Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

(Luận văn thạc sĩ) GIÁM SÁT CỦA ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.41 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH THỊ PHÚC

GIÁM SÁT CỦA
ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - Năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH THỊ PHÚC

GIÁM SÁT CỦA
ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM THỊ TÍNH

HÀ NỘI - Năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tơi. Các số liệu phân tích
trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn chưa từng được cơng
bố dưới bất kỳ hình thức nào. Luận văn đã thừa kế các kết quả nghiên cứu của một
số nghiên cứu khác dưới hình thức trích dẫn. Các nguồn trích dẫn đã được liệt kê
trong danh mục tài liệu tham khảo của luận văn.
Tác giả luận văn

Đinh Thị Phúc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ GIÁM SÁT CỦA ỦY
BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM ..........................................................13
1.1. Khái niệm, đặc điểm giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ...............13
1.2. Nội dung giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở cấp huyện ...........18
1.3. Hình thức, quy trình giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ................26
1.4. Các điều kiện bảo đảm cho hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam ...................................................................................................................31
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG GIÁM SÁT CỦA ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ
QUỐC HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM ..............................................36
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam .............36
2.2. Các bảo đảm cho hoạt động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện Quế Sơn,
tỉnh Quảng Nam ........................................................................................................38
2.3. Thực trạng hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện Quế
Sơn, tỉnh Quảng Nam ................................................................................................ 42
2.4. Đánh giá chung hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện
Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam ........................................................................................52

CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG GIÁM SÁT
CỦA ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG
NAM .........................................................................................................................59
3.1. Quan điểm tăng cường giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc từ thực tiễn
huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam .............................................................................59
3.2. Các giải pháp tang cường giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam ..........................................................63
KẾT LUẬN ..............................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GSĐTCCĐ

: Giám sát đầu tư của cộng đồng

HĐND

: Hội đồng nhân dân

MTTQ

: Mặt trận Tổ quốc

MTTQVN

: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

TTND


: Thanh tra nhân dân

UBND

: Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong gần 90 năm qua cùng với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam,
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã khơng ngừng đổi mới, mở rộng những hình
thức tổ chức, các tên gọi khác nhau trong mỗi giai đoạn cách mạng nhằm để đáp
ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đọan lịch sử của đất nước và
đã có nhiều thành quả, những nhân tố quyết định cho sự nghiệp thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
Ở nước ta trong điều kiện duy nhất một Đảng cầm quyền, khơng đa ngun,
đa đảng. Do đó khơng thể khơng tồn tại những nguy cơ chủ quan, tiềm ẩn mà Đảng
ta đang phải đối mặt đó là lạm quyền và quan liêu, độc đoán, vi phạm dân chủ trong
bộ máy Đảng và Nhà nước. Đây cũng chính là một trong những lý do khiến bộ máy
Nhà nước ta tồn tại những vấn đề như nạn tham nhũng, quan liêu, cửa quyền của
các cán bộ, cơng chức hành chính, tình trạng lãng phí ngân sách và tài ngun quốc
gia, tình trạng mất dân chủ trong Đảng, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân đang
diễn ra khá phổ biến và ngày càng nghiêm trọng, gây nhiều nhức nhối trong xã hội.
Những tồn tại trên đã làm cho uy tín của bộ máy Nhà nước và vai trò lãnh đạo của
Đảng bị giảm sút, uy tín của cán bộ cơng chức bị phai nhạt.
Do vậy, vấn đề cấp bách hiện nay là cần phải xem lại hệ thống kiểm soát
quyền lực, vai trò giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm giới hạn
quyền lực, tránh xu lướng lạm quyền, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đứng trước tình thế cấp bách như vậy, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các
cấp phải nâng cao vai trò giám sát của mình theo quy định của pháp luật.

