Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tiểu luận Lịch sử Đảng: Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 14 trang )

Tiểu luận lịch sử đảng
Đề tài:
Vai trò của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc trong quá trình
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
Lời mở đầu
Gần bảy thập kỷ vừa qua, dân tộc ta đã vượt qua một chặng
đường đấu tranh cực kỳ khó khăn, gian khổ, giành được những thắng
lợi vẻ vang. Từ thân phận người dân mất nước, nhân dân ta đã anh
dũng vùng lên, lần lượt đánh bại sự xâm lược của nhiều đế quốc lớn
mạnh, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới kỷ nguyên độc lập
dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. Lực lượng lãnh đạo nhân dân ta
dành được những thắng lợi vĩ đại đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhìn lại quá trình lịch sử của Cách mạng Việt Nam chúng ta thấy
Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện vai trò lãnh đạo, tinh thần phụ
trách trước giai cấp và dân tộc khi thắng lợi cũng như lúc khó khăn, khi
thành công cũng như lúc sai lầm, khuyết điểm. Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời là một điều tát yếu khách quan của cuộc đấu tranh giải
phóng giai cấp và giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong thời đại mới; là
kết quả của một quá trình lựa chọn con đường cứu nước, tích cực
chuẩn bị về tư tưởng , chính trị và tổ chức của một tập thể cách mạng;
là một sự sàng lọc và lựa chọn nghiêm khắc của lịch sử cách mạng
Việt Nam tù khi mất nước vào tay đế quốc thưc dân Pháp. Đảng ra đời
là một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng dân tộc Việt Nam
.
Trước khi Đảng ra đời đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra nhưng
chùng đều bị thất bại trước sự đàn áp dã man của bọn thực dân Pháp.
Chỉ đến năm 1924 Nguyễn Aí Quốc trở về thống nhất ba Đảng lúc bấy
giờ thành một Đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam thì cuộc
khủng hoảng về đường lối cách mạng mới được giải quyết. Sự ra đời
của Đảng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Aí Quốc Hồ Chí Minh
người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam. Người là người


Việt Nam đầu tiên nắm bắt Chủ nghĩa Mác Lênin và vận dụng sáng
tạo vào đặc điểm lịch sử cách mạng dân tộc Việt Nam. Vai trò quan
trọng của Người được thể hiện rõ nét trong quá trình thành lập Đảng
cũng như trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất
nước.
Nội
dung
tiểu
luận
gồm

các
phần
sau:

1


Phần I: Khái quát về xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời
Phần II: Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời.
Phần III: Qúa trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Phần IV: Kết luận.
Phần I
Khái quát xã hội Việt Nam trước khi Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời
Vào đầu thế kỷ XIX, tình hình thế giới có nhiều biến động, bức
tranh phân chia thế giới của chủ nghĩa đế quốc ngày càng được phác
hoạ cơ bản và rõ nét. Sự áp bức và xu hướng thôn tính dân tộc của
Chủ nghĩa đế quốc đã tăng lên rõ rệt. Sự xuất khẩu tư bản vào các

nước thuộc địa đã làm cho các dan tộc thuộc địa bị lôi cuốn vào con
đường tư bản thực dân Chủ nghĩa. Cũng từ đó sự thức tỉnh về ý thức
dân tộc và phong trào đấu tranh tự giải phóng khỏi ách áp bức cuả
thực dân tăng lên một cách mạnh mẽ. Việt Nam đã chịu sự tác động
của bối cảnh lịch sử đó.
Từ năm 1858, nước Việt Nam đã bị thực dân Pháp xâm lược, mở
đầu bằng cuộc tiến công vào cảng Đà Nẵng. Chúng từng bước thiết
lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên
đất nước ta. Sau khi hoàn thành việc xâm lược và bình định vũ trang,
thực dân Pháp tiến hành những cuộc khai thác thuộc địa nhằm cướp
đoạt tài nguyên thiên nhiên, bóc lột nhân công rẻ mạt, cho vay nặng
lãi, mở rộng thị trường tiêu thụ hành hoá của chính quốc. Chính sách
khai hoá văn minh, khai hoá và cải tạo theo kiểu phương Tây của
bọn thực dân Pháp được Hồ Chí Minh vạch rõ: Khi người ta là một
nhà khai hoá thì người ta có thể làm những việc dã man mà vẫn cứ là
văn minh nhất và nếu dân bản xứ không nhịn nhục chịu đựng mà
đứng dậy đấu trnh thì các nhà khai hoá sẽ đưa quân đội, súng liên
thanh và tàu chiến đến. Trên tất cả mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế
đến văn hoá tư tưởng chúng đều tìm mọi cách kìm hãm sự phát triển
của dân tộc ta.
1. Tình hình chính trị
Thực dân Pháp ra sức thi hành chính sách chia để trị; chúng trực
tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, bên cạnh
đó là một hệ thống chính quyền tay sai bù nhìn người Việt: chúng lập
ra những đội quân thuộc địa người ngoại quốc và những đội lính cơ giới
người Việt, những toà án Tây và toà án Nam, nhiều nhà tù để đàn áp

