Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Đào Duy Từ và bước hoạch định vùng văn học Đàng Trong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.13 KB, 89 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THƯƠNG HUYỀN

Đào Duy Từ và bước hoạch định vùng văn học đàng trong

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI - 2005


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THƢƠNG HUYỀN

Đào Duy Từ và bƣớc hoạch định vùng văn học đàng trong

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Mã số: 5.04.33

Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Trần Ngọc Vƣơng

HÀ NỘI - 2005


MỤC LỤC
Trang


Mở đầu ................................................................................................. 2
1. Lý do lựa chọn đề tài ......................................................................... 2
2. Nội dung và mục đích của đề tài ........................................................ 5
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................ 6
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 6
5. Kết cấu luận văn ................................................................................ 7
Chƣơng I :

Văn học Đàng Trong trƣớc thế kỷ XVII
trong cái nhìn tổng quan

1. Từ hành trình lịch sử của Đàng Trong trước thời các chúa Nguyễn ... 10
2. Đến diện mạo văn học Đàng Trong trước thế kỷ XVII ...................... 21
Chƣơng II :

Sự xuất hiện của Đào Duy Từ (1572 - 1634)

Gƣơng mặt văn học tiêu biểu của Đàng Trong thế kỷ XVII
1. Thân thế và sự nghiệp của Đào Duy Từ ............................................. 31
2. Những sáng tác văn chương của Đào Duy Từ ................................... 41
2.1. Ngọa Long Cơng vãn - Sự khẳng định một tài năng ....................... 42
2.2.Tư Dung vãn - Bức tranh đẹp về Đàng Trong thế kỷ XVII .............. 46
Chƣơng III :

Đào Duy Từ và bƣớc hoạch định
vùng văn học Đàng Trong

1. Đào Duy Từ với vai trò tiên phong của văn học Đàng Trong ............ 53
2. Những đặc điểm mang tính chất vùng văn học Đàng Trong trong sáng
tác của Đào Duy Từ ........................................................................... 57

3. Bức tranh văn học Đàng Trong sau bước đi khởi đầu của Đào Duy Từ71
Kết luận................................................................................................ 78
Thƣ mục tài liệu tham khảo ................................................................ 83

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài.
Góp phần vào dòng chảy lịch sử của văn học Việt Nam, bộ phận văn
học miền Nam có một ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Gắn với các điều kiện lịch
sử cụ thể, văn học miền Nam đánh dấu sự ra đời của nó khá muộn màng so
với văn học miền Bắc, nhưng sự muộn màng ấy lại hồn tồn khơng phải là
biên độ giới hạn cho các giá trị của nó. Sự ra đời của văn học miền Nam đồng
nghĩa với những bước định hình của một bộ phận văn học mang nhiều
phương diện mới mẻ về nội dung, hình thức...được hun đúc nên bởi sức sống,
sức sáng tạo của người Việt trên vùng lãnh thổ mang nhiều những điều kiện tự
nhiên và một số phận lịch sử nhiều biệt sắc. Đã có những giai đoạn, dường
như văn học miền Nam chưa được đánh giá ở đúng tầm giá trị của nó, sự căn
cứ vào những thành tựu văn học cụ thể gần như là nguyên nhân chủ yếu khiến
cho vùng văn học này bị lu mờ trước một miền Bắc vốn đã quá rực rỡ và chói
sáng, đến nỗi, một nhà nghiên cứu từng thốt lên ân hận rằng “tôi không hề chú
ý đến văn chương miền Nam và cứ đinh ninh là nó sẽ chẳng đi đến đâu cả” (1).
Thực tế của một quá trình dài nhìn lại văn học miền Nam dưới nhãn quan thực
sự cầu thị của nhiều thế hệ nghiên cứu đã từng bước khẳng định lại giá trị của
bộ phận văn học này. Một sự thật đã diễn ra, văn học miền Nam, kể từ khi nó
định hình, gần như ln có xu hướng đi đầu cho những khám phá mới mẻ của
các thể loại văn học hiện đại sau này như báo, tạp chí, truyện ngắn, truyện
dịch, truyện phóng tác... và dội tầm ảnh hưởng của nó ngược trở lại miền Bắc.
Sự tiên phong bao giờ cũng có ý nghĩa quan trọng, mà hình như chính số phận

(1)

Nguyễn Văn Xuân - Tuyển tập Nguyễn Văn Xuân - Nxb Đà Nẵng 2002 - Tr 539.

2


lịch sử của miền Nam đã quy định cho tính tiên phong của vùng văn học này
trên rất nhiều góc độ, vì rằng, theo hành trình của cuộc Nam tiến diễn ra trong
nhiều thế kỷ, người Việt phải không ngừng đối diện với những gì mới mẻ
khơng chỉ của tự nhiên mà của một xã hội phải biến đổi để thích nghi và tồn
tại trên vùng đất mới, xã hội ấy ít nhiều thốt ly mơ hình cũ kỹ của miền Bắc,
thứ mơ hình vốn khơng thể áp đặt y nguyên vào miền đất này. Tất nhiên, sự
thoát ly ấy khơng phải hồn tồn, nói chính xác hơn đó là qúa trình lựa chọn
giữa những gì phù hợp và khơng phù hợp để định ra một phương thức tồn tại
cho mình, những gì phù hợp thì giữ lại, những gì khơng phù hợp thì cải tiến và
biến đổi nó một cách linh hoạt và mềm dẻo hơn trong điều kiện cụ thể. Khơng
nghi ngờ gì, trong văn học cũng đã hiện hữu diễn tiến lựa chọn ấy, và dễ hiểu
vì sao văn học miền Nam lại có xu hướng phát triển khác biệt so với văn học
miền Bắc trên khá nhiều điểm. Bởi vậy, để hình dung về sự phát triển của văn
học Việt Nam trong tính đa dạng và mn màu của nó, thật khó đưa ra những
kết luận tổng quát nếu chúng ta thiếu đi một bộ phận văn học được sản sinh
trên mảnh đất phương Nam vốn dĩ lưu giữ nhiều giá trị đặc sắc.
Những nỗ lực của các nhà nghiên cứu đương đại đã cho thấy sự lưu tâm
một cách khác trước của giới nghiên cứu khoa học ngữ văn đối với vùng văn
học này. Ngoài những cơng trình mang tầm khái qt về lịch sử văn học miền
Nam thì sự chú ý đến việc tái hiện lại tầm ảnh hưởng của các tác giả văn học
là điều cần thiết và hữu dụng, đây cũng là cơng việc đã có sự triển khai trong
một số cơng trình nghiên cứu trước giải phóng của các tác giả Bùi Văn Lăng,
Tô Văn Cần, Dương Tự Quán... và hiện tại đang tiếp tục nhận được sự chú ý

cần thiết của các học giả Nguyễn Văn Xuân, Cao Tự Thanh, Nguyễn Cẩm
Thuý, Nguyễn Tú...., hầu hết đều là những nhà nghiên cứu vốn dành rất nhiều
ưu ái cho văn học Nam Hà. Hồ chung vào khơng khí ấy, chúng tơi thực hiện

