Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

TL LSDCSVN vai trò của nguyễn ái quốc trong việc thành lập đảng cộng sản việt nam nhiệm vụ của sinh viên với việc xây dựng đảng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.3 KB, 30 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1.

Lý do lựa chọn đề tài tiểu luận
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3 tháng 2 năm
1930 phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và địi hỏi
của cơng cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Sự
ra đời của Đảng cũng gắn liền với tên tuổi của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc - người đã tìm ra con đường cứu nước cho cách mạng
Việt Nam, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nước,
chuẩn bị tích cực các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự
ra đời của Đảng, đồng thời chủ trì việc hợp nhất các tổ chức
cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng cộng sản
Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc với trí tuệ thiên tài và kinh nghiệm
thực tiễn phong phú đã tiến hành những bước đi thận trọng,
đúng đắn, vận dụng những di huấn của V.I.Lenin một cách
sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế của Việt
Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đáp ứng kịp thời đòi
hỏi của lịch sử, chấm dứt tình trạng khủng hoảng về giai cấp
lãnh đạo và đường lối cứu nước kéo dài suốt nửa cuối thế kỷ
XIX đến ba thập niên đầu thế kỷ XX. Cách mạng Việt Nam từ
đây có cương lĩnh đúng đắn với việc xác định mục tiêu chiến
lược, lực lượng và phương pháp cách mạng rõ ràng; có đội
tiền phong lãnh đạo mang bản chất cách mạng của giai cấp
công nhân và tiêu biểu cho phong trào dân tộc, quyết tâm
lãnh đạo toàn dân giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc để
tiến tới xã hội cộng sản. Bới vậy, em đã chọn “Vai trò của
Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt



2


Nam. Nhiệm vụ của sinh viên với việc xây dựng Đảng hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu.
2.

Kết cấu của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
tiểu luận gồm 3 chương và 8 tiết.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1 Tư tưởng của Mác và Ăng – ghen về đảng cộng sản

C.Mác, Ph.Ăng-ghen hai nhà lãnh tụ thiên tài của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế; những người đầu tiên
nêu lên tư tưởng cơ bản về tổ chức và hoạt động của đảng
cộng sản. Hai ông đã trực tiếp tham gia vào phong trào công
nhân để giác ngộ và từng bước xây dựng tổ chức cộng sản
đầu tiên của giai cấp vô sản. Trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản, các ơng có những cống hiến trong việc nêu ra và lý
giải về tính tất yếu khách quan phải thành lập đảng của giai
cấp công nhân; quy luật ra đời của Đảng; nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của chính đảng cách mạng của giai cấp cơng
nhân. Một số quan điểm mang tính nguyên tắc về Đảng cộng

sản và xây dựng Đảng được Mác và Ăng – ghen nêu ra như
sau:
Một là, Đảng Cộng sản là một tổ chức độc lập mang bản
chất giai cấp công nhân. Tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăng-ghen về
Đảng Cộng sản là một tổ chức độc lập nghĩa là, Đảng Cộng
sản phải độc lập cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không bị
lệ thuộc vào giai cấp tư sản. Về bản chất, Đảng Cộng sản là
một tổ chức chính trị đối lập với các đảng phái chính trị tư sản
và giai cấp tư sản; trong quan hệ với giai cấp công nhân,
khơng phải là hội kín tách rời giai cấp mà là một bộ phận của
giai cấp, gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân và nhân dân
lao động; không đối lập với các đảng và các tổ chức khác của
4


giai cấp công nhân. Ngược lại, Đảng Cộng sản phải tích cực
hoạt động trong các tổ chức, phải đưa các tư tưởng của chủ
nghĩa xã hội khoa học vào trong các tổ chức đó, hướng hoạt
động của các tổ chức vào quỹ đạo của cách mạng vô sản.
Đồng thời, phải luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhân để giải quyết mọi vấn đề trong xây dựng và hoạt
động của Đảng. Cương lĩnh, chiến lược, sách lược của Đảng
phải ln xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động và phù hợp với thực tiễn của mỗi nước.
Hai là, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp,
đảng viên là những người ưu tú nhất trong giai cấp công
nhân. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đòi hỏi: Đảng phải khác các bộ
phận còn lại của giai cấp ở chỗ, Đảng là đội tiền phong của
giai cấp, được trang bị bằng lý luận tiên tiến, có trình độ giác
ngộ cao và trong thực tiễn Đảng là người kiên quyết nhất, biết

