Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tiểu luận Tư tưởng Hồ chí minh - Tinh thần đại đoàn kết pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.43 KB, 33 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1- Lý do chọn đề tài:
Hồ Chí minh, người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới,
người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng cộng sản Việt nam. Toàn bộ
cuộc đời của Người dành cho sự nghiệp cách mạng Việt nam. Trong số các
di sản Người để lại cho dân tộc ta có đại đoàn kết - một tư tưởng nổi bật,
bao trùm, xuyên suốt, nhất quán cả trong tư duy lý luận và thực tiễn của
Người.
Tư tưởng Đại đoàn kết đã trở thành tình cảm, suy nghĩ của mọi người
Việt nam yêu nước, là sợi dây liên kết cả dân tộc và tạo nên sức mạnh to
lớn, đưa tới thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dân
tộc Việt Nam độc lập hoàn toàn, đất nước Việt Nam thống nhất trọn vẹn
năm 1975.
Tư tưởng Đại đoàn kết Hồ Chí Minh, minh chứng rõ rằng : khi nào
Đảng ta, dân tộc ta đoàn kết một lòng, thực hiện triệt để tư tưởng Đại đoàn
kết của Người, thì cách mạng lúc đó thuận lợi, thu được nhiều thắng lợi.
Ngược lại lúc nào, nơi nào dân ta vi phạm đoàn kết, xa rời tư tưởng đại
đoàn kết Hồ Chí Minh, thì lúc đó nơi đó cách mạng gặp nhiều khó khăn,
thậm chí tổn thất.
Trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
Cách mạng nước ta đang trên đường đổi mới , với nhiều thách thức đặt ra.
Chỉ có thể huy động sức mạnh đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh
chúng ta mới đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng dân
giàu nước mạnh , xã hội công bằng văn minh, dân chủ. Vì vậy, việc hiểu rõ
và vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới
hiện nay là vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa hết sức to lớn. Đó là lý do
tôi chọn đề tài : “Tư tưởng Đại đoàn kết Hồ Chí Minh và sự vận dụng
trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay “ làm đề tài tiểu luận.
1
1


2- Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
Tư tưởng Đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tư tưởng
lớn, đã có nhiều người nghiên cứu với nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy
nhiên, nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Đại đoàn kết của Người trong giai
đoạn hiện nay vẫn là một vấn đề đòi hỏi phải được quan tâm và làm sáng tỏ
nhiều hơn nữa .
Vì vậy tôi thực hiện đề tài này nhằm mục đích nghiên cứu một cách
hệ thống tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, qua đó vận dụng xây dựng
đại đoàn kết hiện nay, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược : Bảo
vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội trên đất nước ta.
Nghiên cứu đề tài này tôi còn hy vọng sẽ góp một tài liệu nhỏ của
mình cho địa phương về tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, vận dụng vào
công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương
mình.
3- Phạm vi của đề tài :
Đề tài nghiên cứu vị trí, cơ sở, nhất là các nguyên tắc, các phương
pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh, đồng thời nghiên cứu các chính sách của
Đảng và Nhà nước , nhằm góp phần củng cố xây dựng đại đoàn kết trong
thời kỳ đất nước đổi mới.
4- Phương pháp giải quyết vấn đề : Sử dụng phương pháp lo gic
kết hợp với lịch sử để chứng minh là chủ yếu.
5- Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 2 chương , 4 mục
Chương I : Tư tưởng đoàn kết Hồ Chí Minh
Chương II: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng đại đoàn kết
trong đổi mới.
2
2
PHẦN NỘI DUNG

Chương một
TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH
I - Vị trí vấn đề đoàn kết trong tư duy lý luận và hoạt động thực
tiễn cách mạng của Hồ Chí Minh.
1- Đại đoàn kết là tư tưởng nổi bật của Hồ Chí Minh.
Trong quá trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, có một số ý kiến
của các nhà nghiên cứu cho rằng: Đại đoàn kết không phải là tư tưởng của
Hồ Chí Minh. Theo họ, Người chỉ kế thừa và phát huy truyền thống đoàn
kết của dân tộc Việt nam trong điều kiện lịch sử mới . Và như vậy, những
nhà nghiên cứu này đã phủ nhận luôn những luận điểm, những nguyên tắc,
những phương pháp đại đoàn kết của Hồ Chủ Tịch.
Song, hầu hết các nhà nghiên cứu Hồ Chí Minh đều thống nhất rằng :
: Đại đoàn kết là tư tưởng - một tư tưởng lớn, một tư tưởng nổi bật, một tư
tưởng xuyên suốt, nhất quán của Hồ Chí Minh, nhằm xây dựng, củng cố,
tăng cường lực lượng cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội , giải phóng loài người.
Khi thực hiện tư tưởng này, Hồ Chí Minh đưa ra những lời kêu gọi
mang tính hiệu triệu, động viên nhằm tập hợp toàn dân trong nước, lao
động trên toàn thế giới thành một khối đoàn kết, nhất trí trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù chung của dân tộc mình và của giai cấp công nhân.
Người kêu gọi : “ Toàn dân đoàn kết muôn năm “ ( Hồ Chí Minh : toàn tập,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tập 6, trang 182) ; “ Lao động tất cả các
nước, đoàn kết lại “ (Hồ Chí Minh, dd, t2, tr437 ).
Lịch sử cách mạng Việt nam đã thể hiện rõ đại đoàn kết là mối quan
tâm hàng đầu có tính chiến lược hay là tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Sau
đây là một vài dẫn chứng :
3
3
- Sau khi gặp luận cương của Lê nin về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa. Hồ Chí Minh đấu tranh rất tích cực trong phong trào cộng sản và

công nhân quốc tế , nhằm thực hiện luận điểm của Lê nin và khẩu hiệu nổi
tiếng của Quốc tế Cộng sản về đoàn kết quốc tế : “ Vô sản tất cả các nước
và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại “.
- Khi tìm được con đường cứu nước, thấy được chân lý cách mạng,
tháng 6 năm 1923, Hồ Chí Minh quyết định rời Pari, bắt đầu cuộc hành
trình về nước. Trong thư gửi các đồng chí cùng hoạt động ở pháp, Người
nói rõ mục đích về nước là : “ Tôi trở về nước, đi vào quần chúng, thức
tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành
tự do độc lập “(Hồ Chí Minh: dd,t1, tr192 ).
Ngay sau khi ở nước ngoài về tới Cao Bằng ngày 28 tháng1 năm
1941 người cùng Đảng ta tiến hành thực hiện đoàn kết toàn dân, xây dựng
mặt trận dân tộc thống nhất và ngày 19/5/1941, Hội Việt nam độc lập đồng
minh (gọi tắt là mặt trận Việt minh ) được thành lập. Về thành phần, Mặt
trận Việt Minh bao gồm những người yêu nước trong công nhân, nông dân
và những người yêu nước trong các tầng lớp nhân dân lao động khác; mặt
trận này do Đảng ta trực tiếp lãnh đạo.
- Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945 nước
Việt nam mới ra đời, với cương vị Chủ tịch nước chủ trì phiên họp đầu tiên
của Chính phủ ngày 03/09/1945, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ đại đoàn kết toàn
dân, trong đó có đoàn kết Lương - Giáo là một trong 6 vấn đề cấp bách mà
Chính phủ cách mạng phải tập trung thực hiện nhằm giữ vững thành quả
cách mạng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân.
- Đến dự Đại hội thống nhất(VM-LV) thành lập Mặt trận Liên Việt
ngày 03/03/1951, Hồ Chí Minh vui mừng nói : “ Rừng cây đại đoàn kết dân
tộc đã nở hoa kết quả và gốc rễ của nó đang ăn sâu rộng khắp toàn dân và
nó có một cái tương lai “trường xuân bất lão” “
4
4
Thực hiện chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, ngày
20/12/1960 Mặt trận dân tộc giải phóng Miền nam Việt Nam ra đời. Về

