Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Báo cáo biện pháp nâng cao chất lượng công tác giảng dạy môn ngữ văn tại trường thpt nguyễn lương bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 29 trang )

1
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN BÁI
TRƯỜNG THPT NGUYỄN LƯƠNG BẰNG

BÁO CÁO SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ
(Lĩnh vực: Ngữ Văn)

TÊN SÁNG KIẾN:
Biện pháp nâng cao chất lượng công tác giảng dạy môn Ngữ văn
tại trường THPT Nguyễn Lương Bằng

Tác giả: Nguyễn Thị Hậu
Trình độ chun mơn: Đại học
Chức vụ: Giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn
Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Lương Bằng

Văn Yên, ngày 22 tháng 01 năm 2021


2
I - THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Báo cáo biện pháp nâng cao chất lượng công tác giảng
dạy môn Ngữ văn tại trường THPT Nguyễn Lương Bằng
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giảng dạy, học tập, bồi dưỡng chuyên đề
trong môn Ngữ Văn.
3. Phạm vi áp dụng sáng kiến: Sángkiến này được áp dụng trong q trình
giảng dạy mơn Ngữ Văn, trongbồi dưỡng chun mơn giáo viên.
4. Thời gian áp dụng sáng kiến: từ tháng 01 năm 2021 đến tháng 01 năm
2022
5. Tác giả:
- Họ và tên: Nguyễn Thị Hậu


- Năm sinh: 1981
- Trình độ chuyên môn: Đại học. Chuyên ngành: Ngữ Văn
- Chức vụ: Giáo viên
- Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Lương Bằng
- Địa chỉ liên hệ: Thôn Yên Thịnh – Xã An Thịnh- Văn Yên- Yên Bái
- Điện thoại:0399.555.302
II – MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Tình trạng các giải pháp đã biết
Từ lúc chưa có khoa học, văn chương và nghệ thuật đã ra đời. Bắt nguồn từ
cuộc sống, văn chương chứa đựng trong mình những gì mà cuộc sống vốn có, mở
ra những thế giới chưa có và hướng con người đi đến tương lai. Văn chương trở lại
bồi đắp cho cuộc sống ấy thêm tươi xanh và đẹp đẽ. Phải biết rõ giá trị của các tác
phẩm văn chương mới có thể hiểu rõ vai trị khơng thể thay thế được của văn
chương. Từ đó mà thêm trân trọng, tơn quý các giá trị nghệ thuật trong cuộc sống
này. Quan trọng hơn hết, việc dạy và học văn đã đem lại cho người học những lợi
ích vơ cùng to lớn và khơng thể thay thế được. Đó là khả năng nâng cao phẩm chất
và làm thay đổi con người theo chiều hướng tốt đẹp, hướng đến chân, thiện, mĩ.
Không ai có thể phủ nhận được vai trị và ý nghĩa văn chương trong đời sống con
người. Hiểu được tầm quan trọng to lớn của văn chương, chương trình dạy và học
bộ môn ngữ văn được cố kết dựa trên chức năng, vai trò và ý nghĩa lớn lao ấy.
Việc dạy và học ngữ văn luôn là vấn đề được Đảng, Nhà nước, nghành Giáo dục
quan tâm. Ngữ văn lâu nay ln được xác định là hai mơn học chính trong các
trường học (dung lượng kiến thức, số tiết dạy nhiều). Từ nhiều năm nay, vấn đề đổi
mới dạy học ngữ văn cũng được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Nhiều
phương pháp, biện pháp mới liên tục được đưa ra, dù khác nhau nhưng đều thống
nhất khẳng định vai trò của người học - lấy học sinh làm trung tâm. Điều này cũng
được chỉ thị 40-CT/TW 15-6-2004 của Ban Bí thư TW Đảng nêu rõ: “ Sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước địi hỏi phải đẩy mạnh việc đổi mới nội
dung chương trình, phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại và phù hợp với



3
thực tiễn Việt Nam, tiếp tục điều chỉnh và giản hợp nội dung, phù hợp với tâm lí
học sinh, đặc biệt đổi mới mạnh mẽ và cơ bản phương pháp giáo dục nhằm khắc
phục kiểu truyền thụ một chiều, nặng lí thuyết, ít nghiên cứu, tự giác giải quyết vấn
đề, phát triển năng lực thực hành, thói quen tự học tự sáng tạo cho học sinh …”.
Từ đó đến nay Bộ GD-ĐT luôn định hướng: đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, lấy học sinh làm
trung tâm. Gần đây nhất Bộ GD&ĐT cũng đã trình Ban Bí thư TW chiến lược phát
triển của nghành giáo dục (từ 2013 - 2020) đó là: “Đổi mới căn bản, tồn diện
giáo dục và đào tạo, nâng cao chất nguồn nhân lực, đáp ứng u cầu cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế”. Trong khoảng một thập niên trở lại đây, việc thay sách giáo
khoa và đổi mới phương pháp dạy – học Ngữ văn đã tiến hành rộng khắp cả nước.
Vai trò và mối quan hệ giữa người dạy và người học đã khác trước. Sự chủ động,
tích cực của học sinh trong giờ học được đề cao. Các phương tiện dạy – học phong
phú hơn. Đội ngũ thầy, cô giáo trực tiếp đứng lớp được bồi dưỡng thường xuyên
về chuyên môn, về đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra, đánh giá.
Chính vì vậy, chất lượng dạy và học Ngữ văn trong nhà trường THPT có nhiều
chuyển biến đáng kể.
Nhưng mặc cho những nỗ lực đổi mới, thay đổi của ngành giáo dục nói
chung và mơn Ngữ văn nói riêng, những năm gần đây thực tế cho thấy tình trạng
sa sút của các môn khoa học xã hội và môn ngữ văn trong các trường học. Phần
lớn học sinh có tâm lí ngại học các bộ môn xã hội (đặc biệt là mơn văn), thậm chí
khơng thích, có học cũng là bắt buộc, hiệu quả khơng cao. Điều đó thể hiện ở chọn
lớp khối C ở các trường phổ thơng (rất ít học sinh); kết quả thi đại học, cao đẳng
theo thống kê (điểm cao ít, điểm dưới trung bình nhiều, kể cả bài điểm 0); và có
những lỗi sai trở thành những câu chuyện “cười ra nước mắt”. Cụ thể kì thi tốt
nghiệp năm học 2020 – 2021, môn ngữ văn cả nước chỉ có 3 điểm 10. Đây là con
số rất khiêm tốn và ít ỏi so với các bộ môn khác.

