Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Lựa chọn nội dung và xây dựng hệ thống câu hỏi phần lịch sử việt nam từ 1976 đến nay trong ôn thi hsg môn lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 65 trang )

I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Lựa chọn nội dung và xây dựng hệ thống câu hỏi phần
Lịch sử Việt Nam từ năm 1976 đến nay trong ôn thi HSG môn Lịch sử
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lịch sử
3. Phạm vi áp dụng sáng kiến
- Đối tượng áp dụng là giáo viên giảng dạy và học sinh trong đội tuyển học
sinh giỏi của trường THPT Chuyên Nguyễn Tất Thành, đặc biệt là đội tuyển cấp
Quốc gia môn Lịch sử của tỉnh Yên Bái.
4. Thời gian áp dụng sáng kiến
- Từ ngày 1 tháng 7 năm 2021 đến ngày 31 tháng 12 năm 2021
5. Tác giả
Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh Huyền
Năm sinh: 1987
Trình độ chun mơn: Thạc sỹ
Chức vụ cơng tác: Tổ phó chun môn
Nơi làm việc: Trường THPT Chuyên Nguyễn Tất Thành, tỉnh Yên Bái.
Địa chỉ liên hệ: Tổ 7 thị trấn Yên Bình, huyện n Bình, tỉnh n Bái.
Điện thoại: 0983.310.256
II. MƠ TẢ SÁNG KIẾN
1. Tình trạng các giải pháp đã biết
Với thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xn năm 1975 và
q trình hồn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước năm 1975-1976, Việt
Nam bước vào một thời kỳ lịch sử mới – thời kỳ cả nước thống nhất cùng đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Có thể nói, lịch sử Việt Nam từ năm 1976 đến nay là
một giai đoạn quan trọng của dân tộc, đã chứng kiến những bước đổi thay to lớn
của đất nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Trong đó trọng tâm là Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh

1



bảo vệ Tổ quốc (1976-1986); Đường lối đổi mới của Đảng; Quá trình đất nước
thực hiện đường lối đổi mới từ 1986 đến nay…
Cùng với những nội dung quan trọng nói trên là nhiều vấn đề liên hệ thực tiễn
liên quan đến cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, hội nhập quốc tế,
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ,…Tuy nhiên, trên thực tế, quá trình giảng dạy nội dung
Lịch sử Việt Nam từ năm 1976 đến nay cũng gặp nhiều khó khăn do sách giáo
khoa mới chỉ cung cấp lượng kiến thức đến năm 2000. Vấn đề đấu tranh bảo vệ Tổ
quốc với hai cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam (1978-1979) mới
quay trở lại giảng dạy từ năm học 2020-2021. Tài liệu giảng dạy hạn chế, nhiều
luồng thông tin với các quan điểm đánh giá sự kiện khơng chính thống, đưa thơng
tin sai lệch… Chính vì vậy, khi giảng dạy nội dung này địi hỏi người giáo viên
phải nghiên cứu, chọn lọc, cung cấp và hướng dẫn học sinh học đúng, hiểu đúng
bản chất các sự kiện lịch sử. Khó khăn này khơng chỉ dành riêng cho việc giảng
dạy chương trình chính khố trên lớp mà cịn là khó khăn trong cơng tác ơn luyện
bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi môn Lịch sử các cấp, nhất là cấp Quốc gia. Bởi
đây là đối tượng học sinh có tư duy tốt, có đam mê đối với mơn học và khả năng
tìm tịi mở rộng kiến thức cao. Nếu không định hướng đúng sẽ dễ dẫn tới những sai
lệch trong quan điểm đánh giá các sự kiện lịch sử.
Từ thực trạng trên, tôi mạnh dạn lựa chọn tìm hiểu nội dung và xây dựng hệ
thống câu hỏi phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1976 đến nay làm đối tượng nghiên
cứu viết sáng kiến kinh nghiệm năm học 2021-2022.
2. Nội dung (các) giải pháp đề nghị cơng nhận là sáng kiến
2.1. Mục đích của (các) giải pháp
- Trên nền tảng kiến thức cơ bản phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1976 đến
nay, sáng kiến tập trung hệ thống hoá kiến thức và xây dựng các câu hỏi chuyên
sâu liên quan đến chuyên đề để áp dụng trong quá trình giảng dạy, bồi dưỡng học
sinh giỏi môn Lịch sử. Sáng kiến này sẽ tiếp tục bổ sung cho nội dung Lịch sử Việt
Nam 1975-1976 về q trình hồn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước mà
cá nhân đã làm trong báo cáo sáng kiến kinh nghiệm năm học trước.


2


- Sau khi hoàn thiện, sáng kiến sẽ là nguồn tài liệu tham khảo, với hệ thống tư
liệu và các dạng câu hỏi tổng hợp cho học sinh và giáo viên khi học tập, giảng dạy
môn Lịch sử tại trường THPT Chuyên của Tỉnh và các nhà trường THPT khác với
mục đích góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn Lịch sử.
2.2. Nội dung (các) giải pháp
Điểm mới của sáng kiến là người viết đã kết hợp sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu như phương pháp tổng hợp tài liệu, thống kê, phân tích, giải thích, so
sánh, đánh giá các nhận định... về các sự kiện lịch sử. Quan trọng nhất là sử dụng
phương pháp lịch sử và phương pháp lơ-gic, trong đó phương pháp lịch sử là chủ
yếu. Trên nền tảng kiến thức cơ bản, người viết lựa chọn, giới thiệu và định hướng
một số gợi ý trả lời cho những dạng câu hỏi liên quan đến vấn đề sáng kiến nghiên
cứu. Hệ thống câu hỏi được xây dựng theo các mức độ, các đòi hỏi kỹ năng từ trình
bày, giải thích, chứng minh đến các dạng câu hỏi mới dạng mở về tư duy như phát
biểu ý kiến, trình bày suy nghĩ, liên hệ quá trình, vận dụng thực tiễn...phù hợp với đề
thi và năng lực học tập của học sinh để đáp ứng Kì thi chọn học sinh giỏi các cấp
môn Lịch sử. Sáng kiến sau khi hoàn thành sẽ bổ sung nguồn tư liệu tham khảo mới
và cần thiết cho học sinh và đồng nghiệp.
Để giải quyết vấn đề chính trong sáng kiến kinh nghiệm tơi đã nghiên cứu, tìm
hiểu và trình bày theo các khía cạnh sau:
I. KHÁI QUÁT NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN PHẦN LỊCH SỬ VIỆT
NAM TỪ NĂM 1976 ĐẾN NAY
1. Việt Nam xây dựng CNXH và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc (1976 - 1986)
1.1. Đất nước bước đầu đi lên CNXH
a/ Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước và hoàn thành thống
nhất đất nước về mặt nhà nước, nước ta chuyển sang giai đoạn đất nước độc lập,
thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.