thành phần và lãnh đạo của Mặt trận giống như Mặt trận Việt minh trước
đây. Từ đó cho đến khi qua đời, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến việc
mở rộng củng cố Mặt trận dân tộc giải phóng Miền nam Việt nam. Người
thường xuyên gửi thư, gửi điện cho Chủ tịch Mặt trận Nguyễn Hữu Thọ
nhằm chỉ thị , động viên không ngừng mở rộng Mặt trận hơn nữa. Vì vậy,
ngày 21/04/1968, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình
Việt Nam ra đời do ông Trịnh Đình Thảo làm Chủ tịch; thành phần gồm
những tri thức, công chức yêu nước trong bộ máy Ngụy quyền Sài Gòn
kiên quyết chống ngoại xâm, đánh đổ chế độ Nguỵ quyền giành độc lập,
dân chủ, hoà bình và mong muốn thành lập Chính phủ liên hiệp dân tộc ở
Miền nam. Hồ Chí Minh khẳng định , liên minh này “ Luôn sát cánh với
Mặt trận dân tộc giải phóng Miền nam Việt nam “ trong công cuộc chống
Mỹ cứu nước ( Hồ Chí Minh: dd, tl2, tr461 ). Ngày 23/05/1969 tuy sức
khoẻ đã giảm nhiều, Hồ Chí Minh còn gửi điện cảm ơn Chủ tịch Nguyễn
Hữu Thọ cùng Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng Miền nam
Việt nam, gửi điện cảm ơn Chủ tịch Trịnh Đình Thảo và Uỷ ban Trung
ương liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt nam.
Như vậy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh
luôn hết sức quan tâm đến vấn đề đoàn kết toàn dân, tập hợp cho hết các
lực lượng yêu nước trong dân tộc vì mục tiêu một Việt nam hoà bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, đồng thời Người cũng hết
sức quan tâm đến đoàn kết quốc tế, thực hiện di huấn của lê nin và khẩu
hiệu của Quốc tế Cộng sản vì thắng lợi của phong trào hoà bình, độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.
Qua đó chúng ta có thể khẳng định : Đoàn kết, đại đoàn kết là một
tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh; một tư tưởng nổi bật, bao trùm, xuyên
suốt, nhất quán của Người. Tư tưởng đại đoàn kết hồ Chí Minh ngay từ
5
5
đầu năm 1930 khi Đảng ta ra đời, đã trở thành chiến lược có ý nghĩa xuyên

suốt đường lối của Đảng.
Có thể khẳng định từ những năm 20 của thế kỷ XX đến nay, đại đoàn
kết toàn dân, đoàn kết quốc tế trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê nin và truyền
thống dân tộc đã hoá thành sức mạnh, thành động lực phát triển quan trọng
của dân tộc Việt nam. Nhờ đó mà năm 1975 dân tộc Việt nam hoàn toàn
độc lập, thống nhất. Ngày nay, đại đoàn kết vẫn được toàn Đảng, toàn dân
ta xác định là một trong những nội lực quan trọng nhất để thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2- Cơ sở thực hiện đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ chí Minh
- Cơ sở thực hiện đại đoàn kết dân tộc
Hồ Chí Minh tìm thấy ở mỗi người dân Việt nam những đặc điểm
chung nhất, đó là : lòng yêu nước nồng nàn.
Hồ Chí Minh đánh giá : “ Dân ta có lòng nồng nàn yêu nước, đó là
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng,
thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước “ (Hồ Chí Minh: dd, t6, tr171 ).
Người tin rằng ; hễ là con dân nước Việt, là con Lạc cháu Hồng, con
Rồng cháu Tiên “ Thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc “ ( Hồ Chí
Minh : dd, t4, tr246 ).
Hồ Chí Minh cũng thấy rằng : Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
“ Đó là mục đích cao nhất của mỗi người Việt nam “ chúng ta ( Hồ Chí
Minh : dd, t11, tr 488 ). Sau đó, Người bổ sung thêm mục đích cao nhất của
mỗi người Việt nam còn là “ Dân giàu, nước mạnh “.
Hồ Chí Minh tin rằng, với những điểm chung nhất này trước sau
người Việt nam sẽ tìm đến nhau, đoàn kết thành một khối, phấn đấu cho
quyền lợi của Tổ quốc, của dân tộc, trong đó có quyền lợi của riêng mình.
6
6
Lịch sử đã chứng minh năm 1941, những người dân lao động yêu

nước Việt nam đến với nhau, đoàn kết trong mặt trận Việt Minh nhằm đánh
Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc, quyền dân chủ cho
nhân dân. Sau tháng 4 năm 1975, với lòng yêu nước nồng nàn và có chung
một mục đích cao nhất là một nước Việt nam độc lập, thống nhất, hoà bình,
dân chủ , dân giàu , nước mạnh, Mặt trận Tổ quốc Việt nam ở miền Bắc,
Mặt trận dân tộc giải phóng Miền nam Việt nam và Liên minh các lực
lượng dân tộc , dân chủ và hoà bình Việt nam, thống nhất thành một Mặt
trận chung có tên gọi là Mặt trận Tổ quốc Việt nam.
- Về cơ sở thực hiện đoàn kết quốc tế :
Bôn ba khắp thế giới tìm đường cứu nước và hoạt động cách mạng,
Hồ Chí Minh rút ra một nhận xét hết sức quan trọng, độc đáo : “ Dù màu da
có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người : Giống người bóc lột và
giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà
thôi: Tình hữu ái vô sản “ ( Hồ Chí Minh : dd, t1, tr 266 ).
Theo Hồ Chí Minh, trước chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc,
quyền lợi của giai cấp vô sản và nhân dân lao động trên thế giới là thống
nhất , gắn bó với nhau. Đó là hoà bình , tự do và ấm no , hạnh phúc.
Đồng thời , Hồ Chí Minh cũng thấy rằng, trước phong trào cộng sản
quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc, thì chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa
đế quốc thường liên minh chặt chẽ với nhau và làm tất cả những gì có thể
để ngăn chặn, phá hoại đoàn kết quốc tế theo tinh thần chủ nghĩa Mác - Lê
nin.
Cuối năm 1922, thay mặt Ban nghiên cứu thuộc địa của Phân bộ
Pháp thuộc Quốc tế Cộng sản, Người kêu gọi : “Vì hoà bình thế giới, vì tự
do và ấm no của mọi người, những người bị bóc lột thuộc mọi nòi giống,
chúng ta hãy đoàn kết lại và đấu tranh chống bọn áp bức “( Hồ Chí Minh :
dd.t1, tr460 ). Như vậy, theo Hồ Chí Minh : Hòa bình, tự do , ấm no,
hạnh phúc, bình đẳng, bác ái là mục đích chung và là cơ sở cho những
7
7