Đặc biệt, trong những năm gần đây Việt Nam chúng ta bước vào thời kì đổi
mới, nhiều cái mới, cái hiện đại được truyền vào nhưng cũng kéo theo khơng ít hệ
lụy của nó, như số lượng học sinh nghiện game online, số học sinh dành nhiều thời
giờ vào facebook để tán gẫu… và đặc biệt là số học sinh sử dụng ngôn ngữ blog
vào trong bài viết ngày càng nhiều. Tất cả những điều trên đã khiến cho các bậc
phụ huynh và các giáo viên quan ngại. Làm thế nào để học sinh vừa có khơng gian
vui chơi lành mạnh vừa có điều kiện học tập tốt là một trong những câu hỏi luôn
được các bậc phụ huynh và những người làm công tác giáo dục mong đợi.
Xã hội ngày nay, song song cùng những bước tiến tích cực về mọi mặt là
những tồn tại đầy nhức nhối mà bất kì một người có nhân cách, lương tâm nào
cũng đều phải trăn trở. Một trong những tình trạng đáng buồn của ngành giáo dục
của chúng ta hiện nay là tình trạng học sinh đánh nhau, vơ lễ với thầy cô giáo, bỏ
học, tham gia vào các tệ nạn xã hội…xuất hiện ngày một nhiều. Ngun nhân thì
có nhiều nhưng có lẽ, nguyên nhân cơ bản nhất vẫn là do các em thiếu kĩ năng
sống. Kĩ năng sống không phải là vấn đề mới mẻ nhưng giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh một cách hiệu quả cũng không phải là vấn đề đơn giản. Đặc biệt là học
sinh THPT. Đây là lứa tuổi đang ở ngưỡng cửa của một công dân trưởng thành, độ


4
tuổi khơng cịn là trẻ con nhưng cũng chưa thành người lớn, mọi suy nghĩ và hành
động cịn nơng nổi, cảm tính; giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá
nhưng còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lơi kéo, mua chuộc, kích động… Vì vậy,
nếu thiếu những kĩ năng sống cơ bản, học sinh THPT dễ mắc những sai lầm
nghiêm trọng như thực tế chúng ta đã chứng kiến khơng ít trường hợp đau lịng: có
học sinh khá- giỏi đã tự tử vì thi trượt đại học, có học sinh lớp tìm lẽ sống của
mình ở trị chơi điện tử… Hơn nữa, đã là học sinh phổ thơng thì chỉ cịn một thời
gian ngắn nữa là đa số các em phải bước vào cuộc sống tự lập, phải tự mình ứng
phó với vơ vàn những tình huống khác nhau của cuộc sống phức tạp và ít có sự can
thiệp, giúp đỡ của người thân trong gia đình. Vì thế giáo dục kĩ năng sống cho các

em học sinh THPT càng cấp thiết hơn bao giờ hết.
Với tư cách là một giáo viên dạy ngữ văn, tôi đã trăn trở và thử nghiệm các
biện pháp đổi mới bộ mơn mình giảng dạy nhằm mục đích nâng cao hiệu quả thiết
thực của việc dạy văn trong ngôi trường mà tơi đang cơng tác, đồng thời góp phần
bé nhỏ vào việc khắc phục vấn đề nhức nhối của nghành giáo dục hiện nay. Trong
phạm vi bài viết này tôi xin trình bày “ Biện pháp nâng cao chất lượng cơng tác
giảng dạy môn Ngữ văn tại trường THPT Nguyễn Lương Bằng”.
2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến:
- Mục đích của giải pháp
Một là giúp học sinh nâng cao kiến thức kỹ năng để câu từ trong đoạn văn
theo đúng cấu trúc ngữ pháp.
Hai là giúp các em hiểu ý nghĩa câu từ trong việc sử dụng lối hành văn.
Ba là các em hiểu đúng ý nghĩa tự tin trong quá trình hành văn.
- Nội dung giải pháp:
a. Thực trạng việc học văn của học sinh tai Trường THPT Nguyễn Lương
Bằng hiện nay
Đối với trường THPT Nguyễn Lương Bằng, môn văn luôn được ban giám
hiệu nhà trường quan tâm, tạo điều kiện để học sinh và giáo viên có thể đáp ứng và
hồn thành mục tiêu dạy học. Thư viện sách văn học và sách liên quan đến bộ môn
ngữ văn được nhà trường liên tục cập nhật, các học liệu phụ thuộc cho việc giảng
dạy bộ môn cũng được nhà trường đầu tư mua sắm. Bản thân giáo viên Ngữ văn
trong trường đều là những giáo viên có trình độ chuẩn và đạt chuẩn. Giáo viên yêu
nghề, yêu học sinh, tâm huyết với bộ môn, luôn trau dồi kiến thức, tự học, tự
nghiên cứu để hoàn thiện bản thân, đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng
giảng dạy.
Thực trạng dạy môn ngữ văn của trường THPT Nguyễn Lương Bằng hiện
nay. Trường Nguyễn Lương Bằng đặt trên địa bàn xã An Thịnh, nằm ởkhu vực Đại
Phú An… Đây là vùng trũng về mặt học tập của huyện Văn Yên. Mặt khác, do
trường mới thành lập, chưa khẳng định được vị thế và chất lượng giáo dục nên đầu
vào trường chủ yếu là những học sinh kém, trung bình, ít học sinh khá và hiếm học

sinh giỏi. Điểm đầu vào của trường thường nằm trong tốp thấp các trường THPT
của huyện. Thực tế tôi đã công tác và giảng dạy tại trường THPT Nguyễn


5
LươngBằng được 17 năm, trong quá trình giảng dạy kết hợp với các biện pháp
khảo sát, kiểm tra, tôi nhận thấy một thực trạng đáng buồn của học sinh Nguyễn
Lương Bằng khi học môn Ngữ văn của trường như sau.
Khảo sát nhiều bài kiểm tra của học sinh cho thấy các em cịn viết sai lỗi
chính tả. Nhiều câu đơn giản các em viết cũng không đúng. Cùng với lỗi chính tả
và lỗi dùng từ, đặt câu. Đoạn văn thì viết câu què, câu cụt, câu sai cấu trúc ngữ
pháp, sai logic diễn đạt. Nhiều câu văn của học sinh đọc lên người đọc khơng hiểu
nổi học sinh viết gì. Điều đó cho thấy học sinh hết sức lơ mơ về kiến thức bộ mơn.
Có một thức tế hiện nay rất ít học sinh biết rung động trước những tác phẩm văn
chương hay. Do vậy, khi làm bài học sinh cịn suy luận chủ quan, dung tục hóa văn
chương. Cịn một bộ phận không nhỏ học sinh làm sai kiến thức cơ bản. Tình trạng
“râu ơng nọ cắm căm bà kia” không phải là không phổ biến. Học sinh nhầm chi tiết
của tác phẩm này với tác phẩm khác, sai tên tác giả, tác phẩm, lẫn lội nhà văn này
với nhà văn khác. Một bộ phận không nhỏ học sinh cịn thiếu hụt về kĩ năng sống.
Tình trạng học sinh đánh nhau, vô lễ với thầy cô giáo, bỏ học, lập gia đình, sinh
con trong quá trình đang theo học ở trường phổ thông hoặc tham gia vào các tệ nạn
xã hội vẫn còn.
Bảng tổng kết đánh giá các lỗi sai của học sinh khi viết văn
năm học 2021– 2022
Bảng 1.1: Bảng kết quả lỗi dùng từ khơng chính xác trong bài viết của
học sinh
Khối lớp
10
11
12


Tổng số bài khảo sát
100
100
100

Số lượng bài mắc lỗi
59
59
47

Tỉ lệ %
59,0%
59,0%
47,0%

Bảng 1.2: Bảng kết quả lỗi câu sai logic trong bài viết của học sinh
Khối lớp
10
11
12

Tổng số bài khảo sát
100
100
100

Số lượng bài mắc lỗi
60
42

40

Tỉ lệ %
60,0%
42,0 %
40,0%

Bảng 1.3: Bảng kết quả lỗi về phong cách trong bài viết của học sinh
Khối lớp
10
11
12

Tổng số bài khảo sát
100
100
100

Số lượng bài mắc lỗi
59
59
43

Tỉ lệ %
59,0%
59,0%
43,0%

Bảng 1.4: Bảng kết quả lỗi đặt câu thiếu chủ ngữ của học sinh trong các
bài viết

Khối lớp
10
11

Tổng số bài khảo sát
100
100

Số lượng bài mắc lỗi
42
40

Tỉ lệ %
42,0%
40,0%


6
12

100

39

39,0%

Bảng 1.5: Bảng kết quả lỗi đặt câu thiếu vị ngữ của học sinh trong các bài
viết
Khối lớp
10

