Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

PHÂN TÍCH Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC, LIÊN HỆ THỰC TIỄN HỌC TẬP CỦA BẢN THÂN.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.9 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ I

TÊN TIỂU LUẬN
PHÂN TÍCH Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU VAI TRÒ CỦA THỰC
TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC, LIÊN HỆ THỰC
TIỄN HỌC TẬP CỦA BẢN THÂN
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN: LÊ THỊ PHƯƠNG THÚY
Lớp: QKT63LT2

Mã sv: 820537

Khoa: Kinh tế
Chuyên ngành: Quản trị tài chính kế tốn
Khóa năm:

2022 - 2023

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: VŨ PHÚ DƯỠNG
Hải Phòng - 2023


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
1. Một số khái niệm liên quan............................................................................2
1.1. Thực tiễn........................................................................................................2
1.2. Nhận thức......................................................................................................2


2. Đặc điểm của hoạt động thực tiễn..................................................................3
3. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.........................................................4
3.1. Thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức 4
3.2. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý............................................................5
4. Ý nghĩa phương pháp luận.............................................................................7
5. Vận dụng vai trò của thực tiễn đối với nhận thức vào cuộc sống sinh viên
...............................................................................................................................8
5.1. Trong học tập................................................................................................8
5.2. Trong rèn luyện...........................................................................................13
KẾT LUẬN........................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO

16

ii


MỞ ĐẦU
Trong tác phẩm Bút ký triết học, V.I.Lênin đã khái quát con đường biện
chứng của sự nhận thức chân lý như sau: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của
sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan.
Theo sự khái quát này, con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý
(tức là phản ánh đúng đắn đối với hiện thực khách quan) là một quá trình. Đó là
q trình bắt đầu từ “trực quan sinh động” (nhận thức cảm tính) tiến đến “tư duy
trừu tượng” (nhận thức lý tính). Nhưng những sự trừu tượng đó khơng phải là
điểm cuối cùng của một chu kỳ nhận thức, mà nhận thức phải tiếp tục tiến tới
thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà nhận thức có thể kiểm tra và chứng minh
tính đúng đắn của nó và tiếp tục vịng khâu tiếp theo của q trình nhận thức.
Đây là quy luật chung của quá trình con người nhận thức hiện thực khách quan,

đồng thời quy luật này cũng thể hiện rõ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Để góp phần làm rõ hơn về vai trị của thực tiễn đối với nhận thức cũng
như ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này, em xin lựa chọn đề tài “Phân tích
ý nghĩa phương pháp luận từ việc nghiên cứu vai trò của thực tiễn đối với nhận
thức, liên hệ thực tiễn học tập của bản thân” làm nội dung chính cho bài tiểu
luận của mình.

1


NỘI DUNG
1. Một số khái niệm liên quan
1.1. Thực tiễn
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin: “Thực tiễn là những hoạt
động vật chất có mục đích mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải
tạo tự nhiên và xã hội”. Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền
tảng, cơ bản không chỉ của lý luận nhận thức mác-xít mà cịn của tồn bộ triết
học Mác – Lênin.
Hoạt động thực tiễn gồm những dạng cơ bản sau:
- Hoạt động sản xuất vật chất:
Ví dụ về hoạt động sản xuất vật chất ta có thể thấy ở khắp mọi nơi trong
cuộc sống, như trồng lúa, trồng khoai, dệt vải, sản xuất giày dép, ô tô, xe máy…
Đây là dạng hoạt động thực tiễn nguyên thủy nhất và cơ bản nhất vì:
Hoạt động sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người. Đồng thời, dạng hoạt động này quyết định các dạng khác của hoạt
động thực tiễn, là cơ sở của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của
con người, giúp con người thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật.
- Hoạt động chính trị – xã hội:
Dạng hoạt động này nhằm biến đổi các quan hệ xã hội, chế độ xã hội.
Ví dụ về hoạt động chính trị – xã hội là:

+ Đi bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội.
+ Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri.
+ Thanh niên tham gia tình nguyện giúp đồng bào vùng sâu vùng xa.
- Hoạt động thực nghiệm khoa học:
Dạng hoạt động này ra đời cùng với sự xuất hiện của các ngành khoa học.
Trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hiện nay (cách mạng 4.0), hoạt
động thực nghiệm khoa học ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển
của xã hội.
1.2. Nhận thức
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, nhận thức được định nghĩa là quá
2


trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người,
có tính tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.
Nhận thức là một khái niệm tương đối. Nó có thể tập trung vào một trạng
thái bên trong, chẳng hạn như cảm giác nội tạng, hoặc vào các sự kiện bên ngoài
bằng cách nhận thức cảm tính. Nó tương tự như cảm nhận một cái gì đó, một
q trình phân biệt với quan sát và nhận thức (bao gồm một quá trình cơ bản làm
quen với các mục mà chúng ta nhận thức được). Nhận thức hoặc “cảm nhận” có
thể được mơ tả là một cái gì đó xảy ra khi não được kích hoạt theo những cách
nhất định, chẳng hạn như khi màu đỏ là những gì được nhìn thấy sau khi võng
mạc được kích thích bởi sóng ánh sáng. Việc hình thành khái niệm này được đặt
ra trong bối cảnh khó khăn trong việc phát triển một định nghĩa phân tích về
nhận thức hoặc nhận thức cảm tính.
2. Đặc điểm của hoạt động thực tiễn
- Thực tiễn là hoạt động có mục đích của con người:
+ Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nói vậy tức là
chỉ có con người mới có hoạt động thực tiễn.
Con vật khơng có hoạt động thực tiễn, chúng chỉ hoạt động theo bản năng

nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài. Ngược lại, con người
hoạt động có mục đích rõ ràng nhằm cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của
mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và làm chủ thế giới.
+ Con người không thể thỏa mãn với những gì có sẵn trong tự nhiên. Con
người phải tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất để ni sống mình. Để
lao động hiệu quả, con người phải chế tạo và sử dụng công cụ lao động.
Như thế, bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động sản xuất, con
người tạo ra những vật phẩm vốn không có sẵn trong tự nhiên. Khơng có hoạt
động thực tiễn, con người và xã hội lồi người khơng thể tồn tại và phát triển
được.
Do đó, có thể phát biểu rằng, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của
con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa
con người và thế giới.
3


- Thực tiễn là hoạt động mang tính lịch sử – xã hội:
Thực tiễn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người
mặc dù trình độ và các hình thức hoạt động thực tiễn có những thay đổi qua các
giai đoạn lịch sử. Hoạt động đó chỉ có thể được tiến hành trong các quan hệ xã
hội. Thực tiễn có q trình vận động và phát triển của nó. Trình độ phát triển của
thực tiễn nói lên trình độ chinh phục tự nhiên và làm chủ xã hội của con người.
Như vậy, về mặt nội dung cũng như về phương thức thực hiện, thực tiễn
có tính lịch sử – xã hội.
3. Vai trị của thực tiễn đối với nhận thức
3.1. Thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức
Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:
Mọi nhận thức của con người xét đến cùng đều có nguồn gốc thực tiễn.
Thực tiễn cung cấp những tài liệu hiện thực khách quan, làm cơ sở để con người
nhận thức. Bằng hoạt động thực tiễn, con người trực tiếp tác động vào thế giới

khách quan, bắt đối tượng bộc lộ ra những đặc trưng, những quy luật vận động
phát triển. Thông qua hoạt động thực tiễn con người đã sáng tạo ra những công
cụ ngày càng tinh xảo hơn: Tàu vũ trụ, máy tính, internet các giác quan con
người ngày càng phát triển, ngôn ngữ ngày càng phong phú, hình thành cả một
hệ thống những khái niệm phạm trù và thường xuyên được bổ sung. Ví dụ:
Những tri thức về thiên văn, tốn học, trồng trọt... được hình thành từ việc quan
sát thời tiết, tính tốn chu kỳ vận động của Mặt trời, của tuần trăng, sự đo đạc
ruộng đất, sự đúc kết kinh nghiệm từ thực tế gieo trồng hàng năm... Từ đo đạc
ruộng đất, đo lường vật thể mà con người có tri thức về tốn học.
Điều này có nghĩa là thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, cho lý
luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với người này hay người kia, thế
hệ này hay thế hệ khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận, xét đến cùng đều bắt
nguồn từ thực tiễn.
Sở dĩ như vậy bởi con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng
lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong q trình hoạt động thực tiễn cải tạo
thế giới mà nhận thức ở con người được hình thành và phát triển.
4


Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới
phải bộc lộ những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức
chúng. Ban đầu, con người thu nhận những tài liệu cảm tính. Sau đó, con người
tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… để phản
ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó
xây dựng thành các khoa học, lý luận.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Nói thực tiễn là mục đích của nhận thức vì nhận thức dù về vấn đề, khía
cạnh, lĩnh vực gì chăng nữa thì cũng phải quay về phục vụ thực tiễn. Nhận thức
mà khơng phục vụ thực tiễn thì khơng phải là “nhận thức” theo đúng nghĩa. Do
đó, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ

có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức:
Nói như vậy có nghĩa là thực tiễn cung cấp năng lượng nhiều nhất, nhanh
chóng nhất giúp con người nhận thức ngày càng toàn diện và sâu sắc về thế giới.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi
luôn cả bản thân mình, phát triển năng lực thể chất, trí tuệ của mình. Nhờ đó,
con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của
thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới.
Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của
nhận thức. Nhu cầu thực tiễn địi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh
nghiệm, khái quát lý luận, nó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành
khoa học. Khoa học ra đời chính vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của
con người.
3.2. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Chân lý là những tri thức của con người phù hợp với hiện thực khách
quan, đã được thực tiễn kiểm nghiệm. Triết học Mác-Lênin khẳng định: Chỉ có
thực tiễn mới là tiêu chuẩn của chân lý, vì “thực tiễn cao hơn nhận thức”, nó vừa
có “tính hiện thực trực tiếp”, lại vừa có “tính phổ biến”. Người ta không thể lấy
nhận thức để kiểm tra nhận thức được, không thể lấy nhận thức này làm chuẩn
5


để kiểm tra nhận thức khác, tuy rằng của đa số, có nhiều khả năng tiếp cận chân
lý. Và cũng khơng thể lấy lợi ích là tiêu chuẩn chân lý vì trong xã hội, nhất là xã
hội có giai cấp đối kháng, thì lợi ích của giai cấp là khác nhau thậm chí trái
ngược nhau. Cái lợi của giai cấp này, có thể là cái hại của giai cấp khác. Vậy, chỉ
có thực tiễn mới là tiêu chuẩn thực sự duy nhất của chân lý. Thực tiễn là tiêu
chuẩn của chân lý. Vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối là
ở chỗ: Thực tiễn là duy nhất làm tiêu chuẩn chân lý, ngồi nó ra khơng có cái
nào khác có thể làm tiêu chuẩn cho chân lý được. Cịn tính tương đối là ở chỗ:

Thực tiễn ngay một lúc không thể khẳng định được cái đúng, bác bỏ được cái sai
một cách tức thì. Hơn nữa bản thân thực tiễn có tính biện chứng. Thực tiễn hơm
qua khác thực tiễn hơm nay. Nên nó khơng cho phép người ta hiểu biết bất kỳ
thành chân lý vĩnh viễn, bất biến.
Như các nhà kinh điển của triết học Mác – Lênin đã khẳng định: Vấn đề
tìm hiểu xem tư duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay khơng
hồn tồn khơng phải là một vấn đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính
trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý.
Tất nhiên, nhận thức khoa học có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn logic.
Nhưng tiêu chuẩn logic khơng thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến
cùng, nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.
Ta cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện chứng.
Tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối:
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách
quan để kiểm nghiệm chân lý. Thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận
được chân lý.
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn khơng đứng
ngun một chỗ mà ln biến đổi và phát triển. Thực tiễn là một quá trình và
được thực hiện bởi con người nên không tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan.
Tiêu chuẩn thực tiễn khơng cho phép biến những tri thức của con người
thành những chân lý tuyệt đích cuối cùng. Trong q trình phát triển của thực
tiễn và nhận thức, những tri thức đạt được trước kia và hiện nay vẫn phải thường
6


xuyên chịu kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo, tiếp tục được thực tiễn bổ sung,
điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hồn thiện hơn.
Việc qn triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp chúng ta
tránh khỏi những cực đoan sai lầm như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ hoặc chủ
nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối.