3


cơng trình này những mong góp một phần cơng sức để khẳng định lại các giá
trị ưu tú của một bộ phận văn học sinh thành trên dải đất phía Nam. Trong
khn khổ của cơng trình cịn mang nhiều tính chất một bước tập sự nghiên
cứu, chúng tôi không dám mang hoài bão lớn lao khi dựng lại cả một quá trình
lịch sử với rất nhiều vấn đề phức tạp của văn học miền Nam mà ngược dòng
trở về với điểm khởi đầu của nó, tiền thân của văn học miền Nam chính định
hình từ một bộ phận văn học mới xuất hiện trong thế kỷ XVII, đó là văn học
Đàng Trong, và thiết nghĩ, bước đi đầu tiên bao giờ cũng có một vai trị quan
trọng nhất định.
Văn học miền Nam ở tiền thân của nó có gắn bó chặt chẽ với miền
Trung vì miền Trung chính là bước đệm quan trọng đầu tiên của công cuộc
Nam tiến kéo dài qua nhiều thế kỷ. Cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn tuy là
giai đoạn lịch sử đau thương của dân tộc nhưng nó lại là tiền đề cho sự tăng
tốc của chính quyền nhà Nguyễn về phương Nam để mở rộng hậu phương cho
mình, văn học Đàng Trong cũng theo đó mà phát triển. Bởi vậy, những dấu ấn
đầu tiên của văn học Đàng Trong đặc biệt có ý nghĩa đối với lịch sử của cả
một vùng văn học sau này. Lưu tâm đến vấn đề này, chúng tôi đặc biệt chú ý
tới vai trò của người đã tạo nên bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát
triển của văn học Đàng Trong đó là Đào Duy Từ. Xuất hiện trong giai đoạn
khởi hành của văn học Đàng Trong, Đào Duy Từ đồng thời là tác giả văn học
điển hình nhất của vùng đất này trong suốt chặng đường phát triển đầu tiên
1600 - 1672. Một sự nghiệp văn chương khiêm tốn, nhưng lại lưu giữ những
ấn tượng rõ nét về sự giao thoa giữa văn học Đàng Trong và Đàng Ngồi đồng

thời thể hiện những biến chuyển có tính định hình cho các đặc điểm riêng có
của văn học Đàng Trong trong điều kiện lịch sử cụ thể đã khẳng định vị trí và
tầm ảnh hưởng quan trọng của ông tới quá trình phát triển của vùng văn học

4


này. Sẽ là khiếm khuyết rất lớn nếu trong bức tranh tồn cảnh của văn học
Đàng Trong chúng ta khơng nói đến vai trị của Đào Duy Từ với vị trí là người
đã tạo ra bước hoạch định văn học cần thiết.
2. Nội dung và mục đích của đề tài.
Đi sâu vào tìm hiểu văn học Đàng Trong ở bước khởi đầu của nó, chúng
tơi nghiên cứu vấn đề theo hướng thông qua sự nghiệp sáng tác của tác giả
Đào Duy Từ nhằm tái hiện một phần nào đó những đặc điểm của vùng văn
học này được thể hiện ngay trong những sáng tác khu vực đầu tiên. Đào Duy
Từ là gương mặt văn học tiên phong của Đàng Trong, chính ơng là người đã
vẽ những nét phác thảo đầu tiên của bức tranh văn học Đàng Trong vốn dĩ
đang rất mờ nhạt trong thế kỷ XVI. Quan sát và tìm hiểu văn học Đàng Trong
trong tính lịch duyệt, chúng ta dễ nhận thấy sự xuất hiện của ơng có ảnh
hưởng quan trọng tới sự định hình và khởi sắc của vùng văn học này các thế
kỷ sau đó. Những sáng tác của Đào Duy Từ vốn không chỉ mang ý nghĩa ở sự
phá vỡ bối cảnh im lìm đang bao trùm lên văn học mảnh đất phía nam sơng
Gianh trong bước đầu của cơng cuộc Nam tiến mà cịn ghi những dấu ấn rõ
nét báo hiệu cho một xu thế phát triển văn học trên một số đặc điểm khác biệt
đầy cá tính so với văn học Đàng Ngồi, điều đó tạo nên cho văn học Việt Nam
những màu sắc mới. Chúng tôi cho rằng, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của
Đào Duy Từ là một đại diện hết sức ấn tượng cho những đặc điểm phát triển
của văn học Đàng Trong trong giai đoạn tăng tốc bước đầu trên nhiều phương
diện. Sự xuất hiện của ông là duy nhất trong bước khởi đầu của văn học Đàng
Trong, không cùng thời điểm với bất cứ một tác giả nào khác và chỉ sau ông,

văn học Đàng Trong mới bắt đầu có những dấu hiệu mới mang tính khởi sắc .

5


3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Vai trò của Đào Duy Từ đối với văn học Đàng Trong trước đây nói riêng
và văn học Việt Nam ngày nay nói chung đã được nhiều các nhà nghiên cứu
đề cập tới. Hiện tại, hầu hết các cơng trình tổng tập văn học lớn đều có những
ưu tâm đúng mức tới những giá trị văn học mà Đào Duy Từ đã tạo lập
được.Tuy nhiên, trong sự hiểu biết của mình, chúng tơi nhận thấy chưa có
những nghiên cứu nào giải quyết một cách thoả đáng một vấn đề vốn đã được
rất nhiều người nói đến, đó là Đào Duy Từ với vị trí của một gương mặt văn
học đầu tiên ở Đàng Trong, mà sự tiên phong ấy ngẫm thấy mang rất nhiều ý
nghĩa. Những ý kiến được nêu lên trong các công trình Văn học cổ Việt Nam,
Tập 2, do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1964 của nhà nghiên cứu Bùi
Duy Tân, Văn học trung đại Việt Nam của các tác giả Bùi Văn Nguyên,
Nguyễn Sĩ Cẩn, Bùi Ngọc Trì xuất bản năm 1989 của Nhà xuất bản Đại học
sư phạm..., gần đây nhất là các cơng trình của Trần Thị Liên - Đào Duy Từ
con người và tác phẩm in năm 1992 do Nhà xuất bản Văn hoá, Nguyễn Văn
Xuân với bài khảo luận Khi những lưu dân trở lại in trong tổng tập các nghiên
cứu của ông do Nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành năm 2002...đã cho chúng tôi
những gợi ý về đề tài này.Trong cái nhìn sâu sắc và đa diện hơn về một vấn đề
dù không hẳn là mới, chúng tôi những tin sự tận lực của mình sẽ mang lại
những đóng góp mới chính bằng việc làm mới vấn đề khi mở rộng biên độ giá
trị của nó.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Nội dung của bản luận văn cho phép chúng tôi trung thành với các thao
tác nghiên cứu vốn đã khẳng định tính ưu việt của nó trong các cơng trình


