Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

TL XDĐ đấu tranh ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị của đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.28 KB, 51 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài
Trải qua đấu tranh cách mạng lâu dài và sau hơn 30 năm
tiến hành công cuộc đổi mới, số đơng đảng viên mà nịng cốt
là đội ngũ cán bộ chủ chốt từ trung ương đến cơ sở đã thể
hiện phẩm chất chính trị vững vàng trước mọi thử thách.
Trước những biến động hết sức phức tạp của tình hình thế giới
hiện nay, đảng viên và Đảng vẫn vững vàng, kiên định và
quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.
Số Đảng viên của Đảng là người hữu trí ngày càng tăng,
nhiều đồng chí có phẩm chất vững vàng, tích cực tham gia
các và cơng tác. Đáng lo ngại nhất là: nhiều Đảng viên giảm
sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lí tưởng, khơng phát huy được
vai trị tích cực trong quần chúng. Đặc biệt tình trạng suy
thối về tư tưởng chính trị ở một bộ phận không nhỏ Đảng
viên là rất nghiêm trọng. Suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống ở “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”
đã làm tổn thương tình cảm, suy giảm niềm tin của nhân dân
đối với Đảng, Nhà nước; đe dọa sinh mệnh của Đảng và sự tồn
vong của chế độ. Vì vậy, việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ,
đảng viên là yêu cầu cấp bách, nhiệm vụ quan trọng, cơ bản,
lâu dài trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta hiện nay.

2.


Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu, nghiên cứu để có những nhận thức rõ ràng,
đúng đắn những kiến thức liên quan đến xây dựng đội ngũ
Đảng viên của Đảng ta hiện nay. Nghiên cứu thực trạng suy
2


thối về tư tưởng chính trị của đảng viên trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế hiện
nay, từ đó đề xuất biện pháp đấu tranh ngăn chặn sự suy
thoái nghiêm trọng này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu những khái niệm liên quan đến đảng viên,
thực trạng suy thoái về tư tưởng chính trị của đảng viên trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế hiện nay.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
Nguyên lý của V.I.Lenin, chủ nghĩa Mac - Lenin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đề tài được nghiên cứu dựa trên các phương
pháp: phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá,...
5. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận gồm 4 phần (mở đầu, nội dung, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo), phần nội dung gồm 2 chương được
trình bày cụ thể.

3


CHƯƠNG I
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN CỦA ĐẢNG


1. Đảng viên là gì?
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách
mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục
đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp
hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các
nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động,
hồn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống
lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức,
kỷ luật của Đảng, giữ gìn đồn kết thống nhất trong Đảng.
Cơng dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận
và tự nguyện : thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ
chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được
nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào
Đảng.
Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn của người Đảng viên
như sau:
Tiêu chuẩn của đảng viên được quy định rõ ràng ở Điều
1 trong Điều lệ Đảng, gồm 2 điểm, đó là:
1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách
mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,

4


suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi
ích của Tổ quốc, của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động

lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, cá nghị quyết của Đảng và pháp luật
của Nhà nước; có lao động, hồn thành tốt nhiệm vụ được
giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với
nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đồn
kết thống nhất trong Đảng.
2. Cơng dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa
nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong
một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú,
được nhân dân tín nhiệm,đều có thể được xét để kết nạp vào
Đảng.
2. Nhiệm vụ, vai trò và quyền hạn của Đảng viên
trong giai đoạn hiện nay
2.1 Nhiệm vụ của Đảng viên
Đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong
của giai cấp công nhân, của Nhân dân lao động và của dân
tộc Việt Nam. Trở thành một đảng viên là cả một quá trình nỗ
lực phấn đấu không ngừng của bản thân trên các mặt công
tác, sinh hoạt nơi cộng đồng, thể hiện là một cơng dân ưu tú
thực thụ, được mọi người tín nhiệm giới thiệu cho Đảng. Khi
đã được đứng trong hàng ngũ của Đảng, thì kể từ thời gian đó
đảng viên phải nêu cao hơn nữa vai trò tiên phong, gương
mẫu trong việc chấp hành các chủ trương, chính sách của

5


Đảng, pháp luật của Nhà nước, là tấm gương tốt cho quần
chúng noi theo.