11
12

Tổng số bài khảo sát
100
100
100

Số lượng bài mắc lỗi
37
35
31

Tỉ lệ %
37,0%
35,0%
31,0%

Bảng kết quả xếp loại học lực môn Ngữ văn năm học 2020 – 2021
Sĩ số

Giỏi
SL
%
36 4,77

745

Khá
SL

%
458 61,47

Trung bình
SL
%
249
33,42

Yếu
SL
%
1
0,13

Kém
SL
%
1
0,13

Bảng thống kê số học sinh bỏ học, đánh nhau năm học 2020 – 2021
Tổng số
học sinh
754

Bỏ học
10

Số học sinh bỏ học và đánh nhau

Tỉ lệ %
Đánh nhau
1,34
1

Tỉ lệ %
0,13

Phiếu khảo sát ý kiến học sinh (Năm học 2020 – 2021)
Phiếu khảo sát
Hãy tích dấu X vào các ô trả lời tương ứng và nêu lí do giải thích cho câu trả lời của em
Câu 1: Các em có chào hỏi tất cả các thầy cô (kể cả các thầy cô không dạy) và nhân
viên của trường khơng?


Khơng

Vì sao

Câu 2: Các em có muốn lập gia đình ngay sau khi học xong THPT khơng?

Khơng
Vì sao

Kết quả phiếu khảo sát học sinh như sau:
Số HS
754

Câu hỏi
Câu 1

Câu 2

Trả lời “Có”
511
325

Tỉ lệ %
68,5%
43,62%

Trả lời “Khơng”
234
420

Tỉ lệ %
31,4%
56,37%

b. Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tại trường THPT
Nguyễn Lương Bằng.
Biện pháp 1: Đổi mới hình thức thực hiện phần khởi động trong bài
học.
Trong những năm gần đây, để đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục nói chung
và mơn Ngữ văn nói riêng. Một tiết học theo mơ hình trường học mới phải đáp ứng
5 hoạt động bao gồm: Hoạt động khởi động; hoạt động hình thành kiến thức; hoạt
động luyện tập; hoạt động vận dụng. Trong đó hoạt động khởi động góp phần khá


7
quan trọng trong việc củng cố kiến thức của các bài đã học trước đó và tạo ra một

tâm thế đầy hứng thú để học sinh tiếp nhận các kiến thức của bài mới.
Ở phần hoạt động khởi động trong bộ mơn Ngữ văn, giáo viên thường lựa
chọn hình thức cho học sinh xem tranh ảnh hoặc video liên quan đến bài học. Cách
làm này được nhiều giáo viên áp dụng vì đỡ mất thời gian cho quá trình học bài
mới, giáo viên cũng không phải quá dụng công để tạo ra một hoạt động khởi động,
học sinh cũng có một tâm thế tốt khi vào bài mới. Tuy nhiên, nếu bài nào giáo viên
cũng áp dụng biện pháp này thì mơ hình chung sẽ khiến học sinh khơng cịn hào
hứng, tị mị trong mỗi tiết học. Đơi khi nó còn tạo ra sự khiên cưỡng và cách làm
theo kiểu như cho có.
Chính vì vậy ở phần khởi động chúng ta nên đa dạng hóa các cách làm để có
thể phát huy vai trò tối đa của phần khởi động. Để đa dạng hóa hoạt động này thì
bên cạnh cho học sinh xem tranh ảnh, video, tôi xin được bổ sung thêm hai hình
thức sau:
- Khởi động bằng các trị chơi.
- Khởi động bằng các video do học sinh dựng lại cho bài học.
Biện pháp 2: Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh qua các bài học trong
chương trình.
Từ trước đến nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về kĩ năng sống, nhưng
nhìn chung các quan niệm đều thống nhất ở chỗ thấy được bản chất của kĩ năng
sống là kĩ năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực
trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kĩ năng sống là khả
năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với người khác và
với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
Ở nước ta, kĩ năng sống thường được phân làm 3 nhóm:
- Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các kĩ năng
sống cụ thể như: tự nhận thức, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, tự tin…
- Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với người khác, bao gồm: giao tiếp,
thương lượng, bày tỏ cảm thơng, hợp tác…
- Nhóm các kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả, bao gồm: tìm kiếm và
xử lí thơng tin, ra quyết định, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo…

Cũng cần phải nói thêm rằng kĩ năng sống của con người không phải tự
nhiên mà có được, nó phải được hình thành dần qua quá trình học tập, rèn luyện
lâu dài trong cuộc sống. Môn ngữ văn trong trường THPT là môn học có nhiều ưu
thế trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường của nước ta hiện
nay, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh còn nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
dục phổ thông, hướng tới mục tiêu: đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, nghề nghiệp; trung thành với lí tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong các nhà trường phổ thông cũng là xu thế
chung của nhiều nước trên thế giới.
Biện pháp 3: Đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá đối với học sinh.
Trước đây, chúng ta thường đánh giá học sinh bằng các bài kiểm tra miệng,
kiểm tra viết. Với cách kiểm tra này, mục đích của chúng ta là chỉ để kiểm tra xem


8
các em nắm được kiến thức bài học đến đâu mà khơng hình thành nhiều được kĩ
năng, năng lực cho các em. Đồng thời, vơ hình chung chúng ta gây ra những áp lực
không nhỏ cho học sinh, khiến các em lo lắng, nhồi nhét kiến thức một cách cơ học
và nếu khơng tiếp thu được thì sẽ dẫn đến những hiện tượng tiêu cực trong lúc
kiểm tra và thi cử. Chính vì vậy việc thay đổi hình thức kiểm tra đánh giá học sinh
là một vấn đề tất yếu của nghành giáo dục nói chung và mơn ngữ văn nói riêng.
Năm học 2020 – 2021, bộ giáo dục cũng đã có cơng văn tinh giảm các bài kiểm tra
cho học sinh và khuyến khích giáo viên có những cách đánh giá quá trình học tập
của học sinh một các tích cực hơn.
Chính vì vậy, thay bằng việc kiểm tra kiến thức học sinh một các đơn thuần,
tôi đã thay đổi hình thức kiểm tra các bài học bằng việc cho học sinh tái hiện lại
các kiến thức đã học bằng sơ đồ tư duy, mơ hình hóa và sân khấu hóa các tác phẩm

