Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG CHÍNH TRỊ VỚI CHÍNH SÁCH CÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.56 KB, 25 trang )

BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

TÊN ĐỀ TÀI:
VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG CHÍNH TRỊ
VỚI CHÍNH SÁCH CƠNG

BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: Chính trị và chính sách cơng
Mã phách: .…………………………

Hà Nội – 2022


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẢNG CHÍNH TRỊ..........................................2
VÀ CHÍNH SÁCH CƠNG............................................................................................2
1.1. Tổng quan về chính sách công.............................................................................2
1.1.1 Định nghĩa......................................................................................................2
1.1.2. Về đặc điểm..................................................................................................3
1.1.3. Các giao đoạn trong chu trình chính sách cơng.............................................3
1.1.4. Ý nghĩa của Chính sách cơng........................................................................4
1.2 Khái niệm Đảng chính trị và Đảng chính trị tại Việt Nam....................................6
1.2.1. Khái niệm Đảng chính trị..............................................................................6
1.2.2 Vai trị của Đảng chính trị...............................................................................7
1.2.3 Đảng Cộng sản Việt Nam...............................................................................8
CHƯƠNG II: MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CHÍNH
SÁCH CƠNG TẠI VIỆT NAM...................................................................................11
2.1. Chính sách cơng và đặc thù chính sách cơng tại Việt Nam................................11


2.2. Mối quan hệ giữa chính sách cơng và Đảng Cộng sản Việt Nam tại Việt Nam. 12
CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN CHÍNH SÁCH
CƠNG DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.....................18
3.1. Nâng cao năng lực dự báo, phân tích, xây dựng và ngày càng hồn thiện hệ
thống quyết sách chính trị.........................................................................................18
3.2. Nâng cao chất lượng thể chế hóa các quyết sách chính trị thơng qua cơ quan nhà
nước.......................................................................................................................... 19
3.3. Làm tốt công tác cán bộ trong các cơ quan tham vấn, xây dựng và thực thi chính
sách........................................................................................................................... 20
3.4. Thực hiện hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát “vịng đời” hệ thống chính sách
của Đảng................................................................................................................... 21
KẾT LUẬN.................................................................................................................22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................23


PHẦN MỞ ĐẦU
Đảng ta ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi xuất hiện trên vũ đài chính trị, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã tỏ rõ là một đảng cách mạng chân chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất
mọi sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, sớm trở thành đội tiên phong của giai cấp và
của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. Chính vì vậy mà cho đến
hiện nay mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và chính sách cơng là mối quan hệ trực tiếp
chi phối vì chỉ khi đói quyền lợi của người dân mới được đảm bảo.

1


CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẢNG CHÍNH TRỊ
VÀ CHÍNH SÁCH CƠNG
1.1. Tổng quan về chính sách cơng

1.1.1 Định nghĩa
Về chính sách
Chính sách là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các tài liệu, trên các
phương tiện truyền thông và đời sống xã hội. Tuy nhiên, trên đây cũng là thuật ngữ
khó có thể định nghĩa một cách cụ thể và rõ ràng. Theo từ điển tiếng Anh (Oxford
English Dictionary), “Chính sách” là “một đường lối hành động được thơng qua và
theo đuổi bởi chính quyền, đảng, nhà cai trị, chính khách..”. Theo sự giải thích này,
chính sách khơng đơn thuần chỉ là một quyết định để giải quyết một vấn đề cụ thể, mà
nó là một đường lối phương hướng hành động .Theo Hugh Heclo (năm 1972) định
nghĩa một chính sách có thể được xem như là một đường lối hành động hoặc khơng
hành 24 động thay vì những quyết định hoặc các hành động cụ thể. David Easton (năm
1953) cho rằng: “chính sách bao gồm một chuỗi các quyết định và các hành động mà
trong đó phân phối thực hiện các giá trị”. Smith (năm 1976) cho rằng: “Khái niệm
chính sách bao hàm sự lựa chọn có chủ định hành động hoặc khơng hành động, thay vì
những tác động của các lực lượng có quan hệ với nhau”. Smith nhấn mạnh “không
hành động” cũng như “ hành động” và nhắc nhở cho chúng ta rằng “sự quan tâm sẽ
không chỉ tập trung vào các quyết định tạo ra sự thay đổi, mà còn phải thận trọng với
những quyết định chống lại sự thay đổi và khó quan sát vì chúng khơng được tun bố
trong q trình hoạch định chính sách”. Quan niệm khác lại cho rằng chính sách là
những hành động có tính tốn có chủ thể để đối phó với đối tượng quản lý theo hướng
đồng thuận hay phản đối.
Về chính sách cơng
William Jenkins (1978) cho rằng chính sách cơng là “một tập hợp các quyết
định liên quan với nhau được ban hành bởi một hoặc một nhóm các nhà hoạt động
chính trị 25 cùng hướng đến lựa chọn mục tiêu và các phương thức để đạt mục tiêu
trong một tình huống xác định thuộc phạm vi thẩm quyền”.
2


Đến năm 1984 James Anderson đưa ra định nghĩa khái qt hơn về chính sách

cơng. Ơng cho rằng: Chính sách cơng là đường lối hành động có mục đích được ban
hành bởi một hoặc một tập hợp các nhà hoạt động chính trị để giải quyết vấn đề phát
sinh hoặc vấn đề cần quan tâm.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để
thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thể hiện trong một thời gian nhất
định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của
chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa.
Tựu chung lại có thể hiểu chính sách cơng là kết quả ý chí chính trị của nhà
nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm
trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề trong xã hội.
1.1.2. Về đặc điểm
Chính sách cơng bao gồm 4 đặc điểm :
Chính sách cơng mang tính cộng đồng
Chính sách cơng mang tính hệ thống, đồng bộ
Chính sách cơng mang tính ổn định tương đối Chính sách cơng vừa là sản
phẩm của hoạt động quản lý nhà nước, vừa là công cụ thực hiện chức năng quản lý xã
hội
1.1.3. Các giao đoạn trong chu trình chính sách cơng
1) Khởi sự chính sách (Tìm kiếm vấn đề chính sách cơng) Khởi sự chính sách
bao gồm các hoạt động nhằm xác định được những mong muốn, những mâu thuẫn nảy
sinh trong đó có chứa đựng vấn đề cần được tập trung giải quyết bằng chính sách (vấn
đề chính sách). Muốn xác định được vấn đề chính sách cần phải thường xuyên quan
sát và phân tích các hiện tượng trong thực tế để dự báo được những mâu thuẫn cơ bản
cần giải quyết nhằm cải thiện tình hình, duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội.
2) Hoạch định chính sách Hoạch định chính sách là bước đề xuất thái độ ứng xử
của chủ thể với vấn đề chính sách bằng cả mục tiêu và biện pháp chính sách. Đây là
bước pháp lý hóa định hướng hành động của chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề
3