Người đảng viên dù ở bất cứ cương vị nào, cũng đều phải
thực hiện hai nhiệm vụ bao trùm: vừa là người lãnh đạo, cũng
vừa là người phục vụ, đầy tớ của Nhân dân. Hai đặc tính này
hồn tồn khơng mâu thuẫn, mà thống nhất, gắn bó chặt chẽ
cho nhau xuất phát từ bản chất của Đảng là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, của Nhân dân và của dân tộc Việt
Nam, Đảng khơng có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Nhân
dân lao động, lợi ích của cả dân tộc Việt Nam, có nhiệm vụ
lãnh đạo cách mạng, hết lòng hết sức phục vụ Nhân dân, thực
hiện thành cơng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, theo
con đường xã hội chủ nghĩa. Do đó, mỗi đảng viên đều phải
đặt lợi ích của dân tộc, của giai cấp lên trên hết.
Vị trí, vai trị của người đảng viên vì thế rất quan trọng,
bởi trong xã hội, đảng viên vừa thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo,
vừa thực hiện nhiệm vụ của một công dân gương mẫu. Khi
đảng viên tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của nhà nước trong quần chúng nhân dân, vận
động mọi người tham gia các phong trào và phụ trách, hướng
dẫn triển khai đạt kết quả, đó là lúc đảng viên thực hiện chức
năng lãnh đạo của Đảng; khi đảng viên tích cực hồn thành
tốt nhiệm vụ của một cơng dân, khơng những thế cịn gương
mẫu, đi đầu, thể hiện tính tiên phong, ưu tú của người đảng
viên. Ở cơ quan đơn vị, hay trong cộng đồng khu dân cư, cán
bộ công chức, quần chúng nhân dân nhìn vào đảng viên để
học tập, noi theo, nếu đảng viên không tốt, quần chúng sẽ
không phục, không làm theo.
6


Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam hiện hành chỉ rõ bốn

Người Đảng viên có 04 nhiệm vụ tại Điều 2, chương I như
sau:
1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách
mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của
Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng
tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ
kiến thức, năng lực cơng tác, phẩm chất chính trị, đạo đức
cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa
cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và
các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban
Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được
làm.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực
tham gia cơng tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc
và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ
chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đồn kết thống
nhất trong Đảng; thường xun tự phê bình và phê bình,
trung thực với Đảng; làm cơng tác phát triển đảng viên; sinh
hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.

7


Trong giai đoạn mới của Cách mạng Việt Nam hiện nay,

người đảng viên đứng trước những đòi hỏi mới và nhiệm vụ
mới. Đó là nhiệm vụ tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa; là yêu cầu giữ vững,
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện đổi mới
hệ thống chính trị, dân chủ hóa, xây dựng Nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa; là nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc
lập chủ quyền, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa
bình” của các thế lực thù địch trong điều kiện mở cửa, hội
nhập quốc tế và khu vực.
Tình hình, nhiệm vụ đó địi hỏi người đảng viên khơng
thể như trước mà ngồi những phẩm chất chung, cần có sự
phát triển phù hợp với điều kiện, hồn cảnh và yêu cầu mới
của sự nghiệp cách mạng.
Đảng viên phải kiên định lập trường cách mạng của giai
cấp công nhân, trung thành với lý tưởng cộng sản, đấu tranh
bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ
chế độ Xã hội chủ nghĩa, vững vàng, không dao động trước
bất kỳ khó khăn, thử thách nào. Cùng với việc thể hiện vai trò
tiên phong, gương mẫu, người đảng viên lúc này cần ủng hộ
nhân tố mới, tích cực tham gia đấu tranh chống tham nhũng,
chống các tiêu cực xã hội và tệ nạn xã hội, phê phán những
biểu hiện mơ hồ, cực đoan hay tư tưởng sai lệch.
Đổi mới là một cuộc vận động cách mạng toàn diện và
sâu sắc, diễn ra trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, từ
kinh tế đến cơ chế quản lý, từ chế độ kinh tế đến hệ thống
chính trị… Đó là một q trình khó khăn, vừa làm vừa rút kinh
8