6


nghiên cứu văn học thời gian qua. Khảo sát tư liệu, đặt nó trong sự tổng hợp,
so sánh, thống kê và phân tích trên những phương diện cần thiết, chúng tơi
thơng qua đó đưa ra những ý kiến và kết luận của mình. Nhằm tái hiện vấn đề
trong sự quan hệ mật thiết với các yếu tố thuộc về lịch sử xã hội, một nguyên
nhân quan trọng đã tạo nên những tác động tới sự hình thành các đặc điểm
khác biệt của văn học Đàng Trong, chúng tôi đặc biệt lưu ý tới việc sử dụng
sử liệu. Chương I của luận văn dành một mục lớn nói về lịch sử của Đàng
Trong trước thế kỷ XVII, đặc biệt lưu ý tới những đặc điểm về cư dân vì đây
là tiền đề chủ yếu của sự phát triển văn học, qua đó nêu lên những ấn tuợng
chính về văn học Đàng Trong trong giai đoạn này. Trong bối cảnh ấy, Đào
Duy Từ đã xuất hiện như thế nào, sự xuất hiện ấy có giá trị ra sao đối với quá
khứ, hiện tại và cả tương lai của văn học Đàng Trong, đó là những vấn đề
được tiếp tục trình bày trong chương II và III. Thiết nghĩ, cách triển khai vấn
đề như vậy sẽ nhấn mạnh được nội dung mà chúng tôi đã lựa chọn cho bản
luận văn này là “Đào Duy Từ và bước hoạch định vùng văn học Đàng Trong”.
5. Kết cấu của luận văn.
Ngoài 2 phần Mở đầu và Kết luận, nội dung của bản luận văn được
trình bày cụ thể trong 3 chương như sau:
ChươngI : Văn học Đàng Trong trước thế kỷ XVII trong cái nhìn tổng
quan.
ChươngII : Sự xuất hiện của Đào Duy Từ (1572 - 1634), gương mặt văn
học tiêu biểu của Đàng Trong thế kỷ XVII.
Chương III: Đào Duy Từ và bước hoạch định vùng văn học Đàng
Trong.

7



CHƢƠNG I
VĂN HỌC ĐÀNG TRONG TRƢỚC THẾ KỶ XVII
TRONG CÁI NHÌN TỔNG QUAN

Danh xưng Đàng Trong, theo ý kiến của các nhà nghiên cứu, chỉ có thể
ra đời sớm nhất vào đầu thế kỷ XVII, khi xu thế ly khai giữa hai dòng họ
Trịnh Nguyễn trở nên rõ rệt hơn bằng cuộc trở về Thuận Hố của Nguyễn
Hồng năm 1600 với những nỗ lực không ngừng để kiến tạo một xã hội mới
trên mảnh đất phía Nam sơng Gianh. Thực chất, cái mầm của sự chia cắt đất
nước đã manh nha từ giữa thế kỷ XVI, khi vào năm 1558, Nguyễn Hồng (có
thuyết nói theo lời khun của Trạng Trình) xin vào trấn thủ đất Thuận Hoá
nhằm tránh cái họa sát thân từ phía người anh rể là Trịnh Kiểm. Thuận Hố
lúc đó cịn là miền đất dữ, nhiều lam sơn chướng khí, lại có qn Man hung
dữ, chưa kể sự đồn trú của quân nhà Mạc rất có thể trở thành cái bẫy nguy
hiểm cho tính mạng của Nguyễn Hồng. Bởi vậy mà Trịnh Kiểm đã khơng
ngần ngại thẳng tay trao đất ấy cho Nguyễn Hoàng “kể như mượn tay họ
Mạc” để “khỏi phải mang tiếng không biết dùng người” (2). Hệ quả của việc
đi sai nước cờ ấy là gần một thế kỷ sau, họ Trịnh ở Bắc Hà phải đối mặt với
(2)

Nguyễn Khoa Chiêm - Nam triều cơng nghiệp diễn chí - Nxb Hội nhà văn -HN 2003 - Tr 26.

8


một chính quyền ngày càng lớn mạnh của các chúa Nguyễn ở phía Nam ln
lăm le đe doạ sẽ “diệt Trịnh” bất cứ lúc nào. Khi mà sự tồn tại của các vua
Lê chỉ cịn là bù nhìn, vương quyền thực chất là ở trong tay chúa Trịnh thì
cái lá cờ “phù Lê diệt Trịnh” mà họ Nguyễn giương ra ở Đàng Trong thực sự

trở thành một mối nguy hiểm lớn cho bá quyền của họ Trịnh. Ta có thể nghi
ngờ, “phù Lê diệt Trịnh” thực ra là một cách họ Nguyễn biện hộ cho sự cát
cứ của mình mà thơi, nhưng mối thâm thù của hai dịng họ Trịnh Nguyễn
dường như đã trở thành một điều không cần phải bàn cãi. Để rồi, gần một thế
kỷ sau cuộc hành trình của Nguyễn Hồng vào Thuận Hố, lịch sử vừa phải
chứng kiến những bi thương đau đớn của một cuộc nội chiến nồi da xáo thịt
kéo dài suốt gần một thế kỷ, nhưng cùng với đó là cuộc hành trình ngoạn
mục của dòng họ Nguyễn về phương Nam mà ở điểm đến cuối cùng của nó
chính là bước hồn thiện một dải đất chiếm đến 3/5 diện tích nước ta hiện
nay.Dưới một nhãn quan công bằng, họ Nguyễn đã tạo lập nên những giá trị
lịch sử quan trọng. Bên cạnh giá trị vật chất hữu hình là một dải đất lùi sâu
về phía Nam, thênh thang với đồng bằng trù phú và những cửa biển lớn khơi
nguồn cho một nền thơng thương phát đạt thì sự xuất hiện của Đàng Trong
cịn là bước mở rộng bản đồ văn hố nước ta.Theo hành trình của người Việt
về phương Nam, chúng ta được chứng kiến sự hội nhập đầy mới mẻ của
những sáng tạo về vật chất và tinh thần đã được miền đất mới thổi vào đó cái
sinh khí cuả nó. Khi danh xưng Đàng Trong ra đời thì gần như cùng với nó là
một bộ phận văn học với những nét tươi mới đã xuất hiện bổ sung thêm cho
vẻ phong phú của văn học nước nhà. Văn học Đàng Trong đã đi rất lâu và rất
chậm cho đến khi thực sự khẳng định được giá trị của nó, điều đó do những
nguyên nhân lịch sử nhất định tác động và trì kéo mà khi nghiên cứu về văn
học vùng đất này chúng ta cần đặc biệt chú ý. Thế kỷ XVII, văn học Đàng
Trong mới thực sự khởi phát, nhưng chắc hẳn nó đã phải trải qua một quá
9


trình tuần tự nhi tiến để từng bước xây dựng và bồi đắp cho mình, quá trình
ấy gắn liền một cách hữu cơ với công cuộc Nam tiến của người Việt suốt từ
thế kỷ X. Để tìm hiểu về văn học Đàng Trong dù chỉ là một khoanh vùng
nhỏ trong giai đoạn phát triển đầu tiên của nó thì việc quan tâm đến cả một