cơng bằng văn bản chính sách. Nếu bước này được thực hiện khoa học, hợp lý, đúng
quy trình, thủ tục theo luật định sẽ giúp ban hành được chính sách tốt.
3) Tổ chức thực thi chính sách cơng Đây là bước đưa chính sách cơng vào thực
hiện trong đời sống xã hội. Bước này bao gồm các hoạt động tuyên truyền, vận động,
tổ chức nguồn lực. Phân công, phối hợp thực hiện, kiểm tra, đơn đốc và hiệu chỉnh
chính sách cùng với các biện pháp hỗ trợ khác để chính sách phát huy được vai trị
trong cuộc sống. Có thể nói đây là bước có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của
một chính sách cơng.
4) Đánh giá chính sách công Đây là bước xem xét tác động của chính sách cơng
đến từng đối tượng hay q trình phát triển; đo lường kết quả và hiệu quả tác động của
một chính sách trong thực tế sau khi chính sách được đưa vào thực hiện. Đánh giá
chính sách cơng do nhiều chủ 40 thể tham gia và được tiến hành thường xuyên hay
định kỳ tùy theo mục đích, yêu cầu quản lý chính sách của nhà nước
1.1.4. Ý nghĩa của Chính sách cơng
Chính sách cơng có ý nghĩa chính trị, xã hội, pháp lý, khoa học và thực tiễn ở
chỗ nó là chính sách của nhà nước, phản ánh ý chí, quan điểm, thái độ, cách xử sự của
nhà nước để phục vụ cho mục đích và lợi ích của nhà nước. Tính chính trị của chính
sách cơng biểu hiện rõ nét qua bản chất của nó là cơng cụ quản trị, quản lý của nhà
nước, phản ánh bản chất, tính chất của nhà nước và chế độ chính trị trong đó nhà nước
tổn tại. Nếu chính trị của nhà nước thay đổi, tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chính sách.
Điều này khẳng định chính sách cơng mang tính chính trị hay ý nghĩa chính trị đậm
nét.
Tính pháp lý hay ý nghĩa pháp lý của chính sách cơng ở chỗ, chính sách của
nhà nước được ban hành trên cơ sở pháp luật, nhưng pháp luật là của nhà nước nên
chính sách cơng đương nhiên có ý nghĩa hay tính pháp lý. Chính sách cơng dựa trên cơ
sở của pháp luật cũng chính là dựa trên ý chí của nhà nước, chuyển tải ý chí của nhà
nước thành chính sách, công cụ quan trọng để nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của nhà nước. Ngược lại, chính sách cơng cũng có mối liên hệ và tác động trở lại
với pháp luật, là nguồn khơi dậy sức sống của các quy phạm pháp luật. Các sáng kiến
pháp luật đều xuất phát, bắtnguồn từ thực tiễn triển khai thực hiện chính sách cơng.

4


Thực tiễn cho thấy chính sách cơng chỉ có thể được thực hiện hiệu quả khi được thể
chế hóa thành những nội dung, quy định cụ thể, áp dụng cụ thể như áp dụng các quy
định của pháp luật. Từ chính sách cơng có thể thể chế hóa thành các quy định của pháp
luật và ngược lại, từ các quy định của pháp luật có thể cụ thể hóa thành các ngun
tắc, u cầu trong xây dựng chính sách cơng. Ví dụ, từ kết quả thực hiện chính sách
tiền lương, để đảm bảo công bằng và thực hiện thống nhất, nghiêm túc chính sách này
trong hệ thống hành chính nhà nước cần phải được quy định chặt chẽ trong Luật cán
bộ, công chức là “trả lương cho cán bộ, công chức ngang bằng với nhiệm vụ, công vụ
công chức thực hiện”. Cũng trên cơ sở quy định này của Luật cán bộ, công chức, cơ
quan quản lý nhà nước xây dựng chính sách tiền lương đối với cán bộ, cơng chức. Quy
định này trong Luật cán bộ, công chức trở thành nguyên tắc, yêu cầu cơ bản của chính
sách tiền lương nhà nước đối với cán bộ, cơng chức. Chính sách công và pháp luật đều
là các công cụ quan trọng, hữu hiệu trong hoạt động quản lý của nhà nước, có mối liên
hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau.
Tính chất xã hội hay ý nghĩa xã hội của Chính sách cơng thể hiện ở chức năng
xã hội của chính sách cơng. Chính sách cơng là chính sách của nhà nước ban hành để
thực hiện chức năng xã hội của nhà nước, ngồi phục vụ lợi ích của nhà nước còn để
phục vụ xã hội, phục vụ quảng đại quần chúng nhân dân, tạo điều kiện và định hướng
cho xã hội phát triển. Chính sách cơng phản ánh rõ vai trò là chức năng xã hội của nhà
nước, phản ánh bản chất, tính ưu việt của nhà nước. Do đó, Chính sách cơng ln hàm
chứa tính xã hội, ý nghĩa xã hội. Chính sách cơng cịn ảnh hưởng đến sự phát triển của
xã hội, nếu xã hội phản đối, chống lại chính sách của nhà nước, sẽ dẫn đến khủng
hoảng, bất ổn định trong xã hội. Một khi xã hội bất ổn định thì hệ quả tất yếu, tác động
trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của nhà nước. Vì vậy, khi nhà nước ban hành
chính sách cơng phải đặc biệt chú ý đến yếu tố xã hội, tính chất và ý nghĩa xã hội của
Chính sách cơng .
Chính sách cơng có tính khoa học hay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực.