văn chương thuộc thể loại tự sự.
Sơ đồ tư duy (Mindmap) là phương pháp ghi chép nhanh chóng, tận dụng
khả năng nghe, nhìn, xử lý thơng tin và hệ thống hóa chúng lại. Trong học tập sử
dụng sơ đồ tư duy là phương pháp sử dụng những ký hiệu, hình ảnh sinh động
minh họa giúp cho chúng ta ghi nhớ bài dễ dàng và hiệu quả hơn. Phương pháp
này giúp cho bạn dễ dàng nắm bắt, xâu chuỗi vấn đề, liên kết những đối tượng đơn
lẻ. Sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp khai thác được các khả năng tư duy của não bộ.
Mơ hình hóa là tạo ra mơ hình để trên mơ hình nghiên cứu một đối tượng
nào đó (Từ điển Tiếng Việt).
Sân khấu hóa tác phẩm văn học là một trong những phương pháp dạy và học
Văn học - “Trả tác phẩm về cho học sinh”. Phương pháp này do Tiến sĩ Nguyễn
Quang Trung (Đại học Quốc gia Hà Nội) sáng tạo và được áp dụng ở nhiều trường
học trên cả nước. Với mơ hình sân khấu hóa tác phẩm văn học, thay vì những giờ
kiểm tra căng thẳng, những tiết mục sân khấu hóa sinh động, giúp học sinh dễ học,
dễ nhớ, nhập tâm hơn với những tác phẩm văn học. Hình thức “Sân khấu hóa tác
phẩm văn học” sẽ giúp học sinh có thêm nhiều kỹ năng trong cuộc sống. Cách học
văn này đã tạo thói quen cho mỗi học sinh ln chủ động tìm hiểu, nhập tâm vào
tác phẩm, cảm nhận rõ nét về nội dung, tư tưởng, chủ đề của mỗi tác phẩm văn
học, hướng con người tới những giá trị chân - thiện - mỹ trong cuộc sống….
Các phương pháp trên sẽ giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản, tạo
hứng thú cho các em trong việc tiếp nhận tri thức đồng thời mở ra một thế giới
sáng tạo, phát huy trí tưởng tượng và năng lực của các em trong những lĩnh vực
khác nhau.
3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Biện pháp 1: Đổi mới hình thức thực hiện phần khởi động trong bài học.
Học sinh tham gia các trị chơi.
Chúng tơi cải tiến một số gameshow như Đường lên đỉnh Olympia, Chiếc nón
kì diệu, Ai là triệu phú, Rung chuông vàng, Nhanh như chớp, của các đài truyền
hình và thiết kế các trị chơi phù hợp với yêu cầu của tiết học. Để tổ chức các
gameshow chúng tôi đã thành lập hai hội đồng. Hội đồng thứ nhất là hội đồng cố

vấn. Hội đồng gồm các thầy, cơ giáo có năng lực về chun mơn, u thích thơ,
văn... Hội đồng có trách nhiệm chuẩn bị các câu câu hỏi, đáp án. Các câu hỏi được
sưu tầm, trích dẫn từ nguồn tài liệu có uy tín, khi trích dẫn phải ghi rõ nơi xuất xứ
của tài liệu. Để đảm bảo tính khách quan, tạo một sân chơi lành mạnh, các thành


9
viên trong hội đồng không được để lộ thông tin. Bên cạnh hội đồng cố vấn chúng
tôi thành lập hội đồng thiết kế. Hội đồng thiết kế có trách nhiệm thiết kết các trò
chơi trên powerpoint. Hội đồng này gồm các thầy cô đến từ các tổ bộ môn khác
nhau thành thạo cơng nghệ thơng tin, u thích sự sáng tạo. Các sản phẩm thiết kế
sẽ lưu lại trong kho ngân hàng trò chơi của trường và giáo viên của các bộ mơn đều
có thể sử dụng, áp dụng vào bộ mơn mình giảng dạy.
Giáo viên trực tiếp giảng dạy lựa chọn trò chơi trong ngân hàng trò chơi và hệ
thống câu hỏi, đáp án của hội đồng cố vấn để biên soạn chương trình với tiêu chí
nội dung kiến thức được chuẩn bị công phu phù hợp với đối tượng học sinh, mỗi
lớp trong cùng một khối phải sử dụng hệ thống câu hỏi khác nhau để gây hứng thú,
tò mò cho học sinh và phù hợp với sức học của từng lớp. Đặc biệt, các câu hỏi phải
đáp ứng được yêu cầu kiểm tra kiến thức bài cũ và gợi mở các kiến thức trong bài
mới.
Áp dụng biện pháp thực hiện phần khởi động bằng việc cho học sinh tham trò
chơi trong một bài cụ thể.
Trò chơi “Đường lên đỉnh Olympia” ở phần khởi động thuộc tiết 49 – Chí
Phèo (theo phân phối chương trình tại trường THPT Nghĩa Minh).

Để phù hợp với thời lượng 5-7 phút cho phần khởi động, giáo viên lựa chọn
trò chơi gồm 3 phần: Khởi động, vượt chướng ngại vật và về đích. Giáo viên cải
tiến một số luật chơi cho phù hợp với một lớp học, chia lớp thành 3 nhóm. Mỗi
nhóm tương ứng với một đội chơi.
Phần khởi động



10
Luật chơi: Vòng khởi động gồm 3 câu hỏi. Mỗi câu hỏi 10 điểm. Tổng điểm
cả phần thi là 30 điểm. Giáo viên đọc câu hỏi, tính giờ 10 giây. Hết giờ các nhóm
giơ bảng. Trả lời đúng được 10 điểm, trả lời sai, giơ đáp án muộn khơng có điểm.
Câu hỏi:
Câu hỏi 1:

Câu hỏi 2

Câu hỏi 3:


11
Phần vượt chướng ngại vật

Luật chơi: Vòng thi gồm 3 câu hỏi tương ứng với 3 hàng ngang. Trả lời 3
hàng ngang để lấy dữ liệu trả lời từ khóa. Trả lời đúng 1 hàng ngang được 10 điểm.
Trả lời đúng từ khóa được 30 điểm. Giáo viên đọc câu hỏi, nhóm nào bấm chng
trước sẽ dành quyền trả lời. Trả lời đúng được 10 điểm, trả lời không đúng thì
nhóm khác có thể bấm chng xin trả lời. Số điểm cho nhóm trả lời sau nếu đúng
là 5 điểm. Sau khi trả lời hết ba câu hỏi hàng ngang, giáo viên đọc gợi ý cho câu
hỏi từ khóa. Nhóm nào bấm chng trước sẽ có quyền trả lời. Nhóm trả lời sai thì
nhóm sau có quyền trả lời. Đáp án trả lời đúng cho nhóm sau là 20 điểm, nhóm thứ
3 cịn 10 điểm.

Câu hỏi
Câu hỏi 1



12
Câu hỏi 2:

Câu hỏi 3:

Câu hỏi từ khóa


13
Phần về đích:

Luật chơi: Vịng thi gồm 1 câu hỏi tương ứng với 30 điểm. Mỗi nhóm 1 cử 1
bạn đại diện tham gia trò chơi. Giáo viên cho học sinh xem một đoạn video sau đó
đặt câu hỏi. Đại diện cho nhóm nào bấm chng trước sẽ được trả lời. Nếu trả lời
sai, đại diện của nhóm sau sẽ có quyền trả lời, nếu đúng được 20 điểm. Nếu trả lời
sai, đại diện tiếp theo của nhóm sau có quyền trả lời nếu đúng được 10 điểm.
Câu hỏi:

Đáp án:


14
Học sinh dựng video cho bài học.
Hình thức khởi động này giáo viên lựa chọn áp dụng trong những tiết học
thuộc phần giảng văn. Giáo viên chia lớp theo ba nhóm, giao nhiệm vụ các nhóm
học sinh về nhà đọc kĩ và tìm hiểu văn bản. Sau đó các nhóm lên ý tưởng, phân
công công việc cụ thể cho từng thành viên. Mỗi nhóm phải đi chụp và quay lại
những hình ảnh bên ngồi cuộc sống xung quanh các em để mơ phỏng lại những
hình ảnh, những chi tiết có trong bài học. Sau đó, các nhóm dựng thành video.