nghiệm, chưa có mơ hình định sẵn. Đổi mới đụng chạm đến
rất nhiều vấn đề, phá vỡ nhiều cái cũ, trong khi có những cái
cũ đã tồn tại quá lâu, ăn sâu vào nếp nghĩ, cách làm, đã
thành thói quen, thành cơ chế chính sách rất khó sửa.
Mặt khác, thế giới cũng đang có nhiều chuyển biến mạnh
mẽ với nhiều biến cố, nhiều cái cũ bị đảo lộn, nhiều vấn đề
phức tạp mới được nảy sinh; trên một số vấn đề, dường như
rất khó phân biệt, khó kết luận đâu là phải trái, đâu là trắng
đen để có thể xử lý. Thời đại chúng ta là thời đại cách mạng
khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, thời đại tin học đạt
nhiều thành tựu kỳ diệu, hằng ngày lượng thông tin ồ ạt dồn
đến rất nhanh và rất nhiều, địi hỏi phải có trình độ thu nhận,
phân tích và xử lý đúng đắn.
Để thúc đẩy công cuộc đổi mới tới những bước tiến và
kết quả cụ thể theo quan điểm thực tiễn, cần phải tổ chức
việc giáo dục đạo đức trong Đảng và trong xã hội sao cho mỗi
người thấm nhuần sâu sắc rằng, đạo đức mới của những
người tham gia đổi mới xã hội là đạo đức hành động, đạo đức
trong lao động, trong công việc, trong quan hệ với con người,
trong đấu tranh khắc phục mọi tệ nạn tha hóa để hướng tới sự
cao đẹp, hướng tới việc lành mạnh hóa các quan hệ xã hội.
Đảng ta đã xác định chế độ chính trị của nước ta là chế
độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng; sức mạnh vô địch của Đảng là mối liên hệ chặt chẽ với
quần chúng nhân dân. Đảng chủ trương phát huy dân chủ, coi
dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi
mới. Mỗi đảng viên, trước hết đảng viên là cán bộ lãnh đạo, có
chức có quyền, phải tơn trọng và phát huy quyền làm chủ của
9



dân, chăm lo đời sống hằng ngày của quần chúng, tìm hiểu
nguyện vọng và lắng nghe ý kiến của quần chúng, giúp đỡ
quần chúng khi gặp khó khăn, kiên quyết đấu tranh chống
bệnh quan liêu, mệnh lệnh, gia trưởng, độc đoán, đặc quyền
đặc lợi, trù dập ức hiếp quần chúng và mọi hành vi vi phạm
quyền làm chủ của dân.
Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, một yêu cầu rất
cần thiết đối với người đảng viên trong điều kiện Đảng lãnh
đạo chính quyền. Nó quyết định sự tín nhiệm của nhân dân
đối với đảng viên. Không phải ngẫu nhiên khi cịn sống, Bác
Hồ ln ln quan tâm đến vấn đề này, nói nhiều về vấn đề
này. Người thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thường
xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, trau dồi quan điểm và
thái độ đúng đắn đối với quần chúng, coi việc tôn trọng quần
chúng, học hỏi quần chúng, có quan hệ mật thiết với quần
chúng là một vấn đề thuộc về phẩm chất, tư cách, đạo đức
của đảng viên.
2.2. Vai trò, quyền hạn của Đảng viên
Vai trò của đội ngũ Đảng viên được xác định trong các
mối quan hệ sau:
*Quan hệ đội ngũ Đảng viên với đường lối, nhiệm vụ
chính trị:
Hồ Chí Minh nói: “Mọi cơng việc Đảng đều do Đảng viên
làm. Mọi nghị quyết Đảng đều do đảng viên chấp hành... Mọi
khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do Đảng viên cố gắng
thực hiện”

10



Như vậy, Đảng viên là người có vai trị rất quan trọng
trong việc góp phần xây dựng, hồn thiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng. Đảng viên cũng là người trực
tiếp thực hiện và lãnh đạo quần chúng thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng. Thơng qua thực tiễn, đảng
viên kiểm chứng tính đúng đắn của đường lối, chủ trương,
chính sách mà phản ánh với Đảng về những hạn chế và
những điều chưa hợp lý của đường lối, chủ trương, của cơ chế
chính sách

để Đảng kịp thời sửa chữa, bổ sung cho hồn

thiện, phù hợp hơn.
Do đó, nếu có đảng viên tốt, đội ngũ đảng viên vững
mạnh thì chẳng những bảo đảm cho đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng được thực hiện mà cịn góp phần phát
triển đường lối, chủ trương, chính sách đúng, cũng khó đưa
vào cuộc sốgvà khó phát huy được vai trị cải biến hiện thực.
Đảng viên góp phần quan trọng vào việc hoạch định
đường lối, chủ trương của Đảng. Họ là người trực tiếp cùng tổ
chức, cơ sở Đảng nơi sinh hoạt, dân chủ thảo luận đề ra
nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, đồng thời lãnh đạo nhân dân
và cùng nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ
chính trị ở cơ sở.
*Quan hệ đội ngũ Đảng viên với phong trào quần chúng
Từng đảng viên cũng như cả đội ngũ đảng viên, thường
ngày sống, sinh hoạt và làm việc gắn liền với quần chúng. Họ
được đào luyện và trưởng thành từ phong trào cách mạng của