Tính khoa học của chính sách cơng thể hiện ở tính khách quan, cơng bằng tiến bộ và
sát với thực tiễn. Nếu chính sách cơng mang tính chủ quan duy ý chí của nhà nước sẽ
trở thành rào cản kìm hãm sự phát triển của xã hội. Điều này cũng có nghĩa là việc ban
lành chính sách cơng của nhà nước bất thành, sẽ ảnh hưởng đến uy tín và vai trò của
5


nhà nước. Nếu chính sách cơng nhà nước ban hành đảm bảo các yếu tố khách quan,
công bằng và tiến bộ, phù hợp với lòng dân và xã hội, phù hợp với ý chí, nguyện vọng,
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân thì sẽ được người dân và xã hội ủng hộ,
chính sách đó sẽ được thực hiện trong cuộc sống một cách nhanh chóng, hiệu quả uy
tín và vai trị của nhà nước được đề cao tính khoa học của chính sách cịn thể hiện ở ý
nghĩa thực tiễn và tính thiết thực của chính sách, yêu cầu khi nhà nước ban hành chính
sách phải phù hợp với diều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước, thực tại
khách quan của chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước.
1.2 Khái niệm Đảng chính trị và Đảng chính trị tại Việt Nam
1.2.1. Khái niệm Đảng chính trị
Cho đến nay, chưa thể có một định nghĩa nào hồn hảo về đảng chính trị mà
được tất cả mọi người chấp nhận. Những khác biệt về nhận thức, quan điểm, và mong
muốn của mỗi người đối với đảng chính trị đã dẫn tới những định nghĩa khác nhau về
đảng chính trị.
Đảng chính trị khơng chỉ đơn thuần đấu tranh để tham gia vào việc thể hiện các
quan điểm chính trị mà cịn đấu tranh để giành quyền đại diện cho người dân trong
quốc hội. Thông thường, các đảng chính trị đều giành quyền lực thơng qua việc bỏ
phiếu của người dân. Trách nhiệm của đảng chính trị đối với người dân thể hiện qua
việc thực hiện các cam kết mà đảng chính trị đã đưa ra trong chiến dịch tranh cử. Ý chí
của người bỏ phiếu có ý nghĩa rất quan trọng đối với một đảng chính trị.
Cho đến nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về đảng chính trị, một nhà khoa
học chính trị nổi tiếng người Mỹ là Anthony Downs có đưa ra định nghĩa: “Một đảng
chính trị là một đội ngũ, gồm nhiều người, tìm kiếm việc kiểm sốt chính quyền một

cách chính danh, thông qua việc thực hiện một cuộc bầu cử”
Một người khác là Neumann thì cho rằng đảng chính trị là: “Một tổ chức công
khai của các nhà hoạt động chính trị trong xã hội có liên quan đến việc kiểm soát
quyền lực của nhà nước, những người này cạnh tranh với nhau trong việc tìm kiếm sự
ủng hộ từ một hay nhiều nhóm khác nhau. Thơng thường, đảng chính trị đóng vai trị
trung gian để kết nối giữa các lực lượng trong xã hội với các hệ thống giá trị từ các
6


định chế nhà nước và liên quan đến đảng chính trị đó thơng qua các hành động chính
trị trong một cộng đồng chính trị rộng hơn”.
Nói một cách đơn giản, đảng chính trị là các tổ chức thường trực của các công
dân, bao gồm các đảng viên tham gia một cách tự do, có những chương trình hoạt
động cụ thể nhằm tổ chức thực hiện quyền lực chính trị mà đảng đó nắm giữ, thơng
qua các hoạt động quản lý và giải quyết các vấn đề của nhà nước và xã hội. Việc thực
hiện việc tổ chức quyền lực của đảng chính trị đó bắt đầu với việc đảng giành được
quyền lực thông qua những cuộc bầu cử dân chủ.
Các đảng chính trị được phân loại bởi tính chất tranh đấu của nó. Tính chất
tranh đấu ở đây được hiểu là sự sẵn sàng thực hiện các hành động chính trị, phát động
các phong trào đối kháng và khát vọng trong việc giành và giữ chính quyền. Các cuộc
tranh đua này giữa các đảng chính trị có tác dụng như một phương tiện để giành quyền
lực chính trị, và tồn bộ tổ chức của một đảng sẽ đóng vai trị thực hiện kế hoạch này.
Chỉ các đảng thành công trong cuộc đua tranh này mới giành được chức năng đại diện
để tham gia vào các tiến trình chính trị. Đó chính là phần thưởng để khiến các đảng nỗ
lực hành động, bởi vì khi một đảng chính trị thành cơng trong cuộc tranh đua sẽ được
tham gia vào bộ máy nhà nước của quốc gia đó.
Đối lập với các nhóm lợi ích, một đảng chính trị ln được mong chờ sẽ thể
hiện các hoạt động của đảng thông qua các hoạt động liên quan của chính phủ. Các
hoạt động này bao gồm cả các hoạt động đối nội và đối ngoại, các chính sách kinh tế
và xã hội, các chính sách giáo dục hay chính sách liên quan thiết thực đến đời sống

công dân. Để đáp ứng các yêu cầu của xã hội, mỗi một đảng sẽ có những chương trình
hoạt động riêng, và đảng đó sẽ phải tổ chức thực hiện các chương trình hoạt động đó.
1.2.2 Vai trị của Đảng chính trị
Là một bộ phận tích cực nhất, có tổ chức nhất của giai cấp, đảng chính trị được
lập ra để thực hiện lợi ích, mục đích giai cấp, nắm quyền lực nhà nước. Vai trị chính
trị của đảng chính trị tùy thuộc vào địa vị lịch sử của các giai cấp mà đảng chính trị đó
đại diện.

7


Vai trị của đảng chính trị cịn phụ thuộc vào bản chất của giai cấp mà đảng đó
đại diện. Trong lịch sử tồn tại và phát triển của các đảng chính trị, có đảng đóng vai trị
tiến bộ, cách mạng như đảng macxit – lenin, đại diện cho quyền lợi của giai cấp công
nhân và người lao động nhưng cũng có đảng thể hiện sự bảo thủ, phản động như đảng
địa chủ, …
Ở các nước tư bản chủ nghĩa:
Vai trò của các đảng chính trị thể hiện rõ nhất trong các cuộc bầu cử giành
quyền lực nhà nước. Vau trò của các đảng thể hiện ở hai mặt tiến bộ và tiêu cực.
tích cực: tổ chức bầu cử, hướng bầu cử đi vào quỹ đạo đã được quy định ở hiến
pháp hiện hành. Sau khi thắng cử, nắm quyền, các đảng chính trị có vai trị trong việc
định hướng phát triển kinh tế – xã hội thông qua cương lĩnh chính trị, bố trí, tuyển lựa
thành viên của đảng vào các cương vị chủ chốt của chính quyền, chuẩn bị các chính
sách, các chiến lược hoạt động nhà nước.
Tiêu cực: ( chủ yếu ) chia rẽ nhân dân, tách nhân dân ra khỏi chính trị. Để đạt
được mục đích, đảng chính trị đã hành động kể cả bằng những thủ đoạn, kích thích sự
thèm khát quyền lực chính trị và tạo thêm những điều kiện cho tham nhũng, tước bỏ
quyền dân chủ của nhân dân…
Ở các nước xã hội chủ nghĩa
Đảng cộng sản là lực lượng duy nhất lãnh đạo, thực hiện quyền thống trị về

chính trị của giai cấp công nhân để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản đại diện cho giai cấp công nhân chiu trách nhiệm hoàn toàn
trước vận mệnh phát triển của dân tộc, lãnh đạo mọi mặt của đời sống kinh tế – chính
trị – văn hóa xã hội. Để thực hiện được sứ mệnh to lớn này điều kiện tiên quyết là
đảng phải khơng ngừng vươn lên mọi mặt.
Như vậy, đảng chính trị là một bộ phận tích cực nhất của một giai cấp, là đại
diện không thể thiếu của một giai cấp. Với bản chất, vai trị của mình, mỗi đảng chính
trị cần phải liên tục phát triển hoàn thiện, nâng cao sức chiến đấu, phát huy vai trò lãnh

