Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Nghiên cứu khoa học bài học KINH NGHIỆM “xây DỰNG hệ THỐNG tổ CHỨC ĐẢNG TRONG QUÂN đội HIỆN NAY”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.66 KB, 27 trang )

1

1

BÀI HỌC KINH NGHIỆM “XÂY DỰNG HỆ THỐNG TỔ CHỨC ĐẢNG
TRONG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY”
Quân đội nhân dân Việt nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản
Việt nam chăm lo tổ chức và lãnh đạo. Cùng với sự trưởng thành và chiến thắng
của quân đội, công tác đảng, cơng tác chính trị cũng được hình thành và ngày
càng phát triển cả về lý luận, tổ chức và hoạt động thực tiễn. Nó đã góp phần to
lớn vào việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, giữ
vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân và truyền thống cách mạng vẻ
vang của quân đội, xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt, đồn kết nội bộ,
gắn bó mật thiết với nhân dân làm cho quân đội không ngừng trưởng thành và
chiến thắng. Những hoạt động công tác đảng, công tác chính trị của quân đội ta
và những bài học kinh nghiệm cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ cứu nước có ý nghĩa sâu sắc, có giá trị to lớn trong sự
nghiệp xây dựng, chiến đấu và chiến thắng của quân đội ta trong giai đoạn lịch
sử trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã tổng kết “Thắng lợi vĩ đại
của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trước hết là thắng lợi của
đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của
Đảng ta”1. Quán triệt đường lối chính trị của Đảng là cơ sở để tiếp thu đường lối
quân sự và xây dựng ý chí, quyết tâm chiến đấu, hướng mọi hoạt động của các
cấp, các ngành vào việc thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao, tăng
cường sự nhất trí về chính trị củng cố vững chắc niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng, vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Đó là kết quả của cả cơng
tác tư tưởng và công tác tổ chức đã được tiến hành một cách tập trung và thường
xuyên, liên tục suốt cuộc kháng chiến và là một thành công của cách mạng Việt
Nam.
Những bài học kinh nghiệm công tác đảng, công tác chính trị của quân đội


ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975) đã rút ra những
1 Đảng Cộng sản Việt Nam , Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại
Đậi hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, ST,H, 1977, tr22.


2

2

bài học kinh nghiệm quý như sau: Một là, quán triệt đường lối chính trị của
Đảng, xây dựng quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Hai là, phân tích rõ
kẻ thù, đánh giá đúng so sánh lực lượng địch, ta. Ba là, quán triệt đường lối
quân sự của Đảng, phát động quần chúng sáng tạo cách đánh, vừa chiến đấu,
vừa xây dựng và phát triển lực lượng. Bốn là, xây dựng hệ thống tổ chức Đảng
trong quân đội vững mạnh trong sạch có sức chiến đấu cao và trình độ lãnh đạo
mọi mặt làm cơ sở để xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Năm là, xây
dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của chiến tranh. Sáu là, thực hiện quân
dân một ý chí ra sức xây dựng và phát huy sức mạnh của hậu phương để đánh
thắng giặc Mỹ. Bảy là, nâng cao tinh thần quốc tế cơ sản chân chính, đồn kết
liên minh chiến đấu với quân, dân Lào và Cămpuchia anh em. Những bài học
kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Mỹ là cơ sở để chúng ta vận dụng
sáng tạo nâng cao hiệu quả công tác xây dựng quân đội trong giai đoạn hiện nay.
Một khi có đường lối của Đảng soi sáng và đường lối đó được quán triệt sâu sắc
thì bản chất và truyền thống tốt đẹp của quân đội được phát huy một cách mạnh
mẽ, bản chất và truyền thống cách mạng đó cũng như vai trị và sức mạnh chiến
đấu tiềm tàng của quân đội được nhân lên khi quân đội thấm nhuần mục tiêu
chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong những bài học kinh
nghiệm đó, bài học “ Xây dựng hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội vững
mạnh trong sạch có sức chiến đấu cao và trình độ lãnh đạo mọi mặt làm cơ sở
để xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị” là bài học thành cơng về xây

dựng Đảng trong qn đội. Vì vai trị lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là
nhân tố chủ yếu quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội, bảo
đảm cho quân đội mang bản chất giai cấp cơng nhân và tính dân tộc sâu sắc.
Đảng ta luôn luôn giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với
quân đội ta. Đảng không chỉ lãnh đạo bằng cương lĩnh, đường lối mà còn bằng
hệ thống tổ chức Đảng, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán
bộ, đảng viên của Đảng.Tổ chức đảng trong quân đội (Đảng bộ, chi bộ và

cấp ủy ở các đơn vị) là hạt nhân đoàn kết, lãnh đạo tập trung, thống nhất
mọi mặt công tác, mọi lực lượng, mọi con người trong quân đội. Sức mạnh


3

3

chiến đấu của quân đội, của từng đơn vị, trước hết bắt nguồn từ đường lối
chính trị, quân sự của Đảng, từ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của các tổ
chức đảng trong quân đội. Xây dựng tổ chức đảng vững mạnh làm hạt
nhân đoàn kết, lãnh đạo tập trung, thống nhất mọi mặt cơng tác chính trị,
tư tưởng, tổ chức; mọi lĩnh vực hoạt động chính trị, quân sự, hậu cần, kỹ
thuật trong chiến đấu là nhiệm vụ cơ bản quyết định sự thắng lợi.
Thực tế, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đòi hỏi quân đội phải
không ngừng xây dựng phát triển lực lượng, mở rộng qui mơ tổ chức. Vì trong
cuộc kháng chiến này, qn và dân ta phải chống lại một tên Đế quốc đầu sỏ, có
tiềm lực kinh tế, quân sự, kỹ thuật rất lớn. So sánh về lực lượng, vật chất kỹ thuật ta
kém xa kẻ thù. Đế quốc Mỹ lại xảo quyệt, hung ác và ngoan cố. Chúng có một
chiến lược tồn cầu cả về kinh tế, qn sự, chính trị và ngoại giao với mưu đồ làm
bá chủ toàn cầu. Chúng đã kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta bằng
tất cả thủ đoạn nham hiểm và tàn bạo. Chúng đã huy động gần 60 vạn quân viễn

chinh Mỹ, sử dụng hầu hết tất cả các loại vũ khí trang bị kỷ thuật hiện đại (trừ vũ
khí hạt nhân). Chúng tiến hành một cuộc chiến tranh “cục bộ” lớn nhất từ trước đến
nay và mở rộng chiến tranh ra tồn cõi Đơng dương. Mỗi lần thay đổi chiến lược
thì âm mưu thủ đoạn lại thâm độc hơn, quy mô huy động vật chất, kỹ thuật lớn
hơn, hiện đại hơn và tính chất ác liệt hơn. Đồng thời chúng đã xây dựng một đội
quân nguỵ quyền hoàn chỉnh từ trung ương đến bn, ấp để kìm kẹp nhân dân ta.
Trong khi đó, quân đội ta thời kỳ này về qui mơ và cơ cấu tổ chức tuy có sự phát
triển; trang bị vũ khí được cải tiến; trình độ mọi mặt được nâng lên, có khả năng
đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến. Hệ thống tỏ chức lãnh đạo và chỉ huy các
cấp, các đơn vị luôn được kiện tồn và củng cố. Nhưng tính chất của cuộc chiến
tranh rất ác liệt.