2



các cuộc nổi dậy. Chúng thi hành chính sách cai trị chuyên chế, thực
hiện chính sách đàn áp, khủng bố hết sức dã man, tàn bạo, chia rẽ
dân tộc tôn giáo.làm cho nhân dân mất hết quyền độc lập, quyền tự
do dân chủ; mọi phong trào đấu tranh của nhân dân đều bị chúng đàn
áp dã man.
2. Tình hình kinh tế
Trong thời kỳ này thực dân Pháp đã không từ một thủ đoạn nào để
bóc lột nhân dân ta, thu lợi nhuận tối đa, thẳng tay cướp đoạt và bần
cùng hoá nông dân, chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên, nắm các mạch
máu kinh tế ở Việt Nam, nắm độc quyền trong công nghiệp khai
lhoáng và công nghiệp chế rượu, kìm hãm công nghiệp nặng, hạn chế
công nghiệp nhẹ, độc chiếm thị trường Việt Nam, tăng cường cho vay
nặng lãi; đồng hoá lãnh thổ kinh tế Việt Nam vào trong toàn bộ lãnh
thổ của đế quốc Pháp và biến Việt Nam thành khâu khăng khít trong
sợi dây chuyền của kinh tế thế giới Tư bản chủ nghĩa.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, quá trình tập trung hoá
ruộng đất diễn ra với quy mô lớn và tốc độ nhanh hơn trước. Chúng đã
trắng trợn cướp đoạt ruộng đất của nông dân để lập ra các đồn điền
trồng cao su, cà phê,và bắt dân ta lao động không công cho chúng
hoặc thuê với giá rất rẻ mạt. Không những thế, thực dân Pháp còn tạo
điều kiện để bọn địa chủ tăng cường chiếm đoạt ruộng đất của nông
dân. Ngoài ra bọn chúng còn đặt ra nhiều thứ thuế vô lý bắt nhân dân
phải đóng. Bọn thực dân và địa chủ đã kìm hãm nông nghiệp Việt
Nam trong vòng lạc hậu để làm lợi cho chúng: thực dân Pháp chưa
bao giờ đặt vấn đề kĩ nghệ hoá nông nghiệp ở Việt Nam nên công cụ
lao động sản xuất rất thô sơ. Thiên tai xảy ra liên miên, đời sống nhân
dân gặp rất nhiều khó khăn. Chúng còn duy trì lối bóc lột phong kiến,
kết hợp với lối cướp bóc của đế quốc (đây là đặc điểm của phương
pháp bóc lột thuộc địa), làm nông dân phá sản, kìm hãm sản xuất.
Vì muốn biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ hàng công

nghiệp ế thừa của Pháp, nên chúng đã ra sức kìm hãm sự phát triển
của công nghiệp nước ta. Do sự kìm hãm đó nên công nghiệp Việt
Nam rất nhỏ bé,què quặt. Điều đó thể hiện rõ rệt ở chỗ trong hoạt
động công nghiệp, thực dân Pháp chỉ chú trọng vào việc khai thác mỏ
mà không hề quan tâm đến những ngành nghề khác. Không chỉ trên
lĩnh vực công nghiệp mà trên tất cả mọi phương diện kinh tế, thực dân
Pháp đều tìm mọi cách đưa nước ta vào trong quỹ đạo phát triển của
Chủ nghĩa tư bản theo kiểu thực dân và biến chuyển theo quá trình ấy.
3.
Tình
hình
văn
hoá

hội

3


Từ khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, chúng thực hiện
chính sách ngu dân, khuyến khích văn hoá nô dịch, vong bản, tự ti,
sùng Pháp, kìm hãm nhân dân ta trong vòng tối tăm, dốt nát, lạc hậu,
phục tùng sự cai trị của chúng. Với chính sách khai thác thuộc địa triệt
để của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai
cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Từ chế độ phong
kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến, xã hội Việt Nam
xuất hiện hai mâu thuẫn: mâu thuẫn cơ bản vốn có trong lòng xã hội
Việt Nam phong kiến cũ là mâu thuẫn giữa nhân dân ta, trước hết là
nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến không mất đi, mà vẫn tiếp
tục tồn tại, tuy không còn hoàn toàn giống như trước. Bên cạch mâu

