Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tểu luận tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.4 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG CHÍNH
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội :
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
a. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
b. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan
c. Một số đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a. Mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
b. Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2. Giá trị to lớn trong quan điểm Hồ Chí Minh: "XHCN là xã hội tơn trọng
con người, ln xem những lợi ích của cá nhân là đúng đắn và bảo đảm
cho nó được thỏa mãn", vận dụng trong giai đoạn hiện nay
2.1. Chủ nghĩa xã hội ln đảm bảo tính cơng bằng và hợp lý trong các
quan hệ xã hội
2.2. Chủ nghĩa xã hội ln xem những lợi ích của cá nhân là đúng đắn
và bảo đảm cho nó được thỏa mãn
2.3. Liên hệ trong giai đoạn chống Covid - 19
C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO


A. MỞ ĐẦU :
Năm 2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam
đã khẳng định : “ Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là
tài sản tinh thần vơ cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường
cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi ”


Môn học tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ nghiên cứu tồn bộ những quan
điểm Hồ Chí Minh thể hiện trong di sản của Người. Mà cịn nghiên cứu q trình hệ
thống quan điểm của Hồ Chí Minh vận động trong thực tiễn hay cịn gọi là q trình
“hiện thực hóa” hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh trong sự phát triển của dân tộc
Việt Nam. Đây là một hệ thống quan điểm sâu sắc và toàn diện về những vấn đề cơ
bản của cách mạng nước ta. Hệ thống quan điểm đó phản ánh trong những bài nói, bài
viết, trong hoạt động cách mạng và trong cuộc sống hàng ngày của Người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đưa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đến
thắng lợi và bắt đầu xây dựng một xã hội mới trên đất nước ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh
là nền tảng và kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam trong thời đại hiện nay. Lần đầu
tiên tư tưởng định hướng, soi đường, chỉ đạo sự phát triển của cách mạng Việt Nam và
dân tộc Việt Nam là của chính người Việt Nam. Tư tưởng soi đường cho Đảng Cộng
sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam trên con đường thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Tư tưởng còn là chỗ dựa vững chắc để
Đảng vạch ra đường lối cách mạng đứng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân Việt Nam đi tới thắng lợi. Tư tưởng Hồ Chí Minh trường tồn, bất
diệt cùng với sự phát triển vững mạnh của dân tộc ta. Ngoài ra, tư tưởng Hồ Chí Minh
cịn có giá trị to lớn đối với sự phát triển tiến bộ của nhân loại, mở ra con đường giải
phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp và giải phóng con người cho các dân tộc
thuộc địa. Tư tưởng góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ,
hịa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.
Trong đó, tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người. Đặc biệt là
quan điểm “ Xã hội chủ nghĩa là xã hội tôn trọng con người, ln xem những lợi ích
của cá nhân là đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn ” để lại ấn tượng sâu sắc
trong quá trình học của em. Vì vậy, em quyết định chọn đề tài này để làm bài tiểu luận
hồn thành mơn học mặc dù có rất nhiều đề tài hay và bổ ích khác.


B. NỘI DUNG CHÍNH :

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội :
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội :
a. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội :
Trong các tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh khơng để lại một định nghĩa cố
định về chủ nghĩa xã hội. Với cách diễn đạt dung dị, dễ hiểu, dễ nhớ, khái niệm “chủ
nghĩa xã hội” được Người tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau bằng cách chỉ ra đặc
trưng ở một lĩnh vực nào đó như kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học - kĩ thuật, động
lực, nguồn lực,...của chủ nghĩa xã hội, song tất cả đều hướng đến mục tiêu cơ bản của
nó mà theo Người : “ Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm
làm cho mọi người có cơng ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc ”, là
làm sao cho dân giàu nước mạnh.
Hồ Chí Minh viết : “ Trong xã hội có giai cấp bóc lột thống trị, chỉ có lợi ích cá
nhân của một số rất ít người thuộc giai cấp thống trị là được thỏa mãn, cịn lại lợi ích
cá nhân của quần chúng lao động thì bị giày xéo. Trái lại, trong chế độ xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, thì mỗi người là
một bộ phận của tập thể, giữ một vị trí nhất định và đóng góp một phần cơng lao trong
xã hội. Cho nên lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích tập thể, là một bộ phận của lợi ích
tập thể. Lợi ích chung của tập thể được đảm bảo thì lợi ích riêng của cá nhân mới có
điều kiện được thỏa mãn ”.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là xã hội thuộc giai đoạn đầu của
chủ nghĩa cộng sản - một xã hội khơng cịn áp bức, bóc lột, do nhân dân lao động làm
chủ, trong đó con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi cá nhân và tập thể
vừa thống nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.
b. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan :
Hồ Chí Minh đã tiếp thu vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về sự tất yếu
của xã hội lồi người theo các hình thái kinh tế xã hội. Từ đây, Người khẳng định tiến
lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở nước ta sau khi giành được độc lập
theo con đường cách mạng vơ sản.
Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí
Minh đã chọn cho dân tộc Việt Nam là : Nước nhà độc lập, nhân dân được hưởng cuộc

sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Nghĩa là sau khi giành được độc lập dân tộc, nhân dân
ta sẽ xây dựng một xã hội mới, xã hội chủ nghĩa.
Theo Người : “ Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi
người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết,
ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hịa bình, hạnh


phúc… nói tóm lại là nền cộng hịa chân chính ”. Hay : “ Chủ nghĩa xã hội như mặt
trời mới mọc, còn chủ nghĩa đế quốc như mặt trời đã về tây ”.
Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn, theo Hồ Chí Minh, con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nhân loại nói chung, của Việt Nam nói riêng là tất yếu của lịch sử.
c. Một số đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội :
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Theo Hồ Chí Minh, chủ
nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản nên chủ nghĩa xã hội
phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản, đấy là nền
kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ.
Lực lượng sản xuất hiện đại trong chủ nghĩa xã hội biểu hiện : Công cụ lao động,
phương tiện lao động trong quá trình sản xuất “đã phát triển dần đến máy móc, sức
điện, sức nguyên tử”. Quan hệ sản xuất trong chủ nghĩa xã hội được Hồ Chí Minh diễn
đạt là : Lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng,... làm của chung; là tư liệu sản xuất thuộc về
nhân dân. Đây là tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ cơng hữu tư liệu sản xuất cơ bản
trong chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội thực hiện nền chuyên chính dân chủ nhân dân dưới sự
lãnh đạo của đảng cộng sản. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ : Để tiến tới chủ nghĩa xã hội, trong giai đoạn thứ nhất của cách
mạng vô sản, giai cấp vơ sản phải thực hiện được nền chun chính của mình. Hồ Chí
Minh cho rằng, chế độ nào cũng có chuyên chính. Vấn đề là ai chuyên chính ai? Dưới
chế độ phong kiến, tư bản, chuyên chính là số ít người chuyên chính với đại đa số
nhân dân. Dưới chế độ dân chủ nhân dân, chuyên chính là đại đa số nhân dân chuyên

chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ dân chủ
của nhân dân. Trong nền chun chính đó, cần phải có sự lãnh đạo của một đảng cách
mạng chân chính của giai cấp cơng nhân. tồn tâm tồn ý phục vụ nhân dân. Như vậy,
đặt trong mối quan hệ với các chế độ xã hội khác, chuyên chính dân chủ nhân dân dưới
sự lãnh đạo của đảng cộng sản là một trong những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, chủ nghĩa xã hội có trình độ phát triển cao về văn hóa và đạo đức. Sự
phát triển cao về văn hóa và đạo đức của chủ nghĩa xã hội thể hiện trước hết ở các
quan hệ xã hội. Đấy là xã hội khơng cịn hiện tượng người bóc lột người; con người
được tơn trọng, được đảm bảo đối xử cơng bằng, bình đẳng và các dân tộc đồn kết,
gắn bó với nhau. Hồ Chí Minh cho rằng : Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới “ Chú ý xem
xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và đảm bảo cho nó được thỏa mãn ”; “ … chỉ ở
trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống
riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình ”.
Chủ nghĩa xã hội là cơ sở, là tiền đề để tiến tới chế độ xã hội hịa bình, đồn
kết, ấm no, tự do, hạnh phúc, bình đẳng, bác ái, việc làm cho mọi người và vì mọi
người; khơng cịn phân biệt chủng tộc, khơng cịn vách tường dài ngăn cản những


người lao động hiểu nhau và thương yêu lẫn nhau. Chủ nghĩa xã hội bảo đảm tính
cơng bằng và hợp lý trong các quan hệ xã hội. Đấy là xã hội đem lại quyền bình đẳng
trước pháp luật cho mọi cơng dân; mọi cộng đồng người đồn kết chặt chẽ trên cơ sở
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ; ai cũng phải lao động và ai cũng có quyền lao
động, ai cũng được hưởng thành quả lao động của mình trên ngun tắc làm nhiều thì
hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, khơng làm thì khơng hưởng, tất nhiên là trừ những
người chưa có khả năng lao động hoặc khơng cịn khả năng lao động.
Thứ nhất, về chính trị : Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có chế độ dân chủ.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Thứ ba, chủ nghĩa xã hội thực hiện nền chuyên chính dân chủ nhân dân dưới sự
lãnh đạo của đảng cộng sản.