người lao động bị bóc lột trên toàn thế giới đoàn kết, nhất trí trong cuộc
đấu tranh chống lại áp bức, bóc lột.
Từ nhận thức đúng đắn này được chủ nghĩa Mác - Lê nin soi sáng,
Hồ Chí Minh đặt cách mạng Việt nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới, Người nhanh chóng trở thành một chiến sỹ quốc tế, luôn coi trọng và
góp sức vào việc xây dựng đoàn kết giữa nhân dân các thuộc địa, đoàn kết
giữa giai cấp công nhân chính quốc và nhân dân thuộc địa, đoàn kết giữa
giai cấp vô sản trên toàn thế giới theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê
nin.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết quốc tế là một nội dung gắn
chặt chẽ trong toàn bộ tư tưởng, chiến lược đoàn kết của Người, vì độc lập,
tự do của Tổ quốc, vì nghĩa vụ cách mạng Việt nam với cách mạng thế
giới. Trong đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh xác định đoàn kết, nhất trí
“giữa các Đảng cộng sản “ trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê nin là nhân tố,
là đảm bảo quan trọng nhất, quyền quyết định toàn thắng của cuộc đấu
tranh cho hoà bình độc lập của các dân tộc, cho chủ nghĩa xã hội trên toàn
thế giới và Người đã làm hết sức mình cho mối quan hệ này.
Vì vậy, Hồ Chí Minh rất buồn khi thấy giữa các đảng cộng sản anh
em có sự bất hoà trong những năm 60 , khi phong trào đấu tranh cho hoà
bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên thế giới đang lên cao. Trong
di chúc, Người chỉ rõ và căn dặn Đảng ta : “ Là một người suốt đời phục vụ
cách mạng, tôi càng tự hào về sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hoà
hiện nay giữa các Đảng anh em! “
“Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào
việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các Đảng anh em trên nền tảng chủ
nghiã Mác - Lê nin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình “( Hồ Chí
Minh : dd, t12, tr 511-512 ).
8
8

Lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta đã khẳng định, tư tưởng
đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn : Đoàn kết quốc
tế là một nội dung gắn kết của đại đoàn kết, đoàn kết quốc tế để thế giới
ủng hộ dân tộc Việt nam, ủng hộ cách mạng Việt nam và bằng những thắng
lợi của mình, dân tộc Việt nam, cách mạng Việt nam đóng góp với cách
mạng thế giới ; cụ thể : Làm suy yếu chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc,
góp phần xây dựng giai cấp công nhân, phong trào cộng sản trên thế giới
ngày càng lớn mạnh, thức tỉnh nhân dân lao động các nước bị áp bức bóc
lột đoàn kết lại, đứng lên tự giành lại độc lập, tự do, bình đẳng, bác ái, hạnh
phúc,
II- Nội dung cơ bản tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh
Suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh bổ sung, hoàn thiện
nội dung chiến lược đại đoàn kết cho phù hợp với những yêu cầu, hoàn
cảnh lịch sử của từng giai đoạn cách mạng Việt nam. Nội dung cơ bản của
tư tưởng đoàn kết Hồ Chí Minh được thể hiện rõ, nhất quán trong các
nguyên tắc, phương pháp đại đoàn kết của người.
1- Nguyên tẵc đại đoàn kết Hồ Chí Minh
Trước sau Hồ Chí Minh vẫn kiên trì tuân thủ những nguyên tắc cơ
bản xuyên suốt của chiến lược đại đoàn kết sau đây :
Nguyên tắc thứ nhất : Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở
đảm bảo những lợi ích tối cao của dân tộc và những quyèen lợi cơ bản
của toàn dân
Đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ
Chí Minh. Hạt nhân của nguyên tắc này là giải quyết đúng đắn mối quan hệ
lợi ích phức tạp, chồng chéo giữa cá nhân - tập thể, gia đình - xã hội, bộ
phận - toàn thể, giai cấp - dân tộc, quốc gia - quốc tế theo phương châm chỉ
đạo là : Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết và tất cả do con người. Ví dụ:
Chính sách giảm tô 25 % trong kháng chiến chống Pháp Hồ Chí Minh nhắc
9
9

nhở : “ Chủ ruộng giảm tô cho đúng “ ; Đồng thời cũng nhắc nhở : “ Tá
điền nộp tô cho đều “(Hồ Chí Minh: dd, t5, tr591).Chính sách này đã giải
quyết thỏa đáng lợi ích ruộng đất giữa địa chủ và nông dân nghèo trong
điều kiện phải đoàn kết để kháng chiến thắng lợi. Địa chủ có ruộng cho
thuê và nông dân nghèo thuê ruộng đều phải hy sinh một phần lợi ích của
mình để đoàn kết nhau lại, thực hiện khẩu hiệu : “Tổ quốc trên hết“ “Tất cả
cho kháng chiến thắng lợi “.
Tóm lại, muốn đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân, phải giải quyết đúng
đắn các mối quan hệ lợi ích dân tộc. Song, khi giải quyết các mối quan hệ
lợi ích này phải đặt quyền lợi dân tộc, quyền lợi Tổ quốc, quyền lợi toàn
dân lên trên hết, lên trước hết.
Nguyên tắc thứ hai : Tin vào dân , dựa vào dân
Đây là nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
Bởi vì, theo Hồ Chí Minh:
- Dân là gốc rễ, là nền tảng của đại đoàn kết
- Dân là chủ thể của đại đoàn kết
- Dân là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết,
quyết định thắng lợi của cách mạng.
Nguyên tắc tin vào dân, dựa vào dân trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ
Chí Minh dựa trên cơ sở là :
Một, theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê nin thì cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng.
Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định : Đảng cộng sản Việt nam là
Người lãnh đạo cách mạng Việt nam; song nếu chỉ có một mình Đảng thôi,
không có người ngoài Đảng tin theo, ủng hộ thì cách mang Việt nam không
thể thắng lợi được.
- Hai, là truyền thống tư duy chính trị của dân tộc Việt nam .
10
10
Tư duy chính trị này thể hiện rõ trong các câu ca dao, tục ngữ được