quần chúng. Họ là người tổ chức và lãnh đạo phong trào cách

11


mạng của quần chúng. Vì vậy, họ rất am hiểu tâm tư, tình
cảm và nguyện vọng của quần chúng. Họ là những người duy
trì và củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và quần
chúng.
V.I.Lenin từng nói: Quần chúng ủng hộ chúng ta, sức
mạnh của chúng ta là ở đó, nguồn sức mạnh vơ địch của
chúng ta chính là ở đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũn khẳng định: Dân chúng đồng
lịng, việc gì cũng làm được. Dân chúng khơng ủng hộ, việc gì
cũng khơng nên. “ Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở
nơi dân.
Vì vậy, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân; phải giữ vững mối quan hệ máu thịt Đảng với nhân
dân, Đảng phải được nhân dân tin yêu, kính trọng. Để có thể
hồn thành nhiệm vụ đó, địi hỏi Đảng phải phát huy vai trò
của từng Đảng viên và cả đội ngũ đảng viên nhằm giảng giải
lý luận và chú nghĩa cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ và
phải tập trung sức mạnh của nhân dân thành khối thống nhất
và phải biết “ý kiến dân chúng”, “học dân chúng”, “nâng cao
dân chúng”.
Như vậy đội ngũ đảng viên là nhân tố quan trọng tăng
cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân mối quan hệ quyết định sự thành bại của công cuộc Cách
mạng do Đảng lãnh đạo.
*Quan hệ giữa đảng viên và tổ chức Đảng:


12


Đảng viên là tế bào cấu thành tổ chức Đảng. Đảng mạnh
hay yếu thể hiện ở chất lượng đội ngũ đảng viên tốt hay kém.
Chất lượng đội ngũ đảng viên là vấn đề cơ bản quyết định
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đảng viên có
chất lượng cao là cơ sở xây dựng tổ chức đảng vững mạnh.
Ngược lại, tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh là điều
kiện quan trọng quyết định chất lượng đội ngũ đảng viên. Tổ
chức Đảng quyết định chất lượng đảng viên, tổ chức mạnh
mới có đảng viên tốt. Đảng viên được sinh hoạt và rèn luyện
trong một tổ chức Đảng vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu cao, sẽ là môi trường thuận lợi cho đảng viên tu
dưỡng, rèn luyện và trưởng thành, càng có điều kiện để nâng
cao uy tín và danh hiệu người đảng viên cộng sản, cổ vũ thêm
tích cực và lịng nhiệt tình cách mạng của người chiến sĩ tiên
phong
Đúng như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Mỗi đảng viên
tốt, mỗi chi bộ tốt là Đảng được mạnh thêm một phần; còn
đảng viên kém, chi bộ kém là những khâu yếu của Đảng” và
“Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh. Chi bộ mạnhlaf do đảng
viên hăng hái và gương mẫu”.
Đảng viên có quyền:
1. Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng; biểu quyết cơng việc của Đảng.
2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của
Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.


13


3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và
đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến
nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.
4. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định
công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.
Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu
quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu
quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Định kỳ hằng tháng, theo hướng dẫn của Ban Tuyên giáo
Trung ương và cấp uỷ cấp trên, các cấp uỷ đảng thơng tin cho
đảng viên về tình hình và nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; các
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
thời sự trong nước và thế giới phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ,
đặc điểm của đảng viên, góp phần nâng cao nhận thức, tạo
điều kiện cho đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Đảng viên được thông báo ý kiến nhận xét của cấp ủy
nơi làm việc và nơi cư trú khi xem xét bổ nhiệm, giới thiệu bầu
cử; được trình bày ý kiến với tổ chức đảng, cấp uỷ đảng khi
xem xét thi hành kỷ luật đối với mình.
Đảng viên được phê bình, chất vấn, báo cáo kiến nghị
trực tiếp hoặc bằng văn bản trong phạm vi tổ chức của Đảng
về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp, về
những vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của tổ chức đảng hoặc chức trách, nhiệm vụ, phẩm chất đạo
đức của đảng viên đó; chịu trách nhiệm trước tổ chức đảng về