thuẫn này, xuất hiện mâu thuẫn mới bao trùm lên tát cả, đó là mâu
thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc thực dân Pháp. Mâu thuẫn này ngày
càng mở rộng và gay gắt hơn. Hai mâu thuẫn đó quan hệ chặt chẽ với
nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Pháp xâm lược
vừa là mâu thuẫn cơ bản đồng thời là mâu thuẫn chủ yếu của xã hội
Việt Nam một xã hội thuộc địa của Pháp. Vì vậy, nhiệm vụ chống đế
quốc Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống bọn phong kiến tay sai không
tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn kiền với đấu
tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đò là yêu cầu của Cách mạng Việt
Nam đặt ra cần được giải quyết.

Phần II
Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước
khi Đảng ra đời
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài gian khổ
ác liệt, dân tộc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn,
tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường bất khuất. Ngay từ khi thực
dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên chống lại chúng.
ở khắp nơi trong nước, nhân dân ta đã tham gia đấu tranh dưới ngọn
cờ cảu các sĩ phu yêu nước đương thời theo nhiều khuynh hướng khác
nhau. Từ những phong trào tự phát đến những phong trào có tổ chức,
lãnh đạo, các phong trào diễn ra ngày càng một hoàn thiện hơn. Tuy
rằng các phong trào đều bị đàn áp dã man nên đã bị thất bại nhưng tất
cả những cuộc khởi nghĩa đó đã để lại tiếng vang lớn, gây cho địch nỗi
hoang mang lo sợ.
1.
Phong
trào
Cần
Vương


4


Sau khi thực dân Pháp căn bản hoàn thành cuộc xâm lược Việt Nam
với hoà ước 1884, cuộc đầu tranh của nhân dân Việt Nam chống xâm
lược đã chuyển qua một giai đoạn mới. Mở đầu là cuộc tấn công trại
lính Pháp mằn cạnh kinh thành Huế, dưới sự chỉ huy của Tôn Thất
Thuyết lấy danh nghĩa nhà vua yêu nước trẻ tuổi Hàm Nghi. Bị thất bại,
Tôn Thát Thuyết đã phò vua Hàm Nghi lánh vào vùng rừng núi, thảo
chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu văn thân cùng toàn dân tiếp tục
chiến đấu. Từ đó phong trào Cần Vương đã phát triển trong nhiều địa
phương ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, cho đến những năm cuối của thế kỷ
XIX.
Trong phong trào Cần Vương, các thủ lĩnh sĩ phu văn thân, liên kết
với các thổ hào địa phương, đã tập hợp đông đảo quần chúng nông
dân trong vùng, dùng vũ khí thô sơ nổi dậy chống lại cuộc bình định
của thực dân Pháp. Các sĩ phu muốn khôi phục một vương triều phong
kiến có chủ quyền, các thổ hào muốn dành lại những thế lực bị tước
đoạt, nông dân chống lại sự bóc lột thuế má và cướp đoạt ruộng đất,
tất cả gắn bó lại trên danh nghĩa của một phong trào yêu nước chống
xâm lược mang tính chất truyền thống. Nhưng cuối cùng phong trào
Cần Vương đẫ thất bại vì rời rạc, lẻ tẻ, thiếu sự chỉ huy thống nhất.
2. Phong trào dân tộc - dân chủ của tầng lớp sĩ phu yêu
nước.

2.1
Sự chuyển biến của xã hội Việt Nam và những ảnh hưởng
của tác động bên ngoài.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có nhiều chuyển

biến, trước những chính sách cai trị của thực dân Pháp, cơ cấu xã hội
truền thống Vệt Nam biến đổi. Giai cấp công nhân Việt Nam (chủ yếu
là trong các công trường và hầm mỏ) hình thành. ở đô thị xuất hiện một
tầng lớp công thương và tiểu tư sản thành thị. Tầng lớp sĩ phu nho học
bên cạch đọc các kinh sách nho giáo, các nho sĩ này cũng đã đọc
ngững cuốn sách mới của các tác giả châu Âu và Trung Quốc. Vì vậy
phong trào cải cách chính trị văn hoá ở Trung Quốc, cùng với những
tư tưởng cách mạng Pháp được dịch qua chữ Hán đã tác động vào Việt
Nam. Giới sĩ phu lúc này thấy được thế suy tàn của các chế độ phong
kiến châu á và sự cần thiết phải cải cách xã hội.

