Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Ý thức xã hội (2) Ý thức xã hội (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (40.49 KB, 5 trang )

1.1. Ý thức khoa học
Ý thức khoa học vừa là một hình thái ý thức xã hội, vừa là một hiện
tượng xã hội đặc biệt. Xem xét khoa học như một hình thái ý thức xã hội
khơng thể tách rời xem xét nó như một hiện tượng xã hội. Ý thức khoa học –
với tính cách là một hình thái ý thức xã hội – là hệ thống tri thức phản ánh
chân thực dưới dạng lôgic trừu tượng về thế giới đã được kiểm nghiệm qua
thực tiễn. Đối tượng phản ánh của ý thức khoa học bao quát mọi lĩnh vực của
tự nhiên, xã hội và tư duy. Đó là một trong những sự khác biệt giữa ý thức
khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác.
Hình thức biểu hiện chủ yếu của tri thức khoa học là phạm trù, định
luật, quy luật.
Tri thức khoa học thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác, hình
thành các khoa học tương ứng với từng hình thái ý thức đó. Ví dụ: Ý thức
chính trị và chính trị học, ý thức đạo đức và đạo đức học, ý thức nghệ thuật và
nghệ thuật học, ý thức tôn giáo và tôn giáo học. Nhờ tri thức khoa học, con
người không ngừng vươn tới cái mới “sáng tạo ra một thế giới mới” và ngày
càng làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình. Xét về đối
tượng, các khoa học chia thành những khoa học tự nhiên – kỹ thuật, nghiên
cứu các quy luật của tự nhiên, các phương thức chinh phục và cải tạo tự
nhiên; và những khoa học xã hội nghiên cứu những hiện tượng xã hội khác
nhau, các quy luật vận động, phát triển của chúng và cả bản thân con người
như là một thực thể xã hội. Cùng với sự phát triển của sản xuất và thực tiễn xã
hội, khoa học cũng khơng ngừng phát triển. Trong q trình đó, vai trò của
khoa học trong đời sống xã hội ngày càng tăng lên. Ngày nay, trong sự tự
động hóa sản xuất, tri thức khoa học được kết tinh trong mọi nhân tố của lực
lượng sản xuất – trong đối tượng lao động, kỹ thuật, q trình cơng nghệ và
cả trong những hình thức tổ chức tương ứng của sản xuất; người lao động
khơng cịn là nhân tố thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chủ yếu là
vận dụng tri thức khoa học để điều khiển quá trình sản xuất; khoa học cho
phép hoàn thiện các phương pháp sản xuất, hoàn thiện việc quản lý kinh tế.
Hơn nữa khoa học còn trở thành một ngành hoạt động sản xuất với quy mô


ngày càng lớn, bao hàm hàng loạt các viện, phịng thí nghiệm, trạm, trại, xí
nghiệp với số cán bộ khoa học ngày càng tăng, vốn đầu tư ngày càng lớn, hiệu
quả đầu tư ngày càng cao.

1.2. Ý thức thẩm mỹ
Ý thức thẩm mỹ là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong


quan hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo Cái Đẹp. Trong các hình thức
hoạt động thưởng thức và sáng tạo Cái Đẹp thì nghệ thuật là hình thức biểu
hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ. Nghệ thuật ra đời từ rất sớm ngay từ khi xã
hội chưa phân chia thành giai cấp. Quá trình hình thành nghệ thuật gắn liền
với lao động của con người, với thực tiễn xã hội. Những dấu vết đầu tiên của
nghệ thuật đều thuộc về thời kỳ con người đã biết sản xuất ra những công cụ
bằng đá, bằng xương, bằng sừng…
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, nghệ thuật bắt nguồn từ tồn
tại xã hội.
Khác với khoa học và triết học, phản ánh thế giới hiện thực bằng khái
niệm, phạm trù, quy luật, nghệ thuật phản ánh thế giới một cách sinh động, cụ
thể bằng hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật tuy cũng phản ánh cái
bản chất của đời sống hiện thực nhưng phản ánh thông qua cái cá biệt, cụ thể
– cảm tính, sinh động. Hình tượng nghệ thuật cũng nhận thức cái chung trong
cái riêng, nhận thức cái bản chất trong cái hiện tượng, nhận thức cái phổ biến
trong cái cá biệt, song cái cá biệt trong nghệ thuật phải là cái cá biệt có tính
điển hình và nếu nhà nghệ thuật tạo ra cái điển hình thì phải là cái điển hình
đã được cá biệt hóa. Sự phát triển của nghệ thuật, cả nội dung và hình thức,
khơng thể tách khỏi sự phát triển của tồn tại xã hội. Nhưng nghệ thuật có tính
độc lập tương đối rất rõ nét trong sự phát triển của mình. Nó khơng phải bao
giờ cũng phản ánh tồn tại xã hội một cách trực tiếp, dễ thấy. Khi phản ánh thế
giới hiện thực trong các hình tượng nghệ thuật chân thực và có giá trị thẩm

mỹ cao, nghệ thuật đã tác động đến lý trí và tình cảm của con người, kích
thích tính tích cực của con người, xây dựng ở con người những hành vi đạo
đức tốt đẹp. Trong xã hội có giai cấp, nghệ thuật bao giờ cũng mang tính giai
cấp. Tính giai cấp của nghệ thuật biểu hiện trước hết ở chỗ nó khơng thể
không chịu sự tác động của thế giới quan, các quan điểm chính trị của một
giai cấp, khơng thể đứng ngồi chính trị và các quan hệ kinh tế. Trong xã hội
chia thành các giai cấp mà phủ nhận mối liên hệ của nghệ thuật với chính trị
thì hồn tồn sai lầm. Khi nhấn mạnh tính giai cấp của nghệ thuật trong xã hội
có giai cấp, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin khơng phủ nhận tính nhân
loại chung của nó. Khơng ít tác phẩm nghệ thuật mà giá trị của chúng được
lưu truyền khắp thế giới qua các thời đại, mặc dù tác giả là đại biểu của một
giai cấp nhất định. Có những nền nghệ thuật của một dân tộc nhất định nhưng
đã trở thành những giá trị văn hóa tiêu biểu của cả nhân loại.
5. Hình thái ý thức chính trị là hình thái ý thức chỉ xuất hiện và tồn tại trong
các xã hội có giai cấp và nhà nước. Nó phản ánh các quan hệ chính trị, kinh
tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia, cũng như thái độ của


các giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Ý thức chính trị thực tiễn hình thành
trực tiếp từ hoạt động thực tiễn trong mơi trường chính trị của xã hội. Ở trạng
thái tâm lý xã hội, những cảm xúc và tâm trạng về chính trị của quần chúng
thường thiếu bền vững và không ổn định. Song, những trạng thái tâm lý xã
hội như vậy lại có vai trị to lớn và trực tiếp đối với hành vi chính trị của quần
chúng đơng đảo; thơng qua đó hệ tư tưởng chính trị tác động vào đời sống
chính trị của xã hội. Hệ tư tưởng chính trị của một giai cấp nhất định phản ánh
trực tiếp tập trung lợi ích giai cấp của giai cấp ấy. Hệ tư tưởng chính trị được
thể hiện trong đường lối, cương lĩnh chính trị của các chính đảng của các giai
cấp khác nhau cũng như trong luật pháp, chính sách nhà nước, cơng cụ của
giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng chính trị được hình thành một cách tự giác. Nó
được các nhà tư tưởng của giai cấp xây dựng và truyền bá. Hệ tư tưởng chính

trị gắn với các tổ chức chính trị. Thơng qua các tổ chức chính trị mà một giai
cấp nào đó tiến hành cuộc đấu tranh về ý thức hệ vì lợi ích của giai cấp của
mình. Ý thức chính trị có vai trị rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội.
Thơng qua tổ chức nhà nước nó tác động trở lại cơ sở kinh tế và “có thể, trong
những giới hạn nhất định thay đổi cơ sở kinh tế”. Hệ tư tưởng chính trị cũng
giữ vai trị chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Nó thâm nhập vào các
hình thái ý thức xã hội khác. Tác động tích cực hoặc tiêu cực của hệ tư tưởng
chính trị) phụ thuộc vào tính chất tiến bộ, cách mạng hoặc phản tiến bộ, phản
cách mạng của giai cấp mang hệ tư tưởng đó. Khi giai cấp cịn tiến bộ, cách
mạng – tiêu biểu cho xu thế phát triển đi lên của lịch sử thì hệ tư tưởng chính
trị của nó có tác dụng tích cực đến sự phát triển xã hội.
Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về
bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ
chức xã hội và cơng dân, về tính hợp pháp và khơng hợp pháp của hành vi
con người trong xã hội, cùng với nhận thức và tình cảm của con người trong


việc thực thi luật pháp của Nhà nước. Cũng như ý thức chính trị, ý thức pháp
quyền ra đời cùng với nhà nước. Giữa hai hình thái này có sự gần nhau về cả
nội dung và hình thức. Ý thức pháp quyền phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh
tế của xã hội, trước hết là các quan hệ sản xuất được thể hiện trong hệ thống
pháp luật. Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành luật lệ,
do đó mỗi chế độ xã hội, mỗi nhà nước chỉ có một hệ thống pháp luật của giai
cấp nắm chính quyền. Nhưng trong xã hội có giai cấp đối kháng, các giai cấp
khác nhau lại có những ý thức khác nhau về pháp luật, phản ánh lợi ích của
giai cấp mình. Do đó, hiệu lực của pháp luật không những phụ thuộc vào sức
mạnh cưỡng chế của nhà nước mà cịn phụ thuộc vào trình độ hiểu biết và tâm
lý pháp luật của xã hội.
1.3. Ý thức đạo đức
Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái

xúc cảm tâm lý chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương
tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng… và về những quy tắc đánh giá, điều
chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong
xã hội. Hình thái ý thức đạo đức là một trong những hình thái ý thức ra đời từ
rất sớm trong lịch sử, ngay từ xã hội nguyên thuỷ. Sự ý thức về lương tâm,
danh dự và lòng tự trọng… phản ánh khả năng tự chủ của con người là sức
mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản quy định gương mặt đạo đức của
con người, cũng là biểu hiện bản chất xã hội của con người. Với ý nghĩa đó,
sự phát triển ý thức đạo đức là nhân tố biểu hiện tiến bộ xã hội. Trong ý thức
đạo đức, yếu tố tình cảm đạo đức là yếu tố đặc biệt quan trọng, nếu thiếu nó
thì những khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận được
bằng con đường lý tính khơng thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức.
Trong tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành những giá trị đạo
đức mang tính tồn nhân loại, tồn tại trong mọi xã hội và ở các hệ thống đạo
đức khác nhau.
Đó là những quy tắc đơn giản nhằm điều chỉnh hành vi của con người,
cần thiết cho việc giữ gìn trật tự xã hội chung và sinh hoạt thường ngày của
mọi người. Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp thì nội
dung chủ yếu của đạo đức phản ánh quan hệ giai cấp, nó có tính giai cấp.
Trong các phạm trù đạo đức ln ln phản ánh địa vị và lợi ích của giai cấp.
Mỗi giai cấp trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội đều


có những quan niệm đạo đức riêng của mình. Giai cấp tiêu biểu cho xu thế
phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho một nền đạo đức tiến bộ, cịn các
giai cấp phản động thì đại diện cho một nền đạo đức suy thoái.




×