8


đạo, định hướng chính trị của mình để thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh, giành và giữ
chính quyền.
1.2.3 Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng Cộng sản Việt
Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương
lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng cơng tác tuyên
truyền, thuyết phục, vận động tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương
mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán
bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong
các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thơng qua tổ chức đảng và
đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách
nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy.

Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tơn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng những
phương thức chủ yếu sau:
Một là, lãnh đạo bằng chủ trương, nghị quyết: Đảng đề ra các chủ trương, nghị
quyết trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là những quan điểm, những nguyên
tắc, những tư tưởng chỉ đạo các lĩnh vực hoạt động của đời sống chính trị, kinh tế, văn
hố, xã hội, an ninh, quốc phịng, đối ngoại để các tổ chức khác trong hệ thống chính
trị vận dụng, thể chế hố thành các chương trình, kế hoạch công tác và tổ chức thực
hiện phù hợp với chức năng của từng tổ chức.
Hai là, lãnh đạo thông qua công tác tư tưởng: Thông qua công tác tun truyền,
giáo dục chính trị tư tưởng; cơng tác văn hố, văn nghệ; đặc biệt thơng qua đội ngũ
báo cáo viên, tuyên truyền viên để đưa các chủ trương, chính sách, nghị quyết của
9


Đảng và cấp uỷ tới cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nhằm tạo sự đồng thuận
trong Đảng và trong xã hội, từ đó thực hiện một cách thống nhất. Đồng thời, mỗi cán
bộ, đảng viên phải là một tấm gương để quần chúng nhân dân noi theo.
Ba là, lãnh đạo thông qua công tác tổ chức, cán bộ: Đảng sử dụng đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan của hệ thống chính trị một mặt xây dựng
nên các chủ trương, nghị quyết, nhưng mặt khác cũng chính họ là nhân tố cơ bản để
triển khai tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của mình; động viên, lơi cuốn
quần chúng nhân dân thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ mà nghị quyết của Đảng đã đề
ra.
Bốn là, lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát: Kiểm tra, giám sát là biện
pháp hữu hiệu để bảo đảm các chủ trương, nghị quyết của cấp ủy đề ra là đúng đắn,
được chấp hành nghiêm túc, đạt được kết quả và hiệu quả. Kiểm tra, giám sát là hoạt
động không thể thiếu trong công tác lãnh đạo của Đảng, làm cho sự lãnh đạo gắn với
thực tiễn, khắc phục tư tưởng chủ quan, nóng vội, bệnh quan liêu, hình thức trong lãnh

đạo.
Năm là, lãnh đạo phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần
chúng và nhân dân tham gia xây dựng hệ thống chính trị. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng khối đại
đồn kết tồn dân, tăng cường sự nhất trí về tư tưởng chính trị; tuyên truyền, động viên
nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước; tham gia giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước;
tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước;
tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân.

10


CHƯƠNG II: MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ
CHÍNH SÁCH CƠNG TẠI VIỆT NAM
2.1. Chính sách cơng và đặc thù chính sách cơng tại Việt Nam
Chính sách công là một thuật ngữ được sử dụng khá rộng rãi trong đời sống xã
hội, thể hiện mối quan hệ giữa đảng chính trị cầm quyền, nhà nước và xã hội. Theo
Oxford English Dictionary, chính sách cơng là một đường lối hành động được thơng
qua hoặc theo đuổi bởi chính quyền, đảng, nhà cai trị, chính khách. Như vậy, nếu gạt
đi phương thức thực hiện chính sách cơng mà chỉ bàn về chủ thể can dự vào chính
sách theo cách tiếp cận này, có thể thấy, vai trị của “đảng”, “chính khách” là cực kỳ
quan trọng. Thực tế cho thấy, chính sách đơi khi ra đời là sự thỏa hiệp hay đấu tranh
giữa các đảng chính trị trong thế cân bằng giữa các nhóm lợi ích của các chính đảng
này trong đời sống xã hội.
Việc nhìn nhận về bản chất của chính sách cơng theo hai xu thế chính: chính
sách cơng là cơng việc của nhà nước hay có sự can dự của các đảng chính trị cầm
quyền. Thực tế khơng thể phủ nhận vai trị rất tích cực và then chốt của các đảng chính
trị, nhất là các đảng chính trị cầm quyền trong đời sống chính trị quốc gia. Nói cách
khác, chính sách cơng có quan hệ mật thiết với hoạt động của các chính đảng.

Bản chất chính sách công thể hiện ở: 1- Là công cụ điều hành mà các chủ thể
chính trị (thường trực vẫn là cơ quan nhà nước có thẩm quyền) sử dụng để theo đuổi
lợi ích cơng cộng; 2- Là kết quả của việc nhà nước sử dụng quyền lực chính trị của
mình định hướng sự vận động và phát triển của cả hệ thống xã hội; 3- Là q trình thể
chế hóa các mục tiêu tổng thể của chủ thể chính trị theo đuổi thông qua nhà nước; 4Là kết quả của q trình đấu tranh giành quyền lực chính trị, hướng đến trung tâm là
quyền lực cơng giữa các bên có liên quan.
Nhận thức về nội hàm từ “cơng” trong chính sách cơng ở Việt Nam vẫn đang
cịn là sự tranh luận trong giới nghiên cứu và trong thực tiễn lãnh đạo, quản lý. “Cơng”
trong chính sách cơng tiếp cận ở nhiều phương diện mang hàm nghĩa khác nhau.