2.2. Trào lưu dân tộc chủ nghĩa
Những nhận thức chính trị đó đã làm nảy sinh một khuynh hướng chính
trị mới: trào lưu dân tộc chủ nghĩa. Trào lưu chính trị này kế tục phong
trào Cần Vương yêu nước chống Pháp nhưng đồng thời đã mang nhiều
nét mới khác trước. Tầng lớp khởi xướng trào lưu này là những sĩ phu
yêu nước tiến bộ. Lòng yêu nước của họ không còn bám giữ vào
5


những tư tưởng trung quân mà đã chuyển sang ý thức về một chủ
nghĩa quốc gia dân tộc, vì lợi ích chung của nhiều triệu đồng bào
trong cả nứơc. Những sĩ phu yêu nước tiến bộ ở Việt Nam lúc bấy giờ
cho rằng, muốn đánh đuổi thực dân Pháp, không thể chỉ hạn chế trong
những hình thức khởi nghĩa vũ trang như trước đây, mà còn phải kết
hợp cả với nhiều biện pháp mới về chính trị, ngoại giao, tiến hánh một
phong trào cải cách xã hội sâu rộng trong đông đảo quần chúng nhân
dân. Hai gương mặt nổi bật cho trào lưu dân tộc dân chủ là các nhà chí
sĩ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh
Phan Bội Châu là một sĩ phu sớm có lòng yêu nước, chủ trương

vận động quâng chúng trong nước, tranh thủ sự giúp đỡ của nước
ngaòi, tổ chức bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập
dân tộc, xây dựng nền chế độ chính trị dựa vào dân. Ông đã lập hội
Duy Tân, vượt biển sang Nhật mưu cầu ngoại viên, tổ chức phong trào
Đông Du đưa các thanh thiếu niên Việt Nam sang học ở Nhật để
chuẩn bị lực lượng chống Pháp và dùng văn thơ yêu nước để thức tỉnh
quốc dân . Cuộc vận động Đông du chỉ diễn ra được mấy năm và đã bị
thực dân Pháp bóp chết . Những du học sinh Việt Nam bị trục xuất ra
khỏi Nhật và cả cụ Phan cũng phải rời khỏi đất nước này.Sau cách
mạng Tân Hợi, ông lưu lạc ở Trung Quốc, lại lập ra tổ chức Việt Nam
Quang Phục hội, chuẩn bị đưa quân về nước khỏi nghĩa, nhưng cũng
không tránh khỏi bị thât bại.Phan Bội Châu là một người anh hùng đầy
nhiệt huyết nhưng không gặp thời thế.
Phan Châu Trinh gần đồng thời với Phan Bội Châu, là một sĩ phu
ở Quảng Nam đã giương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội. Ông
đã từng bôn ba ở nhiều nước, sớm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ, chủ
trương cứu nước bằng phương pháp nâng cao dân trí, dân quyền. Ông
vạch trần chế độ vua quan phong kiến thối nát, đòi Pháp phải sửa đổi
chính sách cai trị ở thuộc địa. Chịu nhiều ảnh hưởng tư tưởng dan chủ
của Phan Châu Trinh, nhiều phong trào cải cách xã hội lúc đó đã nổi
lên như việc thành lập nhà trường kiểu mới Đông Kinh Nghĩa Thục ở
Hà Nội, phong trào Duy Tân. Tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh
thể hiện một tinh thần dân tộc yêu nước sâu sắc, nhưng chủ trương
dùng cải cách để cứu nước của ông có phần không hợp thời thế.

2.3. Phong trào đấu tranh của quần chúng công, nông, binh:
Các phong trào chính trị của giới sĩ phu đã có ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến phong trào đấu tranh của quần chúng công nông
binh trong thời kỳ này. ở đây những cuộc đấu tranh so với phong trào
của giới sĩ phu thường là thiếu đường lối, tổ chức nhưng lại đông đảo,

