Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TL CNXHKH chính sách tôn giáo của việt nam trong thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.63 KB, 25 trang )

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong đời sống tinh thần của con người tơn giáo ln đóng một vai trị
nhất định. Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử lồi người, tơn giáo ra đời
và trở thành một hiện tượng xã hội. Có nhiều tơn giáo khác nhau trên thế giới
nhưng nhìn chung mọi tơn giáo đều hướng tới con người với những giá trị tốt
đẹp. Chủ nghĩa cộng sản không phủ nhận tuyệt đối tôn giáo mà dung hịa tơn
giáo trong đời sống, chính trị, xã hội để phát triển. Ở nước ta cũng vậy, tơn
giáo đóng vai trị nhất định trong đời sống tinh thần. Nhìn chung mọi giáo lý
của các tơn giáo đều chứa đựng tính nhân văn sâu sắc. Những chiết lý ấy giúp
cho con người sống với nhau gần gũi hơn, có trách nhiệm hơn với bản thân,
cộng đồng, với sự phát triển chung của tồn xã hội. Tơn giáo là sự tự do tín
ngưỡng của mỗi cơng dân. Vì vậy trong định hướng trên con đường xây dựng
xã hội chủ nghĩa, Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng vai trị của các tơn giáo.
Mặt khác ở Việt Nam trong lịch sử, tôn giáo đã bị lợi dụng để phục vụ cho
mục đích chính trị, và ngày nay vẫn cịn tồn tại những kẻ lợi dụng tôn giáo để
chống phá nhà nước xã hội chủ nghĩa của ta. Chính vì thế mà mỗi người dân
cần xác định rõ tư tưởng tự do tín ngưỡng phải đi đơi với chấp hành pháp luật
của Đảng và nhà nước. Đó cũng là lý do chúng em quyết định chọn đề tài
“Chính sách tơn giáo của Việt Nam trong thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư

1


bản lên chủ nghĩa xã hội” làm đề tài nghiên cứu, để trước hết mỗi thành viên
trong nhóm sẽ có những hiểu biết nhất định về các tôn giáo ở Việt Nam. Đồng
thời xác định rõ cách nhìn nhận , lựa chọn tín ngưỡng góp phần vào sự phát
triển chung của xã hội.
2. Mục đích nghiên cứu


Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội ra đời và biến đổi theo sự biến
động của hoàn cảnh lịch sử xã hội. Cũng từ đó, chúng ta cịn biết một cách
khái qt rằng, tơn giáo cịn tồn tại trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vậy, trong quá trình xây dựng đó, tơn giáo cịn tồn tại là do những nguyên
nhân cụ thể gì?
Mặt khác, ở nước ta hiện nay tơn giáo đang có xu hướng phát triển,
trước tình hình đó, để góp phần đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới đất nước, cần
phải thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng về vấn đề tôn giáo
như thế nào? Trên đây chính là những mục đích mà nhóm chúng em muốn
hướng tới khi nghiên cứu đề tài: “Chính sách tơn giáo của Việt Nam trong
thời kì q độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”
3. Nội dung nghiên cứu
Tơi chọn nghiên cứu về đề tài: “Chính sách tơn giáo của Việt Nam
trong thời kì q độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”
Kết cấu bài tiểu luận bao gồm phần mở đầu, mục lục, tài liệu tham
khảo và nội dung có bốn chương:
Chương 1. Tìm hiểu chung về tơn giáo và tơn giáo ở Việt Nam
Chương 2. Những nguyên nhân chủ yếu cho sự tồn tại các tôn giáo ở
nước ta.
Chương 3: Tôn giáo trong tiến trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
4. Kết quả nghiên cứu
Hiểu được bản chất, nguồn gốc và các vấn đề của tôn giáo. Biết được
nguyên nhân tồn tại và nguyên tắc giải quyết vấn đề tơn giáo trong q trình
2


xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nắm vững và biết vận dụng nhiều quan điểm,
chính sách tơn giáo của Đảng và nhà nước ta trong q trình học tập, cơng
tác.


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TÌM HIỂU CHUNG VỀ TƠN GIÁO VÀ TƠN GIÁO
Ở VIỆT NAM
1.1 Tơn giáo và ý nghĩa của tơn giáo trong đời sống
1.1.1. Tơn giáo là gì?
Tơn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại
và tồn tại phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng ngàn
năm qua. Nhìn chung bất cứ một tơn giáo nào, với hình thái phát triển của nó
đều bao gồm: ý thức tôn giáo và hệ thống tổ chức tôn giáo cùng với những
hoạt động mang tính chất tín ngưỡng nghi thức của nó.
Tơn giáo khơng thuần t chỉ là một hiện tượng xã hội mà cịn là hiện
tượng văn hố, lịch sử, một lực lượng có thực trong đời sống xã hội. Trong
quá trình hoạt động thực tiễn, con người phải đối mặt với thế giới hiện thực,
đối mặt với các hiện tượng diễn ra trong tự nhiên và trong xã hội như: sấm,
chớp, mây mưa, bão lũ... đối mặt với các hiện tượng phân hố giàu nghèo,
những bất cơng xã hội, sự xung đột giữa các bộ tộc, bộ lạc, chiến tranh, bệnh
tật... Đó là những hiện tượng có thật, nhưng qua phản ánh của tôn giáo lại trở
thành siêu nhiên, thần thánh... Điều này đã được Ph.Ăngghen khẳng định:
"Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc con
người của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ;
chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng trần thể đã mang hình thức
những lực lượng siêu trần thế.
3


Tuy nhiên, dù hiểu theo cách nào thì mọi tơn giáo đều chứa đựng một
giá trị văn hoá, đạo đức, đạo lý tốt đẹp phù hợp với xã hội, với truyền thống
bao đời của dân tộc.
1.1.2. Ý nghĩa của tôn giáo đối với đời sống