Hồ Chí Minh sử dụng rất nhiều lần, chẳng hạn “Nước lấy dân làm gốc“
“Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân “.
Hồ Chí Minh cũng từng nói : “Dễ mười lần dân không cũng chịu,
khó trăm lần dân liệu cũng xong “.
Với Hồ Chí Minh, “ Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân,
trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân“ (Hồ
Chí Minh: dd, t8, tr 276 ).
Tin vào dân, dựa vào dân trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là
tin vào, là dựa vào tinh thần yêu nước, ý chí giành độc lập tự do, xây dựng
một đất nước Việt nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh
; là tin vào, là dựa vào lực lượng to lớn của nhân dân; là tin vào, là dựa vào
sáng kiến của nhân dân. Trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt tin vào lòng yêu
nước của nhân dân, với niềm tin đó Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân đoàn
kết, Lương - Giáo đoàn kết, các dân tộc, các thành phần dân tộc đoàn kết,
Thực tiễn cách mạng Việt nam đến nay đã khẳng định tư tưởng này của
Người là hoàn toàn đúng, chẳng những phù hợp với đặc điểm ngưiơì Việt
nam mà còn đúng với quan điểm của giai cấp công nhân.
Nguyên tắc thú ba : Đoàn kết rộng rãi, đoàn kết lâu dài, đoàn kết
chặt chẽ theo lập trường giai cấp công nhân.
Trong quá trình thực hiện đại đoàn kết, xây dựng và phát triển lực
lượng cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nhất quán một nhận thức khoa học:
Đoàn kết không phải là một tập hợp ngẫu nhiên, tự phát, nhất thời mà là
một tập hợp bền vững của các lực lượng xã hội có định hướng, có tổ chức,
có lãnh đạo.
Đầu năm 1955, nói chuyện tại hội nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt
toàn quốc, Hồ Chí Minh chỉ rõ : “ Đoàn kết của ta không những rộng rãi
mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là
một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập
11
11

của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà “ (Hồ Chí Minh :
dd, t7, tr 438). Như vậy theo Hồ Chí Minh, đoàn kết toàn dân trong các Tổ
chức của Mặt trận dân tộc thống nhất phải rộng rãi và lâu dài; đoàn kết
không phải là một thủ đoạn chính trị, mà là một chính sách dân tộc, một
chính sách nhất quán của Đảng và nhà nước ta.
Qua câu nói trên của Hồ Chí Minh, ta thấy rõ tư tưởng của Người:
Toàn dân ta phải đoàn kết cả trong cách mạng giải phóng dân tộc, cả trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa hay đoàn kết trong suốt quá trình cách mạng
Việt Nam. Theo Người, Đảng công sản Việt nam phải đoàn kết lâu dài với
các đảng phái và các đoàn thể yêu nước khác trong Mặt trận dân tộc thống
nhất, không phải đoàn kết nhất thời. Điều này được Hồ Chí Minh chỉ rõ khi
Người nói chuyện tại buổi lễ kết thúc ra mắt của Đảng lao động Việt nam
ngày 03/03/1951 như sau: “ đối với các đảng phái, các đoàn thể bạn trong
mặt trận dân tộc, thì Đảng lao động Việt nam chủ trương: Đoàn kết chặt
chẽ, lâu dài cùng nhau tiến bộ “ ( Hồ Chí Minh : dd, t6, tr 184 ).
Về đoàn kết rộng rãi hay đại đoàn kết, theo tư tưởng đại đoàn kết Hồ
Chí Minh là đoàn kết cho hết các lực lượng, các cá nhân, yêu nước trong
dân tộc, không để sót một lực lượng, một cá nhân nào đứng ngoài các tổ
chức của mặt trận dân tộc thống nhất, nhưng đoàn kết phải được tổ chức
theo lập trường giai cấp công nhân và hoàn cảnh của dân tộc.
Hồ Chí Minh chỉ rõ : “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại
đa số nhân dân ; mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác “.
Rồi Người nhấn mạnh : “Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng
như cái nền của nhà, cái gốc của cây “, nhưng : “Đã có nền vững; gốc tốt,
còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác “.
Tóm lại : Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết Mặt trận dân tộc thống nhất
phải thật rộng rãi. Cụ thể : Đoàn kết tất cả những người yêu nước; những
người thật thà tán thành một nước Việt nam hoà bình, thống nhất, độc lập,
12

12
dân chủ, giàu mạnh, dù họ ở phe phái nào, dù trước đây đi ngược lại quyền
lợi dân tộc, quyền lợi toàn dân ; song “Nền gốc“ hay “Cơ sở chủ yếu“ hoặc
“Nền tảng“ của đại đoàn kết phải là khối liên minh công nông và các tầng
lớp nhân dân lao động khác, trong đó trước hết là trí thức (Hồ Chí Minh:
dd, t8 tr 569 ).
Hồ Chí Minh cho rằng : Đoàn kết rộng rãi, đoàn kết lâu dài, nhưng
đoàn kết phải có tổ chức, có kỷ luật, có lãnh đạo hay đoàn kết phảt chặt
chẽ. Cụ thể :
Về tổ chức : Đoàn kết phải được tổ chức trong các đoàn thể quần
chúng cách mạng hay trong các đoàn thể chính trị - xã hội của Mặt trận dân
tộc thống nhất.
Về kỷ luật : Tổ chức của Mặt trận và các đoàn thể phải có kỷ luật mà
mỗi thành viên phải tự giác tuân theo.
Về lãnh đạo : Lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân là Đảng cộng sản.
Hồ Chí Minh khẳng định Đảng cộng sản là người lãnh đạo khối đoàn
kết toàn dân ; nhưng Người chỉ rõ : “Đảng cộng sản cũng là một bộ phận
hữu cơ của Mặt trận, nhưng “Phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất,
hoạt động nhất và chân thực nhất “ của Mặt trận. (Hồ Chí Minh: dd, t13 tr
139 ).
Để khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh, Hồ Chí Minh chỉ rõ, trước
hết Đảng phải đoàn kết, nhất trí, nhất là cán bộ lãnh đạo Đảng. Đây là yếu
tố quyết định sự tồn tại và sức mạnh của khối đại đoàn kết. Hồ Chủ Tịch đã
đặt lên hàng đầu: “Tư cách người kách mệnh” và chỉ rõ muốn đoàn kết
trong Đảng, đoàn kết toàn dân, Đảng luôn luôn tự phê bình và phê bình,
phải phê phán nghiêm khắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lãng phí, vi
phạm quyền làm chủ của nhân dân. Người nhấn mạnh: “Đoàn kết là một
truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta. Các đồng chí từ
Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng
như gìn giữ con ngươi của mắt mình “ (Hồ Chí Minh : dd, t12, tr510 ).