quyết liệt hơn. Năm 1908, do ảnh hưởng của những tư tưởng cải cách
6


của Phan Châu Trinh và phong trào Duy Tân hô hào đời sống mới,
một phong trào chống sưu thuế của nông dân đã lan rộng ra ở nhiều
tỉnh. Hàng ngàn nông dân nổi dậy biểu tình, bao vây huyện lị đòi giảm
sưu thuế. Đáng chú ý là khởi nghĩa của nông dân Yên Thế của Hoàng
Hoa Thám, họ đã liên lạc với tổ chức yêu nước của Phan Bội Châu
trong một kế hoạch tấn công vào Hà Nội.
Giai cấp công nhân Việt Nam tuy mới ra đời, số lượng còn ít nhưng
bước đầu đã tham gia đấu tranh, điển hình có những cuộc bãi công
bạo động của công nhân các công trường đường sắt(Yên Bái), học
sinh trường Bách Nghệ (Sài Gòn) và một số công nhân tàu biển. Ngoài
ra còn có những cuộc bạo động khởi nghĩa chống Pháp của dân tộc ít
người.
Ngoài tầng lớp sĩ phu và quần chúng công nông, đầu thế kỷ XX còn
có một lực lượng xã hộ mới tham gia phong trào đấu tranh chống
Pháp. Đó là các binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Do thực hiện
chính sách dùng người Việt để trị người Việt nên qua những cuộc càn
quét những binh lính Việt đã thấy được tận mắt nhữnh tội ác của giặc,
lòng căm thù giặc được khơi dậy. Hơn nữa do sự đối xử của thực dân
Pháp đối với họ là khinh miệt, bạc đãi nên đã dẫn tới việc họ nổi dậy
bạo động khởi nghĩa.
Những phong trào dân tộc dân chủ chống Pháp ở Việt Nam đầu
thế kỷ XX do những sĩ phu yêu nước tiến bộ lãnh đạo, được đông đảo
các tầng lớp nhân dân hưởng ứng tham gia, tuy không thành công
nhưng đã có tiếng vang lớn. Đó là những bước đi ban đầu để tìm ra
một con đường mới, dúng đắn trong cuộc cách mạng dân tộc và cách
mạng xã hội.


Phần III
Qúa trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ đầu thế kỷ XX trở đi, song song với sự phát triển của phong
trào yêu nước và dân chủ theo kiểu tư sản, phong trào công nhân
chống lại chế độ bọc lột của bọn địa chủ và thực dân Pháp đã lần lượt
diễn ra bằng nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là những hình thức
đấu tranh đặc thù của giai cấp mình như bãi công, biểu tình. Tuy nhiên
trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, do nhiều nguyên nhân những phong
trào này cuối cùng đều không thành công. Nhưng nguyên nhân cơ bản
đó lá những người yêu nước đương thời chưa tìm được con đường cứu

7


nước đúng đắn phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hộ Việt Nam.
Cách mạng nước ta đang đướng trước cuộc khủng hoảng về đường lối.
1. Nguyễn Aí Quốc ra đi tìm đường cứu nước
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang trong đêm tối chưa tìm được
lối ra, Nguyễn ái Quốc với tên gọi Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc từ
tháng 6 năm 1911 đi sang phương Tây, nơi mà Người cho là có tư
tưởng tự do, đan chủ và khoa học kỹ thuật phát triển để xem họ làm
như thế nào, học tập họ rồi trở về giúp đồng bào mình cởi bỏ xiềng
xích nô lệ. Trên con đường bôn ba khắp năm châu, bốn bể, vừa lao
động, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách
mạng tư sản điển hình trên thế giới như cách mạng Mỹ và cách mạng
Pháp Đòng thời Người tìm mọi cách tham dự tất cả các cuộc mít tinh,
hội họp do Đảng xã hội Pháp một đảng duy nhất trong số các đảng
ở Pháp đấu tranh bảo vệ các dân tộc thuộc địa. Đến cuối năm 1918,
một biến chuyển quan trọng đã diễn ra trong cuộc đời của Nguyễn ái