11


Có quan niệm cho rằng, “cơng” là nhà nước, gắn với quyền lực cơng, lợi ích
cho số đơng, tồn dân; là sự tương phản với khu vực tư nhân. Quan niệm này đúng
nhưng chưa đầy đủ, toàn diện và sâu sắc.
Có quan niệm khác cho rằng, “cơng” gắn liền với Nhà nước (một thành tố trong
hệ thống chính trị Việt Nam bên cạnh Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội) với hệ
thống tài chính, nhân sự, cơng cụ quản lý, điều hành xã hội mạnh mẽ; và vì vậy, chỉ
duy nhất Nhà nước mới là chủ thể của chính sách cơng; cơng việc của Đảng, chính
sách của Đảng khơng liên hệ gì với cơng việc làm chính sách của các cơ quan nhà
nước. Thực tế diễn ra không phải như quan niệm này.
Quan niệm tiếp cận rộng hơn cho rằng, “cơng” hàm nghĩa - hướng đến lợi ích
chung, tập thể, số đơng, khác biệt với mục tiêu vì cá nhân. Cách tiếp cận này thừa
nhận Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội và thậm chí cả chủ thể trong khu vực tư
nhân, khu vực hỗn hợp (hợp tác công - tư) cũng là chủ thể của chính sách cơng, miễn
là chính sách ấy vì giá trị nhân văn, hướng đến số đông thành viên trong tổ chức, cộng
đồng, quốc gia. Ở góc độ này, chính sách của Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội,
thậm chí cả doanh nghiệp nhằm giải quyết các lợi ích cơng cũng được cơng nhận là
chính sách cơng.

Từ thực tiễn đất nước, quan điểm của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam thống
nhất rằng: chính sách cơng là một tập hợp các quan điểm, tư tưởng, giải pháp, công cụ
quyết định có liên quan đến nhau của chủ thể chính trị có thẩm quyền về việc lựa chọn
các mục tiêu và giải pháp nhằm giải quyết một vấn đề hay đáp ứng một nhu cầu thiết
yếu của thực tiễn xã hội.
2.2. Mối quan hệ giữa chính sách cơng và Đảng Cộng sản Việt Nam tại Việt
Nam
Hiện nay mối quan hệ này được thể hiện trên các đặc thù sau:
Một là, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với chu trình chính
sách là trực tiếp, tồn diện và sâu sắc.
Vai trò, sự tác động, chi phối của Đảng đối với “vịng đời” chính sách quốc gia
(từ khi ban hành, thực hiện, có kết quả, rút ra bài học) trở nên thường trực, xuyên suốt,
12


sâu sát vào những vấn đề quan trọng đối với các chính sách then chốt của quốc gia.
Các hoạt động này diễn ra thường xuyên, thể hiện công khai, trực tiếp và tồn diện
trong suốt q trình lãnh đạo đất nước của Đảng. Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng bàn, ra nghị quyết về các quyết sách lớn của đất nước, căn cứ vào đó, Nhà
nước có nhiệm vụ hiện thực hóa thành các nhiệm vụ cụ thể thơng qua nhiều cách thức
mà chính sách cơng là trụ cột.
Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam có hệ thống phương thức chuyển tải, thể hiện
vai trò lãnh đạo hết sức đa dạng, phong phú và linh hoạt, mà ở đó thơng qua Nhà nước
đơi khi chỉ là một trong những cách hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng của Đảng thơng
qua chính sách cơng.
Mối quan hệ này được thể hiện rõ qua sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với chu trình chính sách cơng hiện nay:
1. Hoạch định và ban hành chính sách cơng
Hoạch định chính sách là khâu đầu tiên trong tồn bộ chu trình chính sách.
Trong q trình này, vai trị lãnh đạo của Đảng thể hiện ở nhiều chiều cạnh:

Một là, xác định vấn đề và thiết lập nghị trình chính sách cơng.
Đối với xác định vấn đề chính sách, vai trị lãnh đạo của Đảng thể hiện ở định
hướng xã hội, cân nhắc sự lựa chọn, đề xuất các vấn đề chính sách để giải quyết trong
số hàng loạt các vấn đề chính sách kinh tế - xã hội đang đặt ra. Điều này thể hiện rõ ở
chỗ, chỉ có các vấn đề bức thiết của xã hội phù hợp với cương lĩnh, quan điểm và
đường lối của Đảng đang thực hiện thì mới được xem xét, đưa vào nghị trình, xây
dựng chính sách cơng. Vai trị của Đảng biểu hiện ở chỗ cân nhắc, tính tốn, đối chiếu
vấn đề chính sách trong thực tiễn với hệ thống văn kiện mang tính chỉ đạo. Nếu phù
hợp, thống nhất với định hướng chính trị của Đảng thì các vấn đề xã hội được cân nhắc
sẽ trở thành vấn đề của chính sách cơng.
Nghị trình của chính sách cơng là một danh mục tất cả các vấn đề trong đời
sống xã hội đã và đang phát sinh mà Nhà nước phải nghiên cứu để có giải pháp cụ thể
sau khi xác định vấn đề cần có sự can thiệp bằng chính sách. Thực chất, thiết lập nghị

13


trình chính sách là đề xuất lên các cơ quan có thẩm quyền cân nhắc sự cần thiết xây
dựng, ban hành và thực thi một chính sách.
Vai trị lãnh đạo của Đảng đối với giai đoạn này thể hiện ở chỗ: Danh mục các
vấn đề chính sách đệ trình lên cơ quan quyền lực tối cao phải phù hợp với định hướng
chính trị phản ánh thơng qua văn kiện, quyết sách chính trị của Đảng. Q trình bàn
thảo, xác định vấn đề chính sách và danh sách nghị trình trình cơ quan thẩm quyền
xem xét, thông qua, quyết định ban hành chính sách tùy thuộc bối cảnh chính trị, đặc
biệt là phù hợp với phương diện định hướng, chỉ đạo chiến lược của Đảng ta.
Hai là, hoạch định và ban hành chính sách. Sau khi xác định vấn đề chính sách
và hồn thiện danh mục trình cơ quan quyền lực nhà nước thơng qua, hoạch định và
ban hành chính sách cơng ln phản ánh sự định hướng chính trị rõ nét:
Thứ nhất, với vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, sau khi xem xét
thận trọng các danh mục vấn đề chính sách, trải qua q trình nghiên cứu chính thức