Hiện nay, trên tinh thần đổi mới nhận thức về tôn giáo, Đảng và Nhà
nước ta đã nhận định tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, trong tơn
giáo có những giá trị tốt đẹp về đạo đức, văn hóa. Vấn đề tơn giáo đã được
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Các giáo lý tôn giáo đều chứa đựng
một số giá trị đạo đức nhân bản rất hữu ích cho việc xây dựng nền đạo đức
mới và nhân cách con người Việt Nam hiện nay. Giá trị lớn nhất của đạo đức
tơn giáo là góp phần duy trì đạo đức xã hội, hoàn thiện nhân cách cá nhân,
hướng con người đến Chân - Thiện - Mỹ. Tuy nhiên, đạo đức tôn giáo cũng
cịn nhiều yếu tố tiêu cực, nó hướng con người đến hạnh phúc hư ảo và làm
mất tính chủ động, sáng tạo của con người. Vấn đề đặt ra là, cần nhận điện
đúng vai trị của tơn giáo nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp của tôn giáo và
hạn chế những tác động tiêu cực của nó đối với việc hoàn thiện nhân cách con
người Việt Nam hiện nay. Trong xu thế đổi mới hiện nay, cùng với những
chuyển biến căn bản trong đời sống kinh tế - xã hội, sự đổi mới trong tư duy
lý luận, trong nhận thức về tôn giáo cũng đã và dang diễn ra.
Trước đây, trong một thời gian dài, chúng ta đã coi tôn giáo như là "tàn
dư của xã hội cũ, là kết quả sai lầm trong nhận thức của con người. Tôn giáo
bị xem như cái đối lập với chủ nghĩa xã hội, với khoa học, kỹ thuật hiện đại
và cần phải loại bỏ.
Tuy nhiên trong tiến trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà
nước ta đã có những nhận định mang tính khách quan, khoa học về tơn giáo,
xác định tơn giáo cịn tồn tại lâu dài và có một số giá trị đạo đức phù hợp với
lợi ích của tồn dân, với cơng cuộc xây dựng xã hội mới và do vậy, cần phát
huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tơn giáo. Điều này có ý

4


nghĩa quan trọng trong việc họach định chính sách tơn giáo, bảo vệ và tu tạo
các di sản văn hóa tơn giáo.

Việc tìm hiểu, chỉ ra chân giá trị của các tơn giáo cịn có ý nghĩa nhất
định trongcơng cuộc đổi mới hiện nay, khi mà chúng ta cần phải huy động
mọi nguồn lực tham gia vào sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, trong đó có vấn đề quan trọng là củng cố khối đại đoàn kết dân
tộc và kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa đạo đức trong tơn giáo vào việc
xây dựng nền đạo đức mới, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
1.2. Các tôn giáo phổ biến ở nước
Việt Nam là một quốc gia đa tơn giáo, trong đó có 6 tơn giáo chính, tồn
tại và phát triển cùng với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó
là: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, đạo Tin Lành, đạo Hồi, đạo Hòa Hảo, đạo Cao
Đài. Mỗi một tôn giáo đều mang những nét đặc trưng riêng, tuy vậy các tơn
giáo đều có chung một đặc điểm đó là khuyến khích giáo dân của đạo mình
làm những việc tốt đạo đẹp đời , hoạt động tôn giáo trên khuôn khổ của pháp
luật Việt Nam.
1.2.1. Đạo Phật
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ thứ VI, đến đời Lý (thế
kỷ thứ XI) Phật giáo ở vào giai đoạn cực thịnh và được coi là hệ tư tưởng
chính thống. Phật giáo được truyền bá rộng rãi trong nhân dân và có ảnh
hưởng sâu sắc tới đời sống xã hội, để lại nhiều dấu ấn trong lĩnh vực văn hoá,
kiến trúc. Nhiều chùa, tháp được xây dựng trong thời kỳ này.Nhà nho Lê Quát
học trị Chu Văn An đã lấy làm khó chịu khi toàn dân theo Phật: “Phật chỉ lấy
điều họa phúc mà động lòng người, sao mà sâu xa và bền chắc đến như vậy?
Trên từ vương công, dưới đến thứ dân, hễ làm cái gì thuộc về Phật, thì hết cả
gia tài cũng không tiếc...”
Phật giáo Việt Nam kết hợp chặt chẽ việc đạo với việc đời. Vốn là một
tôn giáo xuất thế, nhưng vào Việt Nam Phật giáo trở lên rất nhập thế: các cao
tăng được nhà nước mời tham chính trong những việc hệ trọng Phật tử Việt
5



Nam hăng hái tham gia vào các hoạt động xã hội, các phong trào đấu tranh
địi hịa bình và độc lập dân tộc, đỉnh cao là sự kiện hòa thượng Thích Quảng
Đức tự thiêu vào mùa hè năm 1963. Với tín điều giáo lý đạo Phật ln răn dạy
người ta sống làm việc thiện , tránh xa cái ác.
1.2.2. Đạo Thiên Chúa
Vào thế kỷ XVI, Công giáo (Thiên chúa giáo) truyền vào Việt Nam do
các giáo sĩ Bồ đào nha, Tây ban nha và sau là Pháp. Sự truyền đạo giai đoạn
đầu ít gặp trở ngại do tính khoan dung của người Việt Nam và tính khơng đối
dầu của tơn giáo bản địa nhưng sự truyền đạo đạt kết quả khơng cao. Sau đó
Pháp vận động Giáo Hồng cho phép độc quyền truyền đạo tại Việt Nam. Hội
truyền giáo Pa-ri được thành lập năm 1660 cùng nhà nước Pháp tuyển chọn,
đào tạo giáo sĩ, cử sang hoạt động ở Việt Nam và một số nước khác.
Trong những năm gần đây Cơng giáo nước ta có chiều hướng phát
triển. Số lượng tín đồ tăng do sự gia tăng dân số tự nhiên và một số tín đồ khơ
đạo, nhạt đạo trở lại sinh hoạt. Số tín đồ Cơng giáo nước ta hiện nay khoảng 5
triệu, hiện nay đang có cuộc sống ổn định và phấn khởi trước cuộc đổi mới và
chính sách tôn giáo của Đảng đang chăm lo cải thiện đời sống và tham gia
vào các hoạt động xã hội nhân đạo, an ninh trật tự, phòng chống các tệ nạn xã
hội và thể hiện cuộc sống theo phương châm “tốt đời, đẹp đạo”, “kính Chúa
yêu nước”.
1.2.3. Đạo Tin Lành
Đạo Tin Lành du nhập vào Việt Nam khoảng cuối thế kỷ XIX và đầu
thế kỷ XX do tổ chức Tin lành “Liên hiệp phúc âm truyền giáo” (CMA)
truyền vào. Năm 1911 tổ chức này đã xây dựng được cơ sở đầu tiên ở Đà
Nẵng. Các Hội thánh tin lành được lần lượt được xây dựng tại các địa
phương. Năm 1927, Tổng Hội thánh Tin lành Việt Nam được thành lập. Đến
năm 1930, một tổ chức thứ hai là Giáo hội Cơ đốc Phục lâm được truyền vào
nước ta.