ý kiến của mình. Khi nhận được ý kiến phê bình, chất vấn, báo
14


cáo, kiến nghị, tổ chức đảng và đảng viên có trách nhiệm phải
trả lời, chậm nhất là 30 ngày làm việc đối với tổ chức cơ sở
đảng và đảng viên; 60 ngày làm việc đối với cấp huyện, tỉnh
và tương đương và 90 ngày làm việc đối với cấp Trung ương;
những trường hợp phức tạp cần phải kéo dài hơn thời gian quy
định trên thì phải thơng báo cho tổ chức đảng và đảng viên
biết lý do.
Hiện nay, bên cạnh phần lớn các đảng viên không ngừng
học tập, rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức chính trị,
trình độ chun môn nghiệp vụ, trong công tác cũng như
trong sinh hoạt tại khu dân cư, luôn thể hiện là một đảng viên
vừa hồng, vừa chuyên, được người dân yêu mến, thì cũng còn
một số đảng viên xem nhẹ nhiệm vụ phục vụ Nhân dân. Biểu
hiện rõ nhất là xa rời quần chúng, triển khai nhiệm vụ một
cách quan liêu, mệnh lệnh, giấy tờ, yêu cầu người này làm cái
này, người khác làm cái nọ, nhưng bản thân thì thiếu tính phụ
trách, bng lỏng cơng việc, mặc ai nấy làm gì thì làm, kết
quả tốt hay xấu không quan tâm, nhất là khi người dân cần
đến mình hỗ trợ, hướng dẫn thì trốn tránh trách nhiệm; hoặc
nói và làm khơng thống nhất, nói hay nhưng làm dở, nên tính
nêu gương bị lu mờ…
Để được dân yêu, dân mến thì mỗi đảng viên cần đề cao
trách nhiệm thể hiện tốt vị trí, vai trị nêu trên thơng qua nói
và làm theo tấm gương của Bác “Hết lòng, hết sức phụng sự
Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”.
3. Những vấn đề có tính ngun tắc về xây dựng

đội ngũ đảng viên.

15


Nâng cao chất lượng đảng viên là một nhiệm vụ có tầm
quan trọng nhiều mặt: củng cố đội ngũ Đảng, nâng cao chất
lượng lãnh đạo của Đảng, tiếp tục phát huy quy mô, nền tảng
công tác tổ chức, công tác cán bộ của Đảng. Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mac - Lenin đã khẳng định sức mạnh của
tổ chức, chỉ ra cái cốt lõi của việc tạo dựng tổ chức chính là
xây dựng đội ngũ đảng viên. Mọi biểu hiện coi nhẹ nguyên
tắc, thái độ không nghiêm túc, không khoa học trong công tác
xây dựng đội ngũ đảng viên là một trong những nguyên nhân
làm cho Đảng lỏng lẻo về tổ chức, giảm sút khả năng lãnh
đoạ và sức chiến đấu; trong những trường hợp mắc sai lầm
nghiêm trọng có thể làm biến chất hoặc tan rã Đảng
Thấm nhuần tư tưởng của các nhà kinh điển, đồng thời
thấy hết tính chất khó khăn, phức tạp trong việc xây dựng đội
ngũ đảng viên trong một nước nông nghiệp lạc hậu, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thường lưu ý việc xây dựng đội ngũ đảng viên
của Đảng ta là phải coi trọng chất lượng, cách tiến hành phải
cẩn trọng, chắc chắn.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, khi chủ nghĩa xã hội và
nhiều đảng cộng sản đang lâm vào khủng hoảng toàn diện,
sâu sắc; trước thực trạng đội ngũ đảng viên của Đảng ta thì
nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng càng trở nên cấp bách;
cơng tác xây dựng Đảng nói chung, vấn đề xây dựng đội ngũ
đảng viên nói riêng cần chuyển biến kịp thời, vừa phải quán
triệt các nguyên lý xây dựng một chính đảng kiểu mới, vừa

phải tổng kết kinh nghiệm xây dựng đội ngũ Đảng viên của
Đảng ta để tìm ra những vấn đề có tính quy luật nhằm xây

16


dựng thành công đội ngũ Đảng viên của Đảng, đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Xây dựng đội ngũ đảng viên vốn là nhiệm vụ hệ trọng và
phức tạp, phải giải quyết nhiều mối quan hệ nhằm tạo ra
được một đội ngũ đảng viên trung thành với sự nghiệp cách
mạng. Do vậy, trong việc xây dựng đội ngũ đảng viên phải
thực sự có thái độ nghiêm túc, cách làm khoa học. Theo chỉ
dẫn của các nhà kinh điển và kinh nghiệm thực tiễn cho thấy,
muốn xây dựng thành công đội ngũ đảng viên bảo đảm chất
lượng phải tuân theo những vấn đề có tính ngng vấn đề có
tính nguyên tắc sau đây:yên tắc sau đây:
-

Vấn đề quan trọng hàng đầu của việc xây dựng đội ngũ đảng
viên là phải khẳng định được bản chất chính trị của Đảng, coi
đó là căn cứ, phương hướng chỉ đạo tồn bộ quá trình xây
dựng đội ngũ đảng viên.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac - Lenin, mỗi chính
đảng đều mang bản chất chính trị riêng. Bản chất này xét cho
đến cùng đều do hệ tư tưởng, đường lối, tính chất và hành
động của đảng đó quy định.
Ngồi ra, do sự trưởng thành trong những hoàn cảnh lịch
sự cụ thể khác nhau mà mỗi đảng có bản sắc, truyền thống
riêng.