Thứ tư, chủ nghĩa xã hội có trình độ phát triển cao về văn hóa và đạo đức.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam :
a. Mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam :
Về chế độ chính trị, phải đạt mục tiêu do nhân dân làm chủ. Đối với chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định : “ Chế độ ta là chế độ dân chủ.
Tức là nhân dân làm chủ ”, “ Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là
chủ ”. Khi khẳng định “dân làm chủ” và “dân là chủ”, Hồ Chí Minh đã khẳng định
quyền lợi và quyền hạn, trách nhiệm và địa vị của nhân dân.
Về kinh tế, phải đạt mục tiêu có nền kinh tế phát triển cao gắn bó mật thiết với
mục tiêu về chính trị. Khái quát về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Hồ Chí
Minh chỉ rõ rằng, đây là nền kinh tế phát triển cao “ với công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến ”, là “ một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ
sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể ”. Mục tiêu về kinh tế phải gắn bó chặt chẽ với mục
tiêu về chính trị. Người viết : “ Chế độ kinh tế và xã hội của chúng ta nhằm thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng
phát triển …”. Theo Người, kinh tế quốc doanh lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và kinh
tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động nên Nhà nước phải bảo
đảm ưu tiên cho kinh tế quốc doanh phát triển và phải đặc biệt khuyến khích, hướng
dẫn, giúp đỡ kinh tế hợp tác xã.
Về văn hóa, phải mang tính dân tộc, khoa học, đại chúng và tiếp thu tinh hoa
văn hóa của nhân loại. Hồ Chí Minh cho rằng, mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị
và kinh tế là mối quan hệ biện chứng. Chế độ chính trị và kinh tế của xã hội là nền
tảng và quyết định tính chất của văn hóa; cịn văn hóa góp phần thực hiện mục tiêu của
chính trị và kinh tế. Về vai trị của văn hóa, Người khẳng định : Trình độ văn hóa của
nhân dân được nâng cao sẽ góp phần phát triển dân chủ, góp phần xây dựng nước ta


thành một nước hịa bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh; nền văn hóa phát
triển là điều kiện cho nhân dân tiến bộ.
Theo Người, “ để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa

phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức ”, “ Phải triệt để tẩy trừ mọi
di tích thuộc địa và ảnh hưởng nơ dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển
những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa
tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học
và đại chúng ”.
Về xã hội, phải bảo đảm dân chủ, công bằng, văn minh. Chế độ xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là chế độ “dân làm chủ”, “dân là chủ” nên theo Hồ Chí
Minh, với tư cách làm chủ, là chủ của đất nước, nhân dân phải làm tròn nhiệm vụ của
người chủ để xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó mọi người đều có quyền làm việc;
có quyền nghỉ ngơi; có quyền học tập; có quyền tự do thân thể; có quyền tự do ngơn
luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình; có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc khơng
theo một tơn giáo nào; có quyền bầu cử, ứng cử. Mọi cơng dân đều bình đẳng trước
pháp luật. Nhà nước đảm bảo quyền tự do dân chủ cho công dân, nhưng nghiêm cấm
lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân
dân.
Đấy chính là xã hội tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân
đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn để mỗi người có điều kiện cải thiện đời
sống riêng của mình trong sự hài hịa với đời sống chung, lợi ích chung của tập thể.
b. Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam :
Hồ Chí Minh không xem nhẹ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế song Người
khẳng định động lực quan trọng nhất, giữ vai trò quyết định là nội lực dân tộc, là nhân
tố con người Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, ở Việt Nam, chủ nghĩa xã hội là cơng trình
tập thể của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong kháng chiến, nhân dân đã
anh dũng chiến đấu, hy sinh xương máu và đã đánh thắng chế độ thực dân, phong kiến.
Ngày nay, để xây dựng xã hội mới, dù còn nhiều gian khổ nhưng chắc chắn nhân dân
ta sẽ đánh thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công cộng
rất vĩ đại và cũng rất khó khăn nhưng tồn Đảng, tồn dân quyết tâm làm thì nhất định
làm được.
Động lực bên trong gồm có những động lực sau. Động lực con người, theo
Người động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động,

nịng cốt là cơng - nơng và trí thức. Người cho rằng : “ Truyền thống yêu nước của dân
tộc, sự đoàn kết cộng đồng, sức lao động sáng tạo của nhân dân, đó là sức mạnh tổng
hợp tạo thành động lực quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội ”. Người đặc biệt quan
tâm đến hiệu lực tổ chức, bộ máy, tính nghiêm minh của kỷ luật, pháp luật, sự trong
sạch, liêm khiết của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp.


Về động lực kinh tế, Người rất coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản
xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà đều
trở nên giàu có, gắn liền kinh tế với kỹ thuật, kinh tế với xã hội.
Cùng với động lực kinh tế, Người cũng rất quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo
dục, coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội. Và sự lãnh đạo
của Đảng, theo Người đây là yếu tố quyết định đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã
hội - đây là hạt nhân trong hệ động lực của chủ nghĩa xã hội.
Ngồi ra, cịn có những động lực ở bên ngồi tác động. Phải có sự giúp đỡ của
bạn bè quốc tế, của nhân dân lao động tiên tiến trên thế giới. Phải sử dụng tốt các
thành tựu của khoa học - kỹ thuật, cũng như những thành tựu văn hóa của nhân loại.
Hồ Chí Minh không xem nhẹ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế song Người khẳng
định động lực quan trọng nhất, giữ vai trò quyết định là nội lực dân tộc, là nhân tố con
người Việt Nam.
Ngày nay, để xây dựng xã hội mới, dù còn nhiều gian khổ nhưng chắc chắn
nhân dân ta sẽ đánh thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Công cuộc ấy rất vĩ đại và cũng rất khó khăn nhưng tồn Đảng, tồn dân quyết tâm
làm thì nhất định làm được.
2. Giá trị to lớn trong quan điểm Hồ Chí Minh: "XHCN là xã hội tôn trọng
con người, luôn xem những lợi ích của cá nhân là đúng đắn và bảo đảm
cho nó được thỏa mãn", vận dụng trong giai đoạn hiện nay :
2.1. Chủ nghĩa xã hội ln đảm bảo tính công bằng và hợp lý trong các
quan hệ xã hội :
Theo C. Mác, công bằng xã hội chỉ thực sự có được trong chủ nghĩa xã hội, bởi