3


Độc lập và thống nhất là điều kiện tiên quyết để đất nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Tiến lên chủ nghĩa xã hội sẽ đảm bảo cho nền độc lập và thống nhất đất nước
thêm bền vững.
Độc lập và thống nhất đất nước không những gắn với nhau mà cịn gắn với
chủ nghĩa xã hội. Đó là con đường phát triển hợp quy luật của cách mạng nước ta,
đúng như Báo cáo chính trị của Đảng tại Đại hội IV đã nêu rõ “Trong thời đại ngày
nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau và ở nước ta, khi
giai cấp công nhân giữ vai trị lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của CMXHCN.
b/ Thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 – 1980)
*) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (họp từ ngày 14 đến
ngày 20/12/1976) đã:
Tổng kết 21 năm (1954 - 1975):
Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, kháng chiến chống Mĩ cứu
nước giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đại hội đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước,
quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch Nhà nước 5 năm
(1976 - 1980)
Xác định nhiệm vụ: vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa cải tạo quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu cơ bản: xây dựng một bước cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa
xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước mà bộ phận chủ yếu
là cơ cấu công - nông nghiệp và cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá
của nhân dân lao động.
*) Thực hiện kế hoạch 5 năm, nhân dân ta đạt được những thành tựu
quan trọng:

- Các cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải bị địch đánh phá về
cơ bản đã được khôi phục và bước đầu phát triển: Trong nơng nghiệp, diện tích
gieo trồng tăng thêm gần 2 triệu hécta, được trang bị thêm 18 nghìn máy kéo các

4


loại. Trong cơng nghiệp, có nhiều nhà máy được gấp rút xây dựng như nhà máy điện,
cơ khí, xi măng v.v… Giao thông vận tải được khôi phục và xây dựng mới hàng ngàn
kilômét đường sắt, đường bộ, nhiều bến cảng. Tuyến đường sắt Thống nhất từ Hà Nội
đi thành phố Hồ Chí Minh sau 30 năm bị gián đoạn đã hoạt động trở lại.
- Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh trong các vùng mới giải
phóng ở miền Nam: giai cấp tư sản mại bản bị xố bỏ, quốc hữu hóa các xí nghiệp,
thành lập xí nghiệp quốc doanh hoặc cơng tư hợp doanh. Đại bộ phận nông dân đi
vào con đường làm ăn tập thể, thủ công nghiệp và thương nghiệp được sắp xếp và
tổ chức lại.
- Xoá bỏ những biểu hiện văn hoá phản động của chế độ thực dân, xây dựng
nền văn hoá mới cách mạng. Hệ thống giáo dục từ mầm non, phổ thông đến đại
học đều phát triển.
*) Hạn chế: Kinh tế còn mất cân đối lớn, sản xuất phát triển chậm, thu nhập
quốc dân và năng xuất thấp làm cho đời sống nhân dân khó khăn. Trong xã hội
nảy sinh nhiều tiêu cực.
c/ Thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1981 - 1985)
*) Nhiệm vụ, mục tiêu kế hoạch nhà nước 5 năm 1981 – 1985
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (họp từ ngày 27 đến ngày
31/3/1982) khẳng định: Trong 5 năm này, nước ta tiếp tục đường lối xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước do Đại hội IV đề ra với một số điểm điều
chỉnh, bổ sung và cụ thể hoá. Nhiệm vụ: sắp xếp lại cơ cấu, đẩy mạnh cải tạo xã
hội chủ nghĩa nhằm cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, đáp ứng những nhu
cầu cấp bách và thiết yếu nhất của đời sống nhân dân, giảm nhẹ những mất cân đối

của nền kinh tế.
*) Thành tựu:
Sau 5 năm, nước ta có những chuyển biến và tiến bộ đáng kể:
- Sản xuất công – nông nghiệp và thu nhập quốc dân tăng bình quân hằng năm.
- Cơ sở vật chất - kĩ thuật, hàng trăm cơng trình tương đối lớn, hàng nghìn
cơng trình vừa và nhỏ được hồn thành. Dầu mỏ bắt đầu được khai thác, cơng trình

5


thuỷ điện Sông Đà, thuỷ điện Trị An được khẩn trương xây dựng, chuẩn bị đi vào
hoạt động.
- Các hoạt động khoa học - kĩ thuật được triển khai, góp phần thúc đẩy sản
xuất phát triển.
*) Khó khăn: Những khó khăn cũ chưa khắc phục, thậm chí có mặt trầm
trọng hơn, tình hình kinh tế - xã hội chưa ổn định. Những khó khăn này xuất phát
từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhất là sai lầm, khuyết điểm trong
lãnh đạo và quản lý, chậm khắc phục.
1.2. Đấu tranh bảo vệ Tổ quốc
a/ Bảo vệ biên giới Tây Nam
Sau 30 năm chiến tranh (1945-1975), khi giấc mơ hòa bình trên phạm vi cả
nước vừa được hiện thực hóa, đất nước đã độc lập, tự do, nhân dân ta khơng mong
muốn gì hơn là được sống n ổn, đem tài năng và sức lực xây dựng đất nước phồn
vình, cuộc sống văn minh, ấm no, hạnh phúc, được hung sống hịa bình, hữu nghị
với các nước trên Thế giới. Nhưng mong muốn chính đáng ấy đã khơng được thực
hiện một cách dễ dàng.
Do có âm mưu từ trước, ngay sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ,
cứu nước, tập đồn “Khơme đỏ” ở Campuchia do Pơn Pốt cầm đầu đã quay súng
bắn vào lưng nhân dân ta – những người bạn chiến đấu thân thiết, thủy chung vừa
góp phần làm nên chiến thắng ngày 17/4/1975 của nhân dân Campuchia. Chúng đã