Từ những tính chất, đặc điểm tình hình nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã đặt ra những yêu cầu
mới rất nặng nề đối với CTĐ,CTCT nói chung, cũng như đối với công tác
xây dựng, củng cố tổ chức Đảng trong qn đội nói riêng. Đó cũng chính là


4

4

những cơ sở thực tiễn mới, những đối tượng mới để CTĐ,CTCT phát huy
nhân tố chính trị tinh thần, sức mạnh của con người, sức mạnh của tổ chức và
sức mạnh của vũ khí trang bị kỹ thuật trong những điều kiện mới. Bảo đảm
cho quân đội ta hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang trong sự nghiệp chống
Mỹ, cứu nước. Qua kinh nghiệm thực tiễn, để bảo đảm “Xây dựng hệ thống tổ
chức Đảng trong trong quân đội trong sạch vững mạnh có sức chiến đấu cao và
trình độ lãnh đạo mọi mặt làm cơ sở xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị”
cần nắm vững những nội dung cơ bản sau:

Một là, xây dựng Đảng bộ qn đội phải xây dựng tồn diện cả chính trị, tư
tưởng và tổ chức, không ngừng nâng cao sức chiến đấu, trình độ lãnh đạo về mọi
mặt ngang tầm nhiệm vụ.
Bài học quan trọng nhất về xây dựng Đảng là phải xuất phát từ yêu cầu thực
hiện thắng lợi đường lối nhiệm vụ chính trị và quân sự của Đảng, yêu cầu lãnh đạo
lực lượng vũ trang làm tròn chức năng, nhiệm vụ.Thường xuyên chăm lo xây dựng
các tổ chức Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức bằng nhiều nội
dung biện pháp phong phú như: kiện toàn tổ chức đảng các cấp cả về số lượng,
chất lượng đáp ứng kịp thời sự phát triển tổ chức và lực lượng quân đội; tập trung
xây dựng chi bộ, lấy xây dựng chi bộ, rèn luyện đảng viên là khâu then chốt trong
xây dựng Đảng, làm cơ sở vững chắc cho việc xây dựng quân đội về chính trị. Mở
nhiều cuộc vận động xây dựng tổ chức đảng, rèn luyện đảng viên, như: cuộc vận
động xây dựng chi bộ 4 tốt; cuộc vận động xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững
mạnh đi đôi với xây dựng đơn vị quyết thắng. Tổ chức hội nghị trao đổi kinh
nghiệm, mở lớp bồi dưỡng cho các đảng uỷ viên các bí thư chi bộ, đảng bộ trong
tồn qn .v.v.có như vậy mới bảo đảm cho đường lối, quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng được quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện có hiệu quả, đảm
bảo cho Đảng bộ đủ sức chủ động giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực hiện
nhiệm vụ ở đơn vị mình và có khả năng đồn kết, tập hợp được quần chúng thực
hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao và thống nhất được tư tưởng và hành động.
Kinh nghiệm cho thấy, trong xây dựng Đảng phải tuân thủ nghiêm chỉnh điều
lệ Đảng, lấy thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đơn vị và quân đội làm


5

5

nguyên tắc, làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá kết quả xây dựng Đảng. Phải nắm
vững các nguyên tắc trong xây dựng Đảng “ Nguyên tắc tập dân chủ, tập thể lãnh

đạo cá nhân phụ trách; coi trọng xây dựng cấp uỷ các cấp, rèn luyện đội ngũ Đảng
viên…Đồng thời phải coi trọng xây dựng cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức,
song trước hết phải xây dựng về chính trị.
Thực tiễn sức mạnh chiến đấu của Đảng thể hiện ở hiệu quả hoạt động của
các tổ chức cơ sở đảng, vì vậy trong suốt cuộc kháng chiến chống Mĩ, Đảng bộ
quân đội đã quán triệt và chấp hành nghiêm nguyên tắc, chỉ thị, nghị quyết của
BCHTW về xây dựng tổ chức cơ sở đảng, thường xuyên chú trọng xây dựng củng
cố tổ chức cơ sở đảng, nhất là củng cố chi bộ vững mạnh toàn diện, lấy xây dựng
chi bộ là khâu then chốt trong xây dựng Đảng bộ quân đội.
Quá trình thực hiện trên các chiến trường miền Nam cịn có sự chỉ đạo trực
tiếp của Trung ương cục và Quân ủy Miền, của các Khu ủy và Đảng ủy các quân
khu, Đảng ủy các đơn vị. Đồng thời hoạt động CTĐ,CTCT nói chung, cũng như
cơng tác xây dựng các tổ chức đảng nói riêng còn căn cứ vào các Nghị quyết
của Đại hội Đảng và Ban Chấp hành Trung ương. Đặc biệt là Nghị quyết lần thứ
12 (khóa II) năm 1957 về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng; Nghị quyết
lần thứ 15 (khóa II) năm 1959 về cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam; Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và các Nghị quyết Trung ương (khóa
III) như: Nghị quyết Trung ương lần thứ 9 (1963) về cách mạng miền Nam;
Nghị quyết Trung ương lần thứ 12 (1965) về cả nước chống chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mỹ và Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 (1973) về tiến lên
giải phóng hồn tồn miền Nam. Những hoạt động của công tác xây dựng tổ
chức đảng trong quân đội được thể hiện qua từng giai đoạn của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước. Đảng bộ quân đội đã tiến hành nhiều nội dung biện
pháp để tập trung xây dựng tổ chức cơ sở đảng như : Mở nhiều cuộc vận động
để xây dựng chi bộ rèn luyện đảng viên . Từ 1960 đến 1965 mở cuộc vận động
“Xây dựng chi bộ mạnh trong toàn quân làm cơ sở xây dựng quân đội về chính
trị”, tập trung vào nâng cao năng lực trình độ lãnh đạo của chi bộ, bồi dưỡng bí
thư và chi uỷ viên, cải tiến nội dung sinh hoạt và công tác phát triển đảng viên



6

6

mới. Cuối năm 1964 mở cuộc vận động “xây dựng chi bộ 4 tốt”( lãnh đạo công
tác tốt, học tập tốt, đoàn kết tốt, phát triển Đảng tốt), năm 1964 triển khai làm
điểm, năm 1965 mở rộng toàn quân, năm 1969 trở đi Quân uỷ Trung ương chỉ
đạo tiến hành tổng kết cuộc vận động xây dựng chi bộ 4 tốt để đưa việc xây
dựng chi bộ vào nền nếp với chất lượng ngày càng cao hơn (các đơn vị Miền
Nam xây dựng chi bộ 3 tốt: lãnh đạo công tác tốt, đoàn kết tốt, phát triển Đảng
tốt). Từ 1965 trở đi toàn quân mở cuộc vận động “xây dựng tổ chức cơ sở đảng
vững mạnh đi đôi với xây dựng đơn vị vững mạnh, đơn vị quyết thắng”. Từ
1969 đến 1972 triển khai cuộc vận động “xây dựng tổ chức cơ sở vững mạnh đi
đôi với xây dựng đơn vị vững mạnh”, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng tổ chức cơ
sở đảng với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, đơn vị quyết thắng; xây
dựng chi bộ “4 tốt” gắn với xây dựng cán bộ “4 tốt”, đảng viên “4 tốt”; chú
trọng nâng cao chất lượng lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, nhất là lãnh đạo
chính trị, tư tưởng và lãnh đạo hồn thành nhiệm vụ chiến đấu. Thường xuyên
coi trọng nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đặc biệt là sinh hoạt lãnh đạo
đơn vị thực hiện nhiệm vụ chiến đấu. Trong sinh hoạt đảng đã giữ vững nguyên
tắc tập trung dân chủ; tự phê bình, phê bình và vận dụng phù hợp với điều kiện
thời chiến, coi trọng cải tiến nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng theo hướng:
ngắn gọn, thiết thực, trọng tâm. Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, các
hội nghị tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác xây dựng Đảng ở các cấp để bồi
dưỡng cho bí thư chi bộ, cấp uỷ viên về phẩm chất và năng lực lãnh đạo.
Với các biện pháp tích cực trên, các tổ chức cơ sở Đảng trong toàn quân
thường xuyên được xây dựng, kiện toàn cả số lượng, chất lượng phù hợp cơ
cấu tổ chức của quân đội. Không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của chi bộ, xây dựng chi bộ thực sự là hạt nhân lãnh đạo, đoàn kết ở
cơ sở, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo các cơ quan, đơn vị. Thường xuyên

quán triệt và chấp hành nghiêm các chủ trương, chính sách của Đảng, nhiệm
vụ của quân đội, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị và xây dựng được mối liên
hệ mật thiết với quần chúng chiến sĩ ở cơ sở.