4. Ý nghĩa phương pháp luận
Quan điểm của triết học Mác - Lênin về vai trò của thực tiễn đối với nhận
thức có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống.
Để sinh tồn và phát triển, con người phải tiến hành những hoạt động thực
tiễn. Đó là các hoạt động cải biến mơi trường tự nhiên và xã hội đồng thời cũng
qua đó con người thực hiện một cách tự giác hay không tự giác q trình hồn
thiện và phát triển chính bản thân mình. Chính q trình này đã làm phát sinh và
phát triển hoạt động nhận thức của con người. Hoạt động thực tiễn chỉ có thể
thành cơng và có hiệu quả một khi con người vận dụng được những tri thức
đúng đắn về thực tế khách quan trong chính hoạt động thực tiễn của mình. Vì
vậy, chân lý là một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thành cơng và
tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
Mối quan hệ giữa chân lý và hoạt động thực tiễn là mối quan hệ biện
chứng trong quá trình vận động, phát triển của cả chân lý và thực tiễn: chân lý
phát triển nhờ thực tiễn và thực tiễn phát triển nhờ vận dụng đúng đắn những
chân lý mà con người đã đạt được trong hoạt động thực tiễn.
Quan điểm của triết học Mác - Lênin về vai trò của thực tiễn đối với nhận
thức yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn,
đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng tổng kết thực tiễn. Ví dụ:
+ Nghiên cứu cây lúa phải bám sát quá trình gieo mạ và tiến trình sinh
trưởng, phát triển của cây lúa trực tiếp trên cánh đồng, đồng thời kết hợp với
những tri thức đã có về cây lúa trong những tài liệu chuyên ngành. Ta không thể
nghiên cứu về cây lúa chỉ bằng việc đọc sách, báo, tài liệu.
+ Nghiên cứu về cách mạng xã hội thì cũng không thể chỉ dựa vào sách,
báo, tài liệu, mà cần phải có cả q trình tiếp xúc, tìm hiểu đời sống của các giai
7


cấp, tầng lớp…
Quan điểm trên cũng yêu cầu nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực

tiễn, học phải đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của
bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
Quan điểm của triết học Mác - Lênin về vai trò của thực tiễn đối với nhận
thức đòi hỏi trong hoạt động nhận thức con người cần phải xuất phát từ thực tiễn
để đạt được chân lý, phải coi chân lý cũng là một quá trình. Đồng thời, phải
thường xuyên tự giác vận dụng chân lý vào trong hoạt động thực tiễn để phát
triển thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động cải biến giới tự nhiên và xã hội.
Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức
đó vào trong các hoạt động kinh tế – xã hội, nâng cao hiệu quả của những hoạt
động đó về thực chất cũng chính là phát huy vai trò của chân lý khoa học trong
thực tiễn hiện nay.
5. Vận dụng vai trò của thực tiễn đối với nhận thức vào cuộc sống sinh viên
5.1. Trong học tập
5.1.1. Thực hiện “học đi đôi với hành”
Thực tiễn là cái được phản ánh, nhận thức là cái phản ánh. Để hiểu được
thực tiễn dưới dạng hình tượng logic nhất thiết phải hình thành lý luận. Bản thân
thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển và biến đổi. Q trình đó diễn ra có lúc
tn theo quy luật, có lúc khơng, có lúc khá phức tạp. Để hình thành lý luận,
nhận thức phải bám sát q trình đó. Bám sát thực tiễn không chỉ đơn giản phản
ánh phù hợp thực tiễn đương đại mà còn phải so sánh, đối chiếu, phân tích để
chọn lọc những thực tiễn mang tính khách quan, mang tính quy luật làm cơ sở
cho quá trình hình thành lý luận. Nếu lý luận nào đó khơng phản ánh đúng nhu
cầu của thực tiễn, khơng phù hợp với thực tiễn thì sớm hay muộn, lý luận đó
cũng sẽ bị bác bỏ. Chính vì thế, trong học tập cũng như rèn luyện của sinh viên
hiện nay, cần phải biết bám sát thực tiễn, phản ánh đúng yêu cầu thực tiễn để
khái quát những kinh nghiệm của thực tiễn, lấy đó làm cơ sơ hình thành lý luận.
Là sinh viên cần phải năng động, sáng tạo, biết vận dụng những kinh nghiệm có
trước làm tiền đề cho q trình học tập, rèn luyện của mình. Đó là tri thức trực
8