lôi cuốn quần chúng cùng hành động. C.Mác và Ph.Ăng-ghen
đã chỉ rõ: “Những người cộng sản chỉ khác với các đảng vô
sản khác trên hai điểm: một là, trong các cuộc đấu tranh của
những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên
hàng đầu và bảo vệ những lợi ích khơng phụ thuộc vào dân
tộc và chung cho tồn thể giai cấp vơ sản; hai là, trong các
giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư
sản, họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của tồn thể phong trào.
Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng sản là một bộ phận
kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước,
là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý
luận, họ hơn bộ phận cịn lại của giai cấp vơ sản ở chỗ là họ
hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của
5


phong trào vơ sản”. Như vậy, theo C.Mác và Ph.Ăng-ghen,
tính tiên phong của Đảng được thể hiện: Về mặt thực tiễn,
Đảng Cộng sản phải là bộ phận kiên quyết nhất của giai cấp
vô sản; về lý luận: những người cộng sản hơn bộ phận khác
cịn lại của giai cấp vơ sản ở chỗ họ hiểu rõ những điều kiện,
tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản. Một chính
đảng như thế, đương nhiên phải là đội tiên phong, lãnh tụ
chính trị và là bộ tham mưu chiến đấu, là hình thức tổ chức
cao nhất của giai cấp vơ sản. Đảng Cộng sản phải được trang
bị lý luận tiên phong và phải thực sự tiên phong về mặt lý
luận; lấy nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học làm nền
tảng tư tưởng, có như vậy mới xác định đúng đắn các vấn đề
trong lãnh đạo và xây dựng Đảng.
Ba là, về điều kiện, tiêu chuẩn người vào Đảng cũng

được C.Mác, Ph.Ăng-ghen đề cập cụ thể trong “Điều lệ của
Liên đồn những người cộng sản”. Đó là: những người có lối
sống và hoạt động phù hợp với mục đích của Đảng Cộng sản;
có nghị lực cách mạng và lịng nhiệt thành trong công tác
tuyên truyền; thừa nhận chủ nghĩa cộng sản; không tham gia
vào mọi tổ chức - tổ chức chính trị hoặc tổ chức dân tộc chống cộng sản và có nghĩa vụ báo cáo với cơ quan lãnh đạo
hữu quan về việc mình tham gia vào một tổ chức nào đó;
phục tùng các nghị quyết của Đảng; giữ bí mật mọi cơng việc
của Đảng; được một chi bộ nhất trí kết nạp. Với những điều
kiện, tiêu chuẩn như vậy, sẽ đảm bảo cho đội ngũ đảng viên
của Đảng thực sự là những người tiêu biểu, hơn hẳn quần
chúng ngoài Đảng cả về nhận thức, tư tưởng, hành động; đủ
sức lơi kéo, vận động, thuyết phục tồn thể giai cấp công
6


nhân và các tầng lớp lao động khác tham gia vào cuộc đấu
tranh chống lại giai cấp bóc lột.
Bớn là, Đảng phải được xây dựng trên những nguyên tắc
dân chủ triệt để, thường xuyên được củng cố vững chắc về tư
tưởng và tổ chức. Vấn đề này được C.Mác, Ph.Ăng-ghen nêu
rõ: “Các uỷ viên ban chấp hành khu bộ và Ban chấp hành
trung ương được bầu hàng năm, có quyền được bầu lại và có
thể bị những người bầu ra mình bãi miễn bất cứ lúc nào”,
hoặc: “Nếu Ban chấp hành trung ương thấy rằng việc thảo
luận một số vấn đề nào đó là mối quan tâm chung và trực
tiếp, thì có thể đưa những vấn đề ấy ra cho tồn thể Liên
đồn thảo luận”. Mọi đảng viên đều bình đẳng, được tự do
thảo luận những vấn đề sinh hoạt đảng, được tranh luận trong
khn khổ tính đảng; giúp đỡ lẫn nhau, thường xuyên nộp