chính sách và lên “kịch bản” chi tiết cho các phương án, giải pháp và dự báo tác động
của chính sách đó với xã hội, Quốc hội quyết định việc tổ chức thơng qua các chính
sách tồn tại dưới dạng các đạo luật. Sự lãnh đạo của Đảng trong khâu hoạch định chính
sách thể hiện thơng qua vai trị lãnh đạo của Đảng đồn Quốc hội, các đảng viên trong
Quốc hội. Sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đối với Quốc hội trong tổ
chức hoạt động, đặc biệt là việc hoạch định và ban hành chính sách cơng thể hiện ở
tầm quan điểm, chủ trương, chính sách lớn thơng qua cương lĩnh, nghị quyết và chiến
lược. Bộ Chính trị nêu phương hướng, quan điểm, chủ trương, nguyên tắc, giải pháp
lớn để định hướng xây dựng và ban hành hệ thống, hoặc từng chính sách để Quốc hội,
Đảng đoàn Quốc hội thảo luận, quyết định theo đa số những đạo luật, kế hoạch kinh tế
- xã hội hằng năm, chính sách cơng nhằm giải quyết các vấn đề bức thiết do thực tiễn
cuộc sống đặt ra. Với những vấn đề chính sách lớn, có tính chuyên ngành, trước khi
được đa số đại biểu Quốc hội thơng qua, thơng qua Đảng đồn Quốc hội, Bộ Chính trị
nêu phương hướng để đảng viên là đại biểu Quốc hội bàn bạc, quyết định.
Thứ hai, ở đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, các vấn đề được nêu ra phản
ánh trong nghị quyết, cương lĩnh, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chính cho từng
chặng đường phát triển của đất nước là các vấn đề chính sách lớn, trọng đại được
14


Đảng tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận. Do vậy, thơng qua phương thức thể chế
hóa sự lãnh đạo của Đảng bằng Nhà nước, mà cụ thể trong khâu hoạch định, ban hành
chính sách cơng, Quốc hội có nhiệm vụ căn cứ vào đó tiến hành xây dựng, sửa đổi
Hiến pháp và xây dựng luật, ra nghị quyết yêu cầu cơ quan thực hiện chức năng hành
pháp, cơ quan tư pháp ban hành văn bản pháp quy tổ chức triển khai theo tinh thần phù
hợp với các quan điểm chỉ đạo ấy; đồng thời, Quốc hội giám sát tối cao toàn bộ hoạt
động này.
Ban Chấp hành Trung ương đưa ra những định hướng xây dựng, sửa đổi Hiến
pháp (nếu cần), các đạo luật lớn; quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước, định
hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm, 6 tháng; giới thiệu nhân sự chủ

chốt ứng cử vào vị trí quan trọng của Nhà nước theo luật định và thực hiện quy trình
bầu cử của Nhà nước. Theo đó, các nhân sự chủ chốt các cơ quan nhà nước có vai trị
quan trọng hiện thực hóa quan điểm, đường lối của Đảng trong q trình hoạch định
và ban hành chính sách (ngay cả cơ quan tham vấn, đệ trình và cả hệ thống cơ quan có
quyền quyết định ban hành chính sách).
Bộ Chính trị định kỳ nghe Quốc hội báo cáo và cho ý kiến về chương trình xây
dựng pháp luật (thực chất là hiện thực hóa chương trình xây dựng chính sách) trong 5
năm, hằng năm và 6 tháng trước khi được đa số biểu quyết thông qua; nêu rõ quan
điểm chỉ đạo xây dựng luật, pháp lệnh, thậm chí quyết định ngay tại chỗ các vấn đề
quan trọng nảy sinh trong các kỳ họp Quốc hội...
Như vậy, có thể thấy, trong giai đoạn hoạch định và ban hành chính sách, để
chính sách thực sự được biểu quyết thơng qua và được tổ chức thực thi trên thực tế,
Đảng ta mà trực tiếp là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Đảng đồn Quốc hội
đã thể hiện vai trị lãnh đạo chặt chẽ, tồn diện và sâu sát, sao cho mỗi quyết định ban
hành chính sách được thơng qua đều phản ánh, tuân thủ, bảo đảm tính định hướng
chính trị, hiện thực hóa quan điểm chính trị của Đảng, lấy lợi ích của nhân dân làm
mục tiêu tối thượng.
2. Thực thi chính sách cơng
Một là, đối với việc xây dựng kế hoạch triển khai chính sách cơng, kế hoạch tồn
tại nhiều dạng, có thể là văn bản dưới luật (pháp quy), như nghị định, thông tư, quyết
15


định, chỉ thị, chương trình, kế hoạch hành động,... chứa đựng các nội dung chuẩn bị,
tính tốn phương án về nguồn lực, tiến độ, cơ chế vận hành, thể chế kèm theo,... để
giải quyết mục tiêu và hiện thực hóa các giải pháp trong chính sách đã được thơng qua,
sớm đưa chính sách vào cuộc sống và phát huy tác dụng.
Hai là, việc tổ chức phổ biến, tuyên truyền chính sách cơng trên thực tế là hoạt
động có ý nghĩa đối với cơ quan nhà nước và các đối tượng thực thi chính sách cơng.
Các chủ thể này dựa trên kế hoạch đã xây dựng, thống nhất hành động bằng việc phổ

biến, tuyên truyền để đối tượng chính sách, mọi người dân tham gia thực thi hiểu rõ về
mục đích, yêu cầu, tính đúng đắn, khả thi, lợi ích,... của chính sách trong tồn dân.
Ba là, việc phân cơng, phối hợp và đơn đốc thực hiện chính sách dựa trên
chương trình, kế hoạch hành động đã xây dựng là quá trình hệ trọng, địi hỏi cần có sự
phối hợp nhịp nhàng giữa các địa phương, cơ quan, tổ chức, đơn vị trong tồn hệ
thống chính trị. Ngày nay, sự phối hợp thực hiện chính sách cịn có sự tham gia của
các tổ chức xã hội, tổ chức quốc tế và thâm nhập của các thực thể khu vực tư,...
Việc đôn đốc thực hiện chính sách dựa trên q trình triển khai kế hoạch và
chương trình hành động đã ban hành góp phần nâng cao tinh thần, ý thức trách nhiệm;
kịp thời động viên, phát hiện, khắc phục sai sót, điều chỉnh kịp thời, tránh tiêu cực, vi
phạm...
Thực tế cho thấy, thực thi chính sách cơng ln là khâu quan trọng, khó khăn
nhất, là giai đoạn đan xen nhiều hoạt động đa dạng và phức tạp. Vì vậy, đặt vai trị
lãnh đạo của Đảng đối với các khâu chính của giai đoạn thực thi gần như biểu hiện đầy
đủ, toàn diện các phương thức lãnh đạo chủ yếu của Đảng đối với hoạt động này. Cụ
thể là: Trong khâu hoạch định và xây dựng chính sách như phân tích trên, Đảng lãnh
đạo Quốc hội (thơng qua Đảng đồn Quốc hội), hay đảng bộ các địa phương lãnh đạo
đảng đoàn hội đồng nhân dân tại chính quyền địa phương thực hiện cơng tác này thông
qua phương thức đề ra định hướng, chỉ đạo chiến lược, bằng việc thể chế hóa quan
điểm, định hướng hay đội ngũ cán bộ chủ chốt,... Tương tự, do Chính phủ, bộ, ngành
Trung ương, các cơ quan tư pháp (tòa án, viện kiểm sát) từ Trung ương đến địa
phương, cùng với chính quyền, cơ quan chun mơn thuộc chính quyền địa phương là