quá trình phát triển của vùng văn học này là điều cần thiết, cách “tái hiện lại
một bức tranh tồn cảnh tồn bộ tiến trình phát triển trước đó của nền văn
học, xem xét những thành tựu, những nét khác biệt của các giai đoạn phát
triển trước đó, làm rõ những vấn đề đã xuất hiện trong quá khứ trong bối
cảnh đa dạng và phức tạp, những vấn đề đã tạo nên quán tính của một truyền
thống, quy định sự vận động tiếp tục của văn học” (3) sẽ chứng tỏ những ưu
thế của nó trong việc giúp chúng ta hình dung về diện mạo văn học Đàng
Trong một cách rõ nét.
1. Từ hành trình lịch sử của Đàng Trong trƣớc thời các chúa Nguyễn.
Cách gọi “Đàng Trong” trong thế kỷ XVII là để chỉ hai xứ Thuận Hố
và Quảng Nam. Đất ấy phía Bắc giáp ranh Nghệ An, phía Nam kéo dài tận
đến vùng ranh giới Đà Nẵng và Quảng Ngãi ngày nay.Thuận Hoá, Quảng
Nam trước đó vốn là đất của người Chăm, có lịch sử khai quốc từ những thế
kỷ đầu công nguyên. Theo sử sách, khi nhà Hán đơ hộ nước ta, có đặt ra chín
quận thuộc bộ Giao Chỉ, trong đó ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam
chính là vùng Bắc Bộ, Bắc và Trung Trung Bộ của nước ta ngày nay. Quận
Nhật Nam là cực Nam của bộ Giao Chỉ gồm năm huyện Lư Dung, Tị Cảnh,
Châu Ngô, Tây Quyển và Tượng Lâm, trong đó Tượng Lâm là huyện cực
Nam của quận Nhật Nam. Người Chăm chính từ huyện này mà khởi phát xây
dựng vương triều. Tương truyền, vào cuối đời Đông Hán, Khu Liên - con của
viên công tào huyện Tượng Lâm nhân trong xứ có có loạn bèn giết quan
(3) )

Trần Ngọc Vương - Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam - Nxb ĐH Quốc Gia Hà Nội 1999 - Tr 19.

10


huyện lệnh đi và tự xưng vương. Nước ấy, theo sách sử Trung Quốc ghi lại là
Lâm Ấp(4), lấy đất Quảng Nam ngày nay để đóng đơ. Lâm Ấp trong thế kỷ

này chỉ là một quốc gia nhỏ bé, nhưng sang đến thế kỷ X sau nhiều công
cuộc bành trướng và xâm lấn đã mở rộng ranh giới phía Bắc đến tận địa phận
Quảng Bình ngày nay, phía Nam kéo dài mãi đến Bình Định, Phú Yên.Với
tên gọi khác là Chiêm Thành(5), Lâm Ấp trong thế kỷ X đã phát triển qua bốn
vương triều và xây dựng được một lực lượng quân đội hùng mạnh và thiện
chiến. Cũng cùng thế kỷ này, Đại Việt bước vào thời đại tự chủ chấm dứt ách
đơ hộ suốt một nghìn năm của đế chế phương Bắc.Tuy nhiên, gần một thế kỷ
sau đó, mối bang giao giữa Chiêm và Việt mới bắt đầu được thiết lập, khởi
sự từ việc vua Lê Đại Hành sai sứ là Từ Mục và Ngô Tử Canh sang giao hiếu
với Chiêm Thành. Kết qủa không mấy tốt đẹp của cuộc giao hiếu này do việc
vua Chiêm sai bắt giữ hai sứ giả đã khiến cho mâu thuẫn giữa Chiêm và Việt
nảy sinh. Trước đó, vua Chiêm đã từng theo lời của Ngơ Nhật Khánh, một
người thuộc dịng dõi Ngơ Quyền dẫn thuỷ quân sang nước ta gây hấn nhưng
không thành, nay thêm việc bắt giữ sứ giả đã khiến vua Lê Đại Hành nổi
giận và đến năm 982 thì thân chinh cầm quân đi đánh Chiêm Thành. Sau
cuộc kinh binh này, vua Chiêm Thành là Ty My Thuế bị giết , kinh đô Đồng
Dương của người Chiêm bị trấn giữ và vị tân vương Chiêm buộc phải lùi sâu
về phía Nam trốn chạy. Mười năm sau cuộc Nam chinh đầu tiên kể từ khi
nước nhà độc lập, đến năm 992, Lê Đại Hành lại sai Ngô Tử An đem người
đi xây dựng con đường bộ đầu tiên thông sang đất Chiêm Thành. Nhiều nhà
sử học đã coi việc làm này của vua Lê Đại Hành là một cách khai thệ chính
thức cho ý định Nam tiến của ơng cha ta. Rất có thể, ngay từ thời kỳ này,
Theo Phan Khoang trong Việt sử xứ Đàng Trong - Nxb Văn học, tái bản 2001 thì Lâm ấp tức là Đơ Ấp của
huyện Tượng Lâm.
(5)
Cũng theo Phan Khoang, Chiêm Thành do chữ Champapura của Phạn Ngữ dịch ra gồm chữ Champa, quốc
hiệu chính thức của nước Chăm và pura có nghĩa là kinh thành.
(4)

11



người Việt đã sớm nhận thấy mối nguy hiểm khi kề cận với một quốc gia
hiếu chiến như Chiêm Thành. Sức mạnh của Chiêm Thành thể hiện ở việc
bành trướng lãnh thổ trong suốt gần mười thế kỷ trước đó là một ví dụ. Và
quả sau này, kinh đơ Thăng Long cũng đã nhiều lần phải chịu sự tấn công
dồn dập của Chiêm Thành trong thời đại nhà Trần. Mặt khác, khi ở phía Bắc,
nước ta ln trong thế đối mặt với một đối thủ hùng mạnh truyền kiếp là
Trung Quốc thì con đường mở rộng về phía Nam vừa là để dẹp đi một mối
nguy hiểm, vừa là mở thêm một hậu phương lớn để cộng thêm sức mạnh
chống chọi với phương Bắc là con đường hợp lý. Cũng như sau này, khi lối
về phương Bắc đã bị họ Trịnh bít lại thì họ Nguyễn thực hiện một cuộc kinh
dinh vĩ đại về phía Nam, âu cũng là cách tồn tại duy nhất. Như vậy, mục đích
Nam tiến manh nha từ tiền Lê rất có thể đã mang tầm nhìn chiến lược.
Nhưng theo Li Tana, một nhà Việt Nam học nổi tiếng người Úc đã có rất
nhiều nghiên cứu về lịch sử Đàng Trong lại cho rằng, các cuộc Nam chinh
thời Lê Đại Hành mang mục đích chủ yếu là “bắt người và lấy của” như một
hình thức phổ biến của chiến tranh Đông Nam Á(6). Điều này rõ ràng mang
nhiều khác biệt với các cuộc Nam chinh sau này lại mang mục đích là chiếm
đất nhiều hơn. Sức thuyết phục trong lập luận của Li Tana là ở chỗ, bà đã
đưa ra các dẫn chứng về việc Lê Đại Hành đã bắt giữ 100 cung phi Chăm và
kho tàng của người Chiêm Thành, cũng như sau đó người Chiêm Thành lại
tập hợp sức mạnh để đánh chiếm và cướp bóc người Việt trong suốt những
năm từ 979 đến 997 chính đã nói lên cái đặc trưng chủ yếu của các cuộc
chiến tranh giữa Việt và Chiêm thời kỳ này. Dẫu với một tính chất như thế
nào đi chăng nữa thì con đường dẫn sang Chiêm Thành dưới thời tiền Lê chí

(6)

Litana - Xứ Đàng trong, Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ XVII,XVIII - Nxb Trẻ 1999 - Tr25.