mở những cuộc hành quân khiêu khích, xâm phạm nhiều vùng lãnh thổ nước ta từ
Hà Tiên đến Tây Ninh, “làm chảy máu Việt Nam ngay giữa những ngày Việt Nam
vừa lập lại hịa bình, thống nhất”.
Đầu tháng 5-1975, chúng cho quân đổ bộ đánh chiếm đảo Phú Quốc; sau đó
đánh chiếm đảo Thổ Chu: “Ngày 30.4.1975, ta giải phóng Sài Gịn và đúng 10
ngày sau đó (10.5.1975), hải quân Pol Pot lợi dụng lúc lính Việt Nam Cộng hòa
tan rã, quân ta chưa kịp tiếp quản, tranh thủ thời cơ đánh chiếm đảo Thổ Chu và
tràn lên đảo Phú Quốc. Do bị đánh trả, không chiếm được Phú Quốc, lính Pol Pot
quay về Thổ Chu tàn sát đa số người dân, bắt đi 515 người còn lại và định chiếm

6


đóng Thổ Chu lâu dài, buộc quân ta phải đánh đuổi khỏi đảo”. “Sự kiện Thổ Chu
và Phú Quốc thực sự mở đầu cho những hành động gây căng thẳng, tiếp theo là
hàng loạt sự kiện dọc biên giới Tây Nam”1
Từ tháng 4/1977, song song với việc đẩy mạnh thực hiện chính sách diệt
chủng, tàn sát nhân dân, thanh trừng nội bộ, tập đồn Pơn pốt tăng cường những
cuộc hành quân lấn chiếm lãnh thổ nước ta, và từ những cuộc xung đột vũ trang lẻ
tẻ, chúng mở rộng dần thành cuộc chiến tranh lớn trên toàn tuyến biên giới Tây –
Nam nước ta. “Đây khơng cịn là xung đột nữa. Đây là một cuộc chiến tranh biên
giới thật sự” (Lê Trọng Tấn)
Ngày 22/12/1978, chúng huy động 19 trên tổng số 23 sư đoàn bộ binh cùng
với nhiều đơn vị pháo binh, xe tăng tiến đánh Tây Ninh, mở đầu cuộc chiến tranh
xâm lấn sâu vào lãnh thổ nước ta.
Thực hiện quyền tự vệ xứng đáng, quân ta đã tiến hành “cuộc chiến tranh bắt
buộc”, “vừa buông súng đã lại cầm lấy súng”, tổ chức cuộc phản công tiêu diệt và
quét sạch bọn xâm lược ra khỏi nước ta, lập lại hịa bình trên biên giới Tây Nam Tổ
quốc. Theo yêu cầu của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Camphuchia, “cứu bạn
như cứu mình” quân đội Việt Nam cùng với lực lượng cách mạng Camphuchia tiến

cơng, xóa bỏ chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Ngày 7-1-1979, Thủ đô Phnơm Pênh được
giải phóng và sau 25 ngày, 23 sư đồn Pol Pot bị đánh bại, giải phóng tất cả các
thành phố, thị xã, thị trấn trên cả nước Cam-pu-chia, cứu nhân dân, cứu dân tộc
Cam-pu-chia thoát khỏi thảm họa diệt chủng.
Quân Pôn Pốt tan tác chạy về biên giới phía Tây và một số vùng rừng núi, dựa
vào sự giúp đỡ bên ngoài, dần tập hợp lại lực lượng, tổ chức phản kích, khủng bố
nhân dân rất tàn bạo. Nhà nước Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia thể theo nguyện
vọng nhân dân, chính thức đề nghị Chính phủ ta để Quân tình nguyện ở lại giúp
bạn một thời gian. Lúc này bạn chưa đủ sức giữ thành quả mà ta rút về thì Pol Pot
sẽ nhanh chóng phản cơng lập lại ách thống trị của chúng; cuộc diệt chủng sẽ lại
1

/>
589939.html

7


khốc liệt, hàng triệu người dân Cam-pu-chia sẽ ồ ạt lánh nạn sang Việt Nam. Pol
Pot sẽ lại áp sát biên giới Việt Nam, tiếp tục cuộc chiến tranh tội ác chống Việt
Nam, miền Nam sẽ không thể ổn định để xây dựng. Quân tình nguyện và chuyên
gia Việt Nam đã nghiêm túc chấp hành quyết định của Đảng và Nhà nước ta ở lại
Cam-pu-chia một thời gian, “quên mình cho bạn hồi sinh” giúp nhân dân Cam-puchia xây dựng lại đất nước, xây dựng lực lượng tự bảo vệ thành quả của nhân dân.
Mười năm ở lại giúp Bạn, Qn tình nguyện Việt Nam đã hồn thành nghĩa vụ
quốc tế vẻ vang, thể hiện phẩm chất tốt đẹp Bộ đội Cụ Hồ trên đất Bạn.
Như vậy, hơn 10 năm sau ngày kháng chiến chống Mĩ kết thúc, vượt qua bao
khó khăn, qn dân ta khơng chỉ bảo vệ vững chắc biên giới phía Tây Nam mà cịn
thực hiện nghĩa vụ quốc tế giúp nước bạn thoát khỏi thảm họa đen tối trong lịch sử
và hồi sinh đất nước. Nhân dân Cam-pu-chia đã gọi bộ đội Việt Nam là “Bộ đội
nhà Phật” giúp nhân dân Cam-pu-chia anh em thực hiện một cuộc hồi sinh dân tộc