16


nơi thực thi, triển khai chính sách thường xun, sơi động nhất, tiếp nhận tất cả phức
tạp, tình huống nảy sinh từ đây.
3. Đánh giá hiệu quả chính sách cơng
Trong các giai đoạn của chu trình chính sách cơng, đánh giá chính sách được

xem là cơng đoạn cuối cùng của “vịng đời” chính sách. Tuy là giai đoạn kết thúc,
nhưng qua q trình xem xét, đánh giá, cân nhắc tồn diện về kết quả đạt được trong
thực thi chính sách với tồn bộ mục tiêu chính sách đã đề ra giúp khởi tạo vấn đề
chính sách mới, và có thể từ đây hàng loạt các chính sách mới được hoạch định, ban
hành, thực hiện... nối tiếp “vịng đời” chính sách cơng mới. Do vậy, đánh giá chính
sách với kết quả của nó có thể tạo nên khởi đầu mới của chu trình chính sách mới,
buộc cả hệ thống chính trị, xã hội phải đương đầu, đảm nhận và thực hiện

17


CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN CHÍNH SÁCH
CÔNG DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
3.1. Nâng cao năng lực dự báo, phân tích, xây dựng và ngày càng hồn
thiện hệ thống quyết sách chính trị
Dự báo, cung cấp chất liệu, tư liệu, thông tin phục vụ quá trình xây dựng cương
lĩnh, đường hướng và chiến lược phát triển mọi mặt đời sống xã hội của Đảng, trong
đó có lĩnh vực xây dựng chính sách quốc gia. Hệ thống chính sách cơng ở Việt Nam
vốn ra đời dựa trên nguyên tắc thể chế hóa đường lối, hiện thực hóa chiến lược do
Đảng khởi xướng và xây dựng, cơng tác dự báo càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Việc dự đốn chính sách với tầm nhìn xa, rộng, phương pháp luận, phương
pháp phân tích khoa học, hiện đại góp phần củng cố căn cứ thực tiễn, khoa học xác
đáng cho quá trình hoạch định chiến lược, chính sách phát triển quốc gia từng thời kỳ,
giai đoạn nhất định. Để hoàn thiện cần đảm bảo các yêu cầu sau:
Một là, tiếp tục đổi mới quan điểm, tư duy tiếp cận chính sách cơng theo hướng
cởi mở, linh hoạt, kiến tạo và lấy lợi ích nhân dân, quốc gia là trục xoay chính của phát
triển bền vững đất nước, dựa trên sự kết hợp hài hòa của 4 trụ cột trong “tư duy chính
sách” là:
Tư duy khoa học, địi hỏi chủ thể dẫn dắt chính sách cơng phải coi trọng chân
lý, quy luật trong toàn bộ chu trình chính sách; tiếp cận vấn đề dựa trên hệ thống các

phương pháp, lý thuyết, mơ hình chính sách hợp lý, đúng đắn.
Tư duy thực tiễn, yêu cầu chủ thể có vai trị lãnh đạo chính sách cần coi trọng
thực tiễn, chú trọng khám phá, phát hiện vấn đề chính sách từ thực tiễn, dự báo diễn
biến đời sống xã hội, đời sống chính sách trong thực tiễn làm tiền đề xây dựng, tiếp tục
hồn thiện, bổ sung chính sách mới cho đất nước ở từng giai đoạn phát triển.
Tư duy biện chứng, cần hết sức lưu ý, thận trọng để nhận diện về mối quan hệ
hữu cơ, nhân - quả của các chính sách với nhau, giữa các giai đoạn trong chu trình
chính sách với nhau,... nhằm giúp hình thành tư duy tổng thể, toàn diện, bao quát trong
lãnh đạo, định hướng hệ thống chính sách vĩ mơ quốc gia, vùng, địa phương; đồng thời
tránh tư duy chính sách kiểu cục bộ, địa phương, cát cứ.
18


Tư duy phát triển, để nhìn trước, dự đốn triển vọng lạc quan của chính sách
trong tương lai để vượt qua các rào cản, khó khăn trong chu trình chính sách nếu vấp
phải (tuy nhiên, tránh lạc quan “tếu”); đồng thời, xác định động lực, mục tiêu cuối
cùng và cao nhất của mọi chính sách chính là sự phát triển, thịnh vượng quốc gia và
kiến tạo sự phát triển của xã hội.
Hai là, xây dựng hệ thống công cụ, phương thức và đội ngũ nhân sự, tổ chức
nhằm phục vụ tốt nhất cho cơng tác dự báo, phân tích, đánh giá xu thế, diễn biến của
thời cuộc trong và ngoài nước trong lãnh đạo chính sách cơng.
Ở đây, có 3 vấn đề lớn cần quan tâm: 1- tiếp cận những công cụ, phương thức
tiên tiến; 2- xây dựng đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp, tài năng (sẽ đề cập phần sau) và
3- kiện toàn, hoàn thiện và đổi mới trong tổ chức bộ máy để góp phần nâng cao vai trò,
sự lãnh đạo thực chất, hiệu quả của Đảng đối với chu trình chính sách cơng. Hiện nay,
dường như các dự báo, phán đốn đời sống thực tiễn có phần “cảm quan”, nặng về
kinh nghiệm mà ít coi trọng tính thực chứng với sự can thiệp của các công cụ (như
phần mềm xử lí dữ liệu SPSS, cơng cụ phân tích SWOT, cơng cụ phân tích PEST,
cơng cụ 7S, hay “bản đồ tư duy”, “bản đồ khái niệm”,...), phương thức (dự báo định
tính, dự báo định lượng, ứng dụng cơng nghệ phân tích dữ liệu dựa trên dữ liệu lớn,...)

vốn được hỗ trợ hữu hiệu bởi các mơ hình, kỹ năng, lý thuyết từ kinh tế học, xã hội
học, lãnh đạo học, quản trị học hiện đại, được nhiều quốc gia phát triển sử dụng.
Bên cạnh đó, Đảng cần có bộ máy, đơn vị là cơ quan thường trực, chuyên
nghiệp am tường đầy đủ nghiệp vụ, bảo đảm có đội ngũ nhân sự để phục vụ chuyên về
công tác tư vấn, tham vấn, dự báo trong hoạch định chính sách, chủ trương lớn của
Đảng. Do vậy, việc nghiên cứu thành lập, vận hành mới một cơ quan chuyên về phân
tích, dự báo và tham vấn tác động cho Đảng hay thiết kế, tổ chức lại một cách hợp lý,
thông suốt, hiệu quả nhằm phát huy vị trí, vai trị là cơ quan tham mưu với chuyên gia
đầu ngành của các ban Đảng, trong các hội đồng tư vấn, tổ tư vấn,... của Nhà nước và
chính quyền các cấp là cần thiết.
3.2. Nâng cao chất lượng thể chế hóa các quyết sách chính trị thơng qua cơ
quan nhà nước

