Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

TL LSĐ thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới từ 1986 – 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.75 KB, 30 trang )

1

A.

Mở đầu

1. Lí do chọn đề tài
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt
của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
quần chúng nhân dân ta đã đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp và quân
chiếm đóng Nhật, thực hiện cuộc tổng khởi nghĩa Tháng 8 năm 1945 và thành
lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa vào ngày 2/9/2945. Nước Việt Nam
non trẻ vừa mới ra đời lại phải đương đầu với các âm mưu xâm lược và can
thiệp của Pháp và Mỹ, phải tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo
dài suốt 30 năm sau đó. Nhưng nhân dân Việt Nam, theo lời dạy của chủ tịch
Hồ Chí Minh “Khơng có gì q hơn độc lập tự do” đã đứng vững và dành
nhiều thắng lợi trên cả hai miền Nam Bắc. Mùa xuân năm 1975, trên tinh thần
đoàn kết toàn dân tộc và được sự đồng tình của nhân dân u chuộng hịa
bình, cơng lý và tiến bộ trên thế giới, các lực lượng vũ trang yêu nước Việt
Nam đã thực hiện cuộc tiến cơng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Ngày 2/7/1976, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa đổi tên thành Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Với những thắng lợi dành được ở thế kỷ XX, nước ta từ một nước
thuộc địa nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển
theo con đường Chủ nghĩa xã hội, có quan hệ rộng rãi, vị thế ngày càng quan
trọng trong khu vực và trên thế giới, nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo
nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đổi mới, thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Trong giai đoạn 1976 -1986, Việt Nam áp dụng chế độ bao cấp, tem
phiếu. Chính vì vậy, các mặt hàng trong giai đoạn này thường khan hiếm,


không đáp ứng được nhu cầu của người dân. Tiêu dụng chậm dẫn đến tình


2
trạng lạm phát, đời sống của nhân dân thiếu thốn, khó khăn. Đến năm 1986,
Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới với những thay đổi toàn diện. Tem phiếu
chỉ còn trong ký ức. Sau hơn 30 năm, diện mạo của đất nước đã thay đổi rất
nhiều. Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện.
Được sự hướng dẫn, giúp đỡ của Th.S Phạm Thành Long, tôi đã cố
gắng phân tích tìm hiểu về thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới mà cụ
thể là: “Thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới từ 1986 – 2016”.
Để hồn thiện bài tiểu luận, tơi tập trung vào giải quyết các vấn đề sau:
1. Hoàn cảnh lịch sử
2. Nội dung của công cuộc đổi mới
3. Thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới từ 1986 – 2016
2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và các
phương pháp lịch sử nói chung: phương pháp lịch sử, logic, thống kê, mô tả
so sánh, khái quát các vấn đề lịch sử có liên quan.


3

B.

Nội dung

Chương 1: Q trình thực hiện của cơng cuộc đổi mới từ 1986 – 2016
1.1.


Hoàn cảnh lịch sử

1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Sau một thời gian dài phát triển, đạt được những thành tựu vĩ đại trong
lịch sử nhân loại, đến cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, các
nước XHCN đều lần lượt lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Đây là cuộc
khủng hoảng “có tính chất mơ hình”, CNXH mà các nước đang xây dựng,
thực chất là CNXH thời chiến, chủ yếu bắt nguồn từ kinh nghiệm của Liên
Xơ, từng thích hợp với những điều kiện đặc biệt của nước Nga Xô Viết,
nhưng lại được coi là mơ hình duy nhất, phổ biến cho tất cả các dân tộc khi
lựa chọn con đường phát triển theo CNXH. Ở các nước XHCN đều lần lượt
diễn ra quá trình cải tổ, cải cách, đổi mới… dù tên gọi khác nhau, nhưng đều
giống nhau ở thực chất sửa chữa mơ hình. Từ góc độ mơ hình nhìn lại, cuộc
khủng hoảng mơ hình chỉ bùng phát đồng loạt vào những năm cuối thế kỷ
trước, nhưng trước đó, cuộc khủng hoảng ở Hunggari năm 1956, ở Tiệp khắc
năm 1968, ở Ba Lan năm 1980 và ngay ở nước Nga Xô Viết những năm 90,
… một mặt là do âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch vốn
không bao giờ từ bỏ ý định tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản; mặt khác, đó là
những dấu hiệu của việc áp dụng cứng nhắc, duy nhất một mơ hình. Trong
lịch sử khơng có từ “nếu”, nhưng có thể giả thiết về một cách nhìn nhận, điều
chỉnh từ mơ hình, có lẽ các nước XHCN đã tránh được sự đổ vỡ đau đớn về
sau.
Dù kết quả điều chỉnh về sau có khác nhau, trào lưu cải tổ, đổi mới, cải
cách, … đã phản ánh một nhu cầu khách quan, giúp tháo dỡ một rào chắn to


4
lớn về nhận thức và tạo khơng khí thuận lợi cho việc phát triển công cuộc đổi
mới ở Việt Nam.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) cũng đang diễn ra những thay đổi

to lớn do tác động không thể cưỡng lại và phản ứng dây chuyền của cuộc cách
mạng khoa học – cơng nghệ: xu thế tồn cầu hóa, quốc tế hóa đời sống quốc
tế, sự hợp tác – phân cơng giữa các nước, các nền kinh tế, hình thành thị
trường quốc tế và khu vực; sự thay đổi cơ cấu kinh tế thế giới theo hướng mở,
sự thay bậc đổi ngôi giữa các ngành kinh tế, không phải lúc nào và ở đâu công
nghiệp nặng cũng là ưu tiên hàng đầu, sự ra đời và chiếm lĩnh vị thế của các
ngành mới: điện tử, tin học, vật liệu mới, công nghệ sinh học, du hành vũ trụ;
xu thế rút ngắn con đường phát triển với sự nổi lên của những nước công
nghiệp mới ở Châu Á. Thế giới đang đổi thay. Cuộc cách mạng khoa hoc kỹ
thuật và cơng nghệ, cùng xu thế tồn cầu hóa đặt Việt Nam cũng như nhiều
nước khác trên thế giới, đặc biệt là các nước XHCN đứng trước những thời cơ
và thách thức vô cùng to lớn. Nếu không đổi mới, cải cách mở cửa đề hòa
nhịp với xu thế chung của thời đại thì sẽ bị tụt hậu so với các nước TBCN.
1.1.2. Bối cảnh trong nước
Từ cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ kỷ XX, đất nước
ta đã lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội, thậm chí
có cả những dấu hiệu khủng hoảng về chính trị. Nhìn nhận dấu hiệu chính trị
trong cuộc khủng hoảng này mới có thể lý giải đầy đủ cơng cuộc đổi mới và
tính sâu sắc, tồn diện của nó, vì: Thứ nhất, Theo quy luật chung, không thể
tách rời mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị. V.I. Lênin từng
nhiều lần nhấn mạnh mối quan hệ hữu cơ giữa hai yếu tố này. Chính trị là
biểu hiện tập chung của kinh tế và kinh tế là biểu hiện tập chung của chính trị,
khơng thể có chính trị lành mạnh nến nền kinh tế ồm yếu và ngươc lại. Thứ
hai, sự phát triển lành mạnh, đúng hướng hay không của nền kinh tế - xã hội
tùy thuộc trước hết vào chủ chương, đường lối phát triển. Đại hội Đảng lần


5
thứ VI (1986) cũng đã chỉ ra những khuyết điểm, sai lầm trong lãnh đạo, chỉ
đạo xây dựng CNXH của Đảng “là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về

chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện”. Đó là những khuyết điểm trong tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị. Thứ ba, nếu khơng có những yếu tố khủng hoảng thuộc về chính trị,
cơng cuộc đổi mới sẽ chỉ dừng ở đổi mới kinh tế - xã hội, sẽ khơng có q
trình kết hợp chặt chẽ và ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới tổ chức và
hoạt động của hệ thống chính trị trong q trình tiếp theo. Thứ tư, có đánh giá
đúng mức thời điểm nguy hiểm đã qua, mới có thể hình dung đúng đắn rằng:
nếu khơng có dự trữ năng lực rồi rào và khơng có bản lĩnh chính trị kiên định
vững vàng, Đảng và nhân dân ta không thể phát động và thực hiện công cuộc
đổi mới, đưa đất nước vượt lên khủng hoảng.
Sai lầm của ta trước tiên trong sự nôn nóng tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội, ở việc đề ra phương châm tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách duy ý trí:
nhanh, mạnh, vững chắc… Vì vậy, khi thực hiện đã khơng tn thủ tính trình
tự lịch sử, dẫn đến “vi phạm quy luật khách quan”. Bên cạnh đó, nền kinh tế
hiện vật lại đặt dưới sự quản lí kiểu hành chính, tập chung, quan liêu bao cấp
của Nhà nước. Sai lầm của chúng ta còn thể hiện ở việc đặt ra trong các kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước với nhiều chỉ tiêu, mục tiêu
quá lớn, quá cao so với khả năng của đất nước, và ở việc mong muốn thực
hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta đang ở
những chặng đường đầu tiên. Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai
lầm đó trước tiên là những sai lầm trong chính sách kinh tế, là “bệnh chủ quan
duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, là khuynh hướng
bng lỏng trong quản lí kinh tế - xã hội…”. Đó là khuynh hướng biểu hiện
của tư tưởng vừa “tả khuynh” vừa “hữu khuynh”.
Từ sau Đại hội Đảng IV (1976) đến Đại hội Đảng V (1982), dù có
những bổ xung và điều chỉnh, nhưng quan niệm về CNXH và cách thức xây


6
dựng nó về cơ bản vẫn là sự kéo dài mơ hình đã áp dụng trong những năm

1954 – 1975 ở miền Bắc. Hơn nữa, việc phổ biến mơ hình này ra cả nước tỏ
ra khơng thích hợp vì điều kiện kinh tế - xã hội Miền Nam không giống
những điều kiện lịch sử của miền Bắc sau năm 1954. Ít nhất nền kinh tế hàng
hóa và thói quen sản xuất hàng hóa cùng những quan hệ quốc tế của kinh tế
miền Nam đã khá phát triển, khó chấp nhận việc quay trở lại nền kinh tế hiện
vật, đóng kín đã áp dụng ở miền Bắc. Chính điều này giải thích vì sao cuộc
cải tạo quan hệ sản xuất ở miền nam đã không đạt kết quả như ở miền Bắc
những năm 1958 – 1960.
Những sai lầm đó đã gây nên và làm trầm trọng thêm tình trạng khủng
hoảng kinh tế xã hội, khơng phát huy đầy dủ tính chủ động, sáng tạo của quần
chúng, không tạo ra được động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển năng động
của kinh tế - xã hội. Để khắc phục sai lầm khuyết điểm, đưa đất nước vượt
qua khủng hoảng và đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng XHCN tiến lên, đòi hỏi
Đảng và Nhà nước ta phải đổi mới.
1.2.

Nội dung của công cuộc đổi mới từ 1986 – 2016

1.2.1. Nội dung đổi mới kinh tế
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam họp
tại thủ đô Hà Nội từ ngày 15 – 18 tháng 12 năm 1986. Về dự đại hội có 1029
đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên của cả nước, 35 đoàn đại biểu
các Đảng anh em, các tổ chức cách mạng và bè bạn khắp năm châu. Đại hội
đã nghe đồng chí Nguyễn Văn Linh, ủy viên bộ chính trị BCHTW Đảng đọc
diễn văn khai mạc đại hội. Đồng chí Trường Chinh, tổng bí thư BTCTW
Đảng khóa V đọc báo cáo phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế,
xã hội trong 5 năm (1986 – 1990).
Thực hiện đa dạng hố các loại hình sở hữu và chính sách phát triển
kinh tế nhiều thành phần là một chủ trương có tính chiến lược lâu dài nhằm



7
huy động mọi tiềm năng, mọi nguồn lực của mọi tầng lớp nhân dân, mọi
thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển. Nhà nước ban hành hệ thống luật
pháp tạo hành lang pháp lý cho sự hoạt đông của các thành phần kinh tế. Ban
hành hệ thống các chính sách cải cách khu vực kinh tế nhà nước (khoán, bán,
cho thuê…); cải cách khu vực kinh tư nhân và
khu vực có vốn đầu tư nước ngồi. Trong nền kinh tế nhiều thành phần,
kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo.
Điều chỉnh cơ cấu các ngành kinh tế. Đây thực chất là sự cụ thể hoá
đường lối CN hoá ở VN, được thể hiện qua 3 kì đại hội. Đại hội VI: Tập trung
thực hiện 3 chương trình kinh tế mục tiêu: lương thực- thực phẩm, hang tiêu
dung và hang xuất khẩu. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư. Đại hội
VII: Nâng cao hiệu quả 3 chương trình kinh tế mục tiêu; gắn CN hố với hiện
đại hoá để tránh nguy cơ tụt hậu trong phát triển. Đại hội VIII: Đẩy mạnh CN
hoá, hiện đại hoá.
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xoá bỏ cơ chế kế hoạch hố tập trung
quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng XHCN: Đổi mới các công cụ và chính sách quản lý kinh tế
của nhà nước, cải tiến cơng tác kế hoạch hố, xố bỏ bao cấp, tự do hố giá
cả, khơi phục các quan hệ hang hố, tiền tệ, đổi mới chính sách tài chính, tiền
tệ; Tạo lập và từng bước hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường: thị trường
hàng hoá dịch vụ, thị trường lao động, thi trường vốn…; kiện toàn và nâng
cao năng lực, hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước.
Thực hiện chính sách mở cửa, đa dạng hố, đa phương hoá các hoạt
động kinh tế đối ngoại: Cải cách ngoại thương, xoá bỏ nguyên tắc nhà nước
độc quyền ngoại thương, cho phép mọi thành phần kinh tế được phép kinh
doanh xuất nhập khẩu, cải cách chính sách tỉ giá; Tạo điều kiện thuận lợi để
tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là đầu tư trực tiếp FDI, ban



8
hành và sửa đổi bổ sung luật đầu tư nước ngồi, tạo mơi trường kinh doanh,
đầu tư thuận lợi. Chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.2. Nội dung đổi mới chính trị
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Củng cố sức mạnh của hệ thống chính trị. Đại hội VI của Đảng đặt ra yêu cầu
xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền, tăng
cường sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo và năng lực tổ chức thực tiễn, đổi mới
phong cách làm việc, đi sâu, đi sát thực tế, sát cơ sở, gắn bó với nhân dân.
Nâng cao trình độ trí tuệ, nắm bắt và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan,
hiểu biết sâu sắc những vấn đề kinh tế, xã hội. Từ HNTW3 khoá VII (61992), đặc biệt từ HNTW6 (lần 2) khóa VIII (1-1999) Đảng đẩy mạnh nhiệm
vụ xây dựng chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Đại hội VI của Đảng đã xác định rõ chức năng quản lý nhà nước về
kinh tế – xã hội của bộ máy Nhà nước, nghĩa là, Nhà nước thông qua hệ thống
pháp luật và chính sách để điều hành, quản lý nền kinh tế – xã hội ở tầm vĩ
mô. Từ sau Đại hội VII, đặc biệt là HNTW8 khoá VII (1-1995), HNTW3
khoá VIII (6-1997) đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Quan điểm cơ bản là: quyền lực Nhà nước là thống nhất, song có sự
phân cơng và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ Quốc hội khoá VIII (1987), khoá IX
(1992), khoá X (1997) và khoá XI (2002) hoạt động của Quốc hội ngày càng
đổi mới và thực hiện có hiệu quả các chức năng lập pháp, quyết định những
vấn đề quan trọng của đất nước và quyền giám sát tối cao.


9

Từng bước đẩy mạnh công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước cả
về chức năng, cơ chế vận hành, quản lý, tổ chức bộ máy và đội ngũ công
chức. Bộ máy và hoạt động tư pháp được củng cố và tăng cường. Cùng với
việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhiệm vụ xây dựng hoàn thiện Nhà nước là
những nội dung quan trọng về đổi mới hệ thống chính trị và có ý nghĩa quyết
định đến tồn bộ tiến trình của sự nghiệp đổi mới.
1.2.3. Nội dung đổi mới về nhận thức, tư duy lý luận và lãnh đạo
Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã nhận thức rằng, từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội phải trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan
và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế xã hội của
mỗi nước. “Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ
một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương
nhiên phải lâu dài và rất khó khăn”.
Đại hội IX (4-2001) tổng kết 15 năm đổi mới, khẳng định: “Xây dựng
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất
của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho
nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”.
Trong hàng loạt các quy luật khách quan, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
nhận thức rõ hơn quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất, sửa chữa sai lầm trước đó là là đã đưa quan
hệ sản xuất đi quá nhanh, quá xa trong khi lực lượng sản xuất còn rất lạc hậu,
tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất thông qua thực hiện cách
mạng khoa học – công nghệ, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hóa, từ đó
điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp.


10
Các quy luật vận động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất

là các quy luật kinh tế đã từng bước nhận thức và vận dụng đúng đắn và có
hiệu quả hơn. Khi quyết định đường lối đổi mới ở Đại hội VI Đảng ta đã
nghiêm túc chỉ ra rằng, cuộc sống cho ta một bài học thấm thía là khơng thể
nóng vội làm trái quy luật.


11
Chương 2: Thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới từ 1986 – 2016
2.1.

Thành tựu của công cuộc đổi mới từ 1986 – 2016

2.1.1. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Bước vào công cuộc đổi mới, Đảng xác định phải đổi mới tư duy, trước
hết là tư duy kinh tế. Đảng ta đã quyết định từ bỏ mơ hình tập trung bao cấp,
chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
coi đó là mơ hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ, với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức
phân phối. Từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập mơi trường cạnh tranh, bình đẳng, thúc đẩy cơ
cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mơ,
giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung
tâm; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển
kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp
lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp,
nôngnghiệp, dịch vụ, coi trọng phát triển các ngành cơng nghiệp nặng, cơng
nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành cơng nghiệp có lợi thế; phát
triển nơng, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ cơng nghệ cao, chất lượng

cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới . Bảo đảm phát
triển hài hòa giữa các vùng miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế
trọng điểm, đồng thời, tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn,
vùng sâu, vùng xa. Xây dựng nền kinh tế độ lập, tự chủ, đồng thời chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhờ có đường lối phát triển kinh tế đúng đắn và giải pháp phù hợp,
trong gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu phát triển


12
kinh tế gây ấn tượng, được thế giới đánh giá cao, sức mạnh kinh tế của đất
nước tăng lên nhiều. Sau 10 năm đổi mới (1996) đất nước đã thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế- xã hội; sau 25 năm đổi mới (năm 2010) đất nước đã ra khỏi
tình trạng nước nghèo kém phát triển, bước vào nhóm nước có thu nhập trung
bình. Trong giai đoạn 2001- 2010, kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình
quân 7,26%/năm. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá thực
tế đạt 101,6 tỷ USD gấp 3,26 lần so với năm 2000, năm 2011 khoảng 170 tỷ
USD. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1168 USD, năm 2014 ước tính
khoảng 1900 USD/ người. Trong 5 năm 2011-2015, do sự tác động của khủng
hoảng tài chính thê giới, suy thối kinh tế tồn cầu nên nền kinh tế Việt Nam
gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng GDP bị giảm sút. Tuy vậy, tốc độ tăng GDP
bình quân vẫn ở mức khá, ước đạt 5,8%. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) trong 5 năm 2006-2010 đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77,8% so với kế
hoạch đề ra. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấn hớn 1,3 lần so
với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 17,5%. Cơ
cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỷ
trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng lên, khu vực nông nghiệp giảm
xuống. Năm 2010, trong cơ cấu GDP, khu vực công nghiệp chiếm 41,1%, khu
vực dịch vụ chiếm 38,3%, khu vực nông nghiệp chiếm 20,6%. Kết cấu hạ
tầng ngày càng được xây dựng hiện đại, đồng bộ; nguồn nhân lực qua đào tạo

ngày càng tăng lên (năm 2013 là 49%), đời sống nhân dân ngày càng được cải
thiện.
2.1.2. Phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội
Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) ra Nghị quyết về "Xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", với 5 quan
điểm cơ bản là: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa
là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội; nền văn hóa mà chúng ta đang
xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nền văn hóa Việt


13
Nam là nền văn hóa thống nhất, đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của tồn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng; văn hóa là một mặt trận,
xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp cách mạng lâu dài, địi hỏi phải
có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. Đại hội X của Đảng tiếp tục
khẳng định một luận điểm bao trùm: phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của
xã hội, là một trong những nhiệm vụ lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta trong những năm trước mắt.
Đảng ta đã quan tâm phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công
nghệ, coi phát triển giáo dục, đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc
sách hàng đầu. Tiến hành đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo thực
hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào
tạo ở các cấp học và ngành học. Mở rộng giáo dục mầm non 5 tuổi. Thực hiện
phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Phát triể mạnh dạy nghề và giáo
dục chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Phát triển khoa học công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá
trình phát triển nhanh và bền vững, góp phần tăng nhanh năng suất, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; nâng tỷ lệ đóng góp của yếu
tố năng suất tổng hợp (TFT) vào tăng trưởng. Thực hiện đồng bộ 3 nhiệm vụ

chủ yếu: Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý;
đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng. Trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa
học, công nghệ từng bước phát triển kinh tế tri thức theo một số lộ trình hợp
lý.
Trong những năm đổi mới, Việt Nam đã rất quan tâm thực hiện các
chính sác xã hội vì hạnh phúc của con người, coi đây là thể hiện tính ưu việt,
bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa và cũng là khắc phục mặt trái của cơ chế
kinh tế thị trường. Chính sách xã hội bảo đảm và không ngững nâng cao đời
sống vật chất của mọi thành viên xã hội về ăn, ở, đi lại, lao động, học tập,


14
nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất. Mỗi năm tạo bình quân 1,5 đến
1,6 triệu việc làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Xây dựng và triển khai Luật
Việc làm; nghiên cứu xây dựng chương trình việc làm cơng.
Trong gần 30 năm đổi mới, chính sách nhất qn cuả Đảng và Nhà
nước là giảm nghèo bền vững đi đơi với khuyến khích làm giàu hợp pháp,
chính đáng; chú trọng các chính sách giảm nghèo đối với các huyện nghèo, ưu
tiên người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước gỉam
bình quân 1,5-2%/ năm. Năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ 60%
trước đổi mới xuống còn 9,5%, năm 2013 còn 7,5%, phấn đấu đến năm 2015
còn dưới 5%. Thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam được Liên Hiệp quốc
công nhận và đánh giá cao.
Cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, hệ thống cơ sở
và dịch vụ y tế được hình thành rộng khắp trong cả nước; số bác sĩ, số giường
bệnh trên một vạn dân tăng nhanh. Chính sách ưu đãi người có cơng với cách
mạng được đặc biệt quan tâm. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã
hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả; phát triển mạnh hệ thống các
loại hình bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai
nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để

người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm; mở rộng các hình
thức cứu trợ xã hội; bảo đảm cung ứng một số dịch vụ xã hội cơ bản cho
người dân, nhất là cho người nghèo, người có hồn cảnh khó khăn và đồng
bào dân tộc thiểu số.
2.1.3. Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của Việt Nam
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm
1991 đã phác họa mơ hình CNXH mà nhân dân ta xây dựng với sáu đặc
trưng. Ðại hội lần thứ X bổ sung, phát triển, làm cho mơ hình CNXH đang


15
được xây dựng ở nước ta toàn diện hơn, hoàn chỉnh hơn. Ðó là: "Xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển
cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, pháttriểntoàn diện; các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
nhân dân các nước trên thế giới".
Lãnh đạo công cuộc đổi mới, nhận thức của Ðảng về con đường quá độ
lên CNXH của nước ta có những đổi mới sâu sắc. Nếu trước đây thường nói,
nước ta quá độ lên CNXH "bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa", thì
từ Ðại hội lần thứ IX trong các văn kiện chính thức của Ðảng, Nhà nước diễn
đạt là: Nước ta quá độ lên CNXH "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa". Việc "bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa" được giải thích rõ về hai phương diện: Thứ nhất,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN) là "bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị

của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa". Thứ hai,
trong khi bỏ qua những mặt đó, cần "tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện
đại".
Trong quá trình đổi mới, nhờ nắm vững, vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát tình hình thực tiễn
thế giới và trong nước, từng bước tổng kết thực tiễn khái quát lý luận, khắc
phục những quan điểm ấu trĩ, giáo điều, cực đoan, duy ý chí và bảo thủ, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã nâng cao nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, về con


16
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Qua gần 30 năm đổi mới với 6
nhiệm kỳ đại hội Đảng, mỗi kỳ đại hội đánh dấu một bước tiến rõ rệt trong
nhận thức lý luận của Đảng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng,
an ninh, đối ngoại… trên con đường đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Những thành tựu lý luận về chủ nghĩa xã hội, về xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam được thể hiện tập trung trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá đội lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã xác định tám đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân
dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; cón nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh
đạo; có quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trên thế giới”. Cương lĩnh
cũng xác định tám phương hướng cơ bản và tám mối quan hệ lớn cần phải đặc
biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt. Có thể coi đó là đường lối chung để

xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.1.4. Tăng cường mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế
Đảng đã thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới.


17
Nhờ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế bằng những chính sách phù
hợp nên Việt Nam đã phát huy được nội lực, tranh thủ ngoại lực, tiếp thu
những thành tựu về khoa học, công nghệ, về kinh tế trí thức, kinh nghiệm
quốc tế, văn minh của nhân loại… để phát triển, hiện đại hóa lực lượng sản
xuất, xây dựng đất nước.
Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều
chủ trương, chính sách, biện pháp để tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế,
tham gia các quan hệ song phương và tổ chức đa phương như ASEAN, APEC,
ASEM, WTO, Liên minh châu Âu, TPP… thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước
ngoài (FDI, ODA), xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường
xuất nhập khẩu, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực
về vốn, khoa học-cơng nghệ, trình độ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 170 nước (trong
đó xác lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước), quan hệ thương mại với
230 nước và vùng lãnh thổ, ký trên 90 hiệp định thương mại song phương,
gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Hội nhập quốc tế của Việt
Nam ngày càng sâu rộng, vị thế và uy tín quốc tế của Việt nam ngày càng
được nâng lên. Thế giới đến nay đã có 59 quốc gia cơng nhận nền kinh tế Việt

Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt
Nam.
2.1.5. Tăng cường xây dựng Đảng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
Đảng tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ
một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn đổi mới; tăng cường
cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng, khắc phực suy thối về tư tưởng chính
trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; đấu tranh chống âm


18
mưu và hoạt động “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch. Tổ chức việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong Đảng và nhân
dân. Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính
trị theo hướng xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm
từng tổ chức, sáp nhập một số ban, bộ, ngành Trung ương để giảm bớt đầu
mối, thực hiện cải cách hành chính trong Đảng, phát huy dân chủ trong sinh
hoạt Đảng.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ đồng bộ các khâu của công tác cán bộ (đánh
giá, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng và
chính sách cán bộ). Đổi mới và tăng cường công tác dân vận; nâng cao hiệu
quả công tác kiểm tra, giám sát, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị- xã hội.
Việt Nam đã đẩy mạnh việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; khẳng định nguyên tắc quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng; phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp;
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bằng pháp luật. Hoàn thiện thể chế, chức

năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện tổ chức và nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Đảng xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
2.2.

Hạn chế của công cuộc đổi mới 1986 – 2016

Trong gần 30 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được,
Việt nam cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhận thức lý luận về chủ nghĩa


19
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam còn một số vấn đề
chưa rõ, chưa sâu sắc hoặc chưa cụ thể.
2.2.1. Hạn chế về kinh tế
Trong những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, song kinh tế
phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, chưa thật sự bền
vững, đặc biệt trong 10 năm gần đây. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao
động và năng lực cạnh tranh quốc gia của nền kinh tế còn thấp. Thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hồn thiện, hệ thống thị
trường hình thành và phát triển chưa đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực còn
nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ và hiện đại đang cản trở sự phát
triển; việc tạo nền tảng để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại cịn chậm và gặp nhiều khó khăn.
Những yếu tố đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường chưa được chú ý đúng mức. Một số tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp
nhad nước kinh doanh thua lỗ, gây bức xúc trong xã hội. Chỉ đạo đổi mới và
phát triển kinh tế tập thể, các nông, lâm trường quốc doanh chậm, lúng túng.

Chất lượng xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển một số ngành, vùng,
nhất là quy hoạch sử dụng đất đai tài ngun khống sản cịn yếu, gây lãng
phí, thất thốt lớn. Quản lý thị trường nhất là thị trường bất động sản, thị
trường tài chính có lúc cịn lúng túng, sơ hở, thiếu chặt chẽ dẫn đến tình trạng
đầu cơ, làn giàu bất chính cho một số người; chính sách phân phối cịn bất
hợp lý.
2.2.2. Hạn chế về văn hóa – xã hội
Văn hóa phát triển chưa tương xứng với phát triển kinh tế. Quản lý văn
hóa, văn nghệ, báo chí xuất bản cịn thiếu chặt chẽ. Mơi trường văn hóa bị
xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục. Các tệ nạn xã


20
hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy
đồi đạo đức.
Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển,
nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cịn hạn chế. Cơ cấu giáo dục
khơng hợp lệ giữa các lĩnh vực, ngành, nghề đào tạo. Quản lý nhà nước về
giáo dục còn bất cập. Xu hướng thương mại hóa và sa sút đạo đức trong giáo
dục khắc phục cịn chậm, hiệu quả thấp.
Tình trạng thiếu việc làm cịn cao. Chính sách tiền lương, thu nhập
chưa động viên được cán bộ, công chức, người lao động gắn bó, tận tâm với
cơng việc. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở miền núi, vùng sâu,
vùng xa cịn nhiều khó khăn. Xóa đói giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng
tái nghèo cao. Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo khá lớn và ngày càn dãn
ra. Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cịn thấp. Vệ sinh an tồn thực phẩm
chưa được kiểm sốt chặt chẽ. Môi trường ở nhiều nơi vẫn tiếp tục xuống cấp,
một số nơi đã đến mức báo động. Việc thực hiện chính sách xã hội hóa chưa
được đẩy mạnh.
2.2.3. Hạn chế về chính trị

Cơng tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm
rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn,
cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước. Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của cơng
tác tư tưởng cịn hạn chế, đấu trah chống âm mưu, thủ đoạn. Tình trạng suy
thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội cịn có một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ.
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa
thực sự đi vào chiều sâu, ở một số nơi cịn mang tính hình thức, hiệu quả chưa


21
cao, làm the chưa đạt yêu cầu. Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu tồn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn
biến phức tạp như tham nhũng, lãng phí, “diễn biến hịa bình” của các thế lực
thù địch với những thủ đoạn mới, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong bộ; niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ
có mặt bị giảm sút.
Tổ chức của một số cơ quan đảng, nhà nước và tổ chức chính trị - xã
hội chưa thực sự tinh gọn, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ chưa
rõ ràng. Việc đổi mới công tác cán bộ cịn chậm; thiếu cơ chế, chính sách cụ
thể để thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát hiện và sử dụng
người tài; chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ
nhiệm, miễn hiệm, từ chức đối với cán bộ. Tình trạng chạy chức chạy quyền,
chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương chưa được khắc phục. chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ cịn thấp. Mơi trường làm việc, chính sách cán bộ chưa
tạo được động lực để thu hút, khuyến khích, phát huy năng lực, sự cống hiến
của cán bộ. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của khơng ít tổ chức đảng còn
thấp. Việc xử lý, sử dụng và quản lý cán bộ, đảng viên có vấn đề lịch sử chính

trị cịn phiến diện, thiếu chặt chẽ.
2.2.4. Một số hạn chế trong công tác đối ngoại
Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về đối ngoại có mặt cịn hạn
chế. Sự phối hợp giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao
nhân dân, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa đối ngoại chưa đồng
bộ. Chưa có giải pháp đồng bộ, hữu hiệu để hạn chế các tác động tiêu cực
trong quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Trong nhận thức và chỉ đạo thực
tiễn có lúc chưa theo kịp những chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình
thế giới và khu vực. Sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các địa phương cịn
thiếu chặt chẽ. Cơng tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình cịn hạn chế.
Việc triển khai đường lối và chính sách đối ngoại trong thực tiễn vẫn chưa


22
mạnh mẽ, đồng bộ và toàn diện. Việc tạo đan xen lợi ích, đưa quan hệ đi vào
chiều sâu, xây dựng các khuôn khổ quan hệ thực chất và hiệu quả, triển khai
các thỏa thuận đã ký kết thực chất, tham gia và tận dụng các thể chế đa
phương, nhất là ASEAN để bảo vệ tốt hơn lợi ích của Việt Nam vẫn còn chưa
được như mong muốn. Sự tham gia của các bộ ngành và địa phương vào công
tác đối ngoại còn chưa đồng đều.
2.2.5. Hạn chế trong việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa
Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp
luật còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa hợp lý, biên chế cán
bộ, công chức tăng thêm; chức năng, nhiệm vụ ở một số cơ quan chưa đủ rõ
ràng, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách hành chính
chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính cịn gây phiền hà cho tổ chức và
công dân. Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trên một số
lĩnh vực yếu; phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm sốt; trật tự, kỷ

cương xã hội khơng nghiêm. Cải cách tư pháp cịn chậm, chưa đồng bộ. Cơng
tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác,
án tổn đọng, án bị hủy, bị cải sửa còn nhiều.
Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một ố lĩnh vực còn bị
vi phạm. Việc thực hành dân chủ cịn mang tính hình thức; có tình trạng lợi
dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến
trật tự, an toàn xã hội. Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết dân
tộc, về quyền và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được thể chế
đầy đủ thành pháp luật; hoặc đã thể chế hóa nhưng chưa được thực hiện
nghiêm túc; cơng tác kiểm tra, đôn đốc chưa thường xuyên; giữa chủ trương
và tổ chức thực hiện còn cách biệt. Việc tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu
hút nhân dân tham gia các phong trào, cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc,


23
các đồn thể nhân dân cịn hạn chế. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở.


24
Chương 3: Những vấn đề đặt ra từ công cuộc đổi mới và bài học kinh
nghiệm sau 30 năm đổi mới.
3.1.

Những vấn đề đặt ra từ công cuộc đổi mới

Đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, Việt Nam phải
trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều chặng đường phát
triển. Cho đến nay, Việt Nam đã hoàn thành chặng đường đầu tiên và đang
trong chặng đường tiếp theo là đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa để tạo

nền tảng sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước cơng nghiệp theo
hướng hiện đại. Chỉ có đẩy mạnh nghiên cứu lý luận - thực tiễn để giải đáp
những câu hỏi đó một cách có căn cứ khoa học thì mới có chính sách cho
từng chặng đường và cho cả thời kỳ quá độ, phòng ngừa và khắc phục tư duiy
giản đơn, chủ quan nóng vội trong lãnh đạo, quản lý đem mục tiêu xa áp đặt
cho mục tiêu gần.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần được xây dựng
theo yêu cầu nền kinh tế thị trường hiện đại. Cần nghiên cứu làm sáng tỏ hơn
việc tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa. Cần tiếp tục nghiên cứu vai trò của kinh tế Nhà nước, nhất là
các doanh nghiệp nhà nước, những giải pháp để kinh tế nhà nước thực sự
đóng góp vai trị chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân; những giải pháp củng cố
và phát triển kinh tế tập thể. Nhà nước cần đổi mới, bổ sung cơ chế, chính
sách nhất là thể chế pháp luật để bảo đảm sự bình đăng thực sự của kinh tế tư
nhân với các thành phần kinh tế khác, phát huy mạnh mẽ hơn vai trò động lực
của kinh tế tư nhân.
Cần nghiên cứu làm rõ mơ hình xã hội Việt Nam hướng đến là mơ hình
xã hội đồn kết, đồng thn, hài hịa, xây dựng một cộng đồng xã hội văn
minh, trong đó tầng lớp trung lưu sẽ ngày càng chiếm số động trong xã hội.
Chủ động quản lý phân tầng xã hội, quản trị sự biến đổi xã hội, có chính sách


25
kinh tế, xã hội, văn hóa đồng bộ để cải thiện điều kiệnsống của nhân dân, chủ
động xây dựng cơ cấu xã hội hợp lý trên cơ sở phát huy khối đại đồn kết
tồn dân tộc.
Hiện nay, đổi mới chính trị (tư duy chính trị và tổ chức hoạt động của
hệ thống chính trị) cịn chậm hơn so với đổi mới kinh tế. Vì vậy phải đẩy
mạnh đổi mới chính trị cho đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế, tập trung
vào đổi mới thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách, phương thức huy động và

phân bổ nguồn lực, kiểm soát quyền lực và phát huy các động lực của phát
triển.
Để định hướng đúng đắn cho việc xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, phát huy
truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong giai đoạn mới, cần đẩy mạnh nghiên
cứu xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam. Cần nghiên cứu làm
rõ hơn các tiêu chí về tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhân văn, dân chủ,
khoa học. Tiếp tục nghiên cứu những tiêu chí cụ thể của con người có nhân
cách, lối sống tốt đẹp với các đặc tính cơ bản: u nước, nhân ái, nghĩa tình,
trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Cần tiếp tục làm sáng tỏ lý luận về đảng cầm quyền trong điều kiện
một đảng để thực sự đổi mới trong thực tiễn về nội dung cầm quyền, phương
thức cầm quyền, mơ hình cầm quyền, các điều kiện để cầm quyền bền vững,
hiệu quả. Cần nghiên cứu những giải pháp có hiệu quả để chống suy thối
trong Đảng, phịng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ.
Để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, cần phải phát huy mạnh mẽ
các động lực. Muốn vậy phải nghiên cứu sâu lý luận về động lực và hệ động
lực phát triển, đặc biệt nhận thức đúng và xử lý tốt các động lực như lợi ích,
dân chủ, đoàn kết yêu nước, phát huy nhân tố con người… Các động lực đó
tác động lẫn nhau, tạo thành động lực tổng hợp thúc đẩycông cuộc đổi mới


×