đảng phí, người vi phạm Điều lệ Đảng sẽ bị khai trừ hoặc đình
chỉ sinh hoạt đảng; kiên quyết chống những phần tử vô tổ
chức, cơ hội, xét lại. Thực hiện tốt nguyên tắc trên, sẽ phát
huy đầy đủ trí tuệ của mọi đảng viên tham gia, đóng góp vào
các chủ trương, đường lối, chiến lược, sách lược của Đảng,
đảm bảo chặt chẽ, chính xác, phù hợp với điều kiện hồn
cảnh thực tiễn, có tính khả thi cao; nội bộ Đảng đồn kết,
thống nhất ý chí và hành động, hạn chế được các sai lầm,
thiếu sót. Đảng phải thường xuyên được củng cố vững chắc
về tư tưởng, cơ cấu tổ chức chặt chẽ, phù hợp với điều kiện và
thời gian hoạt động của Đảng ở tất cả các cấp, với những
nhiệm vụ mà Đảng phải giải quyết. Sự thống nhất về tư tưởng
và tổ chức của Đảng là khơng gì có thể phá vỡ nổi, có tính
chiến đấu cao và năng động trong hoạt động thực tiễn.
7


Năm là, chủ nghĩa quốc tế vô sản là một trong những
nguyên tắc căn bản của công tác xây dựng Đảng. Khẩu hiệu:
“Vơ sản tất cả các nước, đồn kết lại” trong “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản” đã trở thành phương châm hành động cho
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong cuộc đấu
tranh chống lại toàn bộ giai cấp tư sản bóc lột, nếu độc lập,
tách rời, khơng có sự đồn kết, thống nhất của các Đảng Cộng
sản và giai cấp vô sản tất cả các nước thì chắc chắn cuộc đấu
tranh đó khơng thể đi đến thắng lợi trọn vẹn, sẽ bị giai cấp tư
sản câu kết đàn áp, đè bẹp phong trào.
1.2 Học thuyết về chính đảng kiểu mới của V.I.Lênin

V.I.Lênin kế thừa và phát triển sáng tạo di sản tư tưởng

của C.Mác và Ph.Ăngghen, theo Lê nin, Đảng cộng sản là sản
phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác với phong trào công
nhân. Đây là sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn đấu tranh
cách mạng của giai cấp công nhân. Sự kết hợp này tạo cơ sở
vững chắc cho cả hai: "Chủ nghĩa Mác cần phong trào công
nhân với tư cách là lực lượng để thực hiện chủ nghĩa của mình
và phong trào công nhân cần chủ nghĩa Mác để soi đường,
dẫn lối đấu tranh".
Qua đó Lênin đã sáng tạo học thuyết về chính đảng kiểu
mới của giai cấp cơng nhân trong điều kiện chủ nghĩa tư bản
đã bước vào giai đoạn phát triển của chủ nghĩa đế quốc.
Chính những điều kiện lịch sử đó địi hỏi cấp bách tổ chức và
xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp cơng nhân. Những
nguyên tắc cơ bản của V.I.Lênin về Đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân bao gồm:
8


Một là, chủ nghĩa Mác là nền tảng, tư tưởng, là kim chỉ
nam cho mọi hoạt động của Đảng. V.I.Lênin viết: “Chủ nghĩa
Mác là lý luận của phong trào giải phóng của giai cấp vơ sản”
và đương nhiên nó tất yếu phải trở thành hệ tư tưởng của
Đảng Cộng sản. V.I.Lênin chứng minh rằng: nắm được lý luận
cách mạng thì giai cấp vơ sản và đội tiên phong của nó có
được vũ khí tư tưởng mạnh mẽ nhất, cịn bản thân lý luận khi
thông qua họ sẽ trở thành sức mạnh vật chất to lớn. Người chỉ
rõ: “Chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì
mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”. Bản
thân quy luật ra đời của Đảng Cộng sản là sự kết hợp giữa chủ
nghĩa Mác và phong trào công nhân. Quy định Đảng Cộng sản