12


ít đã mang trong nó một giá trị định hướng khi vạch ra một lối đi, theo cả
nghĩa đen và nghĩa bóng, cho các triều đại kế tiếp.
Sang thời Lý, các cuộc tranh giành về đất đai giữa Chiêm và Việt diễn
ra gay gắt hơn.Chúng ta ghi nhận ít nhất là năm cuộc giao chiến giữa Chiêm
và Việt vào các năm 1020,1043, 1044, 1128, 1132. Sử gia Phan Khoang
đánh giá rằng “từ triều Lý, nền độc lập đã vững vàng nên các triều đại ta đều
muốn bành trướng về phía Nam, và bắt buộc nước Chiêm Thành, chưa được
khai hoá, yếu nhỏ hơn mình phải giữ bổn phận của một nước phiên thuộc
như mình đối với Trung Quốc. Cịn Chiêm Thành thì vì cái thâm thù đối lập
và nhục nhã như vua bị giết, kinh đô bị tàn phá đã chịu đựng từ lâu đời, vì
cái bản tính hiếu chiến, cái nhu cầu của một xứ nghèo nàn đã phải tìm mọi
cách để chống đối, để xâm lăng trong đó có sự thần phục và triều cống Trung
Quốc để dựa thế, mà cách ấy, Đại Việt muốn ngăn cản”.(7) Sau các cuộc giao
tranh ấy, hành trình Nam tiến đã đi những bước ngoạn mục dưới triều Lý, thu
về ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh do vua Chiêm là Chế Củ dâng nạp để
xin được toàn mạng. Ba châu ấy sau được nhà Lý đổi thành Bố Chính, Lâm
Bình và Minh Linh thuộc vào địa phận của tỉnh Quảng Bình và phía Bắc
Quảng Trị ngày nay. Nhà Trần đi tiếp con đường về phương Nam một cách
hồ bình hơn trên cơ sở của mối hơn nhân chính trị bằng việc gả công chúa
Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân và nhận lại hai châu Ơ, Lý là
món lễ vật cưới của vị vua này vào năm 1036. Sự kiện này là nguyên nhân
của hàng loạt những câu ca chê cười của người trong triều ngoại nội, ví như
việc vua nhà Hán gả chiêu quân cho Hung Nô vậy. Châu Ô và châu Lý sau
đổi thành Thuận Châu và Hố Châu thuộc vào phía Nam của Quảng Trị kéo
dài đến Bắc Quảng Nam ngày nay. Vùng đất này, tuy là đã thuộc về Đại
(7)


Phan Khoang - Việt sử xứ Đàng Trong - Nxb Văn học tái bản năm 2001 - Tr40

13


Việt, nhưng luôn trong thế thiếu ổn định do người Chiêm Thành vì hối tiếc
đất cũ mà vẫn thường hay tìm cách lấy lại, nhất là khi Đại Việt đối với
Chiêm Thành cũng có những hành động khơng mấy minh bạch như việc
cướp lại công chúa Huyền Trân sau khi Chế Mân chết năm 1307. Đặc biệt,
dưới vương triều của vị vua Chiêm anh hùng là Chế Bồng Nga, nước ta đã
không ngừng phải hứng chịu những cơn thịnh nộ của người Chiêm Thành,
quân đội Chiêm Thành nhiều lần đã kéo ra đến tận kinh đô Thăng Long đánh
phá và cướp bóc. Tuy nhiên, sau khi Chế Bồng Nga mất thì Chiêm Thành
cũng đồng thời chấm dứt thời kỳ cực thịnh và từ đây suy yếu rất nhanh. Năm
1400, sau khi tiếm ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly đem quân đi đánh lấy đất
Chiêm Động và Cổ Lũy Động, những vùng đất màu mỡ cuối cùng của người
Chiêm Thành, đặt bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, thâu tính nốt địa phận
của phía Nam Quảng Nam và một phần phía Bắc của Quảng Ngãi ngày nay.
Vùng đất này đã bị giành đi lấy lại liên tục trong suốt nhiều năm sau đó qua
những cuộc chiến cù cưa khơng ngừng giữa Việt và Chiêm, khi nước ta bị
nhà Minh đánh chiếm thì các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa tuy vẫn được
người Việt đặt quan, nhưng đó chỉ là trên danh nghĩa, thực chất thì vẫn là đất
thuộc về Chiêm Thành. Chỉ đến khi nhà Lê đánh dẹp được giặc Minh, đất ấy
mới được lấy lại đưới thời Lê Thánh Tông. Dưới triều đại trị vì vủa vị vua
“anh hùng tài lược” này, nước ta bước vào thời kỳ cực thịnh, và đây cũng là
thời kỳ mà các vùng đất trong xứ Thuận Hoá, Quảng Nam được đặt trong tay
người Việt một cách yên ổn hơn cả. Năm 1466, Lê Thánh Tông đặt nước ra
làm mười hai đạo thừa tuyên, trong đó thừa tun Thuận Hố là chỉ vùng đất
từ núi Hồnh Sơn đến phía Bắc tỉnh Quảng Nam ngày nay, bao gồm hai phủ

Tân Bình và Triệu Phong. Đến 1471, lại đặt thêm thừa tuyên Quảng Nam để
chỉ phần đất phía Nam của Quảng Nam ngày nay kéo dài đến Bình Định.
Danh từ Quảng Nam chính là có từ thời này. Các thừa tuyên được đổi thành
14


xứ vào năm 1490, vậy nên thừa tuyên Thuận Hoá, thừa tuyên Quảng Nam
mới gọi thành xứ Thuận Hoá và xứ Quảng Nam. Sau vua Lê Tương Dực có
đổi xứ thành trấn, nhưng cách gọi xứ xem ra vẫn phổ biến hơn cả.
Sự đồi bại của các ông vua như Lê Tương Dực, Lê Uy Mục đã đưa
nước Việt bước vào thời kỳ đen tối, chẳng bao lâu sau thì dẫn đến sự chun
quyền rồi thốn đoạt ngơi vị của Mạc Đăng Dung. Nhờ có sự tận nghĩa của
người trung thần Nguyễn Kim, hậu duệ của nhà Lê, Lê Ninh, được khng
phị lên làm vua Lê Trang Tơng đưa cơ nghiệp nhà Lê trung hưng lên trên
đất Thanh Hoá. Đất nước bước vào cuộc phân tranh máu lửa mà lịch sử gọi
đó là thời kỳ chiến tranh Nam Bắc triều, một bên là Bắc triều - Nhà Mạc và
một bên là Nam triều - Nhà Lê trung hưng. Những tưởng sự chia cắt đó đã đủ
bi kịch khi người Việt phải dấn thân vào một cuộc nội chiến dầu sôi lửa
bỏng, nhưng không ngờ cái mầm mâu thuẫn lại tiếp tục nảy ra trong nội bộ
Nam triều, bắt đầu từ những tham vọng chuyên quyền của Trịnh Kiểm.
Nguyễn Kim mất khi sự nghiệp trung hưng còn dở dang, hai người con trai
Nguyễn ng và Nguyễn Hồng cịn nhỏ tuổi, tất cả quyền bính được trao
lại cho người con rể là Trịnh Kiểm. Nhưng sự trưởng thành từng bước của
Nguyễn Uông và Nguyễn Hồng, cộng thêm vai trị chính thống của họ trong
việc có thể tiếp tục là người duy trì đại sự trong công cuộc trung hưng triều
Lê khiến cho tiền đồ của Trịnh Kiểm có nguy cơ thất bại. Khơng rõ, cái chết
của Lạng quận cơng Nguyễn ng có phải là bước thủ ác của Trịnh Kiểm
như nhiều người đã cho hay không, sự ấy cho đến nay chúng ta không tường
được, nhưng chắc chắn Đoan quận công Nguyễn Hoàng sớm nhận thấy
những mối nguy hiểm sẽ đến với mình khi rõ ràng Trịnh Kiểm đang rất nung