tiếp góp phần tích cực vào sự phát triển của mỗi sinh viên sau này, lý luận phải
khái quát được kinh nghiệm của lồi người thì mới có tính khoa học và sẽ đáp
ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Một sinh viên nếu chỉ có lý luận sng trên lý thuyết sách vở mà đem áp
dụng vào thực tế đời sống thì sẽ vấp phải những sai lầm do khơng phù hợp với
sự phát triển cũng như sự vận động, biến đổi của xã hội. “Học phải đi đôi với
hành, học mà khơng hành thì vơ ích. Hành mà khơng học thì hành khơng trơi
chảy” - Lời dạy của Bác Hồ có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc học của
chúng ta ngày nay. Đối với sinh viên còn đang ngồi trên giảng đường đại học,
nhận thức, hiểu cụ thể chính là q trình tiếp thu kiến thức đã được tích lũy
trong sách vở, là nắm vững lý luận đã được đúc kết trong các bộ môn khoa học,
là tìm hiểu khám phá những tri thức của lồi người nhằm chinh phục thiên
nhiên, vũ trụ. Còn “vận dụng vai trị của thực tiễn đối với nhận thức” ở đây
chính là “hành”, tức là làm, là thực hành, là ứng dụng kiến thức, lý thuyết cho
thực tiễn đời sống. “Học đi đôi với hành”, nhất thiết phải lấy thực tiễn làm kinh
nghiệm hình thành lý luận.
Trước khi vận dụng, phải vững lý thuyết. Giỏi lý thuyết không vẫn chưa
đủ. Nếu khơng ứng dụng vào cuộc sống thì những gì chúng ta học được chẳng
phải vơ ích sao? Khơng phải tự nhiên mà một chiếc máy bay có thể bay được.
Đó là kết quả của hàng vạn cuộc thí nghiệm, nghiên cứu của hàng nghìn nhà
khoa học suốt nhiều thế kỷ, thành cơng có, thất bại có. Nhưng nếu khơng thử thì
đã khơng có phương tiện hiện đại nhanh bậc nhất như bây giờ. Sau khi thất bại
nên tự hỏi “tại sao mình thất bại?”, để rút kinh nghiệm cho lần sau. Giữ vững
niềm tin, đam mê, sáng tạ ứng dụng lý thuyết vào thực nghiệm, thành công sẽ
mỉm cười. Tuy nhiên, từ nhận thức đến thực tiễn là cả một đoạn đường dài.
Muốn đi được trên chặng đường ấy, ta phải trả bằng mồ hôi công sức, thời gian,
của cải, nước mắt và có khi cả bằng máu. Đơi khi qua thực hành mà ta kiểm
định lại kiến thức đã học bằng thực nghiệm mà người ta tìm ra lỗ hổng của
những giả thiết tưởng chừng là đúng.