Quốc: Người tham gia Đảng xã hội Pháp. Người là người Việt Nam đầu
tiên tham gia một đảng chính trị của mẫu quốc. Trong quá trình tham
gia hoạt động Đảng và nghien cứu về cách mạng Mỹ và cách mạng
Pháp, Nguyễn ái Quốc đã tập hợp được nhiều bài học quý về lực lượng
cách mạng, về tổ chức, về tinh thần, ý chí cách mạng và đặc biệt là bài
học về con đường cách mạng. Người vạch rõ: Cách mạng Pháp cũng
như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến
nơi,tiếng là công hoà và dân chủ, nhưng kỳ thực trong thì nó tước lực
công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Chúng ta dã hy sinh làm
cách mệnh, thì nên làm cho đén nơi nghĩa là làm sao cách mạng rồi thì
quyền giao cho đan chúng số nhiềuThế mới khỏi hy sinh nhiều lần,
thì dân chúng mới được hạnh phúc.
Giữa tháng giêng năm 1919, Pa-ri long trọng tổ chức hội nghị hoà
bình. Giới cầm quyền các cường quốc thắng trận muốn tổng kết
chiến tranh càng nhanh càng tốt, hay nói cách khác muốn giàu lên
baừng cách bóc lột các nước bại trận. Nguyễn ái Quốc đã gửi đén hội
nghị một bản tài liệu có tên là Bản yêu sách của nhân dân An Nam
đòi chính phủ Pháp công nhận các quyền tự do dân chủ và bình đẳng
của nhân dân Việt Nam. Bản yêu sách đó không được hội nghị quan
tâm đến. Từ thực tế đó người ra một kết luận quan trọng : tự do bình
đẳng bác áinhững chữ tốt đẹp đó chẳng qua chỉ là màn khói để giai
cấp tư sản che đậy những tội ác của chúng. Những bản tuyên ngôn mà
bọn đế quốc tung ra bừa bãi trong những năm chiến tranh để làm bia
đỡ đạn cho chúng hoá ra chỉ là một trò bịp bợm. Chẳng bao giờ cầu
8


xin được công lý ở bọn đế quốc. Vậy thì lối thoát ở đâu ? Chỉ ở trong
đấu tranh, đấu tranh một mất, một còn. Để giải phóng mình nhân dân
các dân tộc thuộc địa phải lât đổ ách thông trị của bọn áp bức. Cách

mang là trận đánh quyết liệt, nhờ nó mà thành luỹ thực dân tưởng như
bất khả xâm phạm cũng có thể bị hạ. Bản yêu sách đã trở thành một
tuyên ngôn chính trị báo hiệu sự mở đầu của giai đoạn mới trong việc
phát triển phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trong những ngày đang hoạt động sôi nổi lựa chọn con đường cách
mạng của Nguyễn ái Quốc thì cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm
1917 bùng nổ và thắng lợi, làm chấn động toàn cầu. Sự thắng lợi của
cách mạng tháng Mười Nga có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng đối với
phong trào giải phóng dan tộc của các nước thuộc địa trên thế giới.
Nhờ có Cách mạng thámh Mười Nga, phong tràogiải phóng dân tộc ở
các nước phương Đông và phong trào công nhân ở các nước tư bản đế
quốc phương Tây đã có sự gắn bó mật thiết với nhau trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Nguyễn ái Quốc đã
hướng đến con đường Cách mạng tháng Mười và chú tâm tìm hiểu tư
tưởng đường lối của cuộc cách mạng đó. Và bước ngoặt lớn trong tư
tưởng của Nguyễn ái Quốc diễn ra khi Người đọc toàn văn Sơ khảo lần
thứ nhất những kuận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lê-nin đăng trên báo Nhân đạo. Đay là tác phẩm đầu tiên của Lê-nin
mà Nguyễn ái Quốc được làm quen. Người đọc đi đọc lại một số câu,
cố gắng hiểu sâu hơn nữa bản chất những tư tưởng của Lê-nin và
Người rưng rưng nước mắt, hân hoan vô cùng. Người nói to lên như
đang đướng trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đoạ đày
đau khổ ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải
phóng chúng ta. Bản đề cương đó đã chỉ rõ cho Người Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khấc là con
đường cách mạng vô sản. Từ đây, Người dứt khoát đi theo con đường
cách mạng của Lê-nin, con đường cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại.
Đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản,
từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng sản
quốc tế của Người. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường

thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam. Nguyễn ái
Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu sáng tạo Chủ nghĩa MácLênin, tìm ra con đường đúng đán giải phóng dân tộc.
2. Con đường "cách mệnh Nguyễn ái Quốc.
Sau khi trở thành người chiến sĩ Cộng sản, Nguyễn ái Quốc đã tham
gia hoạt đọng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tích