nấu muốn nhổ bỏ cái gai trước mắt, bởi vậy mới xin được vào trấn thủ đất
Thuận Hoá, trước mắt là để tránh mối hiểm nguy đang kề cận, sau mới tính

15


kế lâu bền. Năm 1558, hành trình của Nguyễn Hồng và những người tuỳ
tùng, hương khúc của ông về miền đất sau dải Hoành Sơn đã trở thành một
bước ngoặt trọng đại. Sự ra đi của một dòng họ với mục đích ban đầu khơng
mấy gắn kết với ý định Nam tiến sâu hơn và xa hơn lại đã trở thành một cuộc
kinh dinh vĩ đại đưa công cuộc Nam tiến đã được ông cha ta khởi xướng từ
nhiều thế kỷ trước đó đi đến cái đích cuối cùng của nó. Trong gần nửa thế kỷ
đầu trên đất Thuận Hố, những kiến tạo của Nguyễn Hoàng cho một xã hội
cát cứ vẫn cịn dè dặt và cầm chừng, có thể vì mục đích trở ra đất Bắc và
giành lại quyền bính giữa chốn nội triều vẫn cịn thơi thúc Đoan quận công.
Bởi vậy, cũng không ngẫu nhiên mà sau khi Trịnh Kiểm mất, Nguyễn Hoàng
lại trở ra đất Bắc và ở đó đến tám năm như một sự “thăm dị” cần thiết.
Nhưng trước “đối thủ” mới, người cháu Trịnh Tùng vốn tài ba, lại đa mưu
túc trí và rõ ràng khơng hề tỏ ra có một chút chủ ý nhượng bộ nào với người
cậu của mình, lối về phương Bắc như cánh cửa đã đóng chặt trước mắt
Nguyễn Hồng, lúc này, con đường quay trở về Thuận Hoá để làm chủ xứ sở
thênh thang của mình là sự lựa chọn sáng suốt hơn cả. Lập kế quay về, ý
định cát cứ của Nguyễn Hoàng đến đây là rõ ràng, và cũng chỉ từ thời điểm
ấy, Đàng Trong sẽ trỗi dậy với một sức sống mới để khẳng định số phận lịch
sử của mình một cách rõ nét và nhiều ý nghĩa hơn cả.
Cùng với sự mở rộng lãnh thổ về phía Nam, chúng ta tất yếu hình
dung đến các nguồn cư dân sẽ theo nhiều con đường đổ về miền đất này. Nếu
như các số liệu của sự giãn nở về lãnh thổ có thể được thống kê lại một cách
tương đối rõ ràng theo năm tháng và phạm vi gần với một con số chính xác
hơn cả thì số liệu về sự gia tăng cư dân ở Đàng Trong lại rất khó xác định.

Nhà nghiên cứu Li Tana đã có rất nhiều nỗ lực để giải quyết vấn đề không dễ
khả thi này bằng cách căn cứ theo số làng và kích cỡ làng, một đơn vị xã hội

16


rất quan trọng của Việt nam để tính tốn ra các con số. Cách làm này khá có
sức thuyết phục, và các số liệu đưa ra dù khó có thể kiểm chứng được về độ
chính xác tuyệt đối nhưng chí ít cũng cũng tạo được giá trị tin tưởng nhất
định. Đó là về số liệu, nhưng nếu để xác định các vấn đề liên quan đến tính
chất và thành phần cư dân Đàng Trong thì xem ra cơng việc này có lẽ sẽ giản
đơn hơn chút ít. Mà điều này, trên nhiều phương diện lại rất có ý nghĩa khi ta
muốn tìm hiểu về các giá trị văn hố và văn học của vùng đất này.
Đi cùng Nguyễn Hoàng vào Thuận Hố năm 1558 có “hàng ngàn qn
sĩ và gia đình họ, vơ số dân nghèo vốn là nạn nhân của bọn địa chủ, cường
hào bá ác”(8), đó là những lời mà Việt Chương đã ghi lại trong cuốn truyện
lịch sử của ông viết về thời Trịnh Nguyễn tranh hùng. Chắc chắn, tác giả đã
dựa theo những những tư liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn mà ghi lại.
Chúng ta sơ qua những sử liệu đó. Đại Nam thực lục tiền biên ghi “Mậu ngọ
(1558), mùa đông, tháng 10, chúa bắt đầu vào trấn Thuận Hoá, 34 tuổi.
Những người bộ khúc đồng hương ở Tống Sơn và những người nghĩa dũng
xứ Thanh Hoa đều vui lòng theo đi”(9). Nam triều cơng nghiệp diễn chí viết
rằng “ Đoan quốc cơng cùng với cơng tử Thái bảo Hồ quận cơng, Thụy
quận cơng và các tướng Văn Nham, Thạch Xuyên, Tiền Trung, Tường Lộc
đem một nghìn quân thuỷ ra cửa biển nhằm theo hướng hai xứ Thuận Hoá
mà tiến”(10). Hai tư liệu dẫn trên chứng tỏ, năm 1558, cuộc di cư vào Thuận
Hoá đã diễn ra với quy mô lớn về người. Lịch triều hiến chương loại chí
cũng ghi nhận sự kiện này là một trong những đợt di cư có quy mơ lớn từ
phía Bắc xuống phía Nam trước đợt di dân lớn thứ hai vào thế kỷ XVIII.
Đáng chú ý, thành phần tham gia vào dòng di cư trọng đại này đa phần là dân

(8)

Việt Chương - Thời Nam Bắc triều - Nxb Phụ nữ 2001 - Tr11.
Quốc sử quán triều Nguyễn - Đại Nam thực lục tiền biên - Nxb Sử học, HN 1962 - Tr31.
(10)
Nguyễn Khoa Chiêm - Nam triều cơng nghiệp diễn chí - Nxb Hội nhà văn , HN 2003 - Tr 26.
(9)