13
13
Muốn đoàn kết rộng rãi, đoàn kết lâu dài, đoàn kết chặt chẽ, theo Hồ
Chí Minh, khối đoàn kết phải luôn được củng cố, trong đó củng cố Liên
minh Công - Nông - Trí thức phải được quan tâm hàng đầu. Bởi vì, theo
Người: “Nền có vững nhà mới chắc chắn, gốc có tốt thì cây mới tươi “ ( Hồ
Chí Minh : đd, t7, tr438, ). Có như thế mới phát triển và củng cố được lực
lượng cách mạng và đưa cách mạng đến thắng lợi cuoí cùng.
Nguyên tắc đoàn kết rộng rãi, lâu dài theo lập trường của giai cấp
công nhân là kết quả của nhà tổ chức vĩ đại Hồ Chí Minh, biến khẩu hiệu
nổi tiếng :
,,
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại
thành công
,,
thành hiện thực, thành sức mạnh tinh thần, trí tuệ, thành sức
mạnh vật chất cực kỳ to lớn đánh thắng những thế lực thù địch, xây dựng
và bảo vệ tổ quốc ngày càng vững mạnh.
Trên đây là ba nguyên tắc khi thực hiện đại đoàn kết tư tưởng Hồ
Chí Minh với nội dung bao trùm là: Đoàn kết phải rộng rãi, lâu dài nhưng
phải được Đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo, phải đặt quyền lợi của tổ
quốc, của dân tộc, của toàn dân lên trên hết.
2 -Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh
Trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh cùng với việc xác định
mục tiêu đúng đoàn kết; thực hiện đúng, đầy đủ các nguyên tắc đoàn kết,
còn phải có phương pháp tiến hành đoàn kết. Có thể nhìn nhận phương
pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh ở một số phương pháp cụ thể sau :
Phương pháp thứ nhất : Phương pháp tuyên truyền giáo dục, vận
động quần chúng thật sự khoa học
Tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng đoàn kết phải thật

thật sự khoa học. Do vậy, vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là việc
tìm tòi lựa chọn các nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận động phải phù
hợp với nguyện vọng, quyền lợi của quần chúng. Phương pháp này nhằm
làm cho mọi người nhận thức được sự cần thiết phải tập hợp nhau lại, từ đó
14
14
tự giác tham gia tổ chức đoàn kết quần chúng cách mạng trong mặt trận
dân tộc thống nhất.
Nội dung tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng được Hồ Chí
Minh đặc biệt coi trọng và xác định đúng ngay từ đầu. đó là những nguyện
vọng chung, sâu xa nhất của cả dân tộc, của toàn dân (như hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân giàu, dân chủ, nước mạnh ). Nguyện vọng chung, sâu xa
nhất của dân tộc, của toàn dân,khi tuyên truyền toàn dân đoàn kết, Hồ Chí
Minh còn chú ý cả tới nguyện vọng riêng của mỗi giai cấp, của mỗi tầng
lớp nhân dân; chẳng hạn như ruộng đất cho nông dân nghèo.
Nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng đoàn kết phải
đáp ứng được cả hai yêu cầu chung và riêng. Hồ Chí Minh nhận thức sâu
sắc vấn đề này và thgực hiện rất thành công trong cách mạng việt nam ngay
tử năm 1941 trở đi.
Tuỳ theo hoàn cảnh và yêu cầu cụ thể của từng giai đoạn cách
mạng, để đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minh đã đưa vào cương lĩnh cách
mạng của đảng những mục tiêu chiến lược phản ánh đúng những đòi hỏi
cấp bách của lịch sử, những khát vọng cháy bỏng của toàn dân. Trước cách
mạng tháng tám năm 1945, Người nêu cao mục tiêu chiến lược:
‘’
Độc lập
dân tộc, người cày có ruộng
’’
. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Người
chỉ rõ mụctiêu chiến lược của thời kỳ này là : Độc lập hoàn toàn cho dân

tộc, thống nhất trọn vẹn cho đất nước; Người khảng định
‘’
Không có gì quý
hơn độc lập tự do
’’
.
Đặc biệt, khi tuyên truyền, giáo dục, vận động để toàn dân đoàn
kết, Hồ Chí MInh hết sức quan tâm đến việc giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa nguyện vọng chung của cả dân tộc và nguyện vọng riêng của từng
giai cấp lao động, từng tầng lớp nhân dân theo phương châm chỉ đạo
nhất quán là phải đặt quyền lợi của dân tộc, của tổ quốc lên hàng đầu, lên
trước hết.
15
15
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những nội dung tuyên truyền, vận động sát
hợp với từng giai cấp, từng cộng đồng xã hội như đối với giai cấp công
nhân, nông dân, trithức, văn nghệ sỹ, cán bộ chiến sỹ lực lượng vũ trang
nhân dân, với thanh niên, phụ nữ, đồng bào dân tộc ít người, với cộng đồng
tôn giáo, với quan lại, hoàng tộc, với nhân sỹ yêu nước, với người lầm
đường lạc lối Hồ Chí Minh đã thấu hiểu tất cả, phấn đấu hy sinh vì tất
cảnhững khats vọng, những ước mơ sâu lắng của dân tộc và của mỗi con
người, do vậy tư tưởng đại đoàn kết của Người có sức mạnh to lớn tập hợp
toàn dân đoàn kết.
Có thẻ nói, Hồ Chí Minh là bậc thầy trong công tác vân động, giáo
dục toàn dan thực hiện đại đoàn kết. Bản thân người cũng toả sáng một
mãnh lực tập hợp, đoàn kết toàn dân, tập hợp đoàn kết các lực lượng cách
mạng và tiến bộ trên thế giới.
Phương pháp thứ hai : Xây dựng, kiện toàn không ngừngphát
triển hệ thống chính trị cách mạng hay tổ chức một cách khoa học
Hệ thống chính cách mạng nước ta từ năm 1945 đến nay bao gồm:

+ Đảng cộng sản, cụ thể là Đảng cộng sản Việt Nam ;
+ Nhà nước cách mạng Việt Nam;
+ Các đoàn thể chính trị - xã hội trong Mặt trận Tổ quốc
thống nhất do Đảng lãnh đạo.
Theo Hồ Chí Minh, sự thống nhất bền vững của hệ thống chính trị
là nhân tố quyết định sư tồn tại và sức mạnh của khối đại đoàn két toàn
dân.
Đảng cộng sản có vai trò quyết định nhất đối với sự hình thành, phát
triển và sức mạnh của dại đoàn kết trong hệ thống chính trị cách mạng. Vì
vậy, Người luôn hết sức quan tâm công tác xây dựng Đảng, sao cho Đảng
thật sự là một tổ chức chính trị vững mạnh, trong sạch, đoàn kết, nhất trí,.
đủ sức lãnh đạo khối đoàn kết toàn dân.
16
16
Về nhà nước cách mạng, theo Hồ Chí Minh hoạt động của nó ảnh
hưởng rất lớn đến đoàn kết toàn dân và đến cả đoàn kết quốc tế. Bởi vì đối
với mỗi chính sách, mỗi quyết định, mỗi việc làm đúng của các cấp chính
quyền, Nhà nước, sữ có sức mạnh rất lớn, gắn nhân dân với Đảng, gắn
nhân dân với nhau thành một khôi, đồng thời tăng thêm đoàn kết giữa nhân
dân ta, giữa dân tộc ta và bạn bè thế giới; ngược lại, có thê làm rạn nứt khối
đoàn kết toàn dân, ảnh hưởng xấu đến đoàn kết quốc tế. Vì vậy để khối đại
đoàn kết toàn dân tồn tại, sức mạnh đoàn kết được tăng cường. Hồ Chí
Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng, củng cố Nhà nước, cách mạng.
Nhất là UBND các cấp, nơi trực tiếp tổ chức, quản lý, điều hành mọi hoạt
động của đời sống xã hội.
Về các đoàn thể chính trị- xã hội, theo Hồ Chí Minh đây là sợi dây
gắn kết Đảng với nhân dân, gắn kết nhân dân với nhau , thực hiện đoàn kết
và cũng là nơi thể hiện sức mạnh đoàn kết. Vì vậy, theo Người, xây dựng
củng cố, phát triển, đoàn kết các tổ chức quần chúng hay các đoàn thể
chính trị – xã hội trong Mặt trận dân tộc thống nhất thực sự là vấn đề chiến

lược, không thể xem đây là vấn đề sách lược của cách mạng
Hồ Chí Minh là người sáng tạo vun đắp Mặt trận dân tộc thống
nhất, đồng thời là người thầy về phương pháp và tổ chức các đoàn thể
chính trị – xã hội nói chung, Mặt trận dân tộc thống nhất nói riêng.
Về tổ chức các đoàn thể quần chúng cách mạng có bốn luận điểm
sau:
Luận điểm thứ nhất : các tổ chức, đoàn thể quần chúng phải được
xây dựng từ thấp đến cao phù hợp với yêu cầu và nhân thức của quần
chúng.
Lúc đầu có thể là các tổ chức sơ khai, truyền thống ( như hội hiếu
hỷ, đồng hương ) trên cơ sở đó xây dựng các đoàn thể cách mạng đơn
giản, rồi tiến tới xây dựng các đoàn thể cách mạng chặt chẽ rộng khắp, đấu
tranh chính trị là chủ yếu.
17
17
Luận điểm thứ hai: Hình thức các tổ chức, các đoàn thể quần
chúng phải hết sức đa dạng, phù hợp với từng lứa tuổi, ngành nghề, giới
tính, tên gọi các đoàn thể phản ánh đúng mục đích chính trị cốt yếu nhất
của mỗi thời kỳ cách mạng.
Ví dụ, trong thời kỳ tiền khởi nghĩa ( 1941- 1945 ) nhiệm vụ chính
trị cốt yếu là cứu quốc, giành độc lập cho dân tộc Việt Nam. Vì vậy tên gọi
các hội, ngành đều có hai từ
‘’
cứu quốc
‘’
và hai từ
‘’
Việt Nam
‘’
như :

Việt Nam công nhân cứu quốc, Viẹt Nam nông dân cứu quốc tất cả các
hội Cứu quốc này hợp thành hội Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là
Mặt trận Việt Minh
Luận điểm thứ ba : cương lĩnh, chương trình hoạt động của các
tổ chức, các đoàn thể quần chúng phải hết sức rõ ràng, thiét thực , nội
dung phải phong phú , phù hợp với nguyện vọng và yêu cầu của mỗi đối
tượng quần chúng .
Luận điểm thứ tư : cán bộ các tổ chức , đoàn thể quần chúng
phải đạt công tác dân vận lên hàng đầu.
Theo Hồ Chí Minh, trong công tác đoàn thể, cac bộ phận phải :
+ Hoà mình trong dân, coi dân là chủ, mình là đầy tớ
+ Miệng nói tay làm.
+
‘’
Ba cùng
‘’
với nhân dân
+ Hiểu nguyện vọng của quần chúng, học hỏi quần chúng
Phương pháp thứ ba : Kết hợp đồng bộ các giải pháp ứng xử sao
cho có thể mở rộng đến mức cao nhất trận tuyến cách mạng, thu hẹp đến
mức tối da trận tuyến thù địch.
Trong đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, tương quan lực lượng
thường phân định thành ba tuyến lực lượng rõ rệt : Tuyến cách mạng , tyến
phản cách mạng và tuyến trung gian ở giữa hai tuyến cách mạng và phản
cách mạng.
18
18
Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh chính là sự kết hợp đồng
bộ các giải pháp ứng xử các tuyến lực lượng này, nhằm mục tiêu mở rộng
đến mức tói đa trận tuyến cách mạng, thu hẹp đến mức tối thiểu trận tuyến

thù địch, tạo thế áp đảo của cách mạng đối với phản cách mạng, từng bước
làm suy yếu kẻ thù và giành thế chủ động cho cách mạng.
- Với lực lượng cách mạng : Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí
Minh là khai thác, phát huy những điểm chung, những điểm tương đồng,
qua đó hạn chế khắc phục, tiến tới xoá bỏ dần những khác biẹt trong mục
tiêu, lợi ích để mọi người xích lại gần nhau, đoàn kết thành một khối.
- Với lực lượng cách mạng, cụ thể :
+ Với bọn đế quốc xâm lược, phương pháp Hồ Chí Minh là :
’’
kiên quyết không ngừng thế tấn công
’’