Từ khi có Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2015); Hiến pháp năm 2013 ghi
nhận vị trí, vai trị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Quyết định số 217/QĐ-TW
ngày 12/12/2013 về việc ban hành quy chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các Đồn thể chính trị - xã hội…thì phạm vi giám sát của Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã được mở ra ở tất cả các lĩnh vực trong
1


đời sống xã hội, nhằm nâng cao vị thế của Mặt trận, mang lại những thành quả thiết
thực cho nhân dân. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam,
trong thời gian qua cũng đã bám sát các quy định trên, đã và đang thực hiệt tốt,
mang lại những kết quả khả quan, nhưng trong quá trình triền khai hoạt động cũng
cịn những hạn chế, nội dung và phương thức thực hiện chưa phát huy hết khả năng
vốn có của mình.
Đứng trước tình hình trên, tại Đại hội Đại biểu Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam lần thứ X, nhiệm kỳ 2019-2024 đã nhấn
mạnh: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong huyện cần phải tăng cường
hơn nữa hoạt động giám sát trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là giám
sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
liên quan đến quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Mặc dù vậy, cho đến nay, công tác giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam các cấp trong huyện vẫn còn những hạn chế nhất định, nhiều lĩnh vực giám sát
chưa được xây dựng kế hoạch, công tác phối hợp giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam các cấp trong huyện và các tổ chức thành viên chưa chặt chẽ, đồng bộ,
cơng tác giám sát cịn rời rạc, từng hội đoàn thể nào tự thực hiện giám sát từng nội
dung đó, lĩnh vực giám sát cịn hẹp nên hiệu quả pháp lý và công tác thuyết phục
chưa cao.
Xuất phát từ những yêu cầu về lý luận và thực tiễn, có ý nghĩa thời sự quan
trọng, nên tôi chọn đề tài “Giám sát của Ủy Ban Mật trận Tổ quốc Việt Nam từ thực
tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học, với

mong muốn góp phần vào việc tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam nói chung và của Ủy ban Mặt trận huyện Quế Sơn, tỉnh
Quảng Nam nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giám sát ở cơ sở là vấn đề quan trọng trong đời sống chính trị ở nước ta hiện
nay, bởi thông qua hoạt động giám sát sẽ cho thấy sự tham gia của người dân và các
tổ chức chính trị - xã hội trong việc giám sát, kiểm tra các kế hoạch thực hiện phát
2


triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, tính dân chủ, minh bạch và cơng khai trong
đời sống xã hội. Do vậy, hoạt động giám sát, nhất là hoạt động giám sát của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) đã trở nên khá quen thuộc với giới học giả
pháp lý cũng như giới hoạt động chính trị. Những nghiên cứu sớm nhất về hoạt
động giám sát là các tham luận tại Hội thảo về giám sát của MTTQVN từ năm
1997. Từ sau năm 2000, số lượng các đề tài nghiên cứu về hoạt động này ngày càng
nhiều hơn. Song song với đó, hoạt động giám sát của MTTQVN được quy định cụ
thể bằng các văn bản quy phạm pháp luật.
Thời gian qua đã có nhiều sách chuyên khảo, cơng trình nghiên cứu về giám
sát, phản biện xã hội của MTTQVN. Trong số đó có thể kể đến:
Sách chuyên khảo: “Vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay” của TS. Nguyễn Thị Hiền Oanh
[5], trên cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động của MTTQ Việt Nam, mối quan hệ
giữa MTTQ và quyền làm chủ của nhân dân, trước hết là quyền làm chủ về chính
trị. Tác giả đã tiến hành khảo sát và phân tích thực trạng giám sát của Mặt trận Tổ
quốc đối với quyền lực nhà nước thời gian qua, và đi đến nhận định rằng cơ chế
chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát còn
thấp, chưa đáp ứng đòi hỏi của xã hội. Từ đó, tác giả đề xuất cải cách và hoàn thiện
bộ máy nhà nước, xây dựng cơ chế nhằm tạo điều kiện để nhân dân tham gia đóng
góp, xây dựng, cũng như giám sát, kiểm tra hoạt động chính quyền và cán bộ, đảng

viên, để Mặt trận thực hiện tốt vai trị giám sát của mình, bảo đảm quyền làm chủ
của nhân dân đối với nhà nước.
Trong sách chuyên khảo của TS. Nguyễn Thị Hiền Oanh, năm 2010: “Cơ chế
giám sát của nhân dân đối với bộ máy Đảng và Nhà nước - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” [37] đã cho thấy cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ
máy Đảng và Nhà nước thơng qua hai hình thức: một là, thông qua các tổ chức đại
diện như Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND), MTTQVN, các đoàn thể…; hai là,
trực tiếp giám sát và trên thực tế, quyền dân chủ, quyền giám sát của nhân dân hiện
nay nhiều khi cịn mang tính hình thức, do đó, kết quả không đạt được như mong
3


muốn, vì vậy, cuốn sách này cũng chưa có những nghiên cứu sâu vào hoat động
giám sát của MTTQVN mà chỉ nhìn nhận hoạt động này một cách khái quát chung
chung.
Cuốn “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay” [26], tác giả Thang Văn Phúc và Nguyễn
Minh Phương đã xây dựng cơ sở lý luận - thực tiễn đổi mới tổ chức, hoạt động của
MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội làm cơ sở để phân tích thực trạng tổ chức,
hoạt động của MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay; từ đó
đề xuất giải pháp đổi mới tổ chức, hoạt động của MTTQ và các tổ chức chính trị xã hội, góp phần củng cố hệ thống chính trị, tạo nên động lực thực hiện thành cơng
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tác giả Nguyễn Mạnh Bình (2017) đã khẳng định, một trong những tiền đề có
ý nghĩa quan trọng để thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, trong đó xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, đó là việc xây dựng và hồn thiện cơ chế pháp lý giám sát
xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước. Xuất phát từ quan điểm đó, qua
cuốn sách “Hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối với việc thực thi quyền
lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay” [5], tác giả đã phân tích sự hình thành và phát

triển cơ chế giám sát xã hội; nghiên cứu thực trạng các bộ phận cấu thành của cơ
chế pháp lý giám sát xã hội; phân tích các u cầu cấp thiết của việc hồn thiện cơ
chế pháp lý giám sát xã hội đối với việc thực thi quyền lực nhà nước, từ đó đề xuất
một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối với việc thực
thi quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Đề tài nghiên cứu có thể kể đến, đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.10-07
(2006): “Xây dựng cơ chế pháp lý đảm bảo sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối
với hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước và các thiết chế tổ chức trong hệ thống
chính trị” do GS.TS Đào Trí Úc làm chủ nhiệm [36]. Đề tài đã làm rõ vấn đề lý
luận về quan điểm của Đảng trong việc phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp
4


quyền và nhu cầu về sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.
Luận án tiến sĩ Chính trị học năm 2010: “Thực hiện chức năng giám sát và
phản biện xã hội của MTTQVN hiện nay” của tác giả Nguyễn Thọ Ánh [1], đã
nghiên cứu chức năng giám sát của MTTQVN dưới hình thức là một loại quyền lực
xã hội tồn tại trong mối quan hệ thống nhất với quyền lực chính trị và quyền lực nhà
nước, luận án đã nêu lên được những vấn đề lý luận cơ bản của giám sát và phản
biện xã hội, đưa ra nội dung và mục đích giám sát, trong đó, tác giả đã khẳng định
giám sát là một yêu cầu tất yếu của việc kiểm soát quyền lực của nhân dân. Tuy
nhiên, luận án vẫn chưa đề cập đầy đủ các hoạt động giám sát quan trọng của
MTTQVN mà chỉ tập trung đưa ra những ưu và hạn chế trong một số hoạt động
giám sát cụ thể. Bên cạnh đó, luận án này được thực hiện vào năm 2010, khi còn
Luật MTTQVN 1999 và Hiến pháp 1992, so với tình hình hiện nay, khi hoạt động
giám sát đã được quy định lại trong Luật MTTQVN 2015 và Hiến pháp 2013 thì
cơng trình này chưa được cập nhật những điểm mới cũng như không phù hợp với
tình hình của đất nước hiện tại. Do đó, cần nghiên cứu hoạt động giám sát của
MTTQVN ở phạm vi rộng hơn theo Hiến pháp 2013 và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam 2015.

Một số luận văn thạc sĩ về hoạt động giám sát của MTTQVN như: Trần Thị
Phương Huyên (2020), “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn
thành phố Hồ Chí Minh” [22]. Lê Thị Mỹ (2019), “Giám sát của Ủy ban Mặt trận
Tổ Quốc Việt Nam từ thực tiễn huyện An Lão, Bình Định” [24]; Trịnh Huy Hiếu
(2020), “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam” [18]; Nguyễn Văn Đông (2020), “Thực hiện chính sách giám sát
và phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam huyện Thăng Bình,
tỉnh Quảng Nam” [16]; Nguyễn Văn Thanh (2019), “Giám sát, phản biện xã hội
của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”
[30]. Các cơng trình này đều đi theo một khung phân tích như sau: trên cơ sở
nghiên cứu những vấn đề lý luận, làm rõ khái niệm, nội dung, vai trò giám sát của
MTTQVN, các tác giả tiến hành phân tích, đánh giá cụ thể thực trạng hoạt động
5


giám sát của MTTQVN trên địa bàn nghiên cứu; làm rõ những hạn chế, nguyên
nhân và những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết. Từ đó, đề xuất quan điểm và giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của MTTQVN trên địa bàn nghiên cứu
nói riêng, trên địa bàn các tỉnh, thành khác ở Việt Nam nói chung. Nhìn chung, hoạt
động giám sát của MTTQVN ở các luận văn này chỉ được nghiên cứu khái quát và
song song với hoạt động phản biện xã hội của MTTQVN.
Ngoài ra, hoạt động giám sát của MTTQVN cũng được đề cập đến ở nhiều bài
viết, tạp chí khác. Các bài viết này đã góp phần làm rõ thực trạng cơng tác giám sát
của MTTQVN trong thời gian qua, cũng như những kiên nghị đề xuất nhằm phát
huy vai trò của MTTQVN trong việc thực hiện chức năng giám sát. Bùi Thị Nguyệt
Thu (2016) trong bài “Hoạt động giám sát của Mặt trận tổ quốc Việt Nam - Thực
tiễn và một số kiến nghị” [31] đã phân tích thực tiễn giám sát của MTTQVN những
năm trước 2015 theo luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999 trên các nội dung:
Giám sát đối với hoạt động của tổ chức Đảng, đảng viên; Giám sát hoạt động của cơ
quan dân cử và đại biểu dân cử; Giám sát đối với các cơ quan hành chính nhà nước;

Giám sát hoạt động tư pháp; Giám sát việc thực thi chính sách pháp luật; Giám sát
việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; Giám sát đối với cán bộ, công chức và
đảng viên. Tác giả đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của kết quả hoạt
động giám sát MTTQVN theo luật MTTQ năm 1999. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra
một số kiến nghị nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam năm 2015 về giám sát.
GS. Lưu Văn Đạt với bài viết: “Tăng cường hoạt động giám sát của Mặt trận
Tổ quốc đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức” [15], đã
khẳng định chức năng giám sát của MTTQ các cấp đối với hoạt động của các cấp
chính quyền là thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tác giả đề cập đến nội
dung giám sát của MTTQ đối với cơ quan nhà nước, cán bộ công chức như: giám
sát việc ban hành và thi hành các chế độ, chính sách, pháp luật, văn bản pháp quy
của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, trực tiếp là các quyết định của
UBND cùng cấp; giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn;
6


giám sát thông qua hoạt động của Ban TTND; giám sát công tác tiếp dân và xử lý
đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Tác giả đã chỉ ra một số quy định cịn chồng
chéo, khơng đồng bộ và thiếu thống nhất giữa Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Luật Khiếu nại tố cáo, Luật Thanh tra. Theo tác giả, hoạt động giám sát chưa có
hiệu quả, chưa đồng đều, mang tính tự phát; phương thức giám sát đơn điệu, hiệu
lực giám sát còn thấp. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp như bổ sung
thẩm quyền giám sát của Mặt trận đối với hoạt động hành chính nhà nước ở địa
phương, tách Luật Thanh tra thành Luật Thanh tra Chính phủ và Luật giám sát nhân
dân, hoàn thiện Luật Khiếu nại tố cáo.
Tác giả Nguyễn Thanh Bình với bài viết “Điều kiện đảm bảo cho hoạt động
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” [6], đã đưa ra một số
hạn chế cơ bản trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận, đề xuất
một số giải pháp nâng cao hoạt động giám sát và phản biện xã hội như: Cần nâng

cao ý thức chính trị và ý thức pháp luật của nhân dân; Hoàn thiện cơ chế pháp lý
bảo đảm cho Mặt trận tham gia hoạt động giám sát và phản biện xã hội theo hướng:
Xây dựng cơ chế pháp lý cụ thể bảo đảm cho nhân dân quyền được kiểm tra, giám
sát hoạt động; Nghiên cứu để sớm ban hành một số luật: Luật về hoạt động giám sát
của nhân dân (trong đó qui định đầy đủ và rõ ràng về nội dung, hình thức, cơ chế và
hiệu quả pháp lý của hoạt động giám sát của Mặt trận; qui định rõ về trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước trước các yêu cầu kiến nghị giám sát của Mặt trận cũng
như bảo đảm những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện quyền và trách nhiệm
giám sát của Mặt trận); Luật về hoạt động phản biện xã hội (khẳng định sự cần
thiết, tính chất nhân dân của phản biện xã hội cũng như chủ thể, đối tượng phản
biện, cơ chế phản biện...); tổ chức triển khai Luật Phòng, chống tham nhũng một
cách toàn diện, nâng Pháp lệnh Dân chủ cơ sở thành Luật Dân chủ cơ sở nhằm tạo
cơ sở pháp lý cho việc thực hành dân chủ trực tiếp ở cơ sở.
Ngô Sách Thực (2017) trong bài “Phát huy vai trò giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” [34] đã chỉ ra những thực trạng trong công tác
giám sát của MTTQVN các cấp giai đoạn 2014-2017. Tác giả nhận định rằng Ủy
7


ban MTTQ Việt Nam ở 63 tỉnh, thành phố đã chủ động, sáng tạo triển khai nhiệm
vụ giám sát theo Quyết định số 217 của Bộ Chính trị trên cơ sở các hướng dẫn và
định hướng công tác giám sát hằng năm của Ban Thường trực Ủy ban Trung Ương
MTTQVN. Đồng thời, chủ động bám sát tình hình thực tế tại địa phương và những
vấn đề bức xúc mà cử tri kiến nghị để xây dựng kế hoạch giám sát hằng năm, ký các
chương trình phối hợp giám sát giữa MTTQVN với các đồn thể chính trị - xã hội,
các cơ quan nhà nước có liên quan. Tuy nhiên, cơng tác giám sát và phản biện xã
hội còn nhiều mặt hạn chế, như: nhiều nơi lúng túng trong lựa chọn nội dung giám
sát và phản biện xã hội; chưa đưa ra được tiêu chí để lựa chọn nội dung phù hợp;
kết quả giám sát và phản biện xã hội chưa đều, phản biện cịn ít; một số nơi làm
hình thức, thụ động; còn biểu hiện nể nang, né tránh, ngại va chạm; kỹ năng, năng

lực trình độ cán bộ cịn hạn chế; việc theo dõi thực hiện sau giám sát và phản biện
nhiều nơi làm chưa tốt... Những hạn chế này do phạm vi giám sát và phản biện xã
hội rộng, yêu cầu cao trong khi nguồn lực con người và điều kiện vật chất của
MTTQVN có hạn; nhận thức của cán bộ Mặt trận và đối tượng được giám sát, của
cấp ủy, chính quyền cịn nhiều biểu hiện chưa đúng, chưa đầy đủ về nhiệm vụ này.
Qua đó, để phát huy vai trò giám sát của MTTQVN, tác giả đề xuất MTTQ và các
tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục phát huy vai trò chủ thể, chủ động, tích cực làm tốt
việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch giám sát hằng năm.
Hoàng Minh Hội (2018) trong bài “Thể chế pháp lý giám sát của Nhân dân đối
với cơ quan hành chính nhà nước hiện nay - thực trạng và giải pháp” [19] đã đề cập
đến thể chế pháp lý giám sát của Nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động giám sát của các cá nhân hay cộng
đồng trực tiếp hoặc thông qua các thiết chế giám sát của Nhân dân do pháp luật quy
định. Tác giả cho rằng, việc hoàn thiện thể chế pháp lý giám sát của Nhân dân đối với
cơ quan hành chính nhà nước sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giám sát
của Nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.
Hồng Minh Hội (2018) trong bài “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
8


và các tổ chức chính trị xã hội trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước - thực
trạng và một số kiến nghị” [20] đã phân tích thực trạng hoạt động giám sát của
MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra nhiều hạn chế, bất cập trong hoạt động giám sát
của MTTQVN. Tác giả nhận định những nguyên nhân của các hạn chế, yếu kém là:
(1) Việc thể chế hoá các chủ trương, quan điểm của Đảng về chức năng giám sát
của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội còn chậm. Nhiều quy định về giám sát
của Mặt trận trong Hiến pháp, pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác
chưa quy định cụ thể và đầy đủ về trách nhiệm, cơ chế, hậu quả pháp lý, cũng như
những điều kiện bảo đảm cho hoạt động giám sát của MTTQ và các tổ chức chính

trị - xã hội; (2) Trong các văn bản pháp luật vẫn còn thiếu những quy định cụ thể về
trách nhiệm của các CQNN trong việc giải quyết, trả lời những phát hiện, kiến nghị
của MTTQ; (3) Các điều kiện bảo đảm cho MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội
thực hiện chức năng giám sát ở một số nơi chưa đầy đủ; (4) Kinh phí hoạt động của
Mặt trận các cấp, nhất là cấp cơ sở hiện nay còn rất nhiều khó khăn; (5) Trình độ,
năng lực đội ngũ cán bộ MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội ở một số địa
phương còn nhiều hạn chế; số lượng cán bộ chuyên trách của MTTQ và các tổ chức
chính trị - xã hội ít. Một bộ phận cán bộ làm cơng tác giám sát năng lực cịn hạn
chế, chưa n tâm cơng tác, thiếu nhiệt tình và trách nhiệm trong công việc.
Trần Thanh Mẫn (2018) trong bài “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tăng
cường thực hiện giám sát, phản biện xã hội đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của các
tầng lớp nhân dân” [23] nhận định rằng những kết quả đạt được trong đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với MTTQVN và các đoàn thể chính trị - xã hội
đã góp phần khẳng định vị trí, vai trị quan trọng của các tổ chức này trong giám sát,
phản biện xã hội đối với hệ thống chính trị, đóng góp vào thành cơng của cơng cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, công tác giám sát của MTTQVN vẫn còn
những hạn chế, như nhận thức của một số cấp ủy đảng, lãnh đạo chính quyền về
chức năng, nhiệm vụ giám sát, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của
MTTQVN và các tổ chức thành viên còn chưa đầy đủ, chưa sâu sắc và toàn diện.
9


Trong thực hiện hoạt động giám sát ở một số địa phương, lãnh đạo MTTQVN chưa
thể hiện được bản lĩnh dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Trong thời gian
đến, để phát huy mạnh mẽ vai trò giám sát của MTTQVN và các đồn thể chính trị xã hội trong tham gia xây dựng Đảng, tác giả kiến nghị cần tiếp tục tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với MTTQVN trong thực hiện một số nội dung: (1) Nâng
cao nhận thức của cấp ủy các cấp về vai trò giám sát, phản biện xã hội của
MTTQVN và các đồn thể chính trị - xã hội; (2) Tiếp tục hồn thiện chính sách,
pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của MTTQVN; (3) Phát huy dân chủ trong
hoạt động giám sát, phản biện xã hội của MTTQVN; (4) có cơ chế tăng cường sự

phối hợp giữa MTTQVN và các tổ chức thành viên, các cơ quan, tổ chức khác trong
thực hiện giám sát; (5) thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về đại đoàn
kết toàn dân tộc; (6) trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt
phải được quy định và công khai hóa để nhân dân biết và giám sát.
Có thể nói, mặc dù có nhiều sách chun khảo, cơng trình nghiên cứu, bài
báo,... về hoạt động giám sát của MTTQVN, nhưng chưa có nghiên cứu nào đề cập
về hoạt động giám sát của Ủy ban MTTQVN huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam theo
quy định của Hiến pháp 2013, Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ
Chính trị (khóa XI). Vì lý do đó, khi thực hiện đề tài này, tác giả sẽ tập trung nghiên
cứu về hoạt động giám sát của MTTQVN đối với chính quyền địa phương theo tinh
thần của Hiến pháp 2013, Luật MTTQVN 2015, Luật tổ chức chính quyền địa
phương 2015 và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan; khai thác các vấn đề
thực tiễn đang đặt ra cũng như đưa ra những đề xuất mang tính chất hồn thiện cơ
chế, để từ đó khắc phục những thiếu sót về hoạt động giám sát của Ủy ban
MTTQVN cấp cơ sở, và góp phần khắc phục khoảng trống trong hoạt động nghiên
cứu về một trong những vấn đề cấp bách của khoa học pháp lý hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát: Nghiên cứu lý luận và đánh giá thực tiễn hoạt động giám
sát của Ủy ban MTTQVN qua nghiên cứu thực tiễn tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng
10


Nam, từ đó đưa ra quan điểm và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát
của Ủy ban MTTQVN.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam các cấp của huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

- Đưa ra quan điểm và đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
công tác giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
nói riêng, và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Mặt trận Tổ
quốc huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu cơ sở lý luận và đánh giá thực tiễn giám sát
của Ủy ban Mặt trận huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam đối với một số đề án, dự án,
chủ trương, chính sách quan trọng trong q trình xây dựng và phát triển huyện Quế
Sơn, tỉnh Quảng Nam.
- Về không gian: Hoạt động giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện Quế
Sơn, tỉnh Quảng Nam
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu giai đoạn 2013 – 2020 (từ khi Hiến pháp
2013 có hiệu lực pháp luật)
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm sốt quyền lực Nhà nước, về dân chủ; vai
trị của Ủy ban MTTQVN về cơng tác giám sát, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền.
11


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể của luận văn bao gồm: Phương pháp phân
tích, tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp hệ thống; phương pháp xã hội
học pháp luật; phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần vào việc bổ sung cơ sở lý luận về
hoạt động giám sát của MTTQVN ở cấp huyện. Đồng thời, là nguồn tài liệu tham
khảo hữu ích cho hoạt động giảng dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo luật học; gợi
mở hướng nghiên cứu để tiếp tục tăng cường hoạt động giám sát của MTTQVN ở
các cấp.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn sẽ cung cấp cho hệ thống chính quyền huyện Quế Sơn có những cơ
sở khoa học đáng tin cậy để đánh giá đúng về hoạt động giám sát của MTTQVN
huyện Quế Sơn hiện nay, là cơ sở để tăng cường việc thực hiện chức năng giám sát
của tổ chức này. Đồng thời, luận văn góp phần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trị
và chức năng giám sát của MTTQVN, là tài liệu tham khảo trong hoạt động thực
tiễn của đội ngũ cán bộ Mặt trận và các đoàn thể trong thực hiện hoạt động giám sát
tại địa phương ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận văn được cơ cấu thành 03
chương, gồm:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- Chương 2: Thực trạng giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện Quế
Sơn, tỉnh Quảng Nam
- Chương 3: Quan điểm và các giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

12


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ
GIÁM SÁT CỦA ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
1.1.1. Khái niệm giám sát và giám sát của Mặt trận Tổ quốc

Khái niệm giám sát
Có nhiều quan điểm khác nhau về giám sát, để đưa ra cách hiểu về giám sát
của Ủy ban MTTQVN là gì, trước hết cần làm rõ khái niệm “giám sát”. Giám sát là
thuật ngữ được dùng nhiều trong các văn bản của cơ quan Đảng và Nhà nước. Theo
Từ điển Bách khoa Việt Nam: “giám sát là