vĩ đại sau những hậu quả khủng khiếp, những tàn phá đảo lộn mà chế độ Pol Potđã
gây ra cho đất nước, xã hội, môi trường sống và con người. Đánh giá về vai trò của
Việt Nam đối với Campuchia trong thời gian này, tờ Thời báo Canberra (Australia)
ngày 19/3/1989 đã nhận định: “Ai cũng phải thừa nhận là việc Việt Nam vào Campu-chia đã đem lại kết quả rõ ràng... Hành động đó đã được nhân dân Cam-puchia ở khắp nơi chào đón như là sự giải phóng cho họ. Và ai cũng thấy rõ ràng là
sở dĩ từ trước đến nay Khmer đỏ không thể trở về được Phnom Penh chủ yếu là vì
sự có mặt của Việt Nam...”. Báo Pro-chia-chn (Nhân dân) của Đảng Nhân dân
cách mạng Cam-pu-chia ra xã luận viết: “Trong những năm cực kỳ bi thảm dưới
chế độ diệt chủng Pol Pot, trên thế giới này không biết bao nhiêu kẻ mạnh, kẻ giàu,
nhưng duy nhất chỉ có người bạn láng giềng nghèo Việt Nam đến cứu sống dân tộc
ta mà thôi”. Hơn 20 năm sau, trong cuộc Hội thảo quốc tế “Việt Nam trong thế kỷ
XX” ngày 20/9/2000 tại Hà Nội, Tiến sĩ Chay-y-Hiêng, Cố vấn Chính phủ Hồng
gia Cam-pu-chia, đọc tham luận đã khẳng định: “Điều gì còn đọng lại trong trái
tim người dân Cam-pu-chia về Việt Nam trong thế kỷ XX? Đó là lịng biết ơn, đó là

8


tình hữu nghị, là hình ảnh về một đội quân nhà Phật từ cõi thiện xa xôi đến cứu
giúp nhân dân Cam-pu-chia”2.
b/ Bảo vệ biên giới phía Bắc
Hành động thù địch chống Việt Nam của tập đồn Pơn Pốt được đế quốc Mĩ
và một số nước khác cổ vũ. Trung Quốc – nước láng giềng thân thiết của Việt
Nam, đã từng gắn bó mật thiết, đồn kết với nhân dân ta trong quá trình đấu tranh
cách mạng đã đồng tình ủng hộ, viện trợ giúp đỡ cho chế độ diệt chủng Pôn Pốt
xây dựng Nhà nước Campuchia dân chủ và trang bị cho quân đội của chế độ diệt
chủng Pôn Pốt xây dựng thành lực lượng gây chiến với Việt Nam. Khơng những
thế, Trung Quốc cịn có những hành động làm tổn tổn hại đến tình hữu nghị của
nhân dân hai nước như cho quân khiêu khích dọc biên giới, dựng lên sự kiện “nạn
kiều”, cắt viện trợ, rút chuyên gia, vận động Liên hợp quốc và các nước trên Thế giới
cũng làm như vậy nhằm gây khó khăn cho Việt Nam. Nghiêm trọng hơn, sáng 17-21979, quân đội Trung Quốc huy động 32 sư đoàn (tương đương 600.000 quân. Số

quân Trung Quốc tham chiến lúc này được cho nhiều hơn các đạo quân xâm lược
trước đó. (Thời điểm cao nhất, quân Mỹ huy động trên chiến trường Việt Nam gần
550.000 quân, Pháp 250.000 quân...)) mở cuộc tiến công dọc biên giới nước ta từ
Móng Cái (Quảng Ninh) đến Phong Thổ (Lai Châu) dài hơn 1400 km. Ngoài lực
lượng chiến đấu Trung Quốc, phía sau là đội quân dân binh rất đông vừa đảm bảo sức
chiến đấu cho bộ đội vừa là đội quân ô hợp để hôi của, thực hiện chiến thuật rải “biển
người”. Thực chất, đây là hành động xâm lược, vừa nhằm “làm suy yếu vị thế của Xôviết trong thế giới thứ ba”, khiến Việt Nam “phải là chư hầu trong vùng ảnh hưởng
của Trung Quốc”; vừa áp dụng kế “vây Ngụy cứu Triệu” để giải cứu quân đội Khmer
Đỏ, buộc quân đội Việt Nam phải chia lửa ở mặt trận thứ hai chứ không phải là cuộc
“Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam”, “dạy cho Việt Nam một bài học” như
lãnh đạo Trung Quốc tuyên truyền. Đây cũng là lí do cần gọi là “cuộc chiến tranh bảo
vệ Tổ quốc ở hai đầu biên giới” chứ khơng nên coi đó là hai cuộc chiến tranh tách rời
nhau (Đại tá - PGS.TS Trần Ngọc Long).
2

/>
9


Lược đồ cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc
Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, quân dân ta, trực tiếp là quân dân sáu
tỉnh biên giới phía bắc (Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai
10


Châu) đã đứng lên chiến đấu theo tinh thần “Quân thù đang giày xéo non sơng, đất
nước ta... Tồn thể đồng bào các dân tộc anh em trong cả nước, các tôn giáo, các
đảng phái, già, trẻ, gái, trai hãy phát huy truyền thống Diên Hồng, triệu người như
một, nhất tề đứng lên bảo vệ tổ quốc” (Bản tin đặc biệt trong chương trình phát
thanh 90 phút của Đài Tiếng nói Việt Nam sáng 5/3/1979). Trước cuộc chiến đấu

của quân dân ta và sự phản đối của dư luận ở trong nước cũng như trên Thế giới,
Trung Quốc tuyên bố rút quân khỏi nước ta bắt đầu từ ngày 5/3/1979 và đến ngày
18/3/1979 thì rút hết. Song trên thực tế, Trung Quốc vẫn duy trì nhiều sư đồn,
trung đồn độc lập áp sát biên giới lấn chiếm lãnh thổ, biến Việt Nam thành thao
trường, cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc kéo dài suốt 10 năm (1979-1989). Các
đơn vị chủ lực Việt Nam thay phiên nhau bổ sung quân cho chiến trường phía Bắc.
Nhiều đợt nhập ngũ diễn ra. Những chiến sĩ con dân đất Việt/ Khi Tổ quốc cần tuổi
xuân đâu tiếc/ Lưng trần, cắp súng xung phong/ Đạn xé nát vai đạn cày rách mặt/
Súng trên tay rực rửa/ Xung phong giữ đất biên thùy. Hàng nghìn thanh niên Việt
Nam tuổi 18-20 mãi nằm lại biên cương trong cuộc chiến này.

