỡng đạo đức, đề cao
lương tâm và trách nhiệm cá nhân trước xã hội, thẩm thấu các gía trị chính trị
và biến nó thành động lực thúc đẩy, điều chỉnh hành vi bản thân.
Bên cạnh việc xây dựng hệ thống thể chế đủ mạnh nhằm ngăn chặn
các hành vi lệch chuẩn, cần thiết lập hệ thống kiếm sốt cán bộ lãnh đạo, quản
lý bằng cơng luận, bằng truyền thơng đại chúng, buộc người cán bộ phải có
trách nhiệm với các hành động của mình, phải rời khỏi vị trí khi bị phát hiện
các hành vi lạm quyền.
Liên hệ thực tiễn tại Văn phòng UBND Thành phố Hà Nội.
- Thời gian qua, Lãnh đạo UBND Thành phố và Lãnh đạo Văn phịng
UBND Thành phố ln quan tâm đến việc xây dựng văn hố chính trị tại cơ
quan, bao gồm từ việc đẩy mạnh chất lượng công tác cán bộ thông qua việc
tinh giản biên chế, thay đổi lề lối làm việc, áp dụng công nghệ thông tin trong
14


việc xử lý văn bản tiến tới áp dụng chữ ký điện tử, hồn thiện các quy trình
xử lý văn bản nhằm giảm thủ tục hành chính, hạn chế lạm quyền.
- Văn phòng UBND Thành phố cũng thường xuyên tổ chức các buổi
học Nghị quyết về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, yêu
cầu và giám sát việc sinh hoạt chuyên đề về nội dung trên nhằm tạo thành nếp
sinh hoạt trong các chi bộ trực thuộc. Qua đây đã góp phần tích cực trong việc
xây dựng nét văn hóa chính trị trong tổ chức từ lãnh đạo đến nhân viên. Qua
đó, mỗi đảng viên nhận thức sâu sắc hơn về những bài học, những chuẩn mực
đạo đức mà Bác đã để lại để từ đó nâng cao ý thức trong thực hiện nhiệm vụ
và rèn luyện phẩm chất đạo đức theo tấm gương đạo đức của Bác.
- Tính dân chủ trong hoạt động đã được thể hiện rõ nét nhất là mối
quan giữa Lãnh đạo UBND Thành phố, Lãnh đạo Văn phòng UBND Thành
phố và cán bộ, công chức, viên chức và người dân thông qua các buổi giao
ban hàng tuần, sinh hoạt chi bộ, các buổi tiếp dân. Việc tiếp nhận các thông

tin phản ánh, kiến nghị của người dân được thực hiện qua nhiều hình thức
khác nhau như tiếp dân, hịm thư góp ý, đường dây nóng, thơng tin báo chí để
tự điều chỉnh trong công tác chỉ đạo, điều hành, hoặc có biện pháp xử lý sai
phạm nghiêm minh, …
- Việc thực hiện tự phê bình và phê bình, đẩy mạnh đấu tranh chống tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng
viên vi phạm pháp luật được đề cao và chỉ đạo thường xuyên, cụ thể là đã
chuyển công tác 02 cán bộ làm việc tại Phịng Hành chính Tổ chức và Phịng
Đơ thị về làm tại bộ phận không liên quan đến doanh nghiệp do có hành vi
nhũng nhiễu, vịi tiền doanh nghiệp. Công tác khen thưởng được thực hiện
thường xuyên và đột xuất đi đơi với cải thiện chính sách tiền lương.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn cịn một số biểu hiện hạn chế trong hoạt
động của cơ quan Văn phòng UBND Thành phố Hà Nội hiện nay như: Cơ cấu
đội ngũ cán bộ trong tương quan giữa số lượng và chất lượng bị mất cân đối.
15


Phẩm chất và năng lực một bộ phận cán bộ còn chưa tương xứng với yêu cầu
của sự nghiệp đổi mới, vẫn cịn hiện tượng nhũng nhiễu, tham ơ, thanh nhũng,
bè phái, gây mất đồn kết nội bộ. Vẫn cịn văn bản bị xử lý chậm tiến độ hoặc
chất lượng tham mua không đảm bảo. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ lý luận và trình độ chuyên mơn cịn chưa được quan tâm đúng mức
do số lượng công việc quá nhiều, nhiều vụ việc ngày càng phức tạp khiến việc
xử lý văn bản sự vụ chiếm quá nhiều thời gian của cán bộ, công chức,…

16


C. KẾT LUẬN
Xây dựng văn hố chính trị ở nước ta hiện nay là xây dựng một nền

chính trị khoa học - cách mạng - nhân văn với tất cả nhận thức, mục tiêu, các
yếu tố, toàn bộ cơ cấu, thiết chế, cơ chế vận hành của nó. Mục tiêu, nội dung
chính trị, khoa học tổ chức, lãnh đạo, quản lý và phương thức thực thi chính trị
của đảng, các cơ quan nhà nước; khoa học và nghệ thuật hoạt động chính trị của
tất cả chủ thể chính trị, ... là văn hố chính trị của nền chính trị Việt Nam.
Cần phải làm cho văn hố chính trị trở thành nhu cầu trong đời sống
của người dân, trước hết là của công chức, đặc biệt là người giữ chức vụ. Chỉ
khi nào trở thành nhu cầu thì con người mới tiếp nhận nó, mới ứng xử, hành
xử một cách tự nguyện, mới lâu bền. Nó phải trở thành một giá trị xã hội, nằm
ở chất lượng phát triển của nhân cách và định hướng hoạt động của các tổ
chức. Bộ máy, thể chế và đội ngũ công chức thấm nhuần văn hố chính trị thì
đó chính là sức mạnh tự bảo vệ. Người dân, nhân dân và xã hội có văn hố
chính trị thì thái độ, hành vi và hoạt động của họ mới thể hiện khuynh hướng
tiến bộ, phát triển, mới có sức mạnh bảo vệ chế độ của họ.
Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu những giá trị văn hố chính trị
truyền thống để phát huy những giá trị tích cực cũng như khắc phục những
hạn chế. Bên cạnh đó, cũng cần có những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao
văn hố chính trị cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân trong giai đoạn
hiện nay là hết sức cần thiết khi nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, với rất nhiều thời cơ nhưng cũng khơng ít
thách thức, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể
coi thường bất cứ thách thức nào.

17


D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Chính trị học hệ cao cấp LLCT, Nhà xuất bản Lý luận chính trị,
Hà Nội, 2018.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
XI, XII.
3. Một số bài viết của các tác giả trên các báo, tạp chí, ...

18


19



×