vì khi đó chế độ tư hữu mới bị thủ tiêu, chế độ cơng hữu mới được thiết lập. Cịn trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, cơng bằng xã hội khơng chỉ là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
mà còn là một biện pháp căn bản để hiện thực hóa những lý tưởng cao cả mà chủ nghĩa
xã hội hướng tới.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều cách diễn đạt khác nhau về đặc trưng
bản chất của chủ nghĩa xã hội, trong đó có : “ Chủ nghĩa xã hội là cơng bằng hợp lý:
Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm thì khơng được hưởng ” và
“Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom ”. Đây cũng
chính là quan niệm về cơng bằng trong chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh. Quan niệm
của Người hoàn toàn khoa học, đúng đắn, phù hợp thực tế, bởi lẽ, bản chất của công
bằng là cống hiến và hưởng thụ phải ngang nhau. Nhưng, cơng bằng trong chủ nghĩa
xã hội theo Hồ Chí Minh còn là hợp lý, nhân văn ở chỗ: những người già yếu hoặc tàn
tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ. Cách tiếp cận này rất đúng đắn và phù hợp truyền thống
văn hóa dân tộc, bởi bản chất của chủ nghĩa xã hội là vì con người, chăm lo cho con
người, nhất là những người già yếu, tàn tật, không may mắn trong xã hội. Chủ nghĩa


xã hội là xã hội nhân văn, nhân đạo, không bỏ rơi con người nói chung. Có thể khẳng
định chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại cơng bằng và bình đẳng xã hội cho tất cả mọi
người.
Theo quan điểm của Đảng ta, sự ngang bằng, dàn đều theo kiểu “bình qn chủ
nghĩa” khơng phải là cơng bằng xã hội. Bản chất của công bằng xã hội là bảo đảm sự
“ngang nhau” giữa người với người trong mối quan hệ giữa cống hiến với hưởng thụ,
quyền lợi với nghĩa vụ, vinh dự với trách nhiệm. Đảng ta luôn nhấn mạnh việc thực
hiện công bằng xã hội ở Việt Nam là hướng tới mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, là một
động lực quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và là một
yêu cầu bức thiết của công cuộc đổi mới, chấn hưng đất nước.
Đứng vững trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nghiên cứu, xem xét khách quan, toàn diện
các chiều cạnh của vấn đề và đi đến khẳng định rõ ràng, nhất quán rằng: “ Chúng ta

cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ khơng phải vì lợi
nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về
kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách
giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương
trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất
cơng, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm.
Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hịa với thiên nhiên để bảo đảm mơi trường
sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác,
chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và huỷ hoại môi trường. Và chúng
ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và
phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ khơng phải chỉ cho một thiểu số giàu có ”. Đó là con
đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên
định, kiên trì theo đuổi.
Cơng bằng xã hội là tạo cơ hội bình đẳng cho mọi thành viên của xã hội có thể
phát huy tối đa khả năng, sở trường trong tham gia, đóng góp vào sự phát triển của xã
hội và được hưởng quyền lợi tương xứng của họ. Một khi cơng bằng xã hội được thực
hiện đầy đủ thì lợi ích chính đáng của mỗi người sẽ được bảo đảm. Và từ đó trở thành
động lực để mọi người tích cực cống hiến cho xã hội một cách tự nguyện, tự giác.
Đảng ta đã khẳng định: “ Chính sách xã hội đúng đắn, cơng bằng vì con người là động
lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc ”.
Trước hết, Đảng ta đã không ngừng tổng kết thực tiễn, vận dụng sáng tạo những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng nên một mơ
hình chủ nghĩa xã hội đặc thù, gắn liền với những điều kiện cụ thể của Việt Nam, phù
hợp với bối cảnh đã có nhiều thay đổi của thế giới ngày nay. Đó là một xã hội: Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no,



tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quán triệt và thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể qua các kỳ Đại hội thứ VI, VII, VIII,
IX, X, XI. Thời kỳ bắt đầu đổi mới, tại Đại hội VI, Đảng ta rút kinh nghiệm về bài học
nóng vội, chủ quan trong thực hiện công bằng xã hội trước đổi mới và khẳng định:
“Thực hiện công bằng xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta”.Cương lĩnh
năm 1991 được thông qua tại Đại hội VII, đã xác định “kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa các nhu cầu trước
mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”. Ngoài
ra Cương lĩnh cũng xác định phải xây dựng được “nền văn hóa mới, tạo ra một đời
sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến
bộ”. Đại hội VII của Đảng đã thẳng thắn nhận ra rằng, việc thực hiện chính sách xã
hội, trong đó có chính sách cơng bằng xã hội, tuy có một số tiến bộ, nhưng chưa được
quan tâm đúng với tầm quan trọng của nó và cịn thiếu sót. Đại hội VII đã đề ra chủ
trương “Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giữa
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội”. Đồng thời, Đại hội còn đề ra nhiệm vụ cụ thể
như hình thành các tổ chức của người tàn tật và vì người tàn tật, các hội từ thiện, tổ
chức việc giúp đỡ người già cô đơn và trẻ mồ côi, những người cơ nhỡ, bất hạnh trong
cuộc sống. Nhà nước dành một phần quỹ dự phòng của ngân sách để chủ động cứu
giúp những người gặp tai nạn do thiên tai. Những quan điểm và chủ trương này của
Đại hội VII trên thực tế là thực hiện theo tư tưởng Hồ Chí Minh về tiến bộ và cơng
bằng xã hội. Có thể nói, ngay từ khi tiến hành đổi mới, Đảng ta đã chủ trương gắn kết
chính sách kinh tế với chính sách xã hội nói chung, gắn tăng trưởng kinh tế với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội nói riêng.
Đại hội VIII của Đảng tiếp tục quan điểm tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến
bộ và cơng bằng xã hội và đã có những bước phát triển mới trong nhận thức. Đại hội
khẳng định “không chờ kinh tế phát triển cao rồi mới giải quyết các vấn đề xã hội, mà

ngay trong từng bước và suốt q trình phát triển, tăng trưởng kinh tế phải ln gắn
liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Công bằng xã hội không chỉ được thực hiện trong
phân phối kết quả sản xuất, mà còn được thực hiện ở khâu phân phối tư liệu sản xuất,
ở việc tạo ra những điều kiện cho mọi người phát huy tốt năng lực của mình”. Bước
phát triển mới trong nhận thức về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thể hiện ở
những nội dung sau: thứ nhất, không chờ cho kinh tế phát triển mới thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội và thứ hai, muốn thực hiện tốt cơng bằng xã hội thì phải bảo đảm
cơng bằng trong phân phối tư liệu sản xuất và công bằng về điều kiện, cơ hội. Đây là
bước phát triển quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội. Trước đây, chúng ta nhận thức đơn giản là thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội chỉ trong phân phối kết quả sản xuất. Nhưng điều quan trọng là phải tiến bộ và


công bằng trong phân phối về tư liệu sản xuất, tiến bộ và công bằng về cơ hội, điều
kiện phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Trên cơ sở đó, Đại hội VIII chủ
trương thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các
nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã
hội đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động.
Nguyên tắc phân phối này, trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hoàn toàn tiến bộ và công bằng.
Đại hội IX tiếp tục quan điểm “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”. Đại hội đã nhấn mạnh việc
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội nhằm hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã
hội.Xuất phát từ tình hình thực tế Việt Nam, Đại hội IX chủ trương “Thực hiện cơng
bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe”; “Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục,
tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội học tập”; “Thực hiện trợ cấp xã hội đối với
những người có hồn cảnh đặc biệt khơng thể tự lao động, khơng có người bảo trợ,
ni dưỡng”; “giúp đỡ có hiệu quả người được hưởng chính sách xã hội, nạn nhân
chiến tranh, thiên tai, trẻ em có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, những người tàn tật và

những người già không nơi nương tựa”. Như vậy, Đại hội IX của Đảng đã có những
bước phát triển rất cụ thể về chủ trương gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội trong một số lĩnh vực bức xúc, nhạy cảm của xã hội. Quan điểm
này vừa gắn với thực tiễn nước ta, vừa thể hiện bản chất XHCN, vừa thể hiện bản chất
của truyền thống nhân đạo, vị tha, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của dân tộc ta.
Đại hội X cụ thể hóa hơn: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn
hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người”.
Đại hội X nhấn mạnh việc “gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ” để tạo
động lực mạnh mẽ hơn cho phát triển kinh tế - xã hội. Bởi, nguyên tắc căn bản của
công bằng xã hội là quyền lợi gắn liền với nghĩa vụ; cống hiến gắn liền với hưởng thụ.
Nếu giải quyết không tốt những quan hệ này thì sẽ triệt tiêu động lực phát triển. Như
vậy thì cuối cùng cũng khơng thể thực hiện được tiến bộ và công bằng xã hội. Đặc
biệt, Đại hội X cũng chủ trương “Tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng các nguồn
lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên thốt đói nghèo vững
chắc ở các vùng nghèo và các bộ phận dân cư nghèo. Khắc phục tư tưởng bao cấp ỷ
lại”. Đây là những chủ trương đúng đắn của Đảng ta nhằm thực hiện tiến bộ và cơng
bằng xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh trên thực tế.
Tiếp tục tinh thần này và tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đại hội
XI rút ra bài học kinh nghiệm quan trọng “phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa
tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Đại hội cũng nhấn
mạnh việc chăm lo phát triển văn hóa như củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường
văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng; phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo
tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa truyền thống, cách mạng; phát triển hệ thống thông


tin đại chúng; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hóa. Đặc biệt, lần
đầu tiên trong quá trình đổi mới, Đại hội nhấn mạnh và gắn kết việc thực hiện có hiệu
quả tiến bộ và công bằng xã hội với việc bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và
từng chính sách phát triển. Đây lại là một điểm mới trong nhận thức của Đảng ta về

thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. An sinh xã hội sẽ góp phần thúc đẩy sự đồng
thuận, bình đẳng, tiến bộ và cơng bằng xã hội.Trên tinh thần đó, Cương lĩnh (2011)
chủ trương “Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển;...
thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời
theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội”. Phương châm phân phối này sẽ bảo đảm thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội tối ưu nhất trong điều kiện cụ thể của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Có thể thấy, Đảng ta ln quan tâm và giải quyết đúng đắn quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng chính sách và từng
bước phát triển phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước. Toàn Đảng, toàn dân ta
đã quyết tâm quán triệt và thực hiện tốt tám phương hướng mà Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nêu ra. Một trong những nội dung
của phương hướng thứ ba là “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Đảng đã nhận ra
được tầm quan trọng của tiến bộ và công bằng xã hội và nghiêm túc thực hiện công
bằng xã hội - một trong những giải pháp quan trọng để giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa trong quá trình phát triển đất nước ta. Đây là một trong những nhân tố quyết
định để đạt được những thành tựu rất to lớn trong sự nghiệp đổi mới.
2.2. Chủ nghĩa xã hội ln xem những lợi ích của cá nhân là đúng đắn và
bảo đảm cho nó được thỏa mãn :
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã nghiên cứu chủ nghĩa tư bản
và lịch sử lồi người, phát hiện ra tính quy luật của sự phát triển của lịch sử, tổng kết
các tư tưởng về chủ nghĩa xã hội. Từ đó, đặt những tư tưởng đó trên cơ sở khoa học để
xây dựng nên học thuyết về chủ nghĩa khoa học, trong đó vấn đề giải phóng con người
khỏi áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội mới tốt đẹp cho con người, vì con người đã có
thể trở thành hiện thực với đầy đủ những cơ sở kinh tế, xã hội, vật chất và tinh thần.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn con
đường cách mạng giải phóng dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng khơng
ngồi mục đích cao cả và nhân văn đó.
Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa

trên nền tảng lợi ích chung của tồn xã hội hài hồ với lợi ích chính đáng của con
người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa
các cá nhân và phe nhóm. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu
và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước


đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mơ
hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và
nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng
yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam.
Nội dung đặc trưng cụ thể về con người được xác định là “con người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện”, thể hiện tính nhân
văn cao cả, tính chất ưu việt của chế độ, đáp ứng với khát vọng về hạnh phúc của mỗi
người dân. Nhưng không chỉ thể hiện ở đặc trưng về con người, mục tiêu hạnh phúc
của nhân dân chính là sự kết tinh, hội tụ của tồn bộ mơ hình, từ mục tiêu khái quát
đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, dân tộc, Nhà nước và đối ngoại. Chính yêu
cầu và mục tiêu phát triển của các lĩnh vực của đời sống xã hội ấy, đến lượt mình, lại
trở thành điều kiện, cơ sở bảo đảm cho mục tiêu chung là hạnh phúc của con người.
Bởi hạnh phúc của nhân dân phải là sự thỏa mãn các nhu cầu ngày càng cao, càng tiến
bộ của cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần, của cả sự phát triển riêng tư của mỗi
con người cá nhân và điều kiện sống của mỗi công dân, của cả sự cải thiện điều kiện
sống của từng công dân, gia đình, cộng đồng và sự hài hịa, bền vững của môi trường
xã hội, môi trường sống tự nhiên.
Trên cơ sở mơ hình khái qt về chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước ta đã cụ thể
hóa thành các chủ trương, xây dựng nhiều chính sách, thúc đẩy cơng cuộc đổi mới, xây
dựng và phát triển đất nước. Quá trình thực hiện đường lối đổi mới cũng là quá trình
Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn, sâu sắc hơn, dành sự quan tâm ngày càng đầy đủ

hơn đến lĩnh vực con người và xã hội. Những chủ trương, chính sách liên quan trực
tiếp đến lĩnh vực này cũng dần dần được hồn thiện và có hiệu quả hơn. Con người
được xác định “là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”.
Hệ thống các chính sách xã hội lấy mục tiêu vì con người làm thước đo sự đúng đắn và
công bằng. Quyền con người được tôn trọng và bảo vệ trong mối quan hệ chặt chẽ với
quyền và lợi ích dân tộc, của đất nước, vai trò làm chủ của nhân dân, theo nguyên tắc
mọi quyền lực trong đất nước đều thuộc về nhân dân. Mọi cơng dân được hưởng
quyền bình đẳng cả về quyền lợi và nghĩa vụ. Kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh
tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng
chính sách, bảo đảm cho người dân được thụ hưởng kịp thời và đầy đủ nhất những
thành quả phát triển của đất nước. Nhà nước bảo đảm không ngừng cải thiện toàn diện
đời sống của người dân, sự phát triển hài hòa giữa đời sống vật chất với đời sống tinh
thần, đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu dịch vụ ngày càng phong phú của nhân
dân. Môi trường xã hội được quan tâm xây dựng theo hướng bảo đảm tốt nhất cho mỗi
người dân đều được sống, rèn luyện, trưởng thành tích cực. Các chính sách về mơi
trường ngày càng được hồn thiện nhằm kiểm sốt, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm,
khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái, ứng phó kịp thời với biến đổi khí hậu và
thảm họa thiên nhiên…