Khẳng định bản chất chính trị của một đảng có ý nghĩa
quan trọng trong cơng tác xây dựng đảng, nó vừa chỉ rõ mục
tiêu xây dựng đảng, vừa có giá trị hiệu triệu những người có
chung mục đích hướng về Đảng. Mơ hồ hoặc do dự trong việc
khẳng định bản chất của Đảng thì sớm muộn sẽ làm mất

17


phương hướng xây dựng đội ngũ của Đảng. Kinh nghiệm cho
thấy, trong mọi thời kì, đặc biệt ở những thời điểm cách mạng
gặp khó khăn, việc khẳng định lập trường chính trị trong xây
dựng Đảng càng trở nên bức thiết, nó liên quan đến sự tồn
vong của một đảng.
Trong lịch sử xây dựng đảng, Đảng ta luôn khẳng định
phương hướng tăng cường bản chất giai cấp công nhân, phấn
đấu xây dựng một Đảng Mac - Lenin chân chính. Để đáp ứng
yêu cầu xây dựng Đảng trong tình hình mới, nhất là trong bối
cảnh quốc té đang có nhiều diễn biến phức tạp hiện nay,
Đảng ta đã tiếp tục khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của
giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập,
dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ
nghĩa cộng sản”.
Để giữ vững bản chất chính trị của mình: “ Đảng lấy chủ
nghĩa Mac - Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm

vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất
nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng
đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân”. Trước sau như
một, Đảng vẫn xác định toàn bộ hoạt động của mình là phục
vụ Tổ quốc, phục vụ giai cấp cơng nhân và nhân dân làm mục
đích cao nhất, ngồi ra Đảng khơng cịn lợi ích nào khác. Đó
là bản chất của Đảng ta, đồng thời cũng là phương hướng
18


chính trị chỉ đạo cơng tác xây dựng đội ngũ đảng viên của
Đảng trong giai đoạn cách mạng hiên nay.
-

Xây dựng đội ngũ đảng viên, vấn đề then chốt là phải xác
định đúng đắn những điều kiện của người trở thành đảng viên
và có những quy định khoa học chặt chẽ trong việc kết nạp
người vào Đảng.
Điều kiện trở thành đảng viên và các nguyên tắc kết nạp
người vào Đảng là những vấn đề then chốt trong việc hình
thành Đảng. Đây là một trong những điểm trọng yếu nhất
thường diễn ra cuộc đấu tranh giữa một bên là lập trường
cách mạng của chủ nghĩa Mac - Lenin với những trào lưu tư
tưởng cơ hội, xét lại đủ màu sắc.
Với mục đích xây dựng thành cơng một cơng đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, điều 1, Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ những
điều kiện của người được xét để công nhận là đảng viên của
Đảng. Để bảo đảm bản chất cách mạng của Đảng, hướng lựa
chọn kết nạp Đảng viên phải là những người trải qua rèn

luyện trong phong trào cách mạng, đã chứng tỏ là người ưu tú
nhất trong quần chúng, có giác ngộ về lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa, có động cơ vào Đảng đúng đắn, trung thầnh Tổ quốc,
với chủ nghĩa xã hội, gương mẫu và phát huy tác dụng tích
cực trong lao động, sản xuất, cơng tác và học tập, có liên hệ
chặt chẽ với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm.

-

Phải tổ chức lãnh đạo hoạt động của đội ngũ Đảng viên , đồng
thời phải thường xuyên tiến hành sàng lọc, đưa những người
không đủ tiêu chuẩn ra khỏi Đảng.