7

7

Hai là, tập trung xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị là vấn đề cơ bản
nhất, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu bảo đảm cho việc xây dựng Đảng về tư tưởng
và tổ chức có phương hướng và nội dung đúng.
Ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức có liên quan mật thiết với nhau, tác
động lẫn nhau, vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của nhau, không được coi
nhẹ mặt nào. Song, trước hết phải chăm lo xây dựng vững mạnh về chính trị.
Vì chính trị bao giờ cũng giữ vai trò chỉ đạo tư tưởng và tổ chức. Tư tưởng và
tổ chức phải nhằm phục vụ và bảo đảm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ về chính
trị. Cần kiên quyết đấu tranh khắc phục những khuynh hướng lệch lạc, tách rời
hoặc đối lập các mặt đó với nhau, nhấn mạnh mặt này, coi nhẹ mặt khác.
Trong quá trình xây dựng, các cấp uỷ, tổ chức đảng đã quán triệt nội dung cơ
bản trong xây dựng Đảng về chính trị bao gồm: tập trung nâng cao trình độ lãnh
đạo chính trị của các tổ chức đảng trong quân đội ; giữ vững đường lối quan điểm
chính trị của Đảng và bản chất giai cấp cơng nhân của các tổ chức đảng và đội ngũ
cán bộ đảng viên; nâng cao tinh thần cách mạng triệt để, thấu suốt quan điểm độc
lập tự chủ, đoàn kết quốc tế của Đảng cho mỗi tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên.
Yêu cầu xây dựng đảng bộ quân đội về chính trị là phải tăng cường bản chất
giai cấp công nhân của các lực lượng vũ trang, bảo đảm cho lực lượng vũ trang
luôn luôn trung thành với Đảng với nhân dân, trung thành vô hạn với Tổ quốc và
chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng. Đoàn kết chặt chẽ
xung quanh Ban Chấp Hành trung ương, gắn bó mật thiết với nhân dân, nghiêm

chỉnh chấp hành Hiến pháp và Pháp luật của Nhà nước, phát huy dân chủ, đề cao
kỷ luật, tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược.
Trên cơ sở coi trọng xây dựng Đảng về chính trị, các cấp uỷ, tổ chức Đảng
trong quân đội luôn coi trọng củng cố chi bộ, Đảng bộ về tư tưởng và tổ chức.
Thường xuyên giáo dục nâng cao trình độ giác ngộ, bản lĩnh chính trị cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên giữ vững quan điểm lập trường giai cấp của Đảng, nêu cao vai
trò tiền phong gương mẫu trong những tình huống chiến đấu khó khăn phức tạp.


8

8

Thực tế trong giai đoạn này, công tác xây dựng Đảng đã lấy việc củng cố
chi bộ, rèn luyện đảng viên là khâu then chốt và làm cơ sở cho việc xây dựng
quân đội về chính trị. Đã tiến hành điều chỉnh, bố trí cơng tác của đảng viên để
đại đội nào cũng có chi bộ, tích cực kết nạp đảng viên mới. Thực hiện công tác
giáo dục, rèn luyện đảng viên có nền nếp được đẩy mạnh và có hiệu quả.
Ba là, ra sức xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng, kết hợp chặt chẽ công
tác tư tưởng và công tác tổ chức, phát huy đồng bộ sức mạnh của tư tưởng và tổ
chức để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước việc xây dựng Đảng bộ quân
đội vững mạnh về tư tưởng luôn là nội dung quan trọng trong xây dựng Đảng, là cơ
sở giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội, bảo đảm cho quân đội đủ
sức hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ. Suốt trong thời kì kháng chiến chống Mỹ,
cơng tác xây dựng Đảng trong qn đội ln qn triệt và nắm vững tính giai cấp,
tính đảng, tính khoa học và tính chiến đấu của công tác tư tưởng của Đảng vào xây
dựng Đảng bộ quân đội vững mạnh về tư tưởng. Tư tưởng là vấn đề rất rộng lớn,
bao gồm cả thế giới quan, nhân sinh quan, cả lý luận cách mạng và kiến thức văn

hoá cần thiết. Đấu tranh tư tưởng là một mặt trận của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh giữa hai hệ tư tưởng trên mọi lĩnh vực giữa ta và địch. Trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, chúng ta đã phấn đấu để tăng cường hiệu lực công tác tư
tưởng, trước hết là nâng cao tính giai cấp, tính đảng của nó.
Nhiệm vụ cơng tác tư tưởng trong giai đoạn này là: Thường xuyên làm tốt
công tác giáo dục cho cán bộ chiến sĩ thấu suốt đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, nhiệm vụ quân đội, nhiệm vụ của từng đơn vị, từng chiến trường trong
từng giai đoạn của chiến tranh. Giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ quán triệt sâu sắc
chủ trương, phương hướng của Đảng xây dựng quân đội tiến lên chính quy, hiện
đại đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới. Giáo dục động viên nâng cao giác ngộ
xã hội chủ nghĩa, củng cố ý chí quyết tâm chiến đấu, sáng tạo cách đánh, xây
dựng lòng tin vào khả năng đánh thắng Mỹ trên các chiến trường. Phát động cao


9

9

trào chống Mỹ cứu nước, giải phóng Miền Nam, bảo vệ Miền Bắc trong toàn
quân, kết hợp chặt chẽ các phong trào thi đua của quân đội với các cuộc vận động
chính trị trong tồn Đảng, tồn dân. Giáo dục học tập Di chúc của Hồ Chủ Tịch,
kết hợp với việc phát động phong trào toàn quân biến đau thương thành hành
động cách mạng, “Sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”.
Giáo dục cho bộ đội nhận rõ bản chất âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, nêu cao tinh
thần cảnh giác cách mạng, tinh thần đoàn kết liên minh chiến đấu với quân và dân
Lào và CămPuChia anh em. Kiên quyết đấu tranh phê phán những quan điểm sai
trái, tư tưởng thù địch, đồng thời khắc phục tư tưởng tả khuynh, hữu khuynh
trong nội bộ. Công tác tư tưởng cũng đã ngày càng đi sâu vào lĩnh vực quân sự,
phát huy tinh thần làm chủ khoa học kỹ thuật quân sự hiện đại, xây dựng phương
pháp tư duy quân sự cách mạng khoa học, giải quyết mối quan hệ giữa con người

với vũ khí, giữa chính trị với kỹ thuật trên cơ sở mới…Cuộc đấu tranh trên lĩnh
vực tư tưởng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ có vị trí rất quan trọng trong
việc xây dựng bản lĩnh chính trị tinh thần cho quân đội. Công tác tư tưởng của
quân đội là một mũi tiến cơng sắc bén và có sự phát triển rất mạnh trên mặt trận
này. Đồng thời, mở nhiều cuộc vận động xây dựng tổ chức Đảng và giáo dục rèn
luyện đảng viên, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng, làm cho quân đội kiên định
mục tiêu nhiệm vụ chiến đấu. Xây dựng tư tưởng giám đánh, quyết đánh và biết
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược cho lực lượng vũ trang trong suốt cuộc kháng
chiến. Kết hợp công tác tư tưởng và công tác tổ chức, phát huy đồng bộ sức mạnh
của cả tư tưởng và tổ chức, giải quyết thấu suốt tư tưởng đi đôi với giải quyết tốt
về tổ chức bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trong mọi tình huống .
Bốn là, ra sức xây dựng Đảng về tổ chức, nghiêm túc thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, thường xuyên kiện toàn Đảng uỷ các cấp, củng
cố chế độ chỉ huy, phát huy hiệu lực CTĐ,CTCT .
Xây dựng Đảng về tổ chức là xây dựng hệ thống tổ chức lãnh đạo của đảng ở
các cấp cho đến đơn vị cơ sở, làm cho các tổ chức Đảng thực sự trong sạch vững