Hình ảnh sẽ làm nền cho video còn phần âm thanh chính là việc đọc diễn cảm lại
văn bản thơ hoặc tóm tắt văn bản văn xi. Mỗi video chỉ giới hạn trong khoảng
thời gian là 2 phút trở xuống. Thời gian để làm mỗi sản phẩm trên phục vụ cho tiết
học khoảng 3 ngày. Khi vào tiết học của bài học đó, các nhóm sẽ lên cơng bố sản
phẩm của nhóm mình, đại diện nhóm sẽ thuyết trình sản phẩm. Các nhóm khác
lắng nghe và đưa ra nhận xét. Sau đó giáo viên đánh giá sản phẩm, yêu cầu học
sinh về nhà chỉnh sửa, bổ sung nếu có và hồn thiện lại tác phẩm.
Áp dụng biện pháp trên trong bài “Vội Vàng”- Xuân Diệu.
Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm và giao nhiệm vụ chung cho các nhóm. Yêu
cầu các nhóm về đọc kĩ văn bản cũng như tìm hiểu bài thơ “Vội vàng” của Xuân
Diệu. Từ những cảm nhận chung nhất về tác phẩm, các nhóm sẽ đi chụp hoặc quay
lại những hình ảnh được tác giả tái hiện trong bức tranh mùa xn. Sau khi có hình
ảnh các nhóm dựng lại thành video. Video phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:
Ở đầu video phải giới thiệu được tên bài thơ, tên nhóm. Phần cuối video phải
giới thiệu tên của các thành viên trong nhóm, phần việc của mỗi cá nhân đóng góp
để hồn thành nhóm. Nội dung video phải sát với tác phẩm, hình ảnh sắc nét, phần
đọc văn bản phải truyền cảm. Các câu thơ khi được đọc phải khớp với hình ảnh
được chạy trên video.
Sau khi hoàn thành xong sản phẩm, đến tiết học “Vội vàng” các nhóm cơng
bố sản phẩm của mình. Đại diện nhóm lên thuyết trình. Các nhóm khác có thể nhận
xét. Giáo viên đánh giá sản phẩm dựa trên các tiêu chí đã yêu cầu học sinh khi giao
việc cho các em.
(Sản phẩm cụ thể của học sinh được ghi vào đĩa và gửi kèm theo với báo cáo
này.)
Biện pháp 2: Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh qua các bài học trong
chương trình.
Tạo tình huống có tính chất ứng dụng thực tiễn đời sống.
Trong mỗi bài học tôi đều cố gắng tạo ra những tình huống có vấn đề mang
tính chất ứng dụng vào thực tế đời sống, rồi tổ chức cho học sinh tự giải quyết.
Việc giải quyết các tình huống như thế lúc đầu mang tính chất cá nhân sau đó được

thảo luận để đi đến một cách giải quyết tối ưu nhất.
Ví dụ: Trong khi dạy bài “Thơng điệp nhân ngày thế giới phịng chống HIV/
AIDS” của Cơ-phi-a-nan, tơi đặt ra tình huống: Nếu em có một người bạn thân bị
nhiễm HIV/ AIDS, em sẽ hành động như thế nào? Vì sao? (lưu ý: hãy trả lời bằng
chính suy nghĩ thật và tình cảm thật của mình)


15
Sau khi đưa ra tình huống, tơi tổ chức cho học sinh tự giải quyết vấn đề trên
một tờ phiếu học tập, tất cả mọi người đều phải đưa ra chủ kiến của riêng mình.
Tơi chọn một số ý kiến (có thể để các em xung phong, cũng có khi chỉ định bất kì),
gọi một học sinh khác đọc to các ý kiến đó lên cho cả lớp cùng nghe, cùng thảo
luận, để thống nhất cách giải quyết tốt nhất. Với tình huống trên, học sinh có thể có
nhiều cách giải quyết khác nhau, chẳng hạn:
- Tìm cách trốn tránh, xa lánh, khơng chơi với bạn nữa vì sợ bị lây nhiễm.
Con người ta không thể cẩn thận tuyệt đối được và trong khi tiếp xúc với người
bệnh không thể chắc chắn rằng mình khơng bao giờ bị lây nhiễm.
- Vẫn giữ mối quan hệ bạn bè nhưng thận trọng và giữ một khoảng cách nhất
định khi tiếp xúc với bạn ấy. Vì mặc dù biết HIV khơng lây qua đường tiếp xúc
thơng thường nhưng vẫn sợ, đó là bệnh nan y chưa có thuốc chữa, nhỡ may sơ ý
khi cả 2 cùng bị chảy máu, mình sẽ tự hủy hoại chính mình.
- Quan tâm chăm sóc, gần gũi, giúp đỡ bạn bằng tất cả những gì mình có thể
để bạn khơng rơi vào tình trạng mặc cảm, chán nản, bi quan. Vì lúc này là lúc bạn
cần mình nhất, lúc thể hiện tình bạn đẹp nhất.

Sau khi cho các em thảo luận, giáo viên định hướng chung để thống nhất
cách giải quyết: Nên gần gũi, giúp đỡ bạn bằng cả tình thương và trách nhiệm
nhưng tất nhiên phải cẩn thận để tự bảo vệ cho chính mình. Tìm hiểu kĩ để có kiến
thức thật vững vàng về căn bệnh, cũng như chú ý, quan tâm đến diễn biến tâm lí,
tình cảm của người bạn để chăm sóc bạn hiệu quả nhất và an tồn nhất.

Ví dụ 2: Khi dạy “Vợ chồng A Phủ” của Tơ Hồi, đến chi tiết: A Phủ đánh
A Sử trong lễ hội mùa xuân vì A Sử cậy quyền thế mà phá đám cuộc chơi. Tơi sẽ
đặt ra tình huống vận dụng: Giả sử, bạn là A Phủ, trong hoàn cảnh trên bạn sẽ xử
sự thế nào? Học sinh cũng sẽ có nhiều cách xử trí khác nhau như:
- Sẽ đánh A Sử như A Phủ đã đánh hắn để hắn bớt thói hống hách, cậy thế
làm càn.
- Sẽ tự kiềm chế mà bỏ đi để tránh bạo lực và để khỏi “rước vạ” vào thân.
- Sẽ tổ chức một cuộc gặp gỡ để dùng lí lẽ mà thuyết phục đối phương
khơng nên phá rối như vậy bởi vui là vui chung, nếu có thể, sẽ đi đến một thỏa
thuận giữa hai bên để cuộc vui vẫn được tiếp diễn, khơng có gì đáng tiếc xảy ra.
- Sẽ tổ chức, lôi kéo được nhiều người đứng về phía mình, đánh kẻ cậy
quyền thế như A Sử một cách có tổ chức để vẫn dạy cho hắn một bài học nhưng lại
khơng chịu tội một mình như A Phủ.
Sau cùng sẽ thống nhất phương án giải quyết: Tùy vào thái độ và mức độ
phá đám của “kẻ cậy quyền” để ứng phó. Tốt nhất vẫn là ngồi lại để nói chuyện
với nhau, tìm điểm yếu của hắn rồi dùng lập luận, lí lẽ để thuyết phục, buộc đối
phương phải suy nghĩ lại. Tất nhiên phải có nghệ thuật để “nâng cao tầm” của đối
phương để sự tự phụ của hắn được ru vỗ thì ắt xung đột bạo lực sẽ không xảy ra.