9


Mặt khác, sinh viên cần phải có ý thức đúng đắn trong việc “học” và
“hành”. Đó là phải có thái độ học tập nghiêm túc, không học qua loa chiếu lệ
kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”, vừa học vừa chơi. Trên giảng đường phải tập trung
chú ý nghe thầy cô giảng bài, mạnh dạn hỏi những điều chưa hiểu chưa biết, ghi
chép bài theo cách riêng của mình nhưng dễ hiểu mà vẫn khoa học, không chép
từng câu từng chữ từng dấu phẩy, về nhà học bài cũ, nghiên cứu trước bài mới,
làm bài tập đầy đủ. Tránh học theo kiểu học vẹt, học lý thuyết suông mà phải kết
hợp lý thuyết thực hành, vận dụng sáng tạo những kiến thức thầy cô truyền thụ
vào bài tập thực hành. Khi thầy cô đưa ra một vấn đề, một nhận định hay học
thuyết nào đó, hãy tự hình dung trong đầu những ví dụ về sự vật hiện tượng
quanh ta về nó rồi sau đó xem xét, đánh giá, so sánh tương quan nó trong mối
quan hệ biện chứng với những sự vật, hiện tượng khác có liên quan tới chúng.
Câu hỏi: “Vì sao lại thế?” phải ln thường trực trong đầu mỗi sinh viên đại
học. Chỉ với việc làm nho nhỏ đó, chúng ta đang dần bước đến phương pháp
nghiên cứu khoa học. Qua đó ta học được cách nhìn nhận vạn vật rồi xây dựng
để tài, và thực tế khi bắt tay vào hiện thực cơng việc thì sẽ khơng cịn lúng túng,
loay hoay khơng biết nên bắt đầu từ đâu, làm gì, làm như thế nào và muốn đạt
kết quả nào, cho ai.
5.1.2. Chủ động tiếp nhận tri thức của nhân loại để áp dụng vào thực tiễn
Để vận dụng tốt thực tiễn vào nhận thức, sinh viên trước hết phải là những
người chủ động trong đón nhận tri thức và vận hành nó bằng chính bàn tay và
khối óc của mình. Nguồn kiến thức là vơ hạn, và cách tiếp cận nó cũng mn
hình vạn trạng: học từ sách vở thầy cô, học từ bạn bè, ông bà, cha mẹ, từ báo
chí,… Muốn nhận thức tốt phải thực hiện đầy đủ 4 thao tác: nghe, nhìn, đọc,
viết; nghĩa là phải huy động bốn giác quan để học, học và học.
Thứ hai, sinh viên nhất thiết phải bổ trợ thêm kiến thức xã hội để phục vụ

cho thực tiễn cuộc sống. Sinh viên năng động, vì vậy nên tích cực tham gia vào
thảo luận hoạt đơng nhóm, các câu lạc bộ, các diễn đàn, các hoạt động đồn
trường sơi nổi để trau dồi kĩ năng sống, kĩ năng quản lý sắp xếp, giúp nhận thức
của bản thân dễ dàng hòa nhập và biến đổi phù hợp trong thực tiễn đời sống.
10


Nếu ví thuyền là nhận thức thì sinh viên chúng ta là những thuyền trưởng có
kinh nghiệm, kĩ năng trước biển lớn chính là thực tiễn.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, đặc biệt coi trọng việc vận dụng sáng
tạo các tri thức khoa học nhân loại đã đạt được vào điều kiện cụ thể của quá
trình học tập và rèn luyện của sinh viên nói riêng và của tồn xã hội nói chung.
Thành tựu của khoa học và công nghệ đã tác động sâu sắc đến các lĩnh vực của
quá trình nghiên cứu học tập của sinh viên. Khơng có một quốc gia nào đứng
ngồi sự tác động đó. Khoa học và cơng nghệ là sự kế thừa và tích hợp thành tựu
của quá khứ và hiện tại, sự cố gắng không mệt mỏi của bao thế hệ, là thành tựu
mang tính nhân loại. Con đường phát triển ngắn nhất và bền vững nhất hiện nay
của các quốc gia chậm phát triển là tranh thủ thời cơ, ứng dụng các thành tựu
của khoa học và công nghệ để phát triển đất nước. Để đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, chúng ta phải nhanh chóng tiếp cận và ứng dụng một cách có
hiệu quả các thành tựu của khoa học và cơng nghệ thế giới. Đó cũng là mục tiêu
của tầng lớp tri thức trẻ như sinh viên hiện nay, cần phải cố gắng hết mình để
tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tri thức khoa học kĩ thuật của thế giới vào
cơng cuộc hiện đại hóa đất nước.
5.1.3. Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Bệnh kinh nghiệm là sự tuyệt đối hóa những kinh nghiệm thực tiễn trước
đây và áp dụng một cách máy móc vào hiện tạo khi điều kiện đã thay đổi. Bệnh
kinh nghiệm xuất phát từ tri thức kinh nghiệm thông thường. Tri thức kinh
nghiệm thơng thường là trình độ thấp của tri thức. Tri thức này chỉ khái quát
thực tiễn với những yếu tố và điều kiện đơn giản, hạn chế. Tri thức kinh nghiệm