10

10

mạnh có số lượng phù hợp, chất lượng cao, lập trường quan điểm vững vàng, có
trình độ lãnh đạo tồn diện. Quá trình xây dựng và phát triển Đảng bộ quân đội đã
thực hiện nghiêm túc điều lệ và các nghị quyết của Đảng, xây dựng được hệ thống
tổ chức Đảng từ Quân uỷ Trung ương đến chi bộ ở cơ sở TSVM, thực hiện tốt chức
năng nhiệm vụ lãnh đạo toàn diện đơn vị theo phạm vi chức năng của từng cấp.
Quán triệt sâu sắc nguyên tắc chế độ lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ Đảng uỷ
tập thể lãnh đạo, thủ trưởng quân sự, chính trị phân cơng tổ chức thực hiện. Kiện
tồn các tổ chức đảng đi đơi với kiện tồn tổ chức chỉ huy, cơ quan chính trị và các

tổ chức quần chúng, thực hiện tốt yêu cầu ở đâu có chỉ huy, có quần chúng, có hoạt
động của lực lượng vũ trang, ở đó có tổ chức lãnh đạo của Đảng và có CTĐ, CTCT
.
Thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ đã chứng minh: Muốn tổ chức thực
hiện thắng lợi đường lối chính trị, quân sự của Đảng nhất thiết hệ thống tổ chức
đảng từ Quân uỷ Trung ương đến chi uỷ, chi bộ phải được xây dựng vững mạnh cả
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng ủy các cấp được kiện toàn về tổ chức, cả về

số lượng và cả về chất lượng, đáp ứng tình hình phát triển về tổ chức của
quân đội. "Chế độ Đảng ủy tập thể lãnh đạo, thủ trưởng phân công phụ trách"
được thực hiện ở tất cả các đơn vị; vai trị lãnh đạo tồn diện, nguyên tắc tập
trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, lấy việc lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ là chủ
yếu, được thực hiện nghiêm túc và ngày càng có nền nếp hơn. Tuy cịn có
những hạn chế trong việc lãnh đạo về khoa học kỹ thuật, nhưng các tổ chức
đảng đã nắm chắc tình hình và kịp thời lãnh đạo cơng tác chính trị, tư tưởng
nghiêm chỉnh thực hiện đúng các nguyên tắc, quan điểm của Đảng. Từ đó
xác định chủ trương, biện pháp đúng đắn đã thực sự làm chỗ dựa vững chắc
cho người chỉ huy trong quá trình tổ chức đơn vị thực hiện các nhiệm vụ
được giao.
Công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn từ năm 1960 đến 1965, cùng
với việc kiện toàn Đảng ủy các cấp, đã tập trung vào khâu chủ yếu là xây
dựng chi bộ, nhất là các chi bộ đại đội, khắc phục những khuyết, nhược


11

11

điểm trong giai đoạn trước. Do việc thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, số
đảng viên xuất ngũ hàng năm đông hơn số đảng viên nhập ngũ, trong khi đó

cơng tác phát triển đảng lại chưa được coi trọng đúng mức. Để khắc phục
tình hình đó, Qn ủy Trung ương xác định mục tiêu phấn đấu: "Chi bộ đại
đội có chi ủy, trung đội có tổ đảng, tiểu đội, khẩu đội và bộ phận kỹ thuật có
đảng viên". Việc kết nạp đảng viên mới được chú trọng, bình quân hàng
năm kết nạp được 8000 đảng viên mới, đã nâng tỉ lệ lãnh đạo trong toàn
quân lên gần 30%. Đến cuối năm 1964 toàn quân thực hiện mở rộng cuộc
vận động xây dựng chi bộ bốn tốt (lãnh đạo công tác tốt, học tập tốt, đoàn
kết nội bộ tốt, phát triển đảng tốt). Triển khai thực hiện cuộc vận động "bảo
vệ Đảng" theo chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, đã nâng cao tính
ngun tắc trong cơng tác xây dựng Đảng, bảo đảm tổ chức đảng trong
sạch, đưa những người không đủ tiêu chuẩn đảng viên ra khỏi Đảng. Số
đơng đồn viên thanh niên được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Đồng thời
mở được nhiều lớp huấn luyện cho đảng viên mới, với những nội dung,
chương trình được chỉ đạo thống nhất. Giai đoạn này đã mở được nhiều lớp
bồi dưỡng cho các đảng ủy viên, các bí thư chi bộ, bí thư đảng ủy các cấp.
Các tổ chức đảng được củng cố về số lượng, chất lượng được nâng cao,
phương pháp lãnh đạo được cải tiến. Ngày càng nâng cao chất lượng lãnh
đạo nhiệm vụ trung tâm của các đơn vị là huấn luyện bộ đội sẵn sàng chiến
đấu, ở những đơn vị trực tiếp chiến đấu, những đơn vị hoạt động trong vùng
địch, các chi bộ đã lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ, rèn luyện được
nhiều cán bộ, đảng viên trung kiên, dũng cảm trong chiến đấu. Nhưng so
với yêu cầu nhiệm vụ, trình độ lãnh đạo của chi bộ cịn có những mặt yếu
như khi tập trung làm tốt mặt này thì mặt khác chưa giữ vững được thường
xuyên. Lãnh đạo tư tưởng, lãnh đạo cơng tác huấn luyện qn sự có kinh
nghiệm, nhưng lãnh đạo công tác quản lý bộ đội, quản lý cơ sở vật chất, kỹ


12

12


thuật còn yếu; sinh hoạt đều nhưng chất lượng chưa cao; nghị quyết đề ra
đúng, nhưng tổ chức thực hiện, kiểm tra đơn đốc thực hiện cịn hạn chế.
Từ năm 1965 đến 1968, công tác xây dựng đảng đã tập trung vào việc
kiện toàn các cấp ủy, xây dựng các tổ chức đảng đã gắn với xây dựng đơn vị
vững mạnh, đơn vị quyết thắng, xây dựng chi bộ bốn tốt gắn với xây dựng
cán bộ bốn tốt, đảng viên bốn tốt. Đặc biệt chú ý nâng cao chất lượng lãnh
đạo của các tổ chức đảng, nhất là lãnh đạo chính trị, tư tưởng, lãnh đạo hồn
thành nhiệm vụ chiến đấu; giữ vững các nguyên tắc lãnh đạo và sinh hoạt của
Đảng theo những quy định phù hợp.
Công tác phát triển đảng viên mới cũng được coi trọng để đáp ứng với
yêu cầu củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở một cách
thường xuyên. Tính từ năm 1965 đến 1968 đã kết nạp được 166.711 đảng
viên mới. Tuy có sự biến động số quân tăng nhanh và tiêu hao trong chiến
tranh tương đối lớn, nhưng vẫn giữ vững và duy trì tỉ lệ lãnh đạo khoảng
30%. Thời kỳ này Đảng bộ quân đội đã đề nghị với Ban Chấp hành Trung
ương ra một số quy định mới về việc phát triển đảng ở các đơn vị quân đội
cho phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh do vậy, cơng tác phát triển đảng có
nhiều thuận lợi. Trong cuộc vận động xây dựng chi bộ bốn tốt, đã gắn chặt
việc rèn luyện đảng viên với rèn luyện cán bộ. Các cấp ủy được củng cố kịp
thời, trình độ lãnh đạo từng bước được nâng lên. Tuy nhiên, việc khắc phục
những yếu kém, khuyết điểm về lãnh đạo và quản lý cơ sở vật chất, kỹ thuật,
công tác hiệp đồng binh chủng trong những trận đánh lớn còn chuyển biến
chậm.
Từ năm 1969 đến 1972, là giai đoạn chiến tranh bước vào thời kỳ ác
liệt, khó khăn phức tạp nhất. Để lãnh đạo sát tình hình, nhiệm vụ, Đảng ủy
các cấp tập trung vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo, khắc phục những hạn
chế về vận dụng tư tưởng chỉ đạo tác chiến, về xây dựng và sử dụng lực
lượng, công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật. Với nhiều hình thức, biện pháp