6



Trong thời gian gần đây, cùng với trào lưu đổi mới Tổng Liên hội Tin
lành đã hoạt động trở lại. Đặc biệt đạo Tin lành chú trọng phục hồi và phát
triển ở Tây nguyên, truyền đạo ở các vùng núi phía Bắc trong các đồng bào
dân tộc thiểu số với phương pháp truyền đạo khá đa dạng và linh hoạt. Ngoài
việc truyền đạo trực tiếp, các Giáo hội Tin lành thường thơng qua các hoạt
động khoa học, văn hóa - xã hội, giáo dục, y tế, đầu tư kinh doanh... tranh thủ
cảm tình của quần chúng để truyền đạo. Hiện nay một số thế lực phản động
trong và ngoài nước đã bịa đặt ra cái gọi là Nhà nước Đềga độc lập và Tin
Lành Đềga ở Tây Nguyên nhằm tuyên truyền, kích động cho sự chia rẽ, ly
khai. Nhà nước Việt Nam đã kiên quyết bác bỏ cái gọi là “Nhà nước Đềga độc
lập”, coi đây là âm mưu chia rẽ sự toàn vẹn lãnh thổ và gây mất an ninh trật
tự của đất nước và khẳng định ở Việt Nam khơng có cái gọi là đạo Tin Lành
Đềga ngồi đạo Tin Lành đã tồn tại ở nước ta trong nhiều năm qua.
1.2.4. Đạo Hồi
Người theo đạo Hồi ở Việt Nam hầu hết là người dân tộc Chăm. Đạo
Hồi du nhập vào Việt Nam vào khoảng thế kỷ X – XIV bằng con đường hịa
bình cùng với q trình tan rã của quốc gia Chiêm Thành (Chămpa) và sự suy
giảm dần của đạo Hindu - tơn giáo chính thống của người Chăm.
Do vị trí địa lý và hồn cảnh truyền đạo, điều kiện sống và sự giao lưu
của đồng bào Chăm với bên ngoài nhất là với thế giới Hồi giáo mà ở Việt
Nam hình thành 2 khối Hồi giáo với nhiều khác biệt đáng kể: Hồi giáo vùng
Ninh Thuận, Bình Thuận là Hồi giáo khơng chính thống gọi là Chăm Bani,
đượm sắc thái của yếu tố sinh hoạt và tơn giáo bản địa. Hồi giáo ở TP. Hồ Chí
Minh, An Giang, Đồng Nai, Tây Ninh gọi là Chăm Islam theo Hồi giáo chính
thống, khơng bị pha trộn với phong tục, tập quán, tín ngưỡng cũ và thường
xuyên liên hệ với thế giới Hồi giáo Campuchia và Malaysia.
Hiện nay các tín đồ Hồi giáo sinh hoạt bình thường, vừa tn phục các
giáo luật khắt khe vừa thực hiện tốt các nghĩa vụ công dân, tôn trọng sự lãnh

đạo của Đảng cộng sản và sự quản lý của chính quyền mong muốn được sinh
7


hoạt tơn giáo hợp pháp, muốn duy trì mối quan hệ với thánh địa Mecca. Nói
chung trong những năm qua tín đồ Hồi giáo tăng chậm do đồng bào Chăm
thường sống ở những vùng có kinh tế khó khăn, có thu nhập thấp, diện nghèo
cịn cao và rất cần có sự quan tâm hỗ trợ của các cấp chính quyền để xây dựng
cuộc sống mới tốt đẹp hơn.
1.2.5. Đạo Cao Đài
Đạo Cao đài do một số người thuộc tầng lớp trên (tư sản, địa chủ, tiểu
tư sản), công chức chủ trương, ban đầu vốn là một trào lưu chính trị với mục
đích thành lập đạo để tập hợp lực lượng quần chúng mà chủ yếu là nông dân
chống lại sự kỳ thị, bóc lột, chèn ép của thực dân Pháp. Song sau đó trào lưu
này đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo lớn tại Nam bộ cho đến tận ngày
nay.
Sau năm 1975, các chức sắc và hơn 1 triệu tín đồ các hệ phái chủ yếu tu
tại gia. Trong thời kỳ đổi mới, các hệ phái đã sinh hoạt trở lại với sự giúp đỡ
của Đảng và Nhà nước. Nhiều hệ phái được thừa nhận tư cách pháp nhân như
Tiên thiên, Minh Chơn đạo, Bạch Y Liên Đài... Các hệ phái tổ chức các đại
hội. Qua đó, lịng tin vào chính sách tơn giáo của Đảng được củng cố trong tín
đồ. Những nhân tố tích cực của Đạo được khơi dậy, khắc phục một bước tình
trạng mất đồn kết trong chức sắc. Xu thế chung là tín đồ đạo Cao Đài muốn
hành đạo thuận lợi trong khuôn khổ luật pháp và làm trịn nghĩa vụ cơng dân.
1.2.6. Đạo Hịa Hảo
Phật giáo Hòa Hảo ra đời ngày 15 tháng 5 năm 1939 tại làng Hòa Hảo,
Châu Đốc, An Giang và phát triển chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long. Sự ra
đời của Phật giáo Hòa Hảo Hảo gắn với đặc điểm tâm lý, lối sống đạo đức,
tính cách, đời sống tín ngưỡng của nơng dân Nam Bộ và liên quan đến mơi
trường kinh tế - xã hội - chính trị ở đây trong khoảng thời gian hai cuộc chiến

tranh thế giới
Đạo Hoà Hảo phát triển ở miền Tây Nam Bộ, kêu gọi mọi người sống
hòa hợp.
8


Tôn giáo này đánh giá cao triết lý "Phật tại tâm", khuyến khích nghi lễ
thờ cúng đơn giản (chỉ có hoa và nước sạch) và loại bỏ mê tín dị đoan. Những
buổi lễ được tổ chức rất đơn giản và khiêm tốn, khơng có ăn uống, hội hè. Lễ
lộc, cưới hỏi hay ma chay không cầu kỳ như thường thấy ở những tơn giáo
khác. Đạo khơng có tu sĩ, khơng có tổchức giáo hội mà chỉ có một số chức sắc
lo việc đạo và cả việc đời.