‘’
hễ còn tên xam lược trên đất
nước ta thì ta phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi
’’
+ Đối với bọn VIệt gian tay sai đế quốc phản bội quyền lợi tổ
quốc, phương pháp Hồ Chí Minh là dùng phép nước để trị. Người nói :
‘’
Đói với những kẻ cố ý hại dân, can tâm phản quốc, phép nước sẽ không
khuan hồng quốc dân sẽ không tha thứ
‘’
( Hồ Chí Minh : đr, t5,tr561 )
+ Đối với vua quan, nguỵ binh, công chức cũ đã chịu đầu hàng
cách mạng hoặc bị cách mạng bắt, phương pháp Hồ Chí Minh là khoan
hồng, tha thứ, động viên họ tham gia việc nước, cải tà qui chính. Theo
Hồ Chí Minh, những người này cùng
’’

máu đỏ da vàng

‘’
, cũng là
‘’
con
dân nước Việt
’’
,
‘’
chẳng qua có lúc vì lợi ích nhỏ mà quên nghĩa lớn
’’
nên
độ lượng khoan hồng, tha thứ họ. Người nhắc nhở Chính Phủ :
‘’
không
để tâm moi ra những tội cũ đem làm án mới
’’
( Hồ Chí Minh : đr, t4, tr45,
t6, tr305 )
- Với lực lượng trung gian : Phương pháp ứng xử đối với lực lượng này
của Hồ Chủ Tịch là : Đặc biệt quan tâm, tranh thủ , lôi kéo về phía lực
lượng cách mạng, đoàn kết lâu dài, trọng dụng đức tài của họ. Qua đó gay
lòng tin cho nhân dân, thực hiện đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, đồng
19
19
thời cô lập kẻ thù của dân tộc, của giai cấp. Lực lượng trung gian được Hồ
Chí Minh quan tâm đoàn kết, trọng dụng là :
+ các quan lại, nhân sỹ yêu nước ( Cụ Phan Kế Toại, Huỳnh
Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn )
+ Những trí thức yêu nước ( Luật Sư Phan Anh, Ông Đặng Thai
Mai )

+ Những người có chức sắc tôn giáo ( linh mục Phan Bá Trực,
Vũ Đình Phụng )
Tóm lại, trong phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh có phương
pháp xử lý mối quan hệ ba chiều : Cách mạng - Trung gian - phản Cách
mạng và được Hồ Chí Minh kết hợp xử lý hài hoà giữa chiến lược và sách
lược giữa cứng rắn về nguyên tắc với mềm rẻo linh hoạt trong giải pháp, từ
đó làm cho mọi tầng lớp nhân dân, mọi phần tử quốc dân tin vào chính sách
đại đoàn kết của Đảng Cộng Sản Việt Nam, tạo ra Lực - Thế - Thời cho
Cách mạng để giành chiến thắng một cách hiệu quả nhất.
Phương pháp thứ tư : Phân biệt rạch ròi ai là bạn , al là thù của
nhân dân Việt Nam, đồng thời, luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh chính
nghĩa, tôn trọng độc lập chủ quyền quốc gia của các dân tộc khác và hợp
táccùng có lợi.
Theo Hồ Chí Minh, để thực hiện đại đoàn kết, tạo ra lực lượng to
lớn của cách mạng, điều căn bản là phải biết phân biệt rõ đâu là bạn, đâu là
thù của nhân dân, của Cách mạng. Hồ Chí Minh từng nhắc nhở người cách
mạng :
‘’
chủ nghĩa Mác – Lênin dạy chúng ta rằng : Muốn loàm cách mạng
thắng lợi phải biết rõ ai là bạn , ai là thù , phải thực hiện thêm bầu bạn bớt
ikẻ thù
‘’
( Hồ Chí Minh : đr, t10, tr65 )
Từ nhận thứ cách mạng đúng đắn đó , Hồ Chí Minh cho rằng : nhân
dân Việt Nam phải phân biệt rạch ròi ai là bạn , ai là thù ở các nước đang
xâm lược Việt Nam. Chẳng hạn, phân biệt nước Pháp chân chính với nước
Pháp đế quốc chủ nghĩa, nhân dân Pháp với
‘’
Bọn cá mập thực dân dã lợi
20

20
dụng tên tuổi và danh dự của nước Pháp
‘’
đến xâm lược Việt Nam . ( Hồ
Chí Minh : đd, t1, tr191 )
Người chỉ rõ nhân dân Việt nam chỉ chống bọn thực dân phản động
Pháp để bảo vệ độc lập tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình.
Nhân dân Việt Nam không thù ghét, không chống dân tộc Pháp , không
chống nhân dân Pháp.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, hồ hí Minh
luôn nhấn mạnh : Nhân dân Việt Nam luôn tha thiết với hoà bình , mong
muốn được sống hoà bình trong độc lập dân tộc . Hoà bình lặp lại, trong
xây dựng đất nước, nhân dân Việt Nam sẽ hợp tác thật thà, bình Đẳng cùng
có lợi với những người Pháp, với những người Mỹ muốn làm ăn thật thà
bình đẳng cùng có lợi với nhân dân Việt nam.
Nhờ phân biệt rõ bạn,thù ở các nước đang xâm lược Việt Nam,
đồng thời luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh chính nghĩa, vì độc lập tự do
dân tộc , vì hoà bình thế giới, sẵn sàng hợp tác thân thiện với các nước trên
thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền cùng có lợi giữa các bên
mà nhân dân ta đã nhận được sự đồng tình ủng hộ to lớn của các lực lượng
cách mạng, yêu chuộng hoà bình, công lý trên thế giới. Đây là một trong
những nguyên nhân cơ bản góp phần quan trọng vào thành công của cách
mạng Việt Nam.
Tóm lại, muốn đoàn kết, đại đoàn kết theo Hồ Chí Minh, chúng ta
phải thực hiện đồng bộ cả bốn phương pháp , tuyệt đối không được xem
nhẹ một phương pháp nào. Có như thế mới tạo ra được sức mạnh tổng hợp
làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
CHƯƠNG HAI
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
XÂY DỰNG ĐẠI ĐOÀN KẾT TRONG THỜI ĐẠI MỚI

I - Đặc trưng mới xây dựng đại đoàn kết hiện nay
21
21
Sự thật tình hình thế giới, tình hình trong nước ở thời điểmchuyển
tiếp giữa hai thiên niên kỷ đang đặt ra những điều kiện mơí, đòi hỏi mới
với chiến lược cách mạng nói chung, chiến lược đại đoàn kết nói riêng ở
Việt Nam. Sau đây là những đặc trưng mới, rất cơ bản xây dựng đoàn kết
hiện nay:
Mấy chục năm trước đại đoàn kết theo tư tưởng hồ chí minh hình
thành trong bối cảnh dân tộc chưa độc lập hoàn toàn, đất nước chưa thống
nhất trọn vẹn. NHu cầu sống còn của nhân dân lúc đó là giải phóng dân tộc,
thống nhất và bảo vệ nước nhà
Ngày nay, Đảng và toàn dân ta xây dựng khối đại đoàn kết trong
điều kiện hoà bình, dan tộc đã hoàn toàn độc lập, đất nước đã thống nhất
trọn vẹn; Công cuộc xây dựng đất nước đang trở thành một đòi hoỉ khách
quan , cấp bách. Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong thời kỳ trước
kia được tiến hành
Trong điều kiện một nền kinh tế thuộc địa, sau đó là nền kinh tế thời
chiến, với cơ chế tập chung quan liêu bao cấp kéo dài. Ngày nay, chiến
lược đại đoàn kết được thực hiện trong một nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo cơ chế thị trường, và những qui luật vận động rất phức tạp,
mới mẻ.
- Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh ngày trước tập hợp những
người dân yêu nước bị áp bức, bóc lột dưới gót giầy thực dân phong kiến,
tiếp đó là những người dân của một đất nước độc lập, có chung một khát
vọng bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất đất nước. Thời ấy, trong đội
ngũ đại đoàn kết, số phận và đời sống của các thành viên trong khối đại
đoàn kết không có sự khác biệt lớn. Vì vậy, sự đồng cảm và chủ nghĩa bình
quân thời chiến là nhân tố có thật trong nhiều nhân tố tạo thành khối đại
đoàn kết.