Lệnh tổng động viên cả nước bảo vệ biên giới phía Bắc của chủ tịch nước
Năm 1988, tình hình biên giới dần lắng dịu khi hai bên chủ động rút dần
quân. Ngày 26/9/1989, đơn vị cuối cùng của qn tình nguyện Việt Nam rời khỏi
Campuchia. Các “ngịi nổ” căng thẳng được tháo ra ở cả phía Bắc lẫn phía Nam
11


Đến lúc này, cuộc xung đột biên giới phái Bắc và Tây Nam nước ta đã chấm
dứt, hịa bình lập lại, sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc được bảo đảm, tình cảm
láng giềng thân thiết, đồn kết, hữu nghị, hợp tác vốn có từ lâu giữa Việt Nam –
Trung Quốc, Việt Nam – Campuchia được khôi phục với tinh thần “cùng nhau xóa
bỏ định kiến, mặc cảm, hướng tới tương lai”.
c/ Bài học kinh nghiệm
Thực tiễn cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở 2 đầu biên giới đã để lại cho
Đảng và nhân dân ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu:
- Luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng trước mọi âm mưu, diễn biến
của các thế lực, các quốc gia, dân tộc kể cả các nước láng giềng – ý thức hệ không
phải là vấn đề quan trọng nhất, lợi ích quốc gia mới là trên hết; bám sát, nắm chắc
diễn biến tình hình, có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, chủ động

ứng phó với mọi tình huống chiến lược xảy ra.
- Luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt
của Đảng đối với quân đội và sự nghiệp quốc phòng, an ninh.
- Củng cố, xây dựng nền quốc phịng tồn dân vững mạnh, xây dựng thế trận
chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng
vũ trang có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao.
- Kết hợp chặt chẽ giữa thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự với phát
triển kinh tế-xã hội, nhất là ở những địa bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo.
- Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thông tin đối ngoại nhằm tạo sự ủng hộ to lớn
của dư luận quốc tế, cô lập đối phương và bảo vệ hành động tự vệ chính nghĩa của ta.
2. Đất nước trên đường đổi mới đi lên CNXH (1986 – 2000)

12


2.1. Hoàn cảnh lịch sử mới
* Trong nước
Từ một nước nơng nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ cịn phổ biến tiến lên
CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, đó là con đường mới mẻ, đầy khó khăn,
thử thách. Trong hơn 1 thập kỉ, trải qua 2 nhiệm kì Đại hội, thực hiện hai kế hoạch
5 năm (1976 – 1980 và 1981 – 1985), Đảng và nhân dân ta vừa làm, vừa tìm tịi,
thể nghiệm con đường đi lên CNXH. Trong q trình đó, Việt Nam đã đạt được
những kết quả nhất định trên cả hai phương diện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, song
cũng gặp nhiều khó khăn. Đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng,
trước hết là khủng hoảng về kinh tế – xã hội, do nguyên nhân cơ bản là “sai lầm
nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến
lược và tổ chức thực hiện”. “Chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội quý báu... Liên Xô viện trợ

trong mười năm qua hàng chục tỉ rúp, nhưng với cơ chế tập trung quan liêu, bao
cấp, ăn không nên làm không ra, chúng ta cứ rút dần, rút mòn mỗi năm vài trăm
triệu rúp để chi cho tiêu dùng xã hội, cho bao cấp và bù lỗ, vài trăm triệu rúp khác
thì rải ra trên rất nhiều cơng trình xây dựng” (Trường Chinh)3
Thêm vào đó, cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở 2 đầu biên giới, sự câu kết
giữa kẻ thù cũ và đồng minh năm xưa đã bóp nghẹt nền kinh tế và cơ lập nước ta
trên trường quốc tế. Bộ máy tuyên truyền khổng lồ cùng những thủ đoạn tinh vi
của hai nước lớn (Mĩ, Trung Quốc) đã làm dấy lên làn sóng xuyên tạc sự cứu giúp
người dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng Khmer Đỏ, đẩy Việt Nam rơi vào
tình thế bị cơ lập trước cộng đồng quốc tế. Tình trạng bị bao vây cấm vận đã đặt
đất nước đứng trước một thách thức hết sức hiểm nghèo.4
* Thế giới
Thập niên 80 của thế kỉ XX đã chứng kiến những thay đổi lớn của tình hình
Thế giới. Đó là tác động của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và sự xuất hiện của
3
4

/>Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Việt Nam 30 năm đôi mới: Thành tựu, bài học và triển vọng”, ĐH KHXH và NV, tr.172