9


CHƯƠNG 2: NHỮNG NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU CHO SỰ TỒN TẠI
CÁC TƠN GIÁO Ở NƯỚC TA
Tơn giáo là một hiện tượng chỉ tồn tại trong một giai đoạn nhất định
của lịch sử xã hội, từ đầu thời công xã nguyên thuỷ trở về trước là chưa có,
và đến thời kỳ cộng sản chủ nghĩa cũng sẽ không tồn tại tôn giáo. Nhưng
trong lòng xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn sẽ tồn tại tôn giáo. Tại sao vậy ?
Xuất phát từ bản chất mang cả hai phương diện xã hội và giai cấp như
đã trình bày ở trên, tơn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng
như trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa xã hội vẫn sẽ tồn tại, bởi nó vẫn chưa
mất hết những giá trị tích cực cũng như vẫn cịn có những nền tảng để tiếp
tục tồn tại.
2.1. Nguyên nhân nhận thức
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, trình độ nhận thức, trình độ
dân trí của nhân dân đã có những tiến bộ nhất định, nhưng vẫn còn nhiều hạn

chế, vì thế, nhân dân chưa nhận thức được hoặc nhận thức chưa đầy đủ các
hiện tượng diễn ra trong tự nhiên và trong xã hội. Sự hạn chế đó làm cho nhân
dân dễ đến với tín ngưỡng tơn giáo.
Hiện nay, nhân loại đạt được những thành tựu lớn lao về khoa học và
công nghệ, nhất là những tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu mới... đã giúp con người có thêm những khả
năng để nâng nhận thức và vai trò làm chủ tự nhiên, xã hội của mình lên một
tầm cao mới. Song, hiện thực khách quan là vô cùng, vô tận, tồn tại đa dạng
và phong phú, còn đặt ra nhiều vấn đề mà hiện tại khoa học chưa thể làm rõ.
Những sức mạnh tự phát của tự nhiên, xã hội đôi khi rất nghiêm trọng vẫn tác
động và chi phối đời sống con người. Do đó, tâm lý sợ hãi, trông chờ, nhờ cậy
và tin tưởng vào thánh thần, Phật... vẫn còn tồn tại trong ý thức của nhiều
người.

10


2.2. Nguyên nhân kinh tế
Kinh tế là một vấn đề nhạy cảm, là xương sống của mỗi quốc gia. sự
phát triển hay tụt hậu của một nền kinh tế theo bất kì xu hướng nào đều ảnh
hưởng sâu sắc tới đời sống của con người. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, nhất
là giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ vẫn còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế,
nhiều hình thức sở hữu. Con người ln phải chịu sự chi phối của những qui
luật kinh tế khách quan đó. Đặc biệt trong thời kì này cịn nhiều thành phần
kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với những lợi ích khác nhau giữa các
giai cấp, tầng lớp... vẫn là một thực tế, trong nền kinh tế đó, con người vẫn
chịu sự tác động chi phối bởi các yếu tố tất nhiên, ngẫu nhiên, may rủi ...Đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân chưa cao. Điều đó, làm cho con người
vẫn tin vào lực lượng siêu nhiên, cầu xin công việc làm ăn gặp nhiều may
mắn.

2.3. Nguyên nhân tâm lý
Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, ăn sâu vào tiềm thức
của nhiều người dân. Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất.
Những niềm tin tôn giáo ảnh hưởng sâu đậm trong nếp nghĩ, lối sống của một
bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đã trở thành một kiểu sinh hoạt văn hố
tinh thần khơng thể thiếu được của cuộc sống. Vì thế, dù hiện nay nhân loại
đã và đang có những biến đổi lớn lao về kinh tế - xã hội nhưng tín ngưỡng,
tơn giáo vẫn cịn tồn tại bởi những lí do đó.
2.4. Ngun nhân chính trị - xã hội
Trong chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội đang diễn ra ở nước ta, xét về mọi phương diện kinh tế, đạo
đức, văn hóa, chính trị, tinh thần... vẫn còn mang nặng dấu vết của xã hội cũ.
Do đó vẫn cịn cơ sở để tín ngưỡng, tơn giáo cịn tồn tại.
Trong thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa cái lạc hậu với cái tiến bộ trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội vẫn đang diễn ra rất gay go, quyết liệt, dưới
11


nhiều hình thức vơ cùng phức tạp; trong đó, các thế lực phản động vẫn tìm
mọi cách ni dưỡng và lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho mưu đồ chính trị
của chúng. Đây là điều kiện cho tơn giáo cịn tồn tại.
Các tổ chức và chức sắc tơn giáo đang ra sức hoạt động tun truyền,
tìm cách lơi kéo tín đồ để duy trì sự tồn tại của tơn giáo.
Tôn giáo đã tồn tại trong xã hội suốt hàng ngàn năm, và đã ăn sâu bám
chặt vào nếp sống, nếp nghĩ của con người. Bởi vậy không dễ dàng gì mà
ngay trong thời gian ngắn có thể loại bỏ tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội.
Ngày nay, chiến tranh hạt nhân hủy diệt có khả năng bị đẩy lùi, nhưng
những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tơn giáo, khủng bố,
bạo loạn... cịn xảy ra ở nhiều nơi, Nỗi lo sợ về chiến tranh, bệnh tật, đói