9


cực vận đọng phong trào cách mạng thuọcc địa, nghiên cứu và truyền
bá chủ nghĩa Mác Lenin vè Việt Nam qua các báo Ngươig cùng
khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và sau này là tác phẩm Bản
án chế độ thực dân Pháp(1925) của Người.
Tháng 12 năm 1924, Nguyễn ái Quốc về Quảng Châu (Trung
Quốc) trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Tại đây, Người tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp
bức ở á Đông, sáng lập và viết bài cho báo Thanh niên. Và đặc biệt là
đầu năm 1927, tác phẩm Đường cách mệnh được Hội liên hiệp các
dân tộc bị áp bức xuất bản. Tác phẩm này là sự tiếp theo một cách lôgíc cuốn Bản án chhế độ thực dân Pháp. Đường cách mệnh đã
vạch ra con đường cụ thể để giải phóng dân tộc. Tác phẩm chỉ ra rằng:
để chiến thắng kẻ thù hùng mạnh, những nhà cách mệnh Việt Nam
phải giải quyết ngay hai nhiệm vụ cơ bản: nắm vững học thuyết chủ
nghĩa Mác-Lênin và thành lập đội tiên phong tức là Đảng cách mạng.
Trước hết phải có Đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thf liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai
cấp mọi nơi. Đảng có vững, cách mạng mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng có vững thì phải có chủ
nghĩa làm nồng cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải tuân
theo chủ nghĩa âýy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người
không có trí khôn. tàu không có bàn chỉ nam. Nguyễn ái Quốc đã

trình bày một cách \sáng tạo những nguyên lý cơ bản của học thuyết
Lê- nin áp dụng vào những điều kiện cụ thể của nước Việt Nam thuộc
địa. Nguyễn ái Quốc chỉ ra rằng Việt Nam đang đứng ở ngưỡng của
cách mạng giải phóng dân tộc. Cuộc cách mạng này phải là một giai
đoạn chuyển tiếp để đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Nhiệm vụ chủ yếu của Đảng
Cộng sản Việt Nam sau này là lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống
bọn thực dân và Đảng phải kết hợp phong trào công nhân với chủ
nghĩa yêu nước. Theo Nguyễn ái Quốc,lực lượng cơ bản của cách
mạng Việt Nam sau này là giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Luận điểm quan trọng này được Nguyễn ái Quốc trình bày ngay từ buổi
đầu của cuộc cách mạnggiải phóng dân tộc và về sau trở thành luận
điểm chủ đạo, luận diểm quyết định trong hoạt động của Nguyễn ái
Quốc và các đồng chí của Người.
Tác giả Đường cách mệnh cũng phát triển hơn nữa tư tưởng của
mình và cho rằng chủ nghĩa yêu nước chân chính không thể tách rời
chủ nghĩa Quốc tế vô sản. Vì vậy, nhiệm vụ quốc tế quan trọng nhất
10


của các nhà cách mạng Việt Nam là chăm chú nghiên cứu Cách mạng
tháng Mười Nga vĩ đại. Con đường của cách mạng Việt Nam là con
đường cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Phong trào giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa phải liên minh với giai cấp vô sản cách mạng
chính quốc. Thống nhất và gắn cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam
với phong trào cách mạng thế giới là vấn đề có tầm quan trọng chiến
lược. Cách mạng Việt Nam là bộ phận hợp thành của cách mạng thề
giới. Tất cả các nhà cách mạng đều là bạn của nhân dân Việt Nam.
Nói tóm lại, hệ thóng quan điểm và lý luận về con đường cách mạng
của Nguyễn ái Quốc là nội dung tư tưởng cách mạng giải phóng dân

tộc theo chủ nghĩa Lê-nin, nó được truyền vào Việt Nam trong những
năm 20 của thế kỷ XX đã trở thành tư tưởng cách mạng hướng đạo
phong trào giải phóng dân tộc và các tổ chức chính trị theo khuynh
hướng cách mạng vô sản, dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng sản ở
Việt Nam hình thành nên Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Aí Quốc
được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như người
đi đường đang khát mà cò nước uống, đang đói mà có cơm ăn. Nó lôi
cuốn những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng
vô sản, làm dấy lên phong cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp
cả nước, trong đó giai cấp công nhân trở thành một lực lượng chính trị
độc lập. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều tầng
lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, ý thức giác ngộ chính trị của công
nhân ngáy càng cao. Những nhóm cộng sản bí mật đã bắt đầu xuất
hiện trong các xí nghiệp công nghiệp ở các thành phố lớn đòi hỏi phải
có tổ chức Đảng chính trị lãnh đạo.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản
được tuyên bố thành lập: ở Nam Kỳ là An Nam Cộng sản Đảng, ở Bắc
Kỳ là Đông Dương Cộng sản Đảng, ở Trung Kỳ là Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn. Ngay từ khi thành lập, giữa các tổ chức đó đã xảy ra
xích mích, bởi vì, mỗi tổ chức đều có ý muốn đóng vai trò Đảng Cộng
sản duy nhất ở trong vước. Những cuộc xung đột nghiêm trọng giữa
hai tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ đã xảy ra. Mối quan hệ giữa
các tổ chức Đảng không bình thường lại không có một cương lĩnh hành
động thống nhất làm các Đảng mất hết tính chiến đấu và không thể
hoạt động có kết quả trong quần chúng. Vì vậy yêu cầu bức thiết của
Cách mạng là cần có một Đảng duy nhất lãnh đạo. Nguyễn ái Quốc,
người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất


11


có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất
các tổ chức Cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu Long (Hương
Cảng, Trung Quốc) từ ngày 3 đến 7 tháng 2 năm 1930 đã nhất trí
thành lập Đảng duy nhất , lấy tên là Đảng Cộng sản Vệt Nam. Các đại
biểu tán thành chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình
tóm tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần
chúng, vạch kế hoạch thành lập Ban Chấp hành Trung ương lâm
thời
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn ái Quốc soạn
thảo là cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam,
đó là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng
tạo, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, nhuẫn nhuyễn về
quan điểm giai cấp, thấm đượm tinh thần dân tộc. Độc lập tự do gắn
liền với định hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi của
cương lĩnh này. Đảng lấy lý tưởng chủ nghĩa Mác- Lê-nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng, làm kim chỉ nam cho mọi hành động.
Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu bước ngoặt lờn
trong lịch sử cách mạng Việt Nam và đó là một kết quả tất yếu khách
quan của cuộc đấu tranh dân tộc và giải phóng giai cấp. Đảng là sản
phẩm của sự kết hợp lý luận Mác-Lênin với phong trào cách mạng của
giai cấp công nhân, của nhân dân lao động. Sự ra đời của Đảng
chứng tỏ rằng giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành, đủ sức lãnh
đạo cách mạng. Sự ra đời của Đảng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn
ái Quốc Hồ Chí Minh người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng
ta.
Kết luận

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một yếu tố quan trọng
quyết định sự thành công của phong trào Cách mạng giải phóng dân
tộc và thống nhất đất nước. Với đường lối Cách mạng đúng đắn, Đảng
đã cùng nhân dân xây dựng nên một lượng cách mạng to lớn và rộng
khắp đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Đảng đã lãnh đạo nhân dâ cả nước dấy lên
cao trào cách mạng 1930- 1931 mà đỉng cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh,
cao trào đấu trang chính trị 1936- 1939...Với khí thế cách mạng, nắm
chắc thời cơ lịch sử, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổng khởi nghĩa tài
tình, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945
thành công trọn vẹn, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,
nhà
nước
của
dân,
do
dân


dân.
12


Qúa trình thực tế lịch sử đã chứng minh rằng: Lựa chọn con đường
cách mạng vô sản, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản là một sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, sáng suốt
của Cách mạng Việt Nam, mà người tiên phong là Nguyễn ái QuốcHồ Chí Minh- vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam, người thầy vĩ
đại của Đảng. Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời của một chiến sĩ
Cộng sản trọn đời vì nước, vì dân, là biểu tượng của khí phách anh
hùng, ý chí độc lập tự cường, kiên trì lý tưởng, sáng tạo và quyết thắng.


Tài liệu tham khảo
1. Đồng chí Hồ Chí Minh ép-Ghê-Nhi Ca-bê-lép
2. Nhà xuất bản thanh niên Hà Nội 1985
3. Giáo trình Lịch Sử Đảng cộng sản Việt Nam Nhà xuất bản
giáo dục
4. Tài liệu học tập chính trị nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia
Mục lục
Lời nói đầu 3
Phần I: Khái quát về xã hội Việt Nam
trước khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.............................. ...............4
1. Tình hình chính trị............................................................................4
2. Tình hình kinh tế .............................................................................5
3. Tình hình văn hoá xã hội ..............................................................5
Phần II: Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ....7
1. Phong trào Cần Vương ..................................................................7
2. Phong trào dân tọc dân chủ của tầng lớp sĩ phu yêu nước ..........8
2.1 Sự chuyển biến của xã hội Việt Nam .
Những ảnh hưởng của tác động bên ngoài .............8
2.2 Trào lưu dân tộc chủ nghĩa .....................................................8
2.3 Phong trào đấu tranh của quần chúng công nông bi...........9
Phần III: Quá trình thành lập Đảng cộng sản Việt Nam ..................10
1. Nguyền ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước .................................10

13


2. Con đường cách mệnh Nguyễn ái Quốc ...........................12
3. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam ................................13
Phần IV: Kết luận .................................15

Tài liệu tham khảo..................................................................16

14



×