19


Là một Đảng hành động, nên đội ngũ đảng viên của
Đảng nhất thiết phải được đưa vào hoạt động thực tiễn; song,
phải tổ chức, có lãnh đạo chung để vừa thống nhất hoạt động
lao động, vừa phát huy vai trò tự giác, sáng tạo của người
đảng viên, Đảng phải xác định phương hướng, nhiệm vụ cơ
bản của Đảng viên mới thiết thực góp phần tạo nên những
chuyển biến chung trong hoạt động lãnh đạo của Đảng.
Trong từng giai đoạn cụ thể, Đảng phải xác định rõ tiêu
chuẩn đảng viên để làm cơ sở phân tích chất lượng, sàng lọc
và đưa những người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi Đảng.
-

Xây dựng đội ngũ đảng viên phải triệt để khai thác những yếu
tố góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời xây

dựng hệ thống tổ chức khoa học, hợp lý để quản lý, lãnh đạo
đảng viên.
Kinh nghiệm chung trong xây dựng đảng của các đảng
cộng sản cho thấy, đây là những vấn đề khoa học, có tác
dụng to lớn, tăng cường vai trò lãnh đoạ Đảng. Tuy nhiên để
xử lý những yêu cầu nêu trên có hiệu quả, đỏi hỏi các cấp bộ
đảng phải nắm vững những vấn đề có ngun tắc, vận dụng
linh hoạt trong những hồn cảnh cụ thể. Ngược lại, nếu tuỳ
tiện xã nguyên tắc hoặc giáo điều, máy móc trong xử lý các
yêu cầu nêu trên sẽ dưa hiệu quả là Đảng đông mà không
mạnh.
Theo nguyên tắc của một Đảng kiểu mới, mọi đảng viên
phải tham gia sinh hoạt trong một tổ chức nhất định của
Đảng, mà cụ thể và trực tiếp là trong một chi bộ. Kinh nghiêm
cho thấy, để việc giáo dục, quản lý, lãnh đạo đảng viên có

20


hiệu quả, chi bộ phải giữ đúng chế độ sinh hoạt, giữ nghiêm kỉ
luật của Đảng, nội dung sinh hoạt phải phong phú, phương
hướng lãnh đo thiết thực.
-

Thường xuyên giáo dục ý thức xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng
và bồi dưỡng mọi mặt cho đội ngũ đảng viên ngang tầm
nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn.
Xây dựng và bảo vệ Đảng là hai nhiệm vụ cơ bản gắn bó
trong suốt quá trình trưởng thành của Đảng. Đảng phải
thường xuyên giáo dục ý thức trách nhiệm bảo vệ Đảng cho

đội ngũ đảng viên.
Trong tình hình hiện nay, để làm thất bại âm mưu “diễn
biến hồ bình”, nhiệm vụ tự bảo vệ mình càng trở nên cấp
bách và có tầm quan trọng đặc biệt đối với các đảng cộng sản
cầm quyền, nó liên quan trực tiếp đến sự sống cịn của Đảng
và vận mệnh của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhận thức được vấn
đề đó, Đảng ta đã yêu cầu đội ngũ đảng viên phải nâng cao
cảnh giác cách mạng, giữ vững chính trị nội bộ trong tình hi

-

Thường xun chấn chỉnh đội ngũ đảng viên của Đảng, đặc
biệt chú trọng ở thời điểm trước và sau bước ngoặt của cách
mạng.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, chấn chỉnh đội ngũ đảng
viên phải là việc làm thường xuyên; song, cần đặc biệt chú
trọng ở thời điểm trước và sau những bước ngoặt của Cách
mạng. Vì ở những thời điểm này, Đảng thường đứng trước
những thử thách to lớn, phức tạp rất khác nhau. Trước bước
ngoặt của Cách mạng, đỏi hỏi toàn Đảng phải có những nỗ lực
vượt bậc mới hồn thành được nhiệm vụ. Vì vậy, chấn chỉnh,

21


xiết chặt đội ngũ đảng viên ở thời điểm này chính sự chuẩn bị
cần thiết bảo đảm cho Đảng lãnh đạo giành thắng lợi. Sau
những bước ngoặt cách mạng, việc chấn chỉnh đội ngũ đảng
viên vẫn phải thường xuyên đặt ra, vì nếu cách mạn phát
triển thuận lợi, trong Đảng dễ nảy sinh ra tư tưởng chủ quan,

thoả mãn; ngược lại, nếu cách mạng gặp khó khăn, thất bại
tạm thời, dễ bi quan, dao động. Đây là những nguy cơ chung
đối với các đảng cộng sản; song, nguy cơ đó càng tăng hơn
đối với những đảng có phần đơng đảng viên xuất thân từ
những thành phần không phải là vô sản, nhất là khi Đảng
thiếu quan tâm, giáo dục, rèn luyện lập trường giai cấp công
nhân. Kinh nghiệm chỉ đạo xây dựng Đảng ta của Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho thấy: một mặt, phải luôn làm cho đội ngũ đảng
viên rèn luyện bản lĩnh “thắng không kiêu, bại không nản”;
mặt khác, để tránh lúng túng, bị động sau những bước ngoặt
cách mạng, cấp chỉ đạo vĩ mô của Đảng phải nắm vững xu
thế vận động của cách mạng, dự đoán chính xác diễn biến
tình hình để sớm có kế hoạch chấn chỉnh, củng cố Đảng cho
phù hợp.