nghèo... cùng với những mối đe dọa khác là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo
tồn tại.
Những hạn chế, yếu kém của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ
nghĩa trong tổ chức, quản lý quá trình xây dựng xã hội mới; sự suy thối về
chính trị, tư tưởng, đạo đức của một bộ phận cán bộ đảng viên gắn với tệ quan
liêu, tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn xã hội nảy sinh nhưng
chậm được khắc phục; công bằng xã hội cũng như quyền làm chủ của nhân
dân bị vi phạm... làm cho niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, với chế
độ bị suy giảm. Chính điều này cũng là cơ sở để nhân dân dễ đến với tín
ngưỡng, tơn giáo.
2.5. Nguyên nhân văn hóa
Văn hóa dân tộc phát triển, gắn bó mật thiết với bề dày lịch sử của mỗi
quốc gia. Đa số tín ngưỡng, tơn giáo đều gắn với sinh hoạt văn hoá của nhân
dân. Do vậy, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc địi hỏi phải
bảo tồn tơn giáo ở những mức độ nhất định. Mỗi một loại hình tơn giáo đều
có những nét văn hóa đặc trưng như nhà thờ, chùa, đình,...tất cả đã góp phần
làm cho văn hóa dân tộc đặc sắc hơn. Mặt khác, tín ngưỡng, tơn giáo có liên
quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân cư.
12


Vì vậy, sự tồn tại của tơn giáo trong xã hội xã hội chủ nghĩa như là một
hiện tượng khách quan,
Nói tóm lại, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như giai
đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn sẽ tồn tại, bởi cả những nguyên
nhân khách quan lẫn những nguyên nhân chủ quan. Sự tồn tại này khơng có gì
là vơ lý bởi tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội, thuộc kiến trúc thượng
tầng, tuy phải chịu sự chi phối và quyết định của cơ sở hạ tầng, nhưng bản
thân nó vẫn có sự độc lập tương đối, do đó, dù đứng trước những biến đổi to
lớn của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội... trong bước nhảy vọt từ chủ nghĩa

tư bản lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn không bị triệt tiêu ngay lập tức, mà
chỉ " dần mất đi ảnh hưởng của nó đối với ý thức xã hội ", và " chỉ trong xã
hội cộng sản chủ nghĩa phát triển thì tơn giáo mới có thể hồn tồn biến mất
và hồn tồn bị xố bỏ khỏi đời sống con người "

13


CHƯƠNG 3: TƠN GIÁO TRONG TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
3.1. Các vấn đề tôn giáo ở Việt Nam
Tơn giáo là hình thái hội, ra đời và phát triển từ hàng ngàn năm nay.
Quá trình tồn tại và phát triển của tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến ý thức
xã hội đời sống chính trị, văn hoá, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống,
phong tục, tập quán của nhiều dân tộc, quốc gia.
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tơn giáo. Với vị trí
địa lý nằm ở khu vực Đơng Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận
lợi trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc
thâm nhập các luồng văn hố, các tơn giáo trên thế giới.
Vấn đề tôn giáo ở việt nam lâu đã là một vấn đề nhạy cảm không chỉ
đối với Việt Nam mà cịn với nhiều nước trên thế giới. Vì thế ln cần có
những hiểu biết thấu đáo trước khi giải quyết các vấn đề này. Vấn đề tôn giáo
đã từng bị chủ nghĩa đế quốc tìm cách lợi dụng phục vụ cho âm mưu xâm
lược và chống phá cách mạng ở Việt Nam nói riêng và các nước xã hội chủ
nghĩa nói chung. Chúng sử dụng tơn giáo như là một chiêu bài trong âm mưu
diễn biến hịa bình hịng chống phá sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở
Việt Nam cũng như các nước khác.
Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới và nhất là sau năm 1990 đến nay, sinh
hoạt tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam sơi động và đang có chiều hướng gia
tăng. Lễ hội trong các loại hình tín ngưỡng, tơn giáo được tổ chức rầm rộ với

quy mô ngày một lớn và diễn ra khắp mọi miền của Tổ quốc. Lễ Nôen, lễ
Phật đản và những buổi lễ trọng khác của các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian
trở thành ngày hội chung của tồn dân, lơi cuốn hàng vạn người tham gia. Dịp
đầu xuân, người dân náo nức đến đình, đền, miếu, phủ, nhà thờ, thánh thất...
dâng hương lễ bái, cầu lộc, cầu tài và những nhu cầu tâm linh khác. Sinh hoạt
tín ngưỡng, tơn giáo khơng chỉ là nhu cầu tâm linh của các tín đồ mà cịn là
nhu cầu sinh hoạt văn hố của cả cộng đồng. Nhu cầu chính đáng ấy được
14


chính quyền các địa phương tạo điều kiện đáp ứng, làm cho tín đồ, chức sắc
các tơn giáo an tâm, phấn khởi, ngày càng tin tưởng vào chính sách đối với
tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Việc xây dựng, sửa chữa, tu bổ nơi thờ tự
diễn ra khắp nơi; các lớp bồi dưỡng, đào tạo, hoặc phong bổ, thuyên chuyển,
cũng như in ấn, xuất bản các ấn phẩm tôn giáo, hoạt động đối ngoại tôn giáo
đều gia tăng
3.1.1. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam,
Một là Việt Nam là nước có nhiều tín ngưỡng tơn giáo.
Hiện nay , ở nước ta có sáu tơn giáo lớn đã được Nhà nước thừa nhận
về tổ chức là: Phật giáo , Công giáo , Tin lành ,Hồi giáo, Cao đài , Hịa Hảo
với khoảng 20 triệu tín đồ.Ngồi ra cịn hàng chục triệu người khác vẫn giữ
tín ngưỡng dân gian , truyền thống và cả tín ngưỡng ngun thủy.
Tín ngưỡng, tơn giáo ở nước ta chủ yếu ở cấp độ tâm lý tơn giáo .Nhiều
tín đồ tơn giáo tuy khá sùng đạo, nhưng hiểu giáo lý rất ít , gia nhập đạo phần
nhiều do lan truyền tâm lý , hoặc do vận động lôi kéo , ý thức tôn giáo ở phần
lớn tín đồ khơng thật sâu sắc.
Hai là , các tơn giáo , tín ngưỡng dung hợp , đan xen và hịa đồng ,
khơng có kỳ thị , tranh chấp và xung đột tơn giáo.
Các tín ngưỡng truyền thống và tàn dư tôn giáo nguyên thủy in dấu ấn
khá sâu đậm vào đời sống tinh thần của người Việt Nam, theo suốt chiều dài

lịch sử, đó là cái nền tâm linh để dễ dàng đón nhận sự du nhập của các tơn
giáo khác . Sự khoan dung, lịng độ lượng, nhân ái của dân tộc Việt Nam,
cùng với yêu cầu phải đoàn kết toàn dân để bảo vệ nền độc lập , thống nhất
lãnh thổ , nên người Việt Nam tiếp nhận các tôn giáo khác nhau một cách tự
nhiên , miễn là khơng trái với lợi ích dân tộc - quốc gia và truyền thống văn
hóa, tín ngưỡng cổ truyền.
Sự phân bố tơn giáo ở nước ta có đặc điểm nổi bật là giáo dân của các
tôn giáo thường sinh sống thành từng cộng đồng quy mô nhỏ , các cộng đồng
tơn giáo khác nhau có thể sống xen kẽ nhau ở nhiều nơi trong một làng , xã
15


cũng có các nhóm tín đồ của các tơn giáo khác nhau sống đan xen , hòa hợp
nhau hoặc xen kẽ với những người không theo tôn giáo nào.
Ba là , các tơn giáo chính có ảnh hưởng lớn trong xã hội Việt Nam đều
du nhập từ bên ngoài , ít nhiều đều có sự biến đổi và mang dấu ấn Việt Nam.
Các tơn giáo từ bên ngồi vào Việt Nam vừa theo cách du nhập tự
nhiên qua giao lưu kinh tế , văn hóa như : Phật giáo , Hồi giáo , vừa có sự áp
đặt song hành với quá trình xâm lược của các đế quốc trong lịch sử như Cơng
giáo , Tin lành ... Q trình giao du , gặp gỡ các tôn giáo vừa thâm nhập , bổ
sung , vừa cải biến lẫn nhau , khiến cho mỗi tơn giáo đều có sự biến đổi phù
hợp với đặc điểm địa lý , lịch sử và văn hóa Việt Nam.
Bốn là sự pha trộn phức tạp giữa ý thức tơn giáo với tín ngưỡng truyền
thống và tình cảm , phong tục tập quán và nhân dân.
Tín ngưỡng truyền thống dân gian mà nổi bật nhất là phong tục thờ
cúng tổ tiên, đã dung hợp với các tôn giáo, góp phần tạo nên đặc điểm tình
cảm, tâm hồn , tính cách người Việt Nam. Tuy vậy , sự pha trộn phức tạp giữa
hình thức tơn giáo với tín ngưỡng cổ truyền và tình cảm , phong tục tập quán
đã ăn sâu vào đời sống tinh thần của người Việt Nam, làm cho một bộ phận
không nhỏ quần chúng lao động rất dễ dàng tiếp nhận tình cảm, ý thức tơn

giáo mới.
3.1.2. Tình hình tơn giáo ở nước ta hiện nay
Về mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em.
Mỗi dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức tín ngưỡng,
tơn giáo riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng dân gian như
thờ cúng ông bà tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người có cơng với cộng
đồng, dân tộc, thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân nông
nghiệp lúa nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số với hình thức tín ngưỡng
ngun thuỷ (cịn gọi là tín ngưỡng sơ khai) như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Sa
man giáo.

16


Ở Việt Nam, do đặc điểm lịch sử liên tục bị xâm lược từ bên ngoài nên
việc Lão giáo, Nho giáo - những tơn giáo có nguồn gốc ở phía Bắc thâm
nhập; Công giáo - một tôn giáo gắn với văn minh Châu Âu vào truyền đạo và
sau này đạo Tin lành đã khai thác điều kiện chiến tranh ở miền Nam để truyền
giáo thu hút người theo đạo là điều dễ hiểu.
Việt Nam là một quốc gia bao gồm những tơn giáo có nguồn gốc từ
phương Đơng như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo; có nguồn gốc từ phương
Tây như Thiên chúa giáo, Tin lành; có tơn giáo được sinh ra tại Việt Nam như
Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo; có tơn giáo hồn chỉnh (có hệ thống giáo lý,
giáo luật, lễ nghi và tổ chức giáo hội), có những hình thức tơn giáo sơ khai.
Bên cạnh đó có những tôn giáo đã phát triển và hoạt động ổn định xong cũng
có những tơn giáo chưa ổn định, đang trong quá trình tìm kiếmđường hướng
mới cho phù hợp.
Về mặt văn hóa, tín ngưỡng, tơn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số ở
ba khu vực nói trên có những nét riêng, độc đáo tạo nên nền văn hóa Việt
Nam đa dạng. Hầu hết các dân tộc thiểu số vẫn giữ tín ngưỡng nguyên thủy

thờ đa thần với quan niệm vạn vật hữu linh và thờ cúng theo phong tục tập
quán truyền thống. Sau này, theo thời gian các tôn giáo dần dần thâm nhập
vào những vùng đồng bào các dân tộc thiểu số hình thành các cộng đồng tơn
giáo, cụ thể:
Cộng đồng dân tộc Khơme theo Phật giáo Nam tơng. Hiện nay có
1.043.678 người Khơme, 8.112 nhà sư và 433 ngôi chùa trong đồng bào
Khơme.
Cộng đồng người Chăm theo Hồi giáo. Có khoảng gần 100 nghìn người
Chăm, trong đó số người theo Hồi giáo chính thống (gọi là Chăm Islam) là
25.703 tín đồ, Hồi giáo khơng chính thống (Chăm Bàni) là 39.228 tín đồ.
Ngồi ra cịn có hơn 30 nghìn người theo đạo Bàlamơn (Bà Chăm). Hồi giáo
chính thức truyền vào dân tộc Chăm từ thế kỷ XVI, Cùng với thời gian, Hồi
giáo đã góp phần quan trọng trong việc hình thành tâm lý, đạo đức, lối sống,
17


phong tục tập quán, văn hóa của người Chăm.. Cộng đồng dân tộc thiểu số ở
Tây Nguyên theo Công giáo, Tin lành. Hiện nay ở khu vực Tây Nguyên có
gần 300 nghìn người dân tộc thiểu số theo Cơng giáo và gần 400 nghìn người
theo đạo Tin lành.
Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Bắc một số theo Công giáo, Tin lành.
Hiện nay ở Tây Bắc có 38 nghìn người dân tộc thiểu số theo Công giáo; đặc
biệt, khoảng 20 năm trở lại đây có đến trên 100 nghìn người Mông theo đạo
Tin lành dưới tên gọi Vàng Chứ và hơn 10 nghìn Dao theo đạo Tin lành dưới
tên gọi Thìn Hùng.
Đa số tín đồ các tơn giáo là người lao động, trong đó chủ yếu là nơng
dân. Ước tính, số tín đồ là nơng dân của Phật giáo, Thiên chúa giáo chiếm đến
80-85%, của Cao Đài, Phật giáo, Hòa Hảo: 95% và của đạo Tin lành là 65%.
Là người lao động, người nơng dân, tín đồ các tơn giáo ở Việt Nam rất cần cù
trong lao động sản xuất và có tinh thần yêu nước. Trong các giai đoạn lịch sử,

tín đồ các tơn giáo cùng với các tầng lớp nhân dân làm nên những chiến thắng
to lớn của dân tộc.
Tín đồ các tơn giáo ở Việt Nam có nhu cầu cao trong sinh hoạt tơn giáo,
nhất là những sinh hoạt tơn giáo cộng đồng mang tính chất lễ hội. Một bộ
phận tín đồ của một số tơn giáo vẫn cịn mê tín dị đoan, thậm chí cuồng ún dễ
bị các phần tử thù địch lôi kéo, lợi dụng.
3.1.3. Âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá nước ta.
Lợi dụng tín ngưỡng tơn giáo để xâm phạm an ninh quốc gia, phá hoại
khối đạiđoàn kết toàn dân tộc là âm mưu cố hữu không bao giờ từ bỏ của chủ
nghĩa đế quốc. Chính sách đối với tơn giáo của chủ nghĩa đế quốc là lợi dụng,
chia rẽ và thống trị.
Âm mưu của chúng là chia rẽ giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, giữa
tôn giáo với không tôn giáo, đặc biệt giữa đồng bào tôn giáo với Đảng, Nhà
nước và cách mạng.

18


Chúng đã dùng các thủ đoạn kích động, lừa mị và o ép, khoét sâu mâu
thuẫn về tư tưởng, kích động mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân để lừa gạt, lơi
kéo, giành giật đồng bào về phía chúng và đẩy dân ra đối đầu với chính
quyền, với Đảng.
Để lợi dụng vấn đề tôn giáo trong bối cảnh thế giới hiện nay, các thế
lực thù địch đã triệt để lợi dụng các xu hướng tồn cầu hố, quốc tế hố, đề ra
khẩu hiệu nhân quyền cao hơn chủ quyền, quyền cá nhân cao hơn quyền cộng
đồng. Họ lại nhân danh các công ước quốc tế và lợi dụng các cơ chế tồn cầu
để pháp lý hố các pháp luật, các quy định đơn phương từ phía họ nhằm can
thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo và các quốc gia. Họ triệt để khai
thác các phương tiện thông tin hiện đại trong điều kiện xã hội . Dùng thông
tin để lừa mị, lung lạc, sử dụng tay sai đội lốt chức sắc giáo sĩ để hoạt động

chính trị phản động; lợi dụng các mối quan hệ hải ngoại và quốc tế để nuôi
dưỡng, tác động, chỉ đạo các tổ chức tôn giáo nghe theo chúng hoạt động
“diễn biến hồ bình”. Thực tế tình hình trong những năm qua, cho thấy cuộc
đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tơn giáo để thực hiện “diễn biến
hồ bình” tại nước ta đã diễn ra rất gay go, quyết liệt.
3.2. Nguyên tắc giải quyết của Đảng và Nhà nước
Ta thấy rằng, giữa chủ nghĩa duy vật mácxít với hệ tư tưởng tơn giáo có
sự khác nhau cơ bản về thế giới quan, nhân sinh quan và con đường mưu cầu
hạnh phúc của con người, nhất là cho nhân dân lao động. Về thế giới quan,
tôn giáo dựa trên cơ sở của triết học duy tâm; về nhân sinh quan, do khơng
giải thích được chính xác nguồn gốc nỗi khổ cực của con người nên tơn giáo
khơng thể tìm được phương hướng, biện pháp đúng đắn nhằm xóa bỏ nỗi khổ
ải ấy trên thực tế. Tôn giáo thường khuyên nhủ con người sống nhẫn nhục,
cam chịu khổ ải trên trần thế để trông chờ, hy vọng vào hạnh phúc “hư ảo”
được bù đắp ở thế giới bên kia. Đặc biệt, với hệ thống giáo lý tín điều, giáo
luật, nghi lễ, tổ chức... tôn giáo hạn chế khả năng vươn lên làm chủ tự nhiên

19


và xã hội của con người. Vì vậy, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng là
quá trình phải giải quyết vấn đề nảy sinh từ tôn giáo.
Tuy nhiên, tín ngưỡng tơn giáo là vấn đề tế nhị, nhạy cảm và phức tạp.
Vì vậy, giải quyết những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần hết sức thận trọng, tỷ
mỷ, vừa đòi hỏi giữ vững nguyên tắc, đồng thời phải mềm dẻo linh hoạt.
Nhưng phải trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Những
nguyên tắc giải quyết cơ bản của Đảng
Một là, những mặt tiêu cực của tôn giáo phải bị khắc phục và đẩy lùi,
dẫn đến chỗ xố bỏ hồn tồn chúng.
Hai là, khi tín ngưỡng tơn giáo cịn là nhu cầu tinh thần của một bộ

phận nhân dân thì nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tơn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng của mọi cơng dân. Cơng dân có tơn giáo hay khơng
có tơn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như
nhau.
Ba là, cần khơng ngừng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó
có cả mối liên hệ giữa người theo đạo và những người không theo đạo.
Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong vấn đề tơn giáo,
đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ
thường xuyên, vừa phải khẩn trương kiên quyết vừa phải thận trọng và phải
có sách lược phù hợp với thực tế.
Năm là, phải giải quyết vấn đề tôn giáo trên lập trường quan điểm lịch
sử, tức là phải nhìn nhận vai trị, tác động của tôn giáo tới đời sống xã hội
trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau là có thể rất khác nhau.
Tín ngưỡng tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Thực hiện nhất quán chính sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng
theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tơn giáo bình thường
theo đúng pháp luật. Đồn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng
bào theo tôn giáo với đồng bào khôn theo tôn giáo. Chăm lo phát triển kinh tế,
văn hóa , nâng cao đời sống của đồng bào. Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề
20


dân tộc, tín ngưỡng tơn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của
Nhà nước, kích động chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
3.3. Quan điểm, chính sách của Đảng - Nhà nước đối với tôn giáo
Hoạt động tôn giáo và công tác tơn giáo phải nhằm tăng cường đồn
kết đồng bào các tơn giáo trong khối đại đồn kết tồn dân tộc, phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Để thực hiện phương hướng trên, các cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, các
ngành cần thống nhất nhận thức về các quan điểm và chính sách sau đây:
1- Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đồng bào các tơn giáo là bộ phận của khối đại đồn kết tồn dân tộc.
Thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc khơng theo một tơn giáo nào, quyền sinh hoạt tơn giáo
bình thường theo đúng pháp luật Các tôn giáo hoạt động trong khn khổ
pháp luật, bình đẳng trước pháp luật
2 - Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn
dân tộc Đoàn kết đồng bào theo các tơn giáo khác nhau ; đồn kết đồng bào
theo tơn giáo và đồng bào khơng theo tơn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá
trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tơn vinh những người có cơng
với Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với cơng dân vì lý
do tín ngưỡng, tơn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo
để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà
nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an
ninh quốc gia.
3 - Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng

21


Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là
điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi
công dân khơng phân biệt tín ngưỡng, tơn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào
nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc ;

thơng qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó
có đồng bào tơn giáo.
4 - Cơng tác tơn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
Cơng tác tơn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội,
các cấp, các ngành, các địa bàn. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của
tồn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán
bộ chuyên trách làm cơng tác tơn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng
cố và kiện tồn. Cơng tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh
chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ thành công nếu làm tốt
công tác vận động quần chúng.
5 - Vấn đề theo đạo và truyền đạo
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp
pháp theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo
pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào
tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng
cơ sở thờ tự tơn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều
phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật không được lợi dụng tôn giáo tuyên
truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, khơng được ép buộc người dân theo
đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức
truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
22


23


KẾT LUẬN CỦA NHĨM

Vấn đề tơn giáo trên thế giới hiện nay đang là một vấn đề nóng, khơng
chỉ riêng đối với Chủ nghĩa xã hội. Chính vì thế việc giải quyết các vấn đề tôn
giáo cần phải được đặt ra như là một vấn đề cấp thiết, đòi hỏi phải có những
phương pháp giải quyết đúng đắn. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra rằng:
“Chỉ những kẻ ngu ngốc mới tun chiến với tơn giáo”! Như vậy có nghĩa là
trong công tác tôn giáo thi tuyệt đối không bao giờ được dùng vũ lực để giải
quyết các vấn đề đặt ra mà phải dùng tổng hợp các biện pháp chính trị, kinh
tế, xã hội mà nịng cốt là cơng tác vận động quần chúng. Có thể nói, các nước
Xã hội Chủ nghĩa chưa bao giờ chống lại tôn giáo mà chỉ thực hiện các chính
sách để chống lại những kẻ lợi dụng tơn giáo nhằm mục đích chính trị phản
động. Chỉ có qn triệt sâu sắc và tồn diện nội dung quan điểm trên đồng
thời vận dụng linh hoạt, khoa học vào thực tiễn thì ta mới có thể đấu tranh có
hiệu quả với hoạt động lợi dụng tôn giáo xâm phạm đến an ninh Quốc gia,
bảo vệ vững chắc an ninh Quốc gia trên lĩnh vực tôn giáo.
Với không gian nhỏ hẹp của một đề tài tiểu luận, tôi đã cố gắng chỉ ra
những nét chung nhất về tình hình tơn giáo đang diễn ra ở Việt Nam trong
thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đồng thời đưa ra các
phương hướng và biện pháp giải quyết các vấn đề này. Tuy đã cố gắng tìm tịi
nghiên cứu, song chắc chắn tiểu luận cịn rất nhiều thiếu sót, chúng em rất
mong được giáo viên hướng dẫn chỉ bảo thêm. Tôi xin cảm ơn !

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-LêNin, Năm
XB 2009, Nhà XB Chính Trị Quốc Gia
2. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung Ương Đảng
khóa IX về cơng tác Tôn giáo, Văn kiện Đảng, Báo điện tử Đảng Cộng Sản
Việt Nam

3. Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Năm XB 2001, Nhà
XB Chính Trị Quốc Gia
4.Tình hình và thực trạng Tơn giáo ở Việt Nam hiện nay, PGS.TS
Nguyễn Đức Lữ, Mattran.org.vn
5. Về vấn đề Tôn giáo ở Việt Nam, 08/03/2005- Nhân Quyền,
Vietnamembassy.us
6. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học – Học viện Báo chí và tuyên
truyền,
7. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học – Bộ Giáo dục và đào tạo.
8. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học – Hội đồng lý luận trung ương.
9. Văn kiện Đại hội biểu toàn quốc lần thứ X, Năm XB 2001, Nhà XB
Chính Trị Quốc Gia

25


×