17


võ biền, đây là một đặc điểm hết sức nổi bật. Thế bất ổn của Đàng Trong khi
ở vào vị trí mà các cuộc tranh chấp đất đai giữa người Việt và Chiêm cho
đến cuối thế kỷ XVI vẫn chưa ngã ngũ đã quy định cho sự định cư của giới
võ biền trên mảnh đất này. Một điều dễ nhận thấy, những vùng đất gần với
ranh giới chiến tranh hơn cả là những vùng ln ln được triều đình cử các
võ tướng và binh lính đến trấn giữ một cách chặt chẽ. Sự trấn thủ của các võ
tướng ở mỗi nơi này chỉ gắn với một thời hạn nhất định, sau đó theo mệnh
lệnh của triều đình mà họ trở về Bắc hay được cắt cử đến nơi khác. Đơn cử
như việc năm 1570, trấn thủ xứ Quảng Nam là Nguyễn Bá Quýnh được gọi
về trấn thủ đất Nghệ An, cơng việc của ơng ta được giao lại cho Nguyễn
Hồng kiêm lãnh. Phần quân lính cũng vậy, mỗi khi hết chiến tranh thì họ trở
về quê hương bản quán, nhưng khơng ngoại trừ trường hợp những người vì
có ưu ái với miền đất mới mà ở lại để lập nghiệp. Thiết nghĩ, con số ấy có thể
khơng nhiều, nhưng rõ ràng lại gây những ảnh hưởng nhất định đến thành
phần cư dân Đàng Trong qua nhiều thế kỷ. Khơng có những số liệu rõ rệt về
việc định cư của binh lính ở lại Thuận Hố, Quảng Nam sau các cuộc chiến
tranh với Chiêm Thành, nhưng những tư liệu được tìm thấy đã cho chúng ta
biết thêm về một sự thật đã xảy ra trong lịch sử định cư của Đàng Trong.
Một tấm bia khắc vào năm 1448 được tìm thấy tại Quảng Nam cho biết, ơng

tổ của một dịng họ Trần đã được chiêu mộ từ Thanh Hoá đi đánh giặc trên
đất Chiêm Thành cùng với gia đình. Sau ơng ở lại Quảng Nam và chiêu mộ
dân đến lập làng quanh lưu vực một con sông lớn đổ ra biển. (11) Rõ ràng, khả
năng lưu lại của lính tráng sau chiến tranh trên đất Thuận Hoá, Quảng Nam
đã diễn ra trong nhiều thế kỷ kể từ những chặng Nam tiến đầu tiên là điều
không nên nghi ngờ. Tất nhiên, họ không phải là thành phần cư dân duy nhất
Xem: Litana - Xứ Đàng Trong - Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ XVII,XVIII - Nxb Trẻ - HN, 1999 Tr 31.
(11)

18


nhưng lại có những ảnh hưởng khá cốt lõi. Ngay cả sau này, chính quyền
Đàng Trong ln có xu hướng được tổ chức như một chế độ quân sự do vừa
phải đối mặt với người Chiêm Thành ở phía Nam, vừa chịu sự tấn cơng của
họ Trịnh ở phía Bắc. Thế nguy hiểm ấy buộc Đàng Trong phải đặt tầm quan
trọng của quân sự lên hàng đầu, đặc biệt vào thế kỷ XVII, quân với dân gần
như là một, điều này giải thích cho việc tại sao trong Đại Nam thực lục tiền
biên ta rất hay gặp cách gọi “quân dân”.
Đối tượng khác trong thành phần cư dân của Đàng Trong chính là
những tầng lớp dân cư thuộc vào hạng bần cùng trong xã hội. Họ là những
người nghèo khổ, vì khơng thành trong cuộc mưu sinh trên vùng đất cũ mà
chấp nhận xa rời quê hương bản quán với hi vọng đánh đổi cuộc đời khốn
khó ấy thành cuộc sống tốt đẹp hơn trên vùng đất mới. Chiếu di dân được
ban ra dưới thời Lý có ý nghĩa vơ cùng quan trọng khi lần đầu tiên, một cách
chính thức, người Việt với hành trang cơ bản là niềm tin và những hi vọng
đổi đời được họ mang theo tới nơi sẽ trở thành quê hương thứ hai của mình.
Ta khơng nói đến các cuộc di cư lẻ tẻ chắc đã diễn ra dưới bất kỳ triều đại
nào , kể cả từ trước thế kỷ X khi cuộc Nam tiến chưa diễn ra, qua các hình
thức khác nhau mà hơn nhân có thể là một ví dụ...thì chiếu di dân năm

1075(12) có lẽ là văn bản chính thức đầu tiên của nhà nước phong kiến kêu
gọi người Việt đi lập nghiệp trên vùng đất mới. Sau này, vào sau mỗi cuộc
mở rộng địa giới, các chiếu kêu gọi cư dân đến Thuận Châu, Hoá Châu, đến
Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa vẫn khơng ngừng được ban ra, và người Việt như
dịng chảy đều đặn ngấm về phương Nam. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng
hưởng ứng chiếu di dân có lẽ đa phần vẫn là những người nghèo khổ và hành
trình đến vùng đất mới là việc thực thi một khát vọng về cuộc sống mới tốt
(12)

Đại Việt sử ký toàn thư - Tập 1 - Nxb Văn hố thơng tin , 2004 - Tr 329

19


đẹp hơn. Một logic thơng thường, những người giàu có khơng vì lẽ gì mà đến
một nơi xa lạ và rõ ràng hứa hẹn nhiều bất trắc như Thuận Quảng lúc này trừ
trường hợp có bất mãn với chế độ, vì tù tội hay vì trốn chạy một mối nguy
hiểm nào đó như trường hợp của Nguyễn Hồng chẳng hạn. Đặc điểm này về
tính chất và thành phần của cư dân Đàng Trong cũng rất đáng lưu tâm bởi nó
sẽ tạo ra những ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình phát triển kinh tế và văn hóa
xã hội của Đàng Trong sau này. Chắc chắn, trừ những người đi theo sự công
cán, những người mang khát vọng mưu sinh trên miền đất mới, vào Thuận
Quảng không phải là một lựa chọn dễ dàng đối đa phần cư dân. Bởi vậy mà
vào đầu thế kỷ XV, khi nhà Hồ chiếm các vùng đất Chiêm Động và Cổ Luỹ
Động của người Chiêm, lệnh cho những người có tài sản nhưng khơng có đất
đai phải vào đây khai khẩn, và để đề phòng họ trở ra, Hồ Quý Ly đã phải
lệnh khắc chữ lên tay họ. Dẫn chứng lịch sử này cho thấy, hành trình vào
Nam khơng phải là con đường được tự nhiên lựa chọn của nhiều người mà
đơi khi nó là kết quả của sự cưỡng ép. Sự cưỡng ép ấy cũng đồng thời hiển
hiện ở góc độ hơi khác hơn, thuộc về luật lệ của triều đình, bởi cứ theo như

sự ghi chép của Lịch triều hiến chương loại chí, phần Hình luật chí thì những
miền đất xa nhất của các vùng Thuận Châu, Hố Châu cịn là nơi mà nhà Lê
lưu đày các tội đồ.
Ngoài các thành phần cư dân người Việt, khả năng lưu lại trên đất
Thuận Quảng và chấp nhận sống cộng cư của người Chăm chắc không phải
là trường hợp ngoại lệ. Sử gia Phan Khoang lưu ý : “trái với trước kia (thời
Hồ Quý Ly đánh chiếm Chiêm Động và Cổ Luỹ Động năm 1400), người
Chiêm Thành đã bỏ Chiêm động và Cổ Luỹ động mà đi khi dân ta đến, lần
này ( Lê Thánh Tông lấy lại hai miền ấy năm 1461) người Chiêm khơng đi,
vì họ biết rằng đất đai phía Nam khơng màu mỡ bằng, và cũng khơng cịn hi