phải lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động của mình. Đây là tiêu chuẩn cơ bản để xem
xét một đảng có phải là chính đảng mácxít hay không và là
tiêu chuẩn hàng đầu để xác định bản chất giai cấp công nhân
của Đảng.
Hai là, Đảng là một bộ phận của giai cấp công nhân, là
đội tiên phong chính trị có tổ chức và là tổ chức chặt chẽ
nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân. Kế thừa tư tưởng
của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin khẳng định: “Đảng phải là
đội tiền phong, là người lãnh đạo quảng đại quần chúng giai
cấp cơng nhân; tồn thể (hay hầu như tồn thể) giai cấp này
hành động dưới sự kiểm sốt và lãnh đạo của các tổ chức
đảng, nhưng họ không gia nhập tất cả và không được gia
nhập tất cả vào Đảng”. Đảng là của giai cấp, Đảng gắn liền,
không tách rời giai cấp, nhưng Đảng khơng phải là tồn bộ
giai cấp. Không được lẫn lộn giữa Đảng với giai cấp. Nếu lẫn
9


lộn Đảng với giai cấp có nghĩa là phủ nhận vai trò của Đảng là
đội tiền phong của giai cấp và trên thực tế là thủ tiêu Đảng,
V.I.Lênin chỉ ra rằng: “Không được lẫn lộn Đảng, tức là đội tiên
phong của giai cấp cơng nhân với tồn bộ giai cấp”.
Ba là, khi có chính quyền, Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ
thống chính trị của chủ nghĩa xã hội và là một bộ phận của hệ
thống đó. Khi đã giành được chính quyền, theo V.I.Lênin cuộc
đấu tranh giai cấp chưa chấm dứt, mà tiếp tục diễn ra dưới
những nội dung, hình thức và phương pháp mới. Để phối hợp
hành động và hướng hoạt động của cả hệ thống chính trị vào
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản,

theo V.I.Lênin “về nguyên tắc, Đảng Cộng sản phải giữ vai trị
lãnh đạo, đó là điều khơng cịn phải nghi ngờ gì nữa”. Muốn
vậy, theo V.I.Lênin, là bộ phận của hệ thống đó nên Đảng phải
là “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta”.
Bốn là, tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản
trong xây dựng tổ chức sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Nguyên tắc này bảo đảm phát huy tính tích cực và sáng tạo
của các tổ chức đảng và đảng viên đồng thời bảo đảm xây
dựng Đảng thành một tổ chức tập trung thống nhất có kỷ luật
nghiêm minh. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Các Đảng ra nhập quốc tế
cộng sản phải được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân
chủ. Trong thời kỳ nội chiến gay gắt hiện nay, Đảng cộng sản
chỉ có thể hồn thành nhiệm vụ của mình nếu Đảng được tổ
chức một cách tập trung nhất, nếu trong Đảng có một kỷ luật
sắt gần giống như kỷ luật quân sự và nếu Trung ương Đảng là

10


một cơ quan có uy tín mạnh mẽ có quyền lực rộng rãi được
toàn thể đảng viên tin cậy”.
Năm là, Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, tự phê bình và phê bình là quy luật phát
triển của Đảng. Đoàn kết thống nhất là quy luật trong xây
dựng và phát triển của Đảng, là nguồn sức mạnh vô tận của
Đảng, là điều kiện để đoàn kết giai cấp. Người dạy: “Đảng là
một khối tự nguyện, nếu như nó khơng tẩy sạch khỏi bản thân
nó những đảng viên tun truyền quan điểm chống đảng, thì
nó không thể tránh khỏi tan rã, trước tiên tan rã về tư tưởng,
sau sẽ tan rã cả về vật chất”.Để bảo đảm sự đồn kết thống

nhất trong Đảng ln ln được củng cố và phát triển, Đảng
phải có kỷ luật sắt, nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và
phê bình: “Thái độ của một chính Đảng trước những sai lầm
của mình là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và
chắc chắn nhất để xem xét Đảng ấy có nghiêm túc khơng, có
thực sự làm trịn nghĩa vụ của mình đối với giai cấp mình và
đối với quần chúng lao động khơng...”.
Sáu là, Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vào Đảng, phải
thường xuyên đưa những người không đủ tiêu chuẩn và những
phần tử cơ hội ra khỏi Đảng. Đảng là đội tiên phong, bộ tham
mưu chiến đấu của giai cấp cơng nhân, Đảng chỉ có thể làm
tròn được vai trò ấy một khi trong Đảng bao gồm những chiến
sĩ tiên phong. Tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động vào Đảng là biện pháp
quan trọng để cải thiện thành phần, chất lượng của Đảng, để
11