Ngày nay, hoạt động kinh tế và qui luật cua thị trường tất yếu
dẫn đến sự phân tầng xã hội, phân hoá giàu - nghèo, khoảng cách về thu
22
22
nhập, về mức sống sữ là những thách đố đối với những truyền thống đồng
cảm vốn có, làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết.
- Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh trước đây hình thành và phát huy
tác dụng trong một bối cảnh quốc tế nóng bỏng, nhưng các quan hệ quốc tế
được phân định rạch ròi. Các thế lực đế quốc chủ nghĩa điên cuồng tiến
công phong trào cách mạng thế giới; lúc đó các nước trong hệ thống xã hội
chủ nghĩa, tuy có sự bất đồng nhưng ở những mức độ khác nhau, đều ủng
hộ, giúp đỡ phong trào đấu tránh vì hoà bình, độc lập, đân chủ và tiến bộ xã
hội.
Ngày nay, đời sống chính trị thế giới có sự biến động lớn, hết
sức phức tạp với những màu sắc mới. Sự sụp đổ của các nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu và sự tan rã của LIÊN XÔ gây ra những khó khăn mới
cho phong trào cách mạng thế giới.Sự tranh chấp và sự bùng nổ của các
cuộc chiến tranh sắc tộc làm cho tình hình chính trị thế giới thêm căng
thẳng. Các thế lực thù địch, đế quốc khản động chưa hề từ bỏ mưu toan
chống phá vá nô dịch các nước trrong mối quan hệ da phương, đa cực, vừa
tạo ra những thuận lợi, vừa xuất hiện những khó khăn, thử thách gay gắt
đối với các nước đang phát triển, chậm phát triển
Sự biến đổi của hoàn cảnh thế giới và trong nước đòi hỏi chúng
ta , trong khi kiên trì những nguyên tắc bất biến của chiến lược đại đoàn kết
Hồ Chí Minh, cần phải tiếp tục phát triển, sáng tạo chiến lược bách chiến
bách thắng của người sao cho pjhù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới Đó cúng
là ước nguyện và cúng là bản chất phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh
2 - Chủ trương của đảng, chính sách của nhà nước nhằm củng
23
23

cố, xây dựng đại đoàn kết trong sự nghiệp đẩy mạnhu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nghị quyết đại hội VIII ( 6 - 1996 ) của Đảng chỉ rõ: Lấy “Mục
tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh
’’
Làm điểm chung, điểm tương đồng, Đồng thời chấp nhận những
điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xoá bỏ
định kiến, mặc cảm, hướng tới tương lai, xay dựng tinh thần đoàn kết, cởi
mở, tin cậy lẫn nhau. Đây chính là cơ sở hay căn cứ để thực hiện đại đoàn
kết hiện nay.
Trên cơ sở đoàn kết như vậy, đồng thời thấm nhuần và làm
đúng theo tư tưởng đoàn kết Hồ Chí Minh trong điều kiện mới cùng với
việc kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng ta luôn giương cao
ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, coi đó là đường lối chiến lược cơ bản, lâu
dài, là nguồn sức mạnh, là động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ tổ quốc
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đảng ta cho râừng chính sách và pháp luật của nhà nước là
yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc thức hiện đại đoàn kết toàn dân. Vì
vậy, căn cứ vào yêu cầu, nguyện vọng của các giai cấp, tầng lớp, các dân
tộc nước ta hiện nay, Đảng ta chủ trương thức hiện các chính sách đối với
từng giai cấp, từng giới, từng bộ phận trong xã hội trong thời kỳ phát triển
công nghiệp hoía, hiện đại hoá như sau:
+ Đối với giai cấp công nhân : Xây dựng giai cấp công nhân
lớn mạnh về mọi mặt, phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, nâng cao
trình độ học vấn và tay nghề, có năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ
mới, có tác phong công nghệ và ý thức tổ chức, kỷ luật, lao động đạt năng
suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, làm nòng cốt trong việc xây
dựng khối liên minh công nhân - Nông dân - Trí thức và tăng cường khối
đại đoàn kết dân tộc.

24
24
Tạo thêm việc làm, cải thiện điều kiện lao động, thực hiện an toàn lao
động và vệ sinh công nghiệp, hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp. Tổ chức tốt việc đào tạo và đào tạo lại nghề nghiệp.
Tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn chỉnh chính sách tiền công lao động và
các chính sách bảo đảm về mặt xã hội. Đẩy mạnh việc phát triển Đảng
trong công nhân, quan tâm bồi dưỡng, đào tạo cán bộ xuất thân từ công
nhân.
+ Đối với giai cấp nông dân : Thực hiện tốt chính sách giao
đất, khoán rừng, ngăn chặn và khắc phục thực trạng nông dân không có
ruộng đất. Như nghị quyết hội nghị lần thứ 5 BCH trung ương Đảng khoá
VII ( 6/1993 ) nêu : Khẩn trương thực hiện giao hoặc khoán đất, rừng đến
hộ nông dân, kết hợp giải quyết có lý, có tình những tranh chấp về đất đai .
Mặt khác đổi mới tư duy và thực hiện đồng bộ công tác phát triển
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiêu thụ nông sản, hàng hoá, giải
quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống, thực hiện công
bằng xã hội giữa nông thôn và thành thị, xây dựng nông thôn mới, có chính
sách bảo hộ sản xuất cho nông dân.
Đặc biệt phải nhanh chóng, khẩn trương đổi mới hợp tác xã như văn
kiện hội nghị lần thứ 5 BCH trung ương Đảng khoá VII nêu : Công cuộc
đổi mới trong những năm tới đây cần quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo
đổi mới hợp tác xã nông nghiệp, với việc xác định hộ nông dân xã viên là
đơn vị kinh tế tự chủ .
+ Đối với tầng lớp thanh niên : tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với Đoàn thanh niên cộng sản Hồ CHí MINH ở mọi cấp, mọi ngành.
Coi trọng hơn nữa việc giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ về chính trị, tư tưởng,
văn hoá, nghề nghiệp, đạo đức, lối sống. Quan tâm đào tạo nghề và giải
quyết việc làm , đáp ứng nhu cầu học tập, lao động sáng tạo hoạt động văn
hoá nghệ thuật, thể thao và giải trí lành mạnh cho thanh thiếu niên. Tạo

điều kiện cho đoàn thanh niên thực hiện hết trách nhiệm đối với đội thiếu
25
25

×