19


Thông qua hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mà nội dung, giải pháp chính
sách cơng được hiện thực hóa. Q trình này địi hỏi các văn bản pháp luật không chỉ
được xây dựng kịp thời, đủ về số lượng mà cịn phải bảo đảm tính khả thi, chất lượng.
Hiện tại, dù vai trò lãnh đạo của Đảng đã được hiến định, song cơ chế thể chế
hóa vai trị lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội nói chung và đối với chu trình
chính sách cơng nói riêng vẫn chưa hồn thiện, cịn q chung chung, “đại khái”. Điều
này dễ dẫn đến tính tùy tiện, tha hóa quyền lực chính trị và vơ kỷ luật trong thực thi
vai trị lãnh đạo chính sách cơng. Nếu có thể khái qt hóa tồn bộ q trình hình
thành chính sách cơng từ khi các vấn đề chính sách cịn nằm trong tun ngơn chính
trị, quan điểm, đường hướng, quyết sách chính trị cho đến khi chúng được thể chế hóa
thơng qua hệ thống pháp luật để chuyển tải linh hồn chính sách vào đời sống thực tiễn
thì có thể chia q trình ấy gồm 2 giai đoạn lớn. Trong đó, giai đoạn sau (tức thể chế
hóa đường lối, chỉ đạo, quyết sách chính trị thành hệ thống pháp luật) được quy định
khá chặt chẽ về trình tự, thủ tục trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm

2015. Tuy nhiên, giai đoạn đầu tiên của quá trình ấy, tức là từ khi các vấn đề chính
sách vẫn cịn được chứa đựng trong tuyên ngôn, cương lĩnh, hay quyết sách chính trị
thì thực tế vẫn chưa được luật hóa một cách chi tiết, tường minh để điều chỉnh (cả góc
độ “luật Đảng” và “luật Nhà nước”).
Bên cạnh đó, để khắc phục tình trạng này cần phải lưu ý đến việc tăng cường
tính chuyên nghiệp, chuyên trách của Quốc hội, đại biểu Quốc hội; hồn thiện quy
trình chính sách theo hướng sát thực, tích hợp với quy trình xây dựng quy phạm pháp
luật hiện nay, gắn trách nhiệm tổ chức, cá nhân có liên quan trong từng giai đoạn, chu
trình của “vịng đời” chính sách cơng.
3.3. Làm tốt cơng tác cán bộ trong các cơ quan tham vấn, xây dựng và thực
thi chính sách
Cơng tác cán bộ là cơng việc của Đảng và Đảng lãnh đạo Nhà nước, xã hội thực
thi chính sách thơng qua đội ngũ cán bộ của Đảng. Do vậy, hơn bao giờ hết, công tác
này cần được chú trọng, quan tâm đặc biệt, trong đó tập trung nâng cao hiệu quả quản
trị nhân sự nhà nước; phát hiện, bồi dưỡng cán bộ giỏi, có tâm, tầm; hình thành đội
ngũ cố vấn, chun gia chính sách trong bộ máy nhà nước; có chiến lược phát triển
20


tổng thể đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ hoạch định chính sách nói riêng; kiên
quyết xử lý nghiêm khắc những cán bộ hư hỏng, thối hóa, biến chất.
3.4. Thực hiện hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát “vịng đời” hệ thống
chính sách của Đảng
Tăng cường kiểm tra, giám sát chính sách và thi hành kỷ luật đối với sai phạm
trong xây dựng và thực thi chính sách là yêu cầu tất yếu khách quan giúp cho Ðảng
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, góp phần hồn thành vai trị lãnh đạo
Nhà nước và xã hội; phản ánh trọng trách của Đảng đối với sự vận hành có hiệu quả
của hệ thống chính sách cơng. Đối với hệ thống chính sách cơng, cơng tác kiểm tra,
giám sát của Đảng góp phần duy trì, phát huy tính tích cực của hệ thống chính sách đối
với đời sống xã hội, đồng thời, góp phần phịng ngừa, ngăn chặn, xử lý mặt trái, sai

phạm và tiêu cực trong q trình xây dựng, thực thi chính sách trên thực tế.
Thiết nghĩ, thời gian tới, Đảng cần tăng cường kiểm sốt quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước trong xây dựng chính sách cơng nhằm ngăn ngừa, loại trừ hiện
tượng tiêu cực như tham nhũng chính sách, hiện tượng “tư bản thân hữu” tham gia
trong chu trình chính sách, gắn với phát huy vai trò của các thiết chế chính thức (Ban
Chỉ đạo Trung ương về Phịng, chống tham nhũng, Ủy ban Kiểm tra, Ban Nội
chính,...) và thiết chế tự quản quần chúng.

21


KẾT LUẬN
Mục tiêu chính trị cốt lõi của Đảng cầm quyền biểu hiện rõ ràng nhất thơng qua
hệ thống chính sách cơng. Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trị là hạt nhân của hệ
thống chính trị nước ta, đồng thời là chủ thể lãnh đạo toàn diện hệ thống ấy. Sự lãnh
đạo biểu hiện rõ nhất ở việc Đảng lãnh đạo Nhà nước hiện thực hóa các quan điểm,
đường lối, quyết sách chính trị thơng qua hệ thống chính sách quốc gia, trong đó có
chính sách cơng - cơng cụ quan trọng của Nhà nước trong quản lý vĩ mơ. Vì lẽ đó mà
hiện nay Đảng vẫn đang hồn thiện từng ngày về hệ thống đường lối và nghị quyết để
đưa đất nước đi đúng hướng.

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình chính trị và chính sách cơng
2. Trần Văn Huấn, Nguyễn Hữu Hồng, Học viện Chính trị khu vực II, Nâng
cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách
cơng ở nước ta hiện nay, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, .
3. Website Lytuong.net, Đảng chính trị là gì? Vai trị của đảng chính trị,

/>4. ThS. Phùng Thị Phương Thảo - Học viện Hành chính quốc gia, Tạp chí điện
tử Tổ chức nhà nước, />6. PGS.TS Văn Tất Thu - Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ, , Tạp chí điện tử Tổ
chức nhà nước , />
23


×