16
Việc tổ chức giải quyết các tình huống trải nghiệm kiểu như thế này thường
tạo cho học sinh tâm thế “nhập cuộc”, hứng thú, cảm thấy mình là người trong
cuộc, cần phải thể hiện suy nghĩ và hành động cụ thể. Qua những tình huống đó,
học sinh dần dần hình thành kĩ năng giải quyết các vấn đề và điều chỉnh hành vi
theo hướng hợp lí.
Tổ chức những hoạt động đối thoại đa dạng trong giờ dạy học.
Trước đây, ở phương pháp dạy học truyền thống, chủ yếu chỉ có đối thoại
giữa giáo viên với học sinh, giáo viên là người hỏi, học sinh là người trả lời. Chính
vì vậy, trong q trình dạy học văn, tơi đã cố gắng để tạo ra những hoạt động đối

thoại đa dạng. Không chỉ là đối thoại giữa giáo viên với học sinh mà còn là đối
thoại giữa học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên
Áp dụng trong một số bài cụ thể như sau:
Ví dụ: Khi dạy tác phẩm “Chiếc thuyền ngồi xa”(Nguyễn Minh Châu), tơi
tạo ra các hoạt động đối thoại sau:
- Đối thoại giữa giáo viên với học sinh thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở
như: Câu1: Cảm nhận của người nghệ sĩ trước “một cảnh đắt trời cho”? Vì sao
Phùng lại nghĩ đến sự đúc kết “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”?
Câu 2: Ngay khi đang tận hưởng cái khoảng khắc kì diệu mà hóa cơng ban tặng,
Phùng đã phát hiện ra điều gì? Thái độ của anh trước phát hiện ấy? Vì sao anh lại
có thái độ như vậy?
Câu 3: Qua 2 phát hiện của Phùng, nhà văn muốn người đọc nhận thức điều gì về
cuộc đời?
Câu 4: Giả sử đảo vị trí của 2 phát hiện ấy (cảnh bạo lực của gia đình hàng chài
thấy trước; cảnh đẹp của chiếc thuyền trên biển mờ sương thấy sau), giá trị của tác
phẩm có gì thay đổi?... Với những câu hỏi kiểu này, tơi thường khuyến khích cá
nhân các em suy nghĩ, trả lời và thưởng điểm cho những người có câu trả lời hay,
sáng tạo.
- Đối thoại giữa học sinh với học sinh: Yêu cầu một em học sinh tự đặt ra
câu hỏi, gọi một em khác trả lời, 2 em tranh luận với nhau để bảo vệ ý kiến của
riêng mình. Chẳng hạn: Nếu bạn chứng kiến cảnh bạo lực của một gia đình nào đó
như gia đình hàng chài trong truyện, bạn sẽ làm thế nào? Sẽ có nhiều hướng giải
quyết khác nhau, người giáo viên sẽ làm trọng tài cho cuộc tranh luận giữa 2 em
học sinh để đi đến một cách giải quyết hợp lí nhất.
- Đối thoại giữa học sinh với giáo viên: Cho phép học sinh đặt ra những câu
hỏi, những tình huống đối với giáo viên, giáo viên sẽ chia sẻ suy nghĩ và kinh
nghiệm của mình với học sinh một cách dân chủ, cởi mở. Ví dụ có em học sinh
hỏi: Nếu cơ là người đàn bà hàng chài, trong hoàn cảnh nghèo khổ và bị hành hạ
như thế cô sẽ làm thế nào? Tôi sẽ nói với các em rằng: nếu rơi vào hồn cảnh như
vậy, tơi sẽ suy nghĩ vì sao mình lại nghèo, vì sao chồng mình lại có những hành vi

như thế? trước hết phải tìm cách để thốt nghèo; sau đó sẽ dùng lời lẽ, lập luận để
chỉ ra cái sai trái trong hành động của người chồng. Nếu bản chất của người chồng
là tốt đẹp thì khơng có lí do gì mà cảnh tượng ấy lại tái diễn


17
Để có những cuộc đối thoại đạt hiệu quả, tơi xác định những vấn đề trọng
tâm, mở ra nhiều cách giải thích khác nhau, kích thích khả năng tư duy sáng tạo,
thúc đẩy hoc sinh bộc lộ quan điểm và đối thoại. Những tình huống nêu ra để học
sinh tham gia đối thoại vừa khơng thốt li tác phẩm, vừa phù hợp với trình độ tiếp
nhận của các em, đồng thời đảm bảo cuộc tranh luận không mất trật tự, và không
mất quá nhiều thời gian cho phép. Cần tránh những hình thức câu hỏi mà khi trả
lời, học sinh chỉ dựa vào những quan niệm và kinh nghiệm đã có hay chỉ trình bày
một chiều các luận cứ để khẳng định một kiến giải nào đó. Ngồi ra, tơi cũng dự
đốn những tình huống có thể xảy ra trong sự tiếp nhận của học sinh để điều khiển
cuộc đối thoại sao cho không rơi vào bế tắc mà luôn đi theo những con đường hợp
lí nhất.
Tích cực sử dụng phương pháp dạy học nhóm một cách hiệu quả.
Để một giờ học trên lớp thành công với phương pháp dạy học nhóm, tơi
thường tiến hành theo 3 bước:
Chuẩn bị: Trước khi diễn ra tiết học có sử dụng hoạt động nhóm trên lớp,
hướng dẫn cho học sinh cách chuẩn bị bài theo một dàn ý bao gồm các nội dung cơ
bản sau:
- Đọc kĩ phần “kết quả cần đạt” trong sách giáo khoa.
- Tìm hiểu trước những kiến thức về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm,
đặc trưng thể loại của tác phẩm (kiến thức này chủ yếu nằm trong phần “tiểu
dẫn”).
- Đọc thật kĩ văn bản trước khi học (nếu là văn tự sự, kịch phải tóm tắt được
cốt truyện; nếu là tác phẩm thuộc thể loại trữ tình phải nắm bắt được mạch cảm
xúc).

- Đọc phần chú giải trong sách giáo khoa để hiểu một số từ ngữ khó hoặc
các điển tích, điển cố, những chủ ý sáng tạo của nhà văn…
- Tự mình trả lời các câu hỏi trong phần “hướng dẫn học bài”; đánh dấu
những chỗ chưa giải quyết được hoặc còn băn khoăn để trao đổi với thầy cô và các
bạn.
Khi đưa ra những yêu cầu chuẩn bị bài cho học sinh, tôi ln kiểm tra tính
hiệu quả của cơng việc này bằng cách kiểm tra vở soạn bài kết hợp với những câu
hỏi về bài mới. Bởi vì nếu khơng chuẩn bị bài tốt, phương pháp dạy học nhóm
khơng thể thành cơng.
Xây dựng được những nội dung thảo luận quan trọng và phù hợp để hoạt
động nhóm có hiệu quả:
- Thảo luận về kết cấu ngôn từ của tác phẩm: từ nhan đề, bố cục cho đến
ngơn từ, hình ảnh, biểu tượng nghệ thuật mang tính sáng tạo của tác giả. Ví dụ:
Học tác phẩm “Vợ nhặt” (Kim Lân) giáo viên có thể hỏi: Tại sao tác giả lại đặt tên
cho tác phẩm là “Vợ nhặt” Nhan đề đó có ý nghĩa và có quan hệ như thế nào với
nội dung của tác phẩm? Những từ ngữ tác giả dùng để miêu tả về nạn đói có gì đặc
biệt? gợi cho em cảm giác gì?