13

13

được triển khai nhằm cổ vũ việc rèn luyện mọi mặt để tiến tới đánh lớn và ra
sức chuẩn bị bộ đội, chuẩn bị chiến trường để tạo thời cơ chủ động chiến đấu
giành thắng lợi. Đảng ủy các đơn vị đã chủ động lãnh đạo công tác tổ chức
các hội nghị báo cáo kinh nghiệm, hội nghị "kíp trắc thủ giỏi", "sĩ quan điều
khiển giỏi"... những hoạt động cụ thể, có mục đích rõ ràng như vậy đã tạo
niềm tin cho bộ đội trong chiến đấu. Các đơn vị còn chú trọng rèn luyện ý
thức tổ chức kỷ luật, tinh thần đoàn kết hiệp đồng chiến đấu trong suốt chiến
dịch.
Cuộc vận động xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh để hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ được đẩy mạnh. Việc rèn luyện đảng viên theo
"bảy yêu cầu" nhằm nâng cao ý chí quyết tâm chiến đấu, tính tiên phong
gương mẫu, khắc phục mọi tư tưởng giao động... được coi trọng. Trong
thời gian này công tác phát triển đảng viên mới được tiếp tục chú ý, có
hàng vạn đảng viên mới được kết nạp. Đã kịp thời bố trí lực lượng đảng
viên phù hợp với nhiệm vụ, nhất là cán bộ chủ trì, lãnh đạo, chỉ huy ở các
cấp, ở các đơn vị chủ yếu. Tuy nhiên, do yêu cầu quá lớn, về số lượng cán
bộ, đảng viên mới đáp ứng được khoảng 87% yêu cầu của các chiến
trường miền Nam, về trình độ, năng lực mới đạt được ở cấp nào biết làm
chức trách của cấp đó, nên cịn rất khó khăn lúng túng.
Từ năm 1973 đến 1975, là giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, sự khẩn
trương, ác liệt và tình hình diễn biến trên chiến trường diễn ra nhanh chóng.
Dưới ánh sáng Nghị quyết 21 của Ban Chấp hành Trung ương và các hội
nghị của Bộ Chính Trị tiếp theo đã hạ quyết tâm hồn thành cách mạng dân
tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, động viên quân, dân cả nước nỗ lực giữ
vững đường lối chiến lược tiến công, nắm vững và thúc đẩy thời cơ giành

toàn thắng cho sự nghiệp chống chống Mỹ, cứu nước.
Thời cơ lúc này "một ngày bằng hai mươi năm", Đảng ủy các cấp đã chú
trọng làm thông suốt tư tưởng chỉ đạo "tranh thủ thời gian cao độ, hành động


14

14

táo bạo, bất ngờ" làm cho địch không kịp trở tay, khắc phục các tư tưởng do
dự, chần chừ bỏ lỡ cơ hội diệt địch. Các cấp lãnh đạo đã phát huy tốt tinh thần
tập thể dân chủ bàn bạc và đi đến hồn tồn thơng suốt với nhận định và quyết
tâm của cấp trên. Trên các mặt trận, Đảng ủy các cấp đã thấu suốt với tư tưởng
chỉ đạo "thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng" lãnh đạo tổ chức và vận động
các lực lượng quyết tâm hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao.
Các tổ chức Đảng, các cấp cấp ủy được kiện toàn về số lượng, chất
lượng trước và trong suốt quá trình thực hiện chiến dịch. Công tác kết nạp
đảng viên mới trong chiến đấu được coi trọng, nhằm ổn định và tăng tỉ lệ
lãnh đạo ở những nơi xung yếu. Mặc dù tình hình chiến dịch diễn ra rất khẩn
trương nhưng nguyên tắc lãnh đạo của Đảng vẫn được chấp hành nghiêm
chỉnh, tác phong lãnh đạo, phương thức, biện pháp tiến hành công tác tư
tưởng, công tác tổ chức lúc này cũng được cải tiến phù hợp với điều kiện
chiến đấu, liên tục, quy mơ lớn. Để duy trì vững chắc sự lãnh đạo, chỉ huy
khơng bị gián đoạn và có hiệu lực cao trong suốt chiến dịch, các quân đoàn
đã tiến hành tập huấn cho cán bộ trước khi mở chiến dịch và ngay giữa các
đợt của chiến dịch.
Tuy nhiên, sau chiến thắng khuyết điểm chủ yếu của các cấp ủy đảng là
cơng tác lãnh đạo cịn giản đơn, có nơi bng lỏng lãnh đạo, chỉ huy. Do vậy,
đã có những vụ vi phạm kỷ luật về chiến lợi phẩm, kể cả cán bộ chấp hành kỷ
luật không nghiêm. Chưa phát huy vai trò chủ động của các cấp ủy đảng

trong những vấn đề mới nảy sinh để chỉ đạo kịp thời. Mặt khác một số cán
bộ, đảng viên do trình độ nhận thức hạn chế, thiếu gương mẫu trong tu dưỡng
rèn luyện, chưa đề cao ý thức trách nhiệm đã để xảy ra tình trạng chấp hành
kỷ luật của bộ đội trong đơn vị thiếu nghiêm túc.
Những hoạt động của công tác xây dựng đảng trong quân đội được biểu
hiện qua các giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có những
ưu điểm và hạn chế. Song đã khẳng định sự lãnh đạo của Đảng đối với quân


15

15

đội là nhất quán từ trước đến nay, là nhân tố cơ bản nhất quyết định sự trưởng
thành và chiến thắng của quân đội. CTĐ,CTCT trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước đã kế thừa và phát triển những kinh nghiệm của
CTĐ,CTCT của các thời kỳ trước trong điều kiện mới.
Hiện nay, trên thế giới, khu vực có nhiều diễn biến mau lẹ, phức tạp.“Những
cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua
vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, những tranh
chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra
ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Các mâu thuẩn lớn của thời đại vẫn
rất gay gắt”2. Sự chống phá của các thế lực thù địch trong chiến lược “Diễn biến
hồ bình” đối với nước ta, sự phát triển của khoa học công nghệ gắn liền với vũ
khí trang bị hiện đại, cơng nghệ cao, cho nên phải chuẩn bị tinh thần cho bộ đội
sẵn sàng đối phó với vấn đề này. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đặt ra
yêu cầu ngày càng cao, đòi hỏi phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội, xây dựng quân đội thật sự cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng quân đội về chính trị làm cơ sở. Sẵn sàng
hoàn thành nhiệm vụ: “Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống

nhất, toàn vẹn lãnh tổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an
ninh xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm
thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động bất ngờ”3.
Chức năng của quân đội ta không hề thay đổi, nhưng nội hàm có sự phát triển rất
lớn đó là: tham gia đấu tranh tích cực, nhằm làm thất bại âm mưu chiến lược
“diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ của Chủ nghĩa Đế quốc và các thế lực thù
địch. Do đó xây dựng quân đội phải tinh nhuệ về chính trị, giỏi đấu tranh về chính
trị, có khả năng răn đe về chính trị. Tham gia xây dựng cơ sở chính trị ở địa
phương vững mạnh, giúp dân phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, cứu hộ, cứu nạn,
khắc phục hậu quả thiên tai, xây dựng các khu kinh tế gắn với quốc phòng.
2 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, tr 73 - 74.
3 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, tr 108 - 109.


16

16

Tuy nhiên, trong thời gian qua năng lực lãnh đạo và sức chiế n đấu của tổ chức
cơ sở đảng trong quân đội vẫn tồn tại một số hạn chế đó là: nhận thức tình hình và
nhiệm vụ của một số cấp ủy, đội ngũ cán bộ chưa được phát huy đầy đủ. Phương
pháp tác phong cơng tác cịn biểu hiện quan liêu, thiếu sâu sát cụ thể. Sự phối hợp
của các cơ quan chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ, cơng tác thanh tra, kiểm tra cịn chồng
chéo, phát hiện sai phạm chậm, chỉ đạo xử lý thiếu kiên quyết, chưa nghiêm, chưa
triệt để. Do các hình thức của tổ chức cơ sở đảng phát triển phong phú hơn về loại
hình nhưng việc xác định chức năng nhiệm vụ cịn chưa hồn chỉnh; phương thức
lãnh đạo và sinh hoạt cịn lúng túng, chậm được đổi mới, còn để xảy ra tình trạng
vừa kém dân chủ, vừa thiếu kỷ luật, kỷ cương ở một số nơi; năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng thiếu tồn diện và yếu, khơng hồn thành

nhiệm vụ của mình; mối quan hệ đồn kết thống nhất trong nội bộ cấp ủy, tổ chức cơ
sở đảng ở một vài nơi chưa cao. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn Quân lần thứ VIII chỉ
rõ: Trước sự phát triển của tình hình và những vấn đề phức tạp nảy sinh, cơng tác tư
tưởng có mặt cịn biểu hiện chủ quan, giản đơn, thiếu chiều sâu, thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ vẫn cịn là khâu yếu của khơng ít cấp uỷ và tổ chức đảng, năng lực
quán triệt, cụ thể hố và tổ chức thực hiện nghị quyết cịn hạn chế, chưa chủ động
nhạy bén giải quyết những vấn đề phức tạp trong đơn vị. Mặt khác, trước những diễn
biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và tác động của mặt trái cơ chế thị trường cho nên: “một bộ phận cán bộ, đảng viên thuộc nhiều thế hệ khác nhau, ở
nhiều cương vị khác nhau đã bộc lộ sự suy thoái về phẩm chất đạo đức lối sống,
giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu, dao động mục tiêu và con đường đi lên xã hội
chủ nghĩa, giảm niềm tin vào chủ nghĩa Mác - lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi nhẹ
sự lãnh đạo của đảng, chạy theo lợi nhuận kinh tế, trốn tránh nhiệm vụ đảng, ngại
sinh hoạt chính trị”4...Hơn nữa, tình hình thực tiễn tổ chức cơ sở đảng, năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng hiện nay cịn có những vấn đề bất cập.
Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ X đánh giá “khơng ít tổ chức đảng yếu kém, nhất là
ở cơ sở, không làm trịn vai trị hạt nhân chính trị và nền tảng của Đảng, không đủ
4 Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng xây qn đội
vững mạnh về chính trị hồn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi tình huống, Nxb QĐND ,
H 2000, tr. 68.