13


xu thế tồn cầu hóa, chiến tranh lạnh đang đi vào hồi kết, xu thế đối thoại, hợp tác
trong cùng tồn tại hịa bình ngày càng trở nên phổ biến… mở ra thời cơ đồng thời
đặt ra thách thức cho các quốc gia dân tộc trong thời kì hội nhập. Cuộc khủng
hoảng tồn diện và trầm trọng của Đơng Âu và Liên Xô; thành công bước đầu của
công cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc… đã đưa ra những thực tế nhãn tiền
đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới.
Như vậy, lúc này “đổi mới là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có tầm quan trọng
sống cịn. u cầu đó vừa là địi hỏi bên trong của nước ta, vừa phù hợp với xu thế

của thời đại....”. “Chỉ đổi mới thì mới thấy cái đúng và thấy hết sự thật, thấy
những nhân tố mới để phát huy, những sai lầm để sửa chữa”. Từ tư tưởng đó,
Tổng bí thư Trường Chinh đã “đặt nền móng cho cơng cuộc đổi mới. Ơng đã cùng
với Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta hình thành tư duy đổi mới
và xác lập đường lối đổi mới toàn diện tại Đại hội lần thứ VI của Đảng” (PGS.TS
Nguyễn Trọng Phúc)5. Hồi ký của giáo sư triết học Trần Nhâm, người thư ký riêng
(nay gọi là trợ lý) của TBT Trường Chinh, đồng thời là người tham gia trong tổ
nghiên cứu đặc biệt phục vụ đề án đổi mới do ông Trường Chinh trực tiếp chỉ đạo
đã nhận xét: “Trong một thời điểm bước ngoặt, tất yếu sẽ xuất hiện các nhân vật
lịch sử có chí lớn, có trí tuệ hơn người để giải quyết các vấn đề trọng đại mà cuộc
sống đặt ra. Trường Chinh chính là con người như thế...”6.

2.2. Đường lối đổi mới của Đảng
Đường lối đổi mới của Đảng được đề ra từ Đại hội VI (12/1986), được bổ
sung và phát triển qua các Đại hội tiếp theo (Đại hội VII (6 /1991), Đại hội VIII
(6/1996), Đại hội IX (4/2001), Đại hội X (4/2006), Đại hội XI (4-2011).

5

/>Trường Chinh, một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam - NXB Chính trị QG;
HN.2012-trang 432
6

14


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
Quan điểm đổi mới:
+ Đổi mới đất nước đi lên CNXH không phải là thay đổi mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội, mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan

điểm đúng đắn về CNXH, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.
+ Đổi mới phải toàn diện và đồng bộ, từ kinh tế và chính trị đến tổ chức, tư
tưởng, văn hố.
+ Đổi mới kinh tế phải đi đơi với đổi mới về chính trị, lấy đổi mới kinh tế
làm trung tâm.
Nội dung đường lối đổi mới
+ Mục tiêu: Dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; thực
hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “xây lại dựng đất nước ta đàng hoàng
hơn, to đẹp hơn”, “xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh”.
15


+ Nhiệm vụ: Trên cơ sở nâng cao nhận thức về đặc điểm thời kì quá độ tiến
lên CNXH ở nước ta là cả một quá trình lịch sử lâu dài, khó khăn, trải qua nhiều
chặng, Đại hội VI của Đảng đề “nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát” của chặng
đường đầu tiên là “ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng
những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa trong chặng đường
tiếp theo”.

+ Về kinh tế:
Đảng chủ trương xố bỏ cơ chế quản lí kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp,
hình thành cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Quản lí nền kinh tế khơng
phải bằng những mệnh lệnh hành chính, mà bằng những biện pháp kinh tế, khuyến
khích lợi ích vật chất.
Xây dựng nền kinh tế quốc dân với cơ cấu nhiều ngành, nghề; nhiều quy mơ,
trình độ cơng nghệ và gồm 2 bộ phận chủ yếu công – nông nghiệp kết hợp chặt chẽ

16



với nhau. Trong công nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu; xây dựng công nghiệp nặng với bước đi thích hợp, trước hết là các
ngành trực tiếp phục vụ nông nghiệp. Trong nông nghiệp, xây dựng nền nơng
nghiệp tồn diện…
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa với một cơ cấu hợp lí, một nền kinh tế phát triển theo những quy luật của
kinh tế thị trường, đồng thời chịu sự chi phối bởi bản chất và những nguyên tắc của
chủ nghĩa xã hội. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp, quyền bình đẳng của
các thành phần kinh tế; khuyến khích mọi thành phần kinh tế sản xuất, kinh doanh.
Kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo.
Thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập, mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, mở rộng sự phân công lao động và hợp tác kinh tế quốc tế, tích cực khai
thác nguồn vốn, cơng nghệ và thị trường.
+ Về chính trị:
Đảng chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà
nước của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh cơng nhân, nơng dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân
dân, coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của cơng cuộc đổi mới.
Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, tập hợp mọi lực lượng dân tộc,
phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá, vì
hồ bình, hữu nghị và hợp tác. Chủ động hội nhập quốc tế. Việt Nam là bạn, là đối
tác tin cậy của tất cả các nước trên thế giới.
 Nhận xét:
Đường lối đổi mới của Đại hội VI là kết quả của sự khảo nghiệm thực tiễn
sinh động và sự đổi mới tư duy lý luận, trước hết là tư duy kinh tế. Đổi mới nhằm
17



nhận thức đúng đắn thực tiễn của đất nước, thật sự tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng vội, đề ra đường
lối, chính sách thiết thực, có hiệu quả. Đổi mới là nhận thức đúng đắn hơn những
luận điểm của C.Mác, Ph.Ăng-ghen, V.I.Lê-nin và Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, toàn diện, thể hiện bước
đột phá trong nhận thức, tư tưởng, cách làm của nước ta lúc bấy giờ để đưa đất
nước thốt khỏi khủng hoảng, xây dựng thành cơng CNXH. “Đổi mới mang tầm
vóc và ý nghĩa cách mạng, là q trình cải biến sâu sắc, tồn diện, triệt để, là sự
nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, tồn dân vì mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh".
2.3. Q trình thực hiện đường lối đổi mới (trong thời gian 1986 – 2000)
2.3.1. Thành tựu bước đầu của sự nghiệp đổi mới 1986 – 1990
a. Về kinh tế:
- Việc thực hiện Ba chương trình kinh tế lớn (Lương thực – thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu) trong 10 năm 1986 – 1996 đạt được những kết quả
quan trọng:
+ Về lương thực – thực phẩm, từ chỗ thiếu ăn triền miên (1988 còn phải
nhập 45 vạn tấn gạo), đến năm 1990, Việt Nam đã vươn lên đáp ứng nhu cầu trong
nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống nhân dân. Sản
xuất lương thực năm 1988 đạt 19,5 triệu tấn, vượt so với 1987 là 2 triệu tấn; năm
1989 đạt 21,4 triệu tấn. Năm 1989, lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu 1,5 triệu tấn
gạo, vươn lên hàng những nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới. Đến năm 2000,
Việt Nam có quan hệ mậu dịch với trên 100 nước và vùng lãnh thổ. Tổng số vốn
đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng. Các doanh nghiệp
Việt Nam cũng từng bước mở rộng đầu tư ra các nước trên thế giới.