18
- Thảo luận về kết cấu hình tượng của tác phẩm: về các hình tượng nhân vật
chính trong tác phẩm tự sự; hình tượng cái tơi trữ tình trong các tác phẩm thuộc thể
loại trữ tình. Ví dụ: Cảm nhận về hình tượng “Sóng” khi hạy học bài thơ “Sóng”
(Xn Quỳnh); hình tượng Mị và A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” (Tơ
Hồi)?
- Thảo luận về hiệu quả của các giá trị nghệ thuật độc đáo trong tác phẩm
qua hệ thống những câu hỏi so sánh. Để tạo tình huống cho học sinh tham gia đàm
thoại giáo viên có thể liên hệ các tác phẩm có cùng đề tài chủ đề, cùng một kiểu
kết cấu để tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau. Giáo viên hướng dẫn học
sinh đi đến những kết luận, đánh giá tính đặc sắc, độc đáo của từng tác phẩm và

nhận xét về điều chúng giống nhau. Để có kỹ thuật so sánh yêu cầu người học phải
có khả năng khái quát, đánh giá và phải có vốn kiến thức sâu rộng nhất định.
Chẳng hạn khi học xong bài thơ “Sóng” (Xuân Quỳnh) học sinh có thể bộc lộ cảm
nhận của mình về tình yêu trong mối liên hệ với những bài thơ tình của Xuân Diệu.
- Thảo luận về nội dung cảm xúc, ý nghĩa khái quát, ý nghĩa tư tưởng của
hình tượng, của tác phẩm. Từ đó có sự liên hệ văn bản với đời sống. Đây là một
việc làm có ý nghĩa tổng kết cho những vấn đề phân tích chi tiết cụ thể về nội dung
và ý nghĩa của hình tượng nghệ thuật. Việc tổng hợp, khái quát lại thành những
phạm trù ý, luận điểm ngắn ngọn,cô đọng là rất cần thiết và có ý nghĩa sâu sắc.
Đây là một yêu cầu khá phức tạp cho nên nó phù hợp với hoạt động thảo luận với
những dạng câu hỏi về giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật, sự thay đổi tên gọi,
sự liên tưởng và suy nghĩ về những vấn đề được tác giả đặt ra trong bài thơ. Ví dụ
học xong bài thơ “Sóng” có thể thảo luận với câu hỏi: Vì sao nhà thơ lại có ước
muốn “Làm sao được tan ra, thành trăm con sóng nhỏ”? Em lí giải như thế nào về
ước muốn này của thi nhân, thái độ sống ấy có phù hợp với những khao khát của
tuổi trẻ hiện nay khơng? Hoặc khi học đoạn trích “Đất nước”(Nguyễn Khoa
Điềm), có thể cho học sinh thảo luận với câu hỏi: Em nghĩ gì về lời nhắn nhủ của
nhà thơ: “Em ơi em! Đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/
Phải biết háo thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên đất nước mn đời”? Lời nhắn
nhủ ấy ngày nay có cịn tác dụng gì với tuổi trẻ của đất nước không?...
Tiến hành tổ chức thảo luận nhóm ở trên lớp:
- Mở đầu thảo luận: Giáo viên tổ chức phân nhóm, cho học sinh tự bầu
trưởng nhóm, giáo viên thơng báo quy trình và quy định thảo luận.
- Giao nhiệm vụ cho từng nhóm; giáo viên chỉ làm nhiệm vụ quan sát, theo
dõi mà không tham gia ý kiến, không cắt ngang lời học sinh, không tỏ vẻ phản ứng
nếu câu trả lời, tranh luận không đúng với ý mình; khi học sinh đưa ra những câu
trả lời ngờ nghệch, không đúng, giáo viên nên nhanh chóng làm cho học sinh nhận
thức được sự khơng đúng của thơng tin đó mà khơng làm ảnh hưởng đến cảm xúc,
lòng tự trọng của học sinh; khi học sinh trình bày, giáo viên phải nghe cẩn thận
những điều học sinh nói để hiểu các em định nói gì hoặc ghi chép nhanh lại những

điểm cơ bản của mỗi ý kiến để chuẩn xác kiến thức.
- Sau khi thảo luận: Giáo viên phải tổng kết những ý kiến phát biểu thống
nhất và chưa thống nhất để mình tham gia vào những ý kiến chưa thống nhất và bổ


19
sung thêm những ý cần thiết; đánh giá các ý kiến phát biểu, nhận xét tinh thần, thái
độ làm việc của học sinh để thưởng điểm hoặc trừ điểm cho cá nhân của nhóm.
Tuy có nhiều ưu điểm và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc góp phần
rèn luyện những kĩ năng sống cho học sinh, song cũng cần lưu ý một điều rằng: sử
dụng một phương pháp dạy học khơng có nghĩa là đề cao và coi đó là phương pháp
độc tơn, bởi lẽ khơng có phương pháp nào là vạn năng. Hoạt động nhóm sử dụng
trong dạy học môn Ngữ văn chỉ thực sự phát huy tác dụng khi được phối hợp linh
hoạt với các cách dạy học khác.
Biện pháp 3: Đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá đối với học sinh.
Đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá bằng cách cho học sinh hệ thống
lại kiến thức cơ bản của bài học bằng sơ đồ tư duy.
* Giáo viên hướng dẫn các bước làm để giúp học sinh vẽ được sơ đồ tư duy
Bước 1: “Làm quen”: Giáo viên giới thiệu một số sơ đồ tư duy vẽ sẵn cho
học sinh làm quen. Giáo viên giới thiệu cấu trúc sơ đồ tư duy theo mạch kiến thức
của bài học cho học sinh nắm, rồi hướng dẫn cách vẽ một sơ đồ tư duy(Cung cấp
cho các em phương pháp vẽ sơ đồ tư duy).
Bước 2:“Đọc hiểu”: Giáo viên chọn những sơ đồ tư duy có kết cấu đơn giản
cho học sinh quan sát. Sau đó, cho các em dựa vào sơ đồ tư duy để thuyết trình nội
dung bài học (kiến thức) được vẽ trong sơ đồ. (Luyện cho các em tư duy lô-gic, tư
duy hệ thống và kĩ năng thuyết trình)
Bước 3: “Tập vẽ”: Giáo viên đưa ra chủ đề bằng từ khóa (hoặc hình ảnh) ở
trung tâm màn hình (hoặc trên bảng đen). Cho học sinh thực hành vẽ sơ đồ tư duy
trên giấy hoặc bìa lịch hay bảng phụ.Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý để các em suy
nghĩ và vẽ các nhánh cấp 1, cấp 2, cấp 3... (Luyện kĩ năng vẽ sơ đồ tư duy)

Lưu ý:
+ Giáo viên nên chọn những bài các em đã học, có kiến thức đơn giản, dễ
nhớ, dễ vẽ.
+ Lưu ý các em không dùng câu, đoạn quá dài, nên thể hiện các ý bằng
những cụm từ ngắn gọn.
Bước 4: “Trang trí”: Sau khi các em vẽ xong sườn của sơ đồ tư duy, giáo
viên gợi ý cho các em vẽ chèn thêm những hình ảnh cần thiết để minh họa cho nội
dung của sơ đồ, gợi ý cho các em chỉnh sửa đường nét, sử dụng màu sắc để phân
biệt, làm nổi bật mạng lưới các ý trong sơ đồ.(Kĩ năng hội họa - dấu ấn sáng tạo
riêng)
Lưu ý:
+ Giáo viên lưu ý học sinh khi vẽ sơ đồ tư duy, các em nên kết hợp dùng
màu sắc, đường nét ... ngay trong q trình vẽ để tiết kiệm thời gian.
+ Khơng nên dùng quá nhiều màu, không dùng những màu sắc quá sặc sỡ,
khơng q chú trọng vào đường nét, hình ảnh làm lãng phí thời gian.
Bước 5: “Chia sẻ kinh nghiệm”