Công cuộc xây dựng, phát triển đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội trong
những năm qua đã đạt được những thành tựu có tính lịch sử, mang lại sự cải thiện rất
căn bản, quan trọng vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Từ một đất nước bị tàn phá
vô cùng nặng nề sau hơn 30 năm chiến tranh, thuộc trong số 15 nước nghèo nhất thế
giới, đến năm 2008 chúng ta đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình. Những
thành tựu kinh tế - xã hội vì con người, vì hạnh phúc nhân dân đã đạt được trong hơn
35 năm qua là to lớn, đánh dấu một bước tiến chưa từng thấy trên con đường xây
dựng, phát triển đất nước, minh chứng thuyết phục cho tính chất ưu việt của chế độ xã
hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng. Ý nghĩa to lớn của những thành tựu đó
khơng đơn thuần ở những con số cân đo, đong đếm, mà quan trọng hơn là ở những nỗ

lực cao nhất mà Đảng và Nhà nước ta đã tập trung một cách hiệu quả trong một thời
gian khơng dài, trong những điều kiện rất khó khăn, phức tạp, để cải thiện và không
ngừng nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân. Đó cũng là cơ sở niềm tin để khơi
dậy khát vọng của nhân dân ta về một xã hội XHCN phồn vinh, hạnh phúc, một sự
nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng
đích lâu dài vì mục tiêu tối thượng là hạnh phúc của nhân dân.
2.3. Liên hệ trong giai đoạn chống Covid - 19 :
Vào kỷ niệm 130 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 19/5/2020), Tổng Bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nêu ra nhận định:
“Mỗi thắng lợi và mỗi bước đi lên của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với công lao
to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự soi đường, dẫn dắt của tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa hơn nửa thế kỷ nhưng tư tưởng của Người, phong
cách của Người vẫn là kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân, tồn
qn ta đặc biệt là trong “cuộc chiến” phịng chống đại dịch COVID-19.
Dưới sự tác động của đại dịch COVID-19, chúng ta đang chứng kiến cuộc
khủng hoảng về nhiều mặt, từ lĩnh vực y tế, xã hội đến lĩnh vực chính trị, kinh tế.
Ngồi ra cịn có khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, sự suy thối của mơi trường sinh thái,... đang đặt ra những thách
thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại trên toàn thế giới nói chung
và Việt Nam nói riêng.
Khác với các cuộc chiến mà Việt Nam đã từng đối đầu trong lịch sử, đại dịch
COVID-19 là cuộc chiến vô cùng cam go khi kẻ địch vơ hình, liên tục biến thể, diễn
biến khó đốn và chưa có biện pháp chữa trị dứt điểm. Đại dịch tác động đến hầu như
tất cả các quốc gia ngay cả các cường quốc trên thế giới, khiến cho cả thế giới ngừng
trệ. Các lãnh đạo quốc gia lúng túng, chính trị nội bộ chia rẽ phức tạp, các phe phái chỉ
trích, cơng kích lẫn nhau, hệ thống y tế liên tục quá tải và hoạt động không hiệu quả,
số lượng tử vong tăng cao và nền kinh tế - xã hội giảm sút.
Giữa tình hình loạn lạc tồn cầu đó, Việt Nam xuất hiện như một biểu tượng
chiến thắng đầy cảm xúc. Đất nước có nền kinh tế ở ngưỡng trung bình thấp song đã



làm cả thế giới bất ngờ với số lượng nhiễm bệnh thấp, tỷ lệ tử vong thấp, tỷ lệ chữa
khỏi cao. Chưa hết, thế giới còn nể phục trước niềm tin và việc nghiêm túc chấp hành
những chỉ đạo của Đảng của người dân Việt Nam, trước sự đoàn kết trên dưới một
lòng, trước lòng yêu nước nồng nàn, nghĩa đồng bào sắt son của dân tộc ta. Không
những vậy, cộng đồng quốc tế còn cảm động trước những nghĩa cử cao đẹp của Việt
Nam khi dốc lòng hỗ trợ bạn bè, đối tác và cảm phục trước tinh thần trách nhiệm với
ASEAN khi mở rộng hợp tác đa phương, kết nối các nước trong tổ chức để cùng vượt
qua đại dịch. Truyền thông quốc tế, bạn bè láng giềng đã phải tìm hiểu nguồn gốc
thành cơng của Việt Nam - pháo đài kiên cố, vững chãi trước cơn sóng thần đại dịch.
Ngun nhân thành cơng của nước ta chính là những giá trị quý báu của Tư
tưởng Hồ Chí Minh, những bài học kinh điển của Cách mạng và sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng ta luôn kiên định mục tiêu tối thượng “ tất cả vì nhân dân ”. Mặc dù là một
trong những quốc gia đầu tiên phải ứng phó với đại dịch COVID-19 nhưng Đảng ta đã
sớm xác định được chủ trương “ tất cả vì sức khỏe, tính mạng của nhân dân ”. Thực
tiễn đã chứng minh mục tiêu, chủ trương “ vì sức khỏe nhân dân ” mà Đảng đề ra là
đúng đắn, góp phần không nhỏ trong thành công chống dịch của nước ta khi nhận
được sự ủng hộ tuyệt đối của đồng bào trong và ngoài nước. Từ tư tưởng nhân văn của
Hồ Chí Minh, Đảng đã nêu cao tinh thần vì con người, chăm lo cả về sức khỏe, tính
mạng lẫn đời sống của tất cả cá nhân.
Khi phải đối mặt với COVID-19, giá trị to lớn trong quan điểm Hồ Chí Minh:
"XHCN là xã hội tơn trọng con người, ln xem những lợi ích của cá nhân là đúng đắn
và bảo đảm cho nó được thỏa mãn" lại càng được khẳng định rõ qua lời kêu gọi, dặn
dò của những người đứng đầu Đảng và Nhà nước, những chỉ thị sát sao của Thủ tướng
chính phủ, trong những hành động của các cơ quan ban ngành địa phương, những hoạt
động cứu trợ, ủng hộ người dân vùng dịch . Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã có
những hành động kịp thời để hỗ trợ người dân tâm dịch. Ngoài ra cịn có những chính
sách hỗ trợ, khắc phục thiên tai, lũ lụt miền Trung. Và đặc biệt giá trị trong quan niệm
Hồ Chí Minh cịn thể hiện ở sự tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân của lực lượng y tế,
lực lượng công an và quân đội tuyến đầu chống dịch. Sự chăm sóc hết lịng của các y
bác sĩ đối với các bệnh nhân dương tính khơng kể là người Việt hay người nước ngoài.