18



+ Hàng tiêu dùng trên thị trường dồi dào, đa dạng về mẫu mã, chất lượng
ngày càng nâng cao, lưu thông thuận lợi. Các cơ sở sản xuất đã gắn chặt với thị
trường, một số mặt hàng sản xuất trong nước đã hoàn toàn thay thế hàng nhập
khẩu. Phần bao cấp của Nhà nước về vốn, giá, vật tư, tiền lương, … giảm đáng kể.
+ Kinh tế đối ngoại ngày càng mở rộng hơn trước về quy mơ, hình thức. Từ
1986 đến 1989 hàng xuất khẩu tăng gấp 3 lần, có thêm nhiều mặt hàng có giá trị
xuất khẩu lớn như gạo, dầu thô và một số mặt hàng mới. Nhập khẩu giảm đáng kể,
tiến gần đến mức cân bằng giữa xuất khẩu và nhập khẩu
+ Kiềm chế được một bước đà lạm phát. Chỉ số tăng giá bình quân trên thị
trường từ 20% (1986) cịn 4,4% (1990)
b. Về chính trị – xã hội
- Bộ máy Nhà nước các cấp từ TW đến địa phương được sắp xếp lại. Nội
dung và phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị có một số
đổi mới theo hướng phát huy dân chủ nội bộ và quyền làm chủ của nhân dân, tăng
cường quyền lực của các cơ quan dân cử.
- Tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng – an ninh được tăng
cường. Bước đầu thực hiện dân chủ hố và cơng khai hoá các hoạt động xã hội.
- Đã giải quyết ngày càng tốt hơn các vấn đề xã hội như lao động và việc
làm, xố đói giảm nghèo, phát triển sự nghiệp văn hố, y tế, giáo dục, khoa học –
cơng nghệ, thể dục thể thao… Tỉ lệ đói nghèo trên cả nước 1995 là 20%, năm 2000
còn 10% đến 2005 chỉ còn 7%.
- Mở rộng quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận; bình thường hố và
phát triển quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, Hoa Kì…; chủ động hội nhập quốc
tế, tham gia các tổ chức quốc tế: ASEAN, APEC, WTO… Việt Nam tham gia tích
cực vào các hoạt động của cộng đồng quốc tế. Đến năm 2000, Việt Nam có quan hệ
với 140 nước trên thế giới, quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ.

19



* Khó khăn, yếu kém: Nền kinh tế cịn mất cân đối lớn, lạm phát vẫn ở mức
cao, lao động thiếu việc làm gia tăng, hiệu quả kinh tế thấp, chưa có tích lũy nội bộ
từ nền kinh tế. Đời sống của bộ phận sống chủ yếu bằng tiền lương hoặc trợ cấp xã
hội và của một bộ phận nông dân bị giảm sút. Sự nghiệp văn hóa có những mặt
xuống cấp, tình trạng tham nhũng, nhận hối lộ, mất dân chủ, bất công xã hội,…
chưa được khắc phục.
2.3.2. Thực hiện kế hoạch 5 năm 1991 – 1995
a. Đại hội VII (6/1991): tiếp tục sự nghiệp đổi mới.
Đại hội đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng từ
Đại hội VI, đề ra chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát huy những thành tựu;
khắc phục các khó khăn, yếu kém và điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi
mới để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên. Đại hội cũng thông qua “Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH” và “Chiến lược ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”.
Đại hội đề ra nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1991 – 1995: đẩy lùi
và kiểm soát được lạm phát. Ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất xã
hội. Ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân. Bắt đầu có tích lũy từ
nội bộ nền kinh tế. Để thực hiện mục tiêu trên, cần phát huy sức mạnh các thành
phần kinh tế, đẩy mạnh Ba chương trình kinh tế với nội dung cao hơn và từng bước
xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo u cầu cơng nghiệp hóa.
b. Tiến bộ và hạn chế của sự nghiệp đổi mới
* Kế hoạch 5 năm (1991 - 1995) đạt nhiều thành tựu và tiến bộ
- Kinh tế tăng trưởng nhanh, GDP tăng bình quân 8,2%/năm, công nghiệp
tăng 13,3%/năm, nông nghiệp là 4,5%/năm.
- Lạm phát từng bước bị đẩy lùi, giảm còn 12,7% (1995). Tỷ lệ thiếu hụt
ngân sách được kiềm chế.
- Tỉ trọng xuất khẩu tăng. Quan hệ mậu dịch mở rộng với hơn 100 nước.
20