20
- Ở bước này, giáo viên thu một số sơ đồ tư duy các em vừa vẽ theo từng loại
(Sơ đồ khơng triển khai đủ các ý chính, sơ đồ vẽ quá chi tiết đến vụn vặt, sơ đồ vẽ
không đúng trọng tâm kiến thức, sơ đồ dùng quá nhiều hình ảnh, màu sắc lịe
loẹt,... )
- Cho học sinh quan sát, nhận xét, góp ý chỉnh sửa, bổ sung.
- Giáo viên lắng nghe, định hướng cho các em chỉnh sửa, bổ sung:
+ Như trên đã trình bày, sơ đồ tư duy là một sơ đồ mở. Vì vậy, giáo viên cần
tôn trọng và phát huy sự sáng tạo của các em, bởi đây là “sản phẩm” của chính các
em. Giáo viên chỉ chỉnh sửa cho các em chủ yếu về mặt kiến thức. Mặt khác, giáo
viên cũng cần khuyến khích, biểu dương những sơ đồ tư duy vẽ đảm bảo đầy đủ
kiến thức trọng tâm, đẹp, có cách trình bày khoa học, cân đối, hài hòa về đường

nét, màu sắc.
+ Nếu thấy mất quá nhiều thời gian để tô đậm màu trong một nhánh, ta có
thể hướng dẫn thêm cho các em cách gạch chéo, đánh dấu cộng, hay chấm bi trong
đó. Đây là điều rất mới mẻ, sáng tạo và tiết kiệm rất nhiều thời gian.
+ Giáo viên nhắc nhở thêm các em cần hình thành thói quen tốt: nên lập sơ
đồ tư duy trong quá trình chuẩn bị bài mới ở nhà và lập lại sau khi học xong bài
trên lớp để có điều kiện đối chiếu xem mình đã làm được những gì? Những gì
mình cịn sai sót cần bổ sung, sửa chữa. Nếu làm được như vậy, chẳng những giúp
các em nắm vững kiến thức mà còn rèn luyện cho các em phát triển năng lực tư
duy (Tư duy lô-gic, tư duy hệ thống...) rất tốt.
+ Nhắc các em sau mỗi bài học nên lưu các sơ đồ tư duy lại để sau này tiện
việc ôn tập, hệ thống kiến thức.
Tóm lại, nếu giáo viên chuẩn bị thật kĩ lưỡng các bước trên cho các em, tôi
nghĩ rằng chắc chắn các em sẽ học tốt, làm tốt những yêu cầu giáo viên đặt ra trong
quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá có ứng dụng sơ đồ tư duy.
* Sử dụng sơ đồ tư duy trong các hình thức kiểm tra: 15 phút, 1 tiết, 2 tiết.
Giáo viên đưa ra một từ khóa (hay một hình ảnh trung tâm) thể hiện chủ đề
của kiến thức cũ mà các em đã học, cần kiểm tra, yêu cầu các em vẽ sơ đồ tư duy
thông qua câu hỏi gợi ý. Trên cơ sở từ khóa (hoặc hình ảnh trung tâm) ấy kết hợp
với câu hỏi định hướng của giáo viên, học sinh sẽ nhớ lại kiến thức và định hình
được cách vẽ sơ đồ tư duy theo yêu cầu. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần lưu ý rằng
kiểm tra kiến thức cũ bằng phương pháp vẽ sơ đồ tư duy chỉ là một hình thức kiểm
tra nhằm việc giúp học sinh củng cố, hệ thống kiến thức có tính chất lý thuyết. Do
đó, giáo viên nên chọn kiểm tra những kiến thức có tính hệ thống, xâu chuỗi, các
em có thể dễ dàng hệ thống hóa bằng sơ đồ tư duy. Mặt khác, về yêu cầu của đề
kiểm tra, giáo viên cần đưa ra từ hay cụm từ khóa ngắn gọn, rõ ràng, cụ thể, khái
quát được chủ đề của phần kiến thức cần kiểm tra trong câu hỏi để định hướng,
giúp học sinh dễ dàng nắm bắt chính xác u cầu đề và có thể vẽ đúng sơ đồ tư duy
theo yêu cầu.
Lưu ý:



21
- Giáo viên có thể linh hoạt sử dụng các câu hỏi yêu cầu học sinh lập sơ đồ tư
duy ở khâu kiểm tra bài cũ và kiểm tra viết (15 phút, 1 tiết) hoán đổi cho nhau đều
được.
- Đối với kiểm tra miệng, 15 phút ta lấy thang điểm 10; cịn đối với kiểm tra 1
tiết thì tùy theo mức độ của từng câu hỏi, ta có thể cho từ 2 – 3 điểm (xem như câu
hỏi yêu cầu lập sơ đồ tư duy là một phần trong đề kiểm tra).
Sản phẩm sơ đồ tư duy của học sinh:
Sơ đồ tư duy bài “Bài ca ngất ngưởng”– Nguyễn Công Trứ
(Sản phẩm của nhóm 1 – lớp 11A6)

-

-

Sơ đồ tư duy bài “Thương vợ” – Trần Tế Xương
(Sản phẩm của nhóm 1 – lớp 11A5)

-


22
Sơ đồ tư duy bài “Câu cá mùa thu” – Nguyễn Khuyến
(Sản phẩm của nhóm 1 – lớp 11A5)

Sơ đồ tư duy bài “Tự tình II” – Hồ Xuân Hương
(Sản phẩm của nhóm 1 – lớp 11A6)


Đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá bằng cách cho học sinh tái hiện lại
tác phẩm văn học theo mơ hình mơ phỏng.
Thay vì làm bài kiểm tra viết quen thuộc, giáo viên có thể u cần học sinh
làm mơ hình mơ phỏng về một hoặc nhiều cảnh, chi tiết mà các em tâm đắc trong
tác phẩm. Giáo viên có thể chia lớp thành ba nhóm. Mỗi nhóm tùy ý tưởng và sự
sáng tạo của mình để lựa chọn cảnh, chi tiết mà mô phỏng lại. Giáo viên ấn định
thời gian thực hiện và thời gian cơng bố sản phẩm. Mỗi nhóm khi cơng bố sản
phẩm phải có đại diện cho nhóm lên thuyết trình cho sản phẩm của mình để giải
thích ý tưởng, truyền tải nội dung, thông điệp.
Để thực hiện được nhiệm vụ trên các nhóm học sinh cùng đọc, tìm hiểu, tranh
luận, lựa chọn chi tiết để làm mơ hình thể hiện tinh thần của tác phẩm. Tiếp đó,
học sinh tự tìm ngun vật liệu, tơ màu, xây dựng mơ hình... Giáo viên nên khuyến
khích các em là sản phẩm nên được sự dụng từ những vật liệu dễ tìm, tái chế lại từ


23
những thứ bỏ đi như bìa các tơng, túi nilơng, ống mút, cốc nhựa, tăm… để nâng
cao ý thức bảo vệ môi trường cho các em học sinh.
Khi học sinh lên trình bày sản phẩm, giáo viên ấn định thời gian trình bày
dưới 3 phút. Sau phần trình bày của mỗi nhóm, các nhóm cịn lại có thể đặt ra câu
hỏi, nhận xét, đánh giá về sản phẩm của nhóm bạn. Sau đó giáo viên chốt lại các
nhận xét, đánh giá sản phẩm của mỗi nhóm trên ba tiêu chí:
Tiêu chí 1: Sản phẩm có bám sát được cảnh, chi tiết trong văn bản và có sự
sáng tạo khơng?
Tiêu chí 2: Vật liệu mà các nhóm sử dụng như thế nào?
Tiêu chí 3: Phần thuyết trình của từng nhóm như thế nào?
Giáo viên dựa vào ba tiêu chí trên để cho điểm cho mỗi nhóm và cho điểm
cho từng học sinh.
Mơ hình mơ phỏng bài “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương.
(Sản phẩm của nhóm 2, 3 lớp 11A1)



24

Mơ hình mơ phỏng bài “Thương vợ” của Trần Tế Xương
(Sản phẩm của nhóm 2, 3 lớp 11A5)


25
Mơ hình bài “Bài ca ngất ngưỡng” – Nguyễn Cơng Trứ
(Sản phẩm của nhóm 2, 3 lớp 11A6)

Mơ hình bài “Câu cá mùa thu” – Nguyễn Khuyến
(Sản phẩm của nhóm 2, 3 lớp 11A5)


×