17

17

sức giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh từ cơ sở, thậm chí có những tổ chức
cơ sở đảng tê liệt, mất sức chiến đấu”5. Do đó, nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực
tiễn khẳng định tính tất yếu khách quan vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng để nó thật sự trở thành hạt nhân lãnh đạo chính trị,
trung tâm đồn kết của đơn vị cơ sở là trách nhiệm chính trị của các cấp lãnh đạo, chỉ

đạo, của bản thân cơ sở và của mọi đảng viên là một đòi hỏi cấp bách hơn bao giờ
hết trong tình hình hiện nay. Đồng thời, kế thừa những kinh nghiệm quý giá trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng trong quân đội hiện nay phải tiến hành đồng bộ nhiều giải
pháp, song cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, phải nắm vững phương hướng và tiêu chuẩn xây dựng tổ chức cơ
sở đảng trong sạch vững mạnh.
Với vị trí vai trị là nền tảng của Đảng, các tổ chức cơ sở đảng ln có vai trị
là hạt nhân lãnh đạo chính trị, là nơi trực tiếp bảo đảm cho đường lối chính sách
của Đảng được tổ chức thực hiện có kết quả ở đơn vị cơ sở, là cấp trực tiếp tiến
hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng. Sự lãnh đạo của các Đảng bộ cơ sở, chi
bộ cơ sở là nhân tố có ý nghĩa quyết định sự thành bại của các phong trào cách
mạnh ở cơ sở. Do đó, phải tập trung xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo sức
chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng làm cho tổ chức này thực sự trong sạch vững
mạnh, làm trịn nhiệm vụ tổ chức và qui tụ đồn kết, phát huy sức mạnh toàn đơn
vị hoàn thành tốt mọi nhiện vụ được giao. Từng bước tổ chức sắp xếp củng cố các
tổ chức đảng cho phù hợp với mơ hình sản xuất kinh doanh, đơn vị sự nghiệp hành
chính, tổ chức biên chế của các lực lượng vũ trang nói chung và đơn vị quân đội
nói riêng. Xác định vị thế pháp lý,thể chế chế hoá về mặt nhà nước, về vị trí, chức
năng, nhiệm vụ của các loại hình cơ sở chú ý những loại hình mới. Quán triệt và
thực hiện tốt nguyên tắc dựa vào dân để xây dựng Đảng từ cơ sở, phải có qui chế
dân chủ và thực hiện tốt qui chế đó trong quá trình tổ chức lãnh đạo của Đảng ở
đơn vị cơ sở. Bám sát vào các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng;
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị; lãnh đạo cơng tác chính trị tư tưởng; lãnh
5 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, tr 263.


18

18


đạo xây dựng các tổ chức; lãnh đạo xây dựng các tổ chức đảng để nâng cao hiệu
quả năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Đại hội X của
Đảng xác định: “Phải dồn sức xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức này thực sự trong sạch vững mạnh”6
Thứ hai. tập trung xây dựng củng cố các cấp uỷ cơ sở trong sạch vững mạnh.
Cấp ủy đảng các cấp ở cơ sở là cơ quan lãnh đạo của đảng ở cơ sở do Đại hội
Đảng các cấp cơ sở bầu ra, là hạt nhân lãnh đạo chính trị, trung tâm đồn kết và
tiêu biểu cho ý chí và trí tuệ của tồn đảng bộ. Vì vậy, để xây dựng tổ chức cơ sở
đảng trong sạch vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu ngày càng được
nâng cao nhất thiết phải thường xuyên củng cố kiện toàn cấp ủy có số lượng hợp
lý, chất lượng cao, đồng thời phải nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy đảng cơ
sở là biện pháp quan trọng hàng đầu, là khâu then chốt đối với toàn bộ hoạt động
xây dựng đảng ở cơ sở. Trước hết, thường xuyên củng cố, kiệm toàn các cấp uỷ đủ
số lượng, bảo đảm chất lượng, có cơ cấu hợp lý, bảo đảm tính liên tục, tính kế thừa,
trong đó quan trọng nhất là bảo đảm tiêu chuẩn cấp ủy viên. Hướng lựa chọn cấp
ủy viên phải căn cứ vào tiêu chuẩn được quy định tại điều 12 Điều lệ Đảng đó là:
“Cấp ủy viên phải có đủ tiêu chuẩn phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, lối
sống lành mạnh; chấp hành nghiêm chỉnh nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, kỷ
luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có kiến thức và năng lực tham gia lãnh
đạo tập thể, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; đoàn kết cán bộ, đảng viên, được
quần chúng tín nhiệm”7.Tuy nhiên, cần phải chú ý là khơng vì cơ cấu mà hạ thấp
tiêu chuẩn cấp ủy viên, hạ thấp các yêu cầu về phẩm chất chính trị, về nguyên tắc
đảng. Muốn vậy công tác cán bộ phải đi trước một bước, kịp thời bổ nhiệm, bố trí
các đồng chí có uy tín, năng lực vào các vị trí chủ trì, giải quyết tốt mối quan hệ
trong nội bộ cấp uỷ, bảo đảm nội dung, phạm vi, quyền hạn, thực hiện tập thể lãnh
đạo, phân công các nhân phụ trách.
Phải thường xuyên nâng cao phẩm chất năng lực của cấp ủy viên, bí thư chi
bộ, bí thư đảng ủy, nhất là về giác ngộ chính trị và bản lĩnh chính trị, ý chí chiến
đấu, đạo đức cách mạng, nguyên tắc và phương pháp tác phong công tác, kinh

6 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, tr 298.
7 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam , Nxb CTQG, H 2006, tr. 21-22.


19

19

nghiệm thực tiễn. Mọi hoạt động của cấp ủy viên, bí thư chi bộ, bí thư đảng ủy phải
trên cơ sở nghị quyết lãnh đạo của tập thể cấp ủy gắn liền với thực tiễn quân đội,
thực tiễn đơn vị cơ sở. Gắn việc bồi dưỡng cấp uỷ, bí thư với việc xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ trì trong đơn vị.
Chú trọng các khâu, các bước trong chu trình lãnh đạo của cấp ủy. Phải đề ra
được chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát đúng, triển khai tổ chức thực hiện, kiểm
tra, sơ kết, tổng kết kịp thời có hiệu quả. Các cấp ủy cơ sở phải xây dựng qui chế
làm việc, qui chế hoạt động và lãnh đạo chặt chẽ, có sự phân cơng rõ ràng để nâng
cao tinh thần trách nhiệm của mỗi cấp ủy viên, bí thư cũng như mỗi tập thể cấp ủy.
Chấp hành nghiêm túc nguyên tắc tổ chức sinh hoạt và chế độ công tác. Phải
tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ tập thể lãnh đạo đi đôi với phân
công cá nhân phụ trách, phát huy trách nhiệm của cá nhân, đẩy mạnh tự phê bình
và phê bình. Phải thực hiện nghiêm các chế độ công tác của cấp ủy: chế độ sinh
hoạt chuẩn bị ra nghị quyết lãnh đạo, chế độ thông tin, chế độ tổ chức thực hiện và
kiểm tra thực hiện nghị quyết.
Cấp ủy cấp trên cơ sở cần phải phân công chỉ đạo giúp đỡ những tổ chức cơ
sở đảng yếu kém, những tổ chức cơ sở đảng mất đồn kết, cần tìm hiểu rõ ngun
nhân, đồng thời phải có biện pháp giải quyết phù hợp, dứt điểm thông qua công tác
kiểm tra, giám sát, tự phê bình và phê bình.
Thứ ba, xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh, thừơng xuyên cải tiến và
nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng
Chi bộ là tổ chức tế bào cấu thành tổ chức cơ sở đảng, cấu thành Đảng, chi

bộ có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối
của Đảng ở cơ sở. Vì vậy, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh
không thể không xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh. Thường xuyên kiệm
toàn chi bộ, chi uỷ, bí thư, khơng để khoảng trống trong lãnh đạo, làm tốt công tác
lựa chọn, bồi dưỡng cấp uỷ viên, bí thư chi bộ, đồng thời làm tốt việc phân công
công tác cho đảng viên một cách hợp lý và thường xuyên theo dõi, giúp đỡ đảng
viên trong thực hiện nhiệm vụ.


20

20

Chi bộ phải chấp hành nghiêm các chế độ sinh hoạt đảng, đồng thời phải
thường xuyên cải tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ theo phương hướng bảo đảm thơng tin đầy đủ chính xác, phát huy dân chủ trong bàn bạc, thảo
luận quyết định, giữ vững kỷ luật và tính chất sinh hoạt đúng; cải tiến phương
pháp tiến hành hội nghị chi bộ sao cho bảo đảm ngắn gọn có hiệu quả, thiết
thực bằng nhiều hình thức sinh hoạt. Qua sinh hoạt chi bộ phải đề ra được chủ
trương biện pháp lãnh đạo sát đúng, các tổ chức trong đơn vị được củng cố
kiện toàn hoạt động đúng chức năng, đội ngũ cán bộ, đảng viên có chuyển biến
về nhận thức trách nhiệm của mình.
Để đạt được u cầu trên, bí thư phải làm tốt cơng tác chuẩn bị, trong mỗi
buổi sinh hoạt chi bộ phải xác định rõ mục đích yêu cầu, nội dung sinh hoạt cụ thể.
Các bước chuẩn bị sinh hoạt, tiến hành sinh hoạt và triển khai tổ chức thực hiện sau
sinh hoạt. Phải luôn bồi dưỡng nâng cao nhận thức trách nhiệm của đảng viên, nhất
là bí thư, chi ủy viên, định kỳ sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm việc duy trì và nâng
cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
Thường xuyên chăm lo giáo dục bồi dưỡng nâng cao phẩm chất năng lực lãnh
đạo, năng lực vận động quần chúng cho mọi đảng viên. Kết hợp chặt chẽ giữa xây
dựng đội ngũ đảng viên với xây dựng đội ngũ cán bộ và xây dựng chi bộ. Làm tốt

công tác phát triển đảng viên mới bảo đảm đúng phương châm, phương hướng, thủ
tục, nguyên tắc, đồng thời kiên quyết đa ra khỏi đảng những người không đủ tư
cách làm trong sạch đội ngũ đảng viên ở chi bộ. Trong sinh hoạt cũng như trong
lãnh đạo tổ chức thực hiện, chi bộ phải ln đề cao ý thức tự giác, vai trị tiền
phong gương mẫu của đảng viên, nêu cao tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê
bình, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tư tưởng, quan điểm và việc làm sai
trái. Khắc phục biểu hiện gia trưởng, độc đốn chun quyền, qn phiệt, coi thường vai trị lãnh đạo của chi ủy, chi bộ, coi thường nghị quyết của đảng đều phải
tiến hành tự phê bình và phê bình nghiêm túc xử lý kỷ luật nghiêm minh.
Thứ tư, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh gắn với xây dựng
đơn vị vững mạnh toàn diện.


21

21

Là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở, do đó xây dựng tổ chức cơ sở đảng
trong sạch vững mạnh không thể tách rời vấn đề xây dựng đơn vị vững mạnh toàn
diện. Sự vững mạnh toàn diện của đơn vị chính là thước đo năng lực lãnh đạo toàn
diện và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, là tiêu chí quan trọng đánh giá sự
trong sạch vững mạnh của tổ chức cơ sở đảng. Đây là mối quan hệ biện chứng
trong quá trình xây dựng tổ chức đảng và xây dựng đơn vị. Do đó, gắn xây dựng tổ
chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện
là vấn đề có tính quy luật trong xây dựng đơn vị trong sạch vững mạnh.
Muốn vậy cần có sự thống nhất về mục tiêu, yêu cầu chung nhằm nâng cao
chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ
chính trị của đơn vị, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với quân đội từ cơ sở. Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện về tổng
quát bao hàm cả sự trong sạch vững mạnh của tổ chức cơ sở đảng. Vì vậy cần tạo
sự gắn bó giữa tổ chức cơ sở đảng, tổ chức chỉ huy và các tổ chúng quần chúng, hội

đồng quân nhân trong đơn vị. Đồng thời, cần kết hợp xây dựng, kiện toàn, nâng
cao chất lượng cấp uỷ với xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì, kết hợp xây dựng đội
ngũ đảng viên với xây dựng đội ngũ cán bộ. Trong quá trình đó cần thực hiện
nghiêm túc, chặt chẽ ngun tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, phân
công cá nhân phụ trách. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh là
quan điểm đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta. Đây là giải pháp quan trọng nhằm nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
Trong những năm vừa qua, chúng ta đã triển khai thực hiện công tác này bước
đầu đạt được kết quả nhất định. Tuy nhiên, do còn lúng túng trong nhận thức về nội
dung và cách làm cụ thể nên kết quả đạt được còn hạn chế. Số đảng bộ đạt tiêu
chuẩn trong sạch vững mạnh cao nhưng tỷ lệ đơn vị vững mạnh toàn diện cịn thấp.
Khơng ít trường hợp trong nhận thức tư tưởng thì tốt, nhưng trong hoạt động tổ
chức thực hiện thì lại tách rời giữa xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững
mạnh với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
Thứ năm, xây dựng phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc, giữ vững các
nguyên tắc tổ chức sinh hoạt trong Đảng


22

22

Đảng bộ, chi bộ cơ sở là hạt nhân chính trị, lãnh đạo các mặt công tác, mọi
hoạt động của đơn vị. Do đó, thường xuyên đổi mới phong cách lãnh đạo và lề lối
làm việc thực sự khoa học, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo
đi đôi với phân công cá nhân phụ trách, đồng thời phải bảo đảm sự thống nhất
trong Đảng trên tình đồng chí, đồng đội, u thương giúp đỡ lẫn nhau. Phong cách
lãnh đạo và lề lối làm việc khoa học là sự phản ánh của năng lực lãnh đạo, giữa
chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hiệu
quả công tác và kết quả hoàn thành nhiệm vụ. Cho nên, muốn xây dựng tổ chức cơ

sở đảng trong sạch vững mạnh có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao thì u
cầu đặt ra khơng thể thiếu được là nhất thiết phải đổi mới phong cách lãnh đạo và
lề lối làm việc một cách thực sự khoa học. Mỗi tổ chức cơ sở đảng phải luôn nắm
vững đặc điểm về tính trực tiếp của cơ sở để hoạt động và xây dựng phong cách
lãnh đạo, lề lối làm việc khoa học. Mọi quyết định chủ trương, biện pháp lãnh đạo
của tổ chức cơ sở đảng phải xuất phát từ cơ sở, đó là quán triệt nắm vững đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của
cấp trên và thực tiễn của đơn vị. Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc khoa học
đòi hỏi phải quán triệt thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh
đạo đi đôi với phân cơng cá nhân phụ trách. Trong q trình tổ chức lãnh đạo phải
giữ vững nguyên tắc, chế độ, thực hiện đúng chức năng, quyền hạn đồng thời các
cấp ủy đảng ở cơ sở phải có tác phong sâu sát thực tế, cụ thể tỉ mỉ, gần gũi quần
chúng, thường xuyên giúp đỡ cấp dưới một cách thiết thực trên tình thương u
đồng chí, đồng đội. Chấm dứt, ngăn ngừa tác phong làm việc quan liêu, hình thức.
Để tổ chức cơ sở đảng trong quân đội xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo chính
trị ở cơ sở, một vấn đề quan trọng không thể thiếu được đặt ra hiện nay là: phải tập
trung khắc phục những yếu kém, hạn chế về năng lực lãnh đạo toàn diện, năng lực
tổ chức thực hiện nghị quyết, vấn đề quản lý kỷ luật, quản lý đảng viên, ngăn chặn
thối hóa, biến chất trong cán bộ, đảng viên…
Thứ sáu, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
Đảng trong quá trình tổ chức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng


23

23

Kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo của Đảng, là nhiệm vụ thường
xuyên của toàn Đảng, trước hết là nhiệm vụ của cấp uỷ và người đứng đầu cấp uỷ,
do cấp uỷ trực tiếp tiến hành nhằm bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách

của Đảng được thực hiện thắng lợi. Kiểm tra, giám sát là chức năng quan trọng
trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, là một khâu trong quy trình lãnh đạo của Đảng.
Từ thực tiễn cơng tác xây dựng Đảng có bước phát triển mới đáp ứng với
yêu cầu nhiệm vụ cách mạng hiện nay, do đó, đổi mới và tăng cường cơng tác
kiểm tra là yêu cầu tất yếu khách quan. Công tác kiểm tra, giám sát phải góp phần
phát hiện và khắc phục được những khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh nha.
Bên cạnh thực hiện tốt công tác kiểm tra phải tăng cường chủ động công tác giám
sát. Đại hội X của Đảng xác định: “bổ sung chức năng giám sát, tăng thẩm quyền
và trách nhiệm xem xét kỷ luật của cấp uỷ và ỷ ban kiểm tra các cấp. Uỷ ban
kiểm tra các cấp có quyền yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên giải
trình về các vấn đề thuộc thẩm quyền và trách nhiệm kiểm tra, giám sát được
giao.”8 Muốn thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát đạt hiệu quả cao cần tập
trung thực hiện tốt nội dung biện pháp sau đây:
Tăng cường giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên,
trước hết là người đứng đầu cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra Đảng, làm rõ vị trí, vai trị
của cơng tác kiểm tra, giám sát; giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, chỉ thị,
nghị quyết của Đảng, nhiệm vụ, quyền hạn của uỷ ban kiểm tra.
Công tác kiểm tra, giám sát phải lấy nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng
Đảng để làm mục tiêu, phương hướng tiến hành, do đó thường xuyên nắm vững
phương hướng nhiệm vụ chính trị của quân đội, từng đơn và yêu cầu xây dựng
Đảng để tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát, khi xác định những nội dung
kiểm tra, giám sát phải nhất thiết nhằm vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị
của đơn vị và nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ở đơn vị cơ
sở. Xem xét đánh giá hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát phải căn cứ vào kết quả
hồn thành nhiệm vụ chính trị.

8 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, tr 302-303.


24


24

Từ vị trí, vai trị của cơng tác kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo của
Đảng, đối tượng kiểm tra, giám sát là con người và tổ chức, do đó phải có tính khoa
học, phải nắm chắc tình hình đơn vị để chủ động kiểm tra, giám sát, trong quá
trình kiểm tra, giám sát phải sử dụng hình thức, biện pháp hợp lý, điều tra phải cụ
thể, rõ ràng. Thường xuyên kiện toàn cơ quan kiểm tra và tăng cường cán bộ kiểm
tra các cấp đáp ứng nhiệm vụ mới.
Kỷ luật của Đảng là những chế độ, nguyên tắc, qui định của Đảng buộc
đảng viên và tổ chức đảng phải nghiêm chỉnh tự giác chấp hành để bảo đảm sự
thống nhất cao về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng làm cho năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được tăng cường, giữ vững vai trò
tiên phong chiến đấu của giai cấp cơng nhân, lãnh đạo cách mạng hồn thành tốt
nhiệm vụ. Bản chất của kỷ luật Đảng là sự thống nhất giữa hai mặt nghiêm minh
và tự giác trong đó tự giác là đặc trưng cơ bản. Do đó, để tăng cường nghiêm kỷ
luật của Đảng ở cơ sở, trước hết tăng cường cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng
cho cán bộ, đảng viên; nắm vững và thực hiện đúng phương hướng, phương
châm thi hành kỷ luật của Đảng; xây dựng và hồn thiện các qui chế về tổ chức,
khơng ngừng nâng cao chất lượng sinh hoạt nội bộ Đảng; nắm chắc và hồn
thiện đúng qui trình xử lý của vụ vi phạm kỷ luật; tăng cường công tác kiểm tra,
khen thưởng và xử phạt kịp thời các vụ việc.
Thứ bảy, phát huy trách nhiệm lãnh đạo của cấp trên và tính chủ động của
cấp dưới trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh
Đây là một nội dung, biện pháp rất quan trọng biểu hiện trong mối quan hệ
giữa khách quan và chủ quan trong nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng. Do đó, cấp trên cơ sở phải có tác phong sâu sát lắng nghe cơ
sở, giúp đỡ cơ sở một cách thiết thực có hiệu quả. Thường xuyên quan tâm kiện
toàn, bồi dưỡng, hướng dẫn cơ quan chính trị và cán bộ chính trị ở cơ sở hoạt động
đúng chức năng, nhiệm vụ, chức trách. Có phẩm chất đạo đức, lối sống trong sáng,

có ý thức trách nhiệm và nhiệt tình với cơng việc.
Mọi chỉ đạo của cấp trên đối với cấp dới phải kịp thời, đồng bộ và có tính khả
thi cao, phải được cụ thể hóa bằng văn bản để thực hiện thống nhất, có hiệu quả,


25

25

khắc phục tình trạng chung chung, khép kín trong từng cơ quan, bộ phận. Cấp trên
phải nắm vững mạnh, yếu của cơ sở, xác định được khâu nào ở cấp cơ sở tự giải
quyết, khắc phục. Khâu nào cấp trên giải quyết, có như vậy mới tạo cho cấp cơ sở
phát huy trách nhiệm, mới tin tưởng vào năng lực của mình, khơng thụ động, ỷ lại
vào cấp trên. Việc chỉ đạo của cấp trên cơ sở phải thống nhất, kế hoạch phải cụ thể,
thực hiện phải kiên quyết, triệt để, dứt điểm từng vấn đề và có sự phân công, kiểm
tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện. Đồng thời, cần coi trọng việc sơ, tổng kết thực
tiễn những việc đã làm, nghiên cứu rút ra những bài học kinh nghiệm để tiếp tục
chỉ đạo cho sát và đạt hiệu quả cao hơn trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ.
Đối với bản thân đơn vị cơ sở phải phát huy được sức mạnh của toàn đảng bộ,
chi bộ và đơn vị trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng. Cán bộ chủ trì đơn vị, nhất là cấp ủy phải nắm vững những yêu cầu,
nội dung, biện pháp xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh với xây
dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, nắm vững sự chỉ đạo của cấp trên, nắm vững
tình hình mọi mặt của đảng bộ, chi bộ, đơn vị để xác định chủ trương, biện pháp
lãnh đạo phù hợp với thực tiễn ở đơn vị. Phải tiến hành tốt công tác giáo dục nâng
cao nhận thức trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng trong đơn vị. Cấp
ủy, người chỉ huy phải tiến hành tốt công tác tư tưởng, cơng tác tổ chức, phải có
chính sách nhằm phát huy vai trị tự giác, tích cực, vai trị tiên phong gương mẫu
của đội ngũ đảng viên trong mọi hoạt động và nâng cao ý thức trách nhiệm của họ
trong xây dựng Đảng và trong công tác vận động quần chúng.

Cấp ủy, bí thư cơ sở phải phát huy đầy đủ vai trị, trách nhiệm của mình trước
cấp trên và tổ chức đảng cấp mình, thực sự xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo chính
trị, trung tâm đồn kết, đại biểu cho trí tuệ, ý chí của tập thể nhằm xây dựng đảng
bộ cơ sở trong sạch vững mạnh.
Đội ngũ cán bộ chủ trì phải nêu cao tính tiên phong gương mẫu trong cơng
tác, có phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng trong sáng, có ý thức tổ chức kỷ
luật, phục tùng sự lãnh đạo của tập thể, chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân
chủ, khắc phục triệt để hiện tượng quan liêu, gia trưởng quân phiệt, hành động
thiếu tơn trọng đối với cấp dưới. Có quy định cụ thể và lãnh đạo đơn vị thực hiện


×