22


CHƯƠNG II
ĐẤU TRANH NGĂN CHẶN SỰ SUY THOÁI VỀ TƯ
TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG VIÊN TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ HỘI
NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY.

1. Sự suy thối về tư tưởng chính trị là nguy cơ
liên quan đến tồn vong của Đảng, của chế độ
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, do tác động của
nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, tình trạng suy thối
về tư tưởng chính trị cùng với suy thoái về đạo đức, lối sống
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên diễn biến phức tạp. Đại

hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam (2016) tiếp tục nhận định
tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi;
có mặt, có bộ phận cịn diễn biến phức tạp hơn; một số rất ít
cán bộ, đảng viên, bị phần tử xấu lợi dụng, lôi kéo, kích động,
xúi giục, mua chuộc, đã có tư tưởng, việc làm chống đối Đảng,
Nhà nước.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã chỉ rõ chín biểu hiện
suy thối về tư tưởng chính trị. Cùng với đó, Nghị quyết cũng
chỉ ra chín biểu hiện suy thối về đạo đức, lối sống và chín
biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đó là bước phát
triển về nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phát biểu bế
23


mạc Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, đồng chí Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: Cái mới của lần này là Trung ương
thẳng thắn chỉ ra một cách có hệ thống những biểu hiện của
sự suy thối về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”. Trong đó nguy hiểm nhất là sự phai
nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội
chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin, nói trái, làm trái
quan điểm, đường lối của Đảng; thậm chí sa sút ý chí chiến
đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ
họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; khơng
cịn ý thức hết lịng vì nước, vì dân, khơng làm trịn bổn phận,
chức trách được giao; khơng thực hiện đúng các nguyên tắc tổ

chức sinh hoạt đảng; sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi,
hám danh, tham nhũng, ham quyền lợi; bè phái cục bộ, mất
đoàn kết; quan liêu, xa dân, vơ cảm trước khó khăn, bức xúc
của dân.
Suy thối về tư tưởng chính trị và “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” có mối quan hệ biện chứng với nhau: suy thối
về tư tưởng chính trị trong đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”. “Tự diễn biến” xảy ra ở hai phạm vi:
đối với cá nhân và tổ chức. "Tự diễn biến" đối với cá nhân là
sự thay đổi về nhận thức chính trị - xã hội, thay đổi về quan
điểm, tư tưởng theo chiều hướng tiêu cực, xấu đi, nhận thức
và hành động xa rời, nhận thức, đi ngược lại chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. "Tự diễn biến" đối với
tổ chức là những thay đổi ở tầm vĩ mô về đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật, làm thay đổi bản chất chính trị,

24


thậm chí làm suy yếu và tan rã tổ chức đó. "Tự diễn biến" của
cá nhân có thể dẫn đến sự thay đổi của tập thể, tổ chức. "Tự
diễn biến" của tổ chức chi phối, áp đặt, điều khiển đối với các
cá nhân trong tổ chức đó.
"Tự chuyển hóa" là hậu quả tất yếu của các quá trình "tự
diễn biến", nếu không được ngăn chặn kịp thời. "Tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" có mối quan hệ khơng tách rời với
"diễn biến hịa bình". Đó là mối quan hệ giữa khách quan và
chủ quan, giữa nhân tố bên ngoài và bên trong. "Diễn biến
hịa bình" thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Đến lượt
nó, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thúc đẩy "diễn biến hịa

bình", trong đó "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" là nhân tố bên
trong nguy hiểm nhất.
Như vậy, sự suy thối về tư tưởng chính trị sẽ dẫn đến
"tự diễn biến", "tự chuyển hóa" và q trình này chỉ là một
bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khơn lường, có thể
dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch,
phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và
dân tộc, đe dọa sự sống còn của Đảng, của chế độ. Sự sụp đổ
chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xơ và Đơng Âu đã cho thấy
điều đó.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam đẩy mạnh đấu tranh
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị
Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng
chính trị là nhiệm vụ quan trọng, cơ bản, lâu dài của Đảng.
Trong hơn 30 năm đổi mới, bám sát thực tế trong mỗi giai
đoạn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thường xuyên, kịp thời lãnh

25


×