thơng thường góp phần tạo nên những thành cơng khơng nhỏ, cả kinh tế, cả
chính trị - xã hội, đặc biệt trong nền kinh tế truyền thống. Những thành cơng đó
đã củng cố giá trị của các kinh nghiệm. Trong điều kiện có một số lĩnh vực biến
đổi chậm chạp, việc tiếp tục vận dụng những kinh nghiệm cũ vào hiện tại vẫn
tạo nên những thành cơng đã tự phát hình thành bệnh kinh nghiệm.
Nước ta là nước nơng nghiệp lạc hậu, trình độ khoa học và cơng nghệ rất
thấp. Đó là thực trạng của một nền kinh tế truyền thống – nền kinh tế chỉ dựa
11


vào kinh nghiệm được truyền từ đời này sang đời khác bằng hình thức dân gian.
Điều đó dẫn đến phong cách tư duy, phong cách hoạt động của người Việt Nam
cũng như sinh viên Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Truyền
thống đó là một trong những nguyên nhân sâu xa của bệnh kinh nghiệm. Cơ chế
kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp thực hiện một thời gian dài ở nước ta đã triệt
tiêu tính sáng tạo của người lao động và tạo nên tâm lý ỉ lại, dựa dẫm là một
trong những nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa – tuyệt đối hóa kinh
nghiệm của thế hệ trước, của cấp trên.
Kinh nghiệm là rất quý, nó đã góp phần thành cơng trong điều kiện, hồn
cảnh nhất định và là cơ sở để khái quát lý luận. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa
kinh nghiệm một nơi, một lúc nào đó, xem thường lý luận sẽ rơi vào bệnh kinh
nghiệm và sẽ thất bại trong thực tiễn khi điều kiện hồn cảnh thay đổi. Vì vậy,
chúng ta cần phải khắc phục bệnh kinh nghiệm.
Trái với bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều lại tuyệt đối hóa lý luận, tuyệt
đối hóa kiến thức đã có trong sách vở, coi nhẹ kinh nghiệm thực tiễn, vận dụng
lý luận một cách máy móc, khơng tính tốn đến điều kiện lịch sử - cụ thể mỗi
nơi, mỗi lúc.
Biểu hiện của bệnh giáo điều là ở bệnh “tầm chương trích cú”, dừng lại
những lý luận đã có, bỏ qua sự vận động, phát triển, biến đổi của thực tiễn cũng
như bản thân lý luận, coi chân lý đã được hình thành là bất di bất dịch; khơng

hiểu tính cụ thể, tính tương đối, tính tuyệt đối của chân lý. Đó cũng chính là căn
bệnh mà sinh viên thường hay mắc phải. Người mắc bệnh giáo điều chỉ căn cứ
vào “câu, chữ” mà chưa hiểu được bản chất đích thực của chúng, coi chúng như
“chiếc bùa hộ mệnh” để bảo vệ sự hiểu biết trống rỗng của mình.
Bệnh giáo điều có căn ngun sâu xa của nó. Trước hết là do hiểu lý luận
cịn nông cạn, chưa nắm chắc thực chất lý luận, lý luận chưa được vận dụng,
kiểm nghiệm và khái quát từ thực tiễn, cho nên lý luận xa rời thực tiễn, là lý
luận “suông” và rơi vào giáo điều. Thứ nữa, do vận dụng sai lý luận vào thực
tiễn. Vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn là một trong những yêu cầu cơ
bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, đồng thời là vận dụng
12