20


vọng báo phục nên chấp nhận lệ thuộc ta”. (13)Các tác phẩm lưu giữ những tư
liệu sử học về thế kỷ XVII, XVIII ở Đàng Trong sau này đều cho thấy người
Chăm đã có vai trị nhất định trong miền Thuận Quảng, Phủ Biên tạp lục của
Lê Quý Đôn hay Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán - một lão tăng người
Trung Hoa đã đến xứ Đàng Trong theo lời thỉnh mời của chúa Nguyễn Phúc
Châu đều có ghi lại việc chính quyền Đàng Trong đã dụng rất nhiều người
bản xứ vào đội ngũ binh lính của mình.
Trên tất cả những đặc điểm lịch sử phông nền ấy, văn học Đàng Trong
tất yếu chịu những hệ quả tác động nhất định.
2. Đến diện mạo của văn học Đàng trong trƣớc thế kỷ XVII.
Trong bối cảnh của những đặc điểm xã hội quy định cho sự thiếu thốn
những vấn đề cốt lõi sở dĩ tạo nên sức mạnh cho một nền văn học, văn học
Đàng Trong đã đi qua nhiều thế kỷ một cách không mấy khởi sắc. Sự trống
trải của đội ngũ sáng tác gần như là nguyên nhân cơ bản nhất cho bầu khơng
khí ảm đạm của văn học thành văn. Cho đến thế kỷ XVI, trong khi Đàng
Ngồi đã có đủ tự tin để từng bước tơ đậm tiếp những mảng màu trên bức

tranh văn học của mình nhằm làm dồi dào thêm cho sự phong phú của nó thì
văn học Đàng Trong gần như vẫn đang chỉ loay hoay với những nét phác
thảo. Viết về văn học Thuận Quảng những thế kỷ trước XVII, Lê Quý Đơn
ghi rằng: “đất Thuận Hố ở thời Nhuận Hồ có cha con Đặng Tất vì tài tướng
văn tướng võ mà nổi danh. Ở Quốc triều vào khoảng Thuận Thiên Hồng Đức
thì có Nguyễn Tử Hoan làm qn sư, Bùi Dục Tài đỗ tiến sĩ, thời ngụy Mạc
thì có Dương Văn An đỗ cao, làm sách Ô Châu cận lục” , (14) căn cứ vào dẫn
chứng này cho thấy con số ít ỏi của những nhân tài trên lĩnh vực văn chương
13)
(14)

Phan Khoang - Việt sử xứ Đàng Trong - Nxb Văn học , HN 2001 - Tr102.
Lê Quý Đôn - Phủ biên tạp lục - Nxb Khoa học xã hội, HN 1977 - Tr 242.

21


của một xứ rộng lớn như Thuận Hoá, đấy là chưa kể đến hầu hết những tác
giả này ghi dấu sự nghiệp văn chương của họ trong sự liên kết không mấy
chặt chẽ với mảnh đất bản xứ, do họ đều định cư chủ yếu ở Đàng Ngoài sau
khi đạt thành trong hoạn lộ. Về sáng tác của các tác giả trên đất Thuận
Quảng, chúng ta họa hoằn mới có cơ hội ghi nhận một vài dấu ấn của văn
học thành văn, vài ba câu thơ của các văn nhân Thuận Quảng được ghi lại
trong Ô Châu cận lục của Dương Văn An có lẽ là những chứng tích duy
nhất, nhưng sự ghi chép vắn tắt và thâu lược ấy khơng đủ để tạo nên một
hình dung rõ ràng về văn học vùng đất này. Theo Ô Châu cận lục, quyển 5,
viết về văn nhân đất Ơ Châu thì có lưu tên của 24 người tài, những người này
đều được ghi là có sáng tác thơ văn, nhưng các tác phẩm của họ lại hầu như
không lưu lại, dù chỉ ở dạng nhan đề tác phẩm. Duy có Trần Hoằng Củ và
Phạm Phi Diệu có được ghi chép về thi phẩm, nhưng các thi phẩm này chúng

ta cũng chỉ biết đơi câu và hồn tồn khơng rõ thời điểm sáng tác. Trần
Hoằng Củ, người xã Hoài Tài, huyện Tư Vinh có làm bài thơ rằng:
“Quận học sinh viên thiên hữu dư
Văn chương đức hạnh mạc gia chư,
Thái bình tha nhật quan gia cảo
Độc hỉ tằng vô, ngụy hiệu thư”
(Dịch nghĩa:
Học trị, những người có học trong quận có đến hơn nghìn người
Mà văn chương đức hạnh chẳng có ai ra gì
Sau này, khi đất nước thái bình mà giở sách vở của nhà ra xem
Mừng là riêng ta khơng có quyển sách nào đề ngụy hiệu của
giặc)
22


Phạm Phi Diệu, người xã Đại Phúc Lộc huyện Lệ Thuỷ làm bài thơ tự
thuật có câu:
“Bàng chiếm dưỡng ngơ mai bạch tuyết
Tâm lao lậu bỉ thảo huyền nhân ...”
(Dịch nghĩa:
Đứng ngồi xem xét ni dưỡng khí tiết của ta
Lận đận nhọc lòng bỉ lậu thay lũ người kia đen tối như cỏ rác...).
Trong khi chưa thể xác định một cách rõ ràng hơn nữa về những vấn đề
liên quan đến các thi phẩm kể trên, chúng ta phải chấp nhận một thực tế rằng,
việc dựng lại bức tranh văn học Đàng Trong trước thế kỷ XVII quả là điều
khó khăn khi ta phải đối diện với một hoàn cảnh là sự gần như trống rỗng
của tư liệu. Cần phải giải thích thế nào về tính chất yếu thế của văn học Đàng
Trong trong các thế kỷ này, thiết nghĩ, chúng ta nên tìm lời giải đáp trong bối
cảnh lịch sử cụ thể của xã hội Đàng Trong .
Như đã nói, cho đến tận năm 1471, hai xứ Thuận Quảng mới thuộc về

người Việt một cách tương đối chắc chắn, sau cuộc kinh binh của Lê Thánh
Tơng, bình ổn xã hội và xây dựng chính quyền khơng thể nhanh chóng thiết
lập trong một sớm một chiều, nhất là khi Thuận Quảng luôn trong thế của
một vùng biên viễn, sự hữu ý của triều đình về việc phát triển giáo hố chắc
cũng kém thiết tha. Lê Thánh Tơng đã có những quyết định mới trong việc
quản lý và kiện toàn nhà nước phong kiến, năm 1466 đặt nước ra làm 12 đạo
thừa tuyên, lúc đó vùng đất thuộc xứ Quảng Nam đã thuộc về người Việt
nhưng không thấy được nhắc đến, mãi đến 1471 mới đặt thêm thừa tuyên
Quảng Nam, chứng tỏ xứ ấy vì ở xa quốc triều, lại mới thuộc về đất đai Đại

23


×