Những khu cách ly đầy đủ tiện nghi, những gói cứu trợ đến người lao động là những
nỗ lực rất lớn của Đảng với quan điểm tất cả mọi chủ trương, chính sách, phúc lợi đều
hướng đến nhân dân. Mục tiêu không để ai bị bỏ lại phía sau có ý nghĩa quan trọng
trong việc đảm bảo an sinh, ổn định xã hội. Chính tinh thần nhân văn trong lãnh đạo
của Đảng đã tạo được niềm tin mãnh liệt trong nhân dân và khiến cho cả thế giới khâm
phục, ngưỡng mộ. Các khía cạnh nói trên chỉ mới nêu lên phần nào giá trị tư tưởng Hồ
Chí Minh trong cơng cuộc phịng và chống đại dịch COVID-19 hiện nay. Mặc dù,
cuộc chiến chưa ngã ngũ, cịn nhiều chuyển biến phức tạp và khó lường nhưng dưới sự
lãnh đạo của Đảng, noi theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất định Việt Nam sẽ chiến thắng
đại dịch.


C. KẾT LUẬN :
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội được hình thành, từng bước phát
triển từ thập kỷ 20 của thế kỷ 20 nhưng vẫn vẹn nguyên giá trị, mở đường đổi mới, soi
sáng tương lai, trường tồn cùng đất nước. Qua bao năm đổi mới, trên nền tảng tư
tưởng Hồ Chí Minh, Việt Nam đã tiến được bước dài chưa từng có, đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử về chính trị, an ninh quốc phòng, kinh tế, xã hội và
văn hóa nhất định. Có thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn, quý giá
của Đảng và dân tộc ta.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng khẳng định : “ Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh
hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Cùng
với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho hành động của
Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng
Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Không thể phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, song hiện nay vẫn tồn tại các
thế lực thù địch không ngừng thực hiện âm mưu và hoạt động “diễn biến hịa bình”, lợi
dụng Internet, mạng xã hội để xuyên tạc, bóp méo và bôi nhọ tư tưởng của Người.
May thay, môn tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nhiều trường đưa vào chương trình học

nhằm củng cố kiến thức đúng đắn, tồn diện về tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên
nước ta. Môn học trang bị cho sinh viên hiểu biết khoa học về cách mạng Việt Nam, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và Nhà nước, góp phần nâng cao năng lực tư
duy lý luận để biết vận dụng tư tưởng vào giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Sinh
viên cịn được nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên định ý thức và trách nhiệm công dân,
thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện bản thân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh. Ngồi ra, mơn học tư tưởng Hồ Chí Minh cịn có tác dụng góp phần tích cực
trong việc giáo dục thế hệ trẻ tiếp tục hình thành và hồn thiện nhân cách, trau dồi tình
cảm cách mạng, tình yêu đất nước.
Đây quả thực là một mơn học ý nghĩa và cần thiết, có thể nói tư tưởng Hồ Chí
Minh chính là đường lối đúng đắn cho Đảng và nhân dân ta học tập và làm theo. Cảm
ơn nhà trường đã cho môn học tư tưởng Hồ Chí Minh vào chương trình học và cảm ơn
các thầy cô trong khoa đã giảng dạy nhiệt huyết, giúp đỡ tận tình chúng em mặc dù có
nhiều bất cập, khó khăn trong việc học trực tuyến.


D. DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO :
1.
2.
3.
4.
5.
6.

Bài viết của Tổng Bí thư - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng
Tạp chí tổ chức Nhà nước
Tạp chí Cộng sản
Báo Nhân dân
Báo Thời nay ( ấn phẩm của báo Nhân dân )
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam




×