- Vốn đầu tư nước ngồi tăng nhanh, bình qn 50%/năm. Cuối 1995, vốn
đăng kí cho các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 19 tỉ USD.
- Hoạt động khoa học và cơng nghệ gắn bó với nhu cầu phát triển kinh tế –
xã hội. Công tác giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới.
- Thu nhập và đời sống nhân dân được cải thiện
- Chính trị xã hội ổn định, an ninh quốc phòng được củng cố.
- Quan hệ đối ngoại mở rộng, phá thế bị bao vây, tham gia tích cực vào hoạt
động của cộng đồng quốc tế, có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước. Ngày
11/7/1995, Việt Nam và Hoa Kì thiết lập quan hệ ngoại giao. Ngày 28/7/1995, Việt
Nam gia nhập ASEAN.
* Khó khăn và hạn chế Kế hoạch 5 năm (1991 - 1995): Lực lượng sản
xuất còn nhỏ bé, cơ sở vật chất - kỹ thuật lạc hậu, trình độ khoa học và cơng nghệ
chuyển biến chậm... Tham nhũng, lãng phí, bn lậu...chưa được ngăn chặn… Sự
phân hóa giàu nghèo tăng nhanh, đời sống nhân dân cịn khó khăn.
2.3.3. Thực hiện kế hoạch 5 năm (1996 - 2000)
a. Đại hội VIII (6/1996) đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đại hội VIII đã tổng kết 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đề ra chủ
trương, nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Đại hội khẳng định tiếp tục nắm vững hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, nhấn mạnh: “Nước ta đã
chuyển sang thời kì phát triển mới, thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa”. Trong 5 năm 1996 – 2000 nước ta sẽ đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách
toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần…
Phấn đấu đạt và vượt mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền
vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội. Cải thiện đời sống nhân
dân. Nâng cao tích lũy nội bộ từ nền kinh tế.
b. Chuyển biến tiến bộ và khó khăn, hạn chế của công cuộc đổi mới.

21



* Về kinh tế
- GDP tăng bình qn 7%/năm, cơng nghiệp 13,5%/năm, nơng nghiệp là
5,7%. Trong đó, nơng nghiệp, phát triển liên tục, góp phần quan trọng vào mức
tăng trưởng chung và giữ vững ổn định kinh tế - xã hội (lương thực bình quân đầu
người năm 2000 là 444 kg).
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Xuất, nhập khẩu khơng ngừng tăng lên. Ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực là
gạo (thứ hai thế giới), cà phê (thứ ba thế giới) và thủy sản.
- Doanh nghiệp Việt Nam mở rộng đầu tư ra nước ngồi. Đến năm 2000 có
trên 40 dự án đầu tư vào 12 nước và vùng lãnh thổ.
- Năm 2000, nước ta có quan hệ thương mại với hơn 140 nước, quan hệ đầu
tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ, thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài
* Về giáo dục: năm 2000 phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ, tiếp tục
phổ cập THCS
- Số người có việc làm tăng 1, 2 triệu người/năm.
=> Nhận xét ưu điểm, hạn chế:
- Ưu điểm: Tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt đất nước
và cuộc sống nhân dân; củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ XHCN; nâng
cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.
- Hạn chế: Kinh tế phát triển chưa vững chắc, năng suất, hiệu quả và sức
cạnh tranh thấp. Kinh tế Nhà nước chưa tương xứng với vai trò chủ đạo, kinh tế tập
thế chưa mạnh. Hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới.
Tỉ lệ thất nghiệp cao, đời sống nhân dân, nhất là nông dân, ở một số vùng còn thấp.
Đảng và nhân dân ta phải tiếp tục phấn đấu vươn tới đỉnh cao mới theo con
đường XHCN vì dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.

22



2.3.4 Nhận xét, hạn chế, bài học kinh nghiệm
* Nhận xét chung
- Những thành tựu của 15 năm đổi mới (1986 – 2000) chứng tỏ đường lối
đổi mới của Đảng là đúng đắn, bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản là phù
hợp, được đông đảo quần chúng ủng hộ.
- Việc mở rộng quan hệ quốc tế (trở thành thành viên của hơn 70 tổ chức
khu vực và quốc tế và hiện có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ), chủ
23


động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững mơi trường hồ bình vừa góp
phần vơ cùng quan trọng vào việc khẳng định vị thế mới của đất nước trên trường
quốc tế vừa giúp ta tranh thủ nguồn lực bên ngoài, tăng cường tiềm lực đất nước,
nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội; chuyển tới bạn bè
năm châu về hình ảnh một dân tộc Việt Nam u chuộng hịa bình, một đất nước
Việt Nam đổi mới, năng động và liên tục phát triển, tích cực phấn đấu vì hịa bình,
tiến bộ xã hội và những giá trị chung của nhân loại.
- Hạn chế: Bên cạnh những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, cơng cuộc đổi
mới tồn diện đất nước còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, khuyết điểm
cần tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững:
+ Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ
một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung
cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
cịn có một số vấn đề phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ.
+ Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu
và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô cơ bản
ổn định nhưng chưa vững chắc, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi
chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và

mơi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã
hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; cịn tiềm ẩn những nhân
tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận
nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới.
Năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
+ Nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt.

24


+ Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của
Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ
"diễn biến hịa bình" của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới tinh vi và
thâm độc chống phá nước ta và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".
Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.
=>Những hạn chế, khuyết điểm trên đây là do cả nguyên nhân khách quan
và nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
Về khách quan: Đổi mới là một sự nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài, rất khó
khăn, phức tạp, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Tình hình thế giới và khu vực có
những mặt tác động khơng thuận lợi; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù
địch và cơ hội chính trị.
Về chủ quan: Cơng tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, chưa được quan
tâm đúng mức, đổi mới tư duy lý luận chưa kiên quyết, mạnh mẽ, có mặt cịn lạc
hậu, hạn chế so với chuyển biến nhanh của thực tiễn. Dự báo tình hình có lúc, có
việc làm cịn chậm và thiếu chính xác làm ảnh hưởng đến chất lượng các quyết sách,
chủ trương, đường lối của Đảng. Nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn cịn
hạn chế. Đổi mới chưa tồn diện, thiếu đồng bộ, lúng túng trên một số lĩnh vực.
Nhận thức, phương pháp và cách thức lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện
chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước

cịn nhiều hạn chế. Quyền hạn và chế độ trách nhiệm, nhất là quyền hạn và trách
nhiệm của người đứng đầu không được quy định rõ ràng; thiếu cơ chế để kiểm sốt
quyền lực. Nhiều chủ trương, nghị quyết đúng khơng được tích cực triển khai thực
hiện, kết quả đạt thấp. Một số chính sách khơng phù hợp thực tiễn, chậm được sửa
đổi, bổ sung.
Việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt các cấp về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa được coi
trọng thường xuyên, đúng mức, hiệu quả thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa

25


×