cái chung vào cái riêng một cách linh hoạt. Bệnh giáo điều chỉ biết chỉ biết trích
dẫn, thậm chí chỉ vận dụng lý luận nhưng không quan tâm đến thực tiễn, khơng
bổ sung, điều chỉnh lý luận. Chính vì vậy, lý luận chưa phát huy vai trò tiên
phong, chưa thực sự định hướng phát triển, chưa thực sự trở thành phương pháp
luận cho hoạt động thực tiễn, đó cũng là căn bệnh giáo điều.
Để khắc phục bệnh giáo điều, lý luận, nhận thức phải luôn luôn gắn liền
với thực tiễn, phải khái quát từ thực tiễn, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, kiểm
tra trong thực tiễn và không ngừng phát triển sáng tạo cùng với thực tiễn.
5.2. Trong rèn luyện
Rèn luyện ở đây là rèn luyện về đạo đức, về tính cách, về ý thức trách
nhiệm, về thể chất,… Việc rèn luyện đó cũng phải trải qua q trình “học tập”,
tức là tìm hiểu về đời sống xã hội chính trị - văn hóa kinh tế, về truyền thống,
lịch sử thông qua tham gia các hoạt động cộng đồng. Ngày nay trước q trình
“tồn cầu hóa”, khi mà Việt Nam đã gia nhập WTO cũng tức là mở cửa, hội
nhập, cạnh tranh với các nước trên thế giới thì bên cạnh những cơ hội, những
mặt tích cực, cịn có rất nhiều tiêu cực, thách thức. Đặc biệt, sự du nhập của
những luồng tư tưởng phản động, những văn hóa phẩm độc hại… đã ảnh hưởng

rất lớn đến giới trẻ nói chung và sinh viên chúng ta nói riêng. Vì thế, vừa học
tập, rèn luyện đạo đức là rất cần thiết với mỗi chúng ta.
Trong quá trình vận dụng, sinh viên chúng ta cũng cần đặc biệt coi trọng
việc vận dụng thực tiễn vào trong nhận thức. Chúng ta không thể chỉ nói sng
mà khơng làm. Thực tế, sinh viên đều biết xả rác bừa bãi là không tốt cho mơi
trường, nhận thức là thế vậy thì sao chúng ta không hành động một cách triệt để:
thu gom rác thải gọn gàng, vứt rác đúng nơi quy định, nhắc nhở tun truyền
mọi người cùng hành động vì mơi trường xanh của chúng ta…” Giúp đỡ người
già, trẻ nhỏ, người khuyết tật là những hành động tốt đẹp, vậy thì ngại gì mà
khơng nhường chỗ cho cụ già trên xe bus, ngại gì mà khơng giúp một người mù
băng qua đường…
Đây thực sự chỉ là những việc làm bình thường mà chúng ta ít nhiều đã
được học trong sách vở hay nghe nói ở đâu đó, nó hồn tồn có thể được sinh
13


viên chúng ta áp dụng vào thực tiễn đời sống, noi gương tốt thì làm việc tốt.
Hằng ngày, tơn trọng pháp luật bằng việc đi đúng làn đường, đi xe máy đội mũ
bảo hiểm, không lạng lách đánh võng … là sinh viên chúng ra đang làm tròn
nghĩa vụ trách nhiệm của một cơng dân. Đơn giản là những gì chúng ta đã được
học, được nhận thức đúng đắn thì hãy áp dụng ngay vào đời sống hàng ngày của
chúng ta, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác… Như vậy là chúng
ta đang trong quá trình tự rèn luyện hoàn thiện nhân cách bản thân qua thực tiễn
cuộc sống, điều mà ra không thể làm được trọn vẹn chỉ trên trang giấy.

14


KẾT LUẬN
Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận đòi hỏi chúng ta phải

quán triệt quan điểm thực tiễn. Nghiên cứu lý luận phải liên hệ thực tiễn, học
phải đi đôi với hành. Hoạt động nhận thức phải ln gắn liền với thực tiễn thì
mới có thể nhận thức đúng đắn được mọi tri thức. Từ đó, rút ra phương pháp học
tập, nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn đó là học đi đơi với hành; học
liên tục, suốt đời, tránh bệnh tự mãn hoặc hời hợt trong nhận thức. Học thật
nghiêm túc, hành thật khách quan để sau này xây dựng đất nước và mưu cầu
hạnh phúc cho chính bản thân mình.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 3, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995.
2. C.Mác - Ph.Ăngghen, Tuyển tập, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1980.
3. Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
4. Nguyễn Thế Nghĩa, Những chuyên đề triết học, Nhà xuất bản Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2007.
5. V. V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 18, Nhà xuất bản Tiến bộ Mát-xcơ-va, 1980.

16



×