nâng cao uy tín và vai trị lãnh đạo của Đảng; đồng thời: “Phải
đuổi cổ ra khỏi Đảng những kẻ gian giảo, những đảng viên
cộng sản đã quan liêu hoá, không trung thực, nhu nhược”.
Bảy là, chủ nghĩa quốc tế vô sản là một trong những
nguyên tắc quan trọng của việc xây dựng tổ chức, hoạt động
của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa quốc tế
của giai cấp công nhân là bản chất của Đảng Cộng sản. Bản
chất đó bắt nguồn từ vai trị, sứ mệnh lịch sử tồn thế giới của
giai cấp cơng nhân. Do đó, V.I.Lênin khẳng định: “Khơng có sự
cố gắng tự nguyện tiến tới liên minh và sự thống nhất của giai
cấp vô sản, rồi sau nữa của toàn thể quần chúng cần lao

thuộc tất cả các nước và các dân tộc trên tồn thế giới, thì
khơng thể chiến thắng hồn tồn chủ nghĩa tư bản được”.
1.3 Tư tưởng Hồ Chí minh về Đảng Cộng sản Việt Nam

Khi tiếp thu quan điểm trên của Lênin, Hồ Chí Minh đã
khẳng định tính đúng đắn của nó, nhưng đồng thời cũng thấy
rằng luận điểm này chưa đề cập một cách cụ thể đến các
nước thuộc địa, nơi có phong trào yêu nước diễn ra mạnh mẽ
và chiếm ưu thế. Hồ Chí Minh bằng nhãn quan chính trị sắc
bén và sự hiểu biết sâu sắc về bản chất của chủ nghĩa Mác Lênin và yêu cầu của phong trào yêu nước nên đã thấy rằng,
ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin nếu chỉ kết hợp với phong
trào cơng nhân khơng thơi thì chưa đủ điều kiện hình thành
nên Đảng cộng sản mà cịn phải kết hợp với cả phong trào
yêu nước. Tức là chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ được truyền
bá vào phong trào cơng nhân mà cịn phải được truyền bá
rộng rãi vào các tầng lớp dân cư. Bởi vì phong trào yêu nước
12


thu hút được quần chúng đông đảo hơn, đa dạng hơn. Cơng
nhân ra đời từ nơng dân. Giữa họ có một kẻ thù chung trước
mắt là bọn đế quốc, thực dân. Bản thân Hồ Chí Minh ra đi tìm
đường cứu nước từ một người yêu nước, các lãnh tụ, các đảng
viên tiền bối của Đảng cộng sản Việt Nam cũng vậy. Sự kết
hợp này tạo cơ sở vững chắc cho cả ba cùng phát triển mà
trước hết là phong trào yêu nước, bởi nó giúp phong trào yêu
nước vượt qua giới hạn yêu nước truyền thống để trở thành
chủ nghĩa yêu nước mới: Yêu nước gắn với yêu chủ nghĩa xã
hội. Chính sự kết hợp ấy tạo ra sự bùng nổ về lịng u nước,
trí thơng minh, sự dũng cảm của mỗi người cách mạng, làm

cho phong trào yêu nước có sự chuyển biến về chất: yêu nước
là yêu chủ nghĩa xã hội, yêu chủ nghĩa xã hội, càng phải nâng
cao lòng yêu nước, yêu nhân dân.
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã
đi đến tổng kết: Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là sản
phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đây là sự đóng
góp to lớn của Hồ Chí Minh vào lý luận về Đảng cộng sản của
chủ nghĩa Mác – Lênin.

13


CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC
THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1 Bối cảnh lịch sử ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.1.1

Bối cảnh quốc tế
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn
tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế
quốc thực hiện chính sách: bên trong tăng cường bóc lột nhân
dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược và
áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ
nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao động trên thế giới
trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với
chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga,
chủ nghĩa Mác-Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra

một thời đại mới trong lịch sử loài người; là ánh sáng soi
đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời
đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai
trị quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.1.2 Bối cảnh trong nước
14


Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam,
từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của
chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.
Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ
chốt trong bộ máy nhà nước, thi hành chính sách cai trị
chuyên chế, biến một bộ phận của giai cấp tư sản mại bản và
địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực, tạo nên sự cấu kết
giữa chủ nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai, đặc trưng của
chế độ thuộc địa. Sự cai trị của chính quyền thuộc địa đã làm
cho nhân dân ta mất hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ;
mọi phong trào yêu nước bị đàn áp dã man; mọi ảnh hưởng
của các trào lưu tiến bộ từ bên ngoài vào đều bị ngăn cấm.
Về kinh tế, chúng triệt để khai thác Đông Dương vì lợi ích
của giai cấp tư sản Pháp, bóc lột tàn bạo nhân dân ta, thực
hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc
lập của nước ta. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, vơ
nhân đạo, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến... đẩy nhân
dân ta vào cảnh bần cùng, làm cho nền kinh tế bị kiệt quệ, lệ

thuộc vào kinh tế Pháp, để lại hậu quả nghiêm trọng, kéo dài.
Về văn hóa - xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu
dân, khuyến khích văn hố nơ dịch, sùng Pháp, nhằm kìm
hãm nhân dân ta trong vịng tăm tối, dốt nát, lạc hậu, phục
tùng sự cai trị của chúng.
Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp
đã làm cho xã hội Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai cấp
mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Nước ta từ
chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong
15


kiến. Trong xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược
và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với giai
cấp địa chủ phong kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị
và bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó có
quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc
ta với thực dân Pháp xâm lược là mâu thuẫn chủ yếu. Vì vậy,
nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống
địa chủ phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh
giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh địi quyền
dân sinh, dân chủ. Đó là u cầu của cách mạng Việt Nam đặt
ra, cần được giải quyết.
2.2 Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng
2.2.1

Tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam.
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục

con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh
niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh
sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới.
Với khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho
nước, Nguyễn Tất Thành đã bất chấp mọi nguy hiểm, gian
khổ, đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã
rút ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân
là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao
động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.

16


Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội
Pháp. Tháng 6 năm 1919, với tên mới là Nguyễn Ái Quốc,
Người thay mặt những người yêu nước Việt Nam gửi đến Hội
nghị Véc-xây Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm
địi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ
và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản “Sơ thảo
lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa” của Lênin đăng trên báo Nhân đạo và cũng chính
từ đây đã giải đáp cho Người con đường đấu tranh giành độc
lập tự do thực sự cho dân tộc, cho đồng bào mình.
Từ ngày 25 đến 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự
Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với tư cách đại biểu Đông
Dương. Kết thúc Đại hội ngày 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc
tán thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành một
trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và cũng là
người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.

Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt
động trong Đảng Cộng sản Pháp, nghiên cứu bổ sung và hồn
thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực chuẩn bị về tư tưởng,
chính trị và tổ chức, làm tiền đề cho việc thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam.

17


2.2.2

Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức để thành lập
Đảng.
Về tư tưởng, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam nhằm làm chuyển biến nhận
thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho
hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời
sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước
xích dần đến lập trường của giai cấp công nhân. Nội dung
truyền bá là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin được cụ thể hóa cho phù hợp với trình độ của các giai
tầng trong xã hội. Những bài viết, bài giảng với lời văn giản dị,
nội dung thiết thực đã nhanh chóng được truyền thụ đến quần
chúng. Đồng thời, Người đã vạch trần bản chất xấu xa, tội ác
của thực dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa, nhân dân Việt
Nam. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người tố cáo thực
dân Pháp đã bắt dân bản xứ phải đóng "thuế máu" cho chính
quốc... để "phơi thây trên chiến trường châu Âu"; "đày đọa"
phụ nữ, trẻ em thuộc địa; các thống sứ, quan lại thực dân
"độc ác như một bầy thú dữ" v.v... Tác phẩm đã "hướng các
dân tộc bị áp bức" đi theo con đường cách mạng Tháng

Mười Nga, tiêu diệt "hai cái vòi của con đỉa đế quốc" – một
"vịi" bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc, một "vịi" bám
vào nhân dân thuộc địa và đề ra cho dân Việt Nam con đường
cách mạng vơ sản theo chủ nghĩa Mác – Lênin.
Về chính trị, Người khẳng định con đường cách mạng của
các dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc và cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
18


chủ nghĩa cộng sản. Đường lối chính trị của Đảng cách mạng
phải hướng tới độc lập cho dân tộc tự do, hạnh phúc cho đồng
bào, xây dựng nhà nước mang lại quyền và lợi ích cho nhân
dân. Người xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa là 1 bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Trong các
nước nông nghiệp lạc hậu phải xây dựng khối liên minh công
nông làm động lực cách mạng. Năm 1927, những bài giảng
của người trong các lớp huấn luyện được in thành sách lấy tên
là Đường Kách mệnh. Tác phẩm chỉ ra vấn đề then chốt có tác
dụng lớn khơng chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa
Phương Đơng. Những vấn đề đó là: cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, chủ yếu là cơng nơng, vì vậy phải tổ chức
quần chúng lại; cách mạng muốn thành cơng phải có một
Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải có đường lối và phương pháp
cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ
chặt chẽ với cách mạng vô sản thế giới…
Về tổ chức, Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán
bộ, tháng 6 năm 1925 Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt
Nam cách mạng Thanh niên với nịng cốt là Cộng sản đồn, tổ

chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung Quốc,
đồng thời gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đơng
(Liên Xơ) và trường Lục qn Hồng Phố (Trung Quốc). Hội
xuất bản tờ báo Thanh niên, tuyên truyền Chủ nghĩa Mác –
Lênin, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự chuyển biến của phong
trào công nhân và phong trào yêu nước, là tiền thân của Đảng
Cộng sản Việt Nam.

19


Nhờ hoạt động không mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà đến cuối năm
1929, đầu năm 1930, những điều kiện cho sự ra đời của một
Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
2.2.3

Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam và thông qua Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng
Đáp ứng những địi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày
17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên
đã thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng tại Hà Nội. Tháng
11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của Hội Việt
Nam cách mạng Thanh niên quyết định thành lập An Nam
Cộng sản Đảng. Ngày 1/1/1930, những đại biểu ưu tú của Tân
Việt cách mạng Đảng (một tổ chức tiền thân của Đảng) đã
họp và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đồn ở Trung Kỳ.
Tuy nhiên ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không
tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể

thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là
phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình
trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam.
Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm (Thái
Lan), mặc dù chưa nhận được chỉ thị của Quốc tế cộng sản về
yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Song
với sự nhạy bén về chính trị, sự chủ động cao, thực hiện trọng
trách lịch sử đối với dân tộc, với vai trò, trách nhiệm trong
Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập Hội
nghị hợp nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập
20


Đảng Cộng Sản Việt Nam. Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội
nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung
Quốc). Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái
Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo luận và thống nhất, trước hết
là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ,
thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đơng
Dương”.
Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản
thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội
nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của
Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt
Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến cơng
nhân, nơng dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng
bào bị áp bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó,
Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược vắn tắt của Đảng

phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Hồ Chí Minh
soạn thảo, đã thể hiện rõ con đường giải phóng và phát triển
của dân tộc Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng” (tức cách mạng dân tộc dân chủ), “thực
hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng” để đi tới
“xã hội cộng sản”. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền
và thổ địa cách mạng, tức cách mạng dân tộc, dân chủ, trong
đó giành hết độc lập dân tộc được đặt ở vị trí trên hết. Ở Việt
21


Nam, trước hết phải làm “dân tộc cách mệnh”, tức trước hết
phải đánh đổ sự cai trị, nô dịch dân tộc của chủ nghĩa đế
quốc, giành lại quyền bình đẳng dân tộc, tự do cho dân nước
mình: “dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ,
nơng, cơng, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Có
thể thấy, trong Chánh cương vắn tắt, Hồ Chí Minh đã thực
hiện 3 cuộc giải phóng cách mạng vơ sản ở một nước thuộc
địa như nước ta là: giải phóng dân tộc phải tiến hành trước
tiên, tạo tiền đề giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Nói
một cách khác giải phóng, giành độc lập dân tộc là bước đi
đầu tiên của cuộc cách mạng vô sản ở nước thuộc địa, ở Việt
Nam. Đây là một luận điểm cơ bản, chính yếu trong Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đây cũng là một đóng góp
đặc sắc, bổ sung phát triển chủ nghĩa Mác –Lênin trên phương
diện lý luận về các mô hình vận động, phát triển của cuộc
cách mạng vơ sản.
2.3 Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam.


Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị
đầu tiên đã mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam - thời
kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những
nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam;
đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở
thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng
sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước
ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam,
22


quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng
hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu
nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động,
phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả
nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc và sự đồn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong
vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, có
vai trị to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện những nỗ lực
hoạt động nhận thức, phát triển lý luận cách mạng gắn liền
với hoạt động thực tiễn không mệt mỏi của Người, đặc biệt là
ở những luận điểm cách mạng độc đáo và sáng tạo, xác lập.
Nói cách khác, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của
sự kết hợp của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.


23


CHƯƠNG 3: NHIỆM VỤ CỦA SINH VIÊN VỚI VIỆC XÂY
DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY
3.1 Vai trị của sinh viên trong cơng tác xây dựng
Đảng
Trong quá trình lãnh đạo, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao vai trị của đồn viên, thanh
niên. Coi đây là lực lượng xung kích, là đội dự bị tin cậy của
Đảng và coi công tác thanh niên là vấn đề được đặc biệt quan
tâm chỉ đạo. Sự nghiệp đổi mới có thành cơng hay khơng, đất
nước có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không
phần lớn phụ thuộc vào lực lượng đoàn viên, thanh niên, vào
việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng nói: "Thanh niên là rường cột nước nhà, chủ
nhân tương lai của đất nước, đâu cần thanh niên có, đâu khó
có thanh niên", khẳng định vai trị của thanh niên vô cùng to
lớn và bao trùm rất nhiều lĩnh vực. Do vậy, đảng viên là sinh
viên có vai trị rất lớn trong cơng tác xây dựng Đảng:
Một là, sinh viên là đội ngũ trẻ, là tấm gương, người dẫn
đầu, cổ vũ những cá nhân khác và trở thành nguồn lực quan
trọng trong xây dựng đội ngũ của bất kỳ một tổ chức, tập thể
nào.
Hai là, sinh viên ngày càng có điều kiện, cơ hội học tập,
tiếp cận với khoa học - cơng nghệ. Trình độ học vấn, tỷ lệ
thanh niên được đào tạo chuyên môn, kỹ thuật có xu hướng
ngày càng tăng. Thế hệ thanh hiên hiện nay được trang bị đầy

24



đủ cả về kiến thức lẫn tư tưởng, là lực lượng xung kích trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được đặt ở vị trí trung tâm.
Ba là, Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà.
Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn
là do các thanh niên.
3.2 Trách nhiệm của sinh viên trong công tác xây
dựng Đảng hiện nay
Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trong Điều lệ
Đảng được Đại hội X của Đảng, Đảng và Bác đều khẳng định
“Đảng ta là một đảng cầm quyền”. Là một Đảng cầm quyền,
Đảng phải đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó hai nguy cơ lớn
nhất đã được Bác chỉ rõ là: sự sai lầm về đường lối và sự suy
thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ, Đảng viên.
Chính vì vậy, vai trị của cơng tác xây dựng Đảng có ý
nghĩa quan trọng - sống còn, cần được chú trọng đẩy mạnh và
nâng cao, đó cũng chính là trách nhiệm của từng Đảng viên.
Việc xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, phịng chống suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong mỗi Đảng viên là
thiết yếu để duy trì sự lớn mạnh và phát triển của Đảng trong
thời đại mới, thời đại của hội nhập quốc tế.
Bước sang thế kỷ XXI, nền kinh tế nước ta chuyển từ kinh
tế công nghiệp sang kinh tế tri thức với xu thế tồn cầu hóa,
vị thế của Việt Nam đã được nâng cao trên trường quốc tế,
tuy nhiên xu thế toàn cầu hóa cũng đã đặt ra thời cơ và cả
những khó khăn, thách thức to lớn. Đòi hỏi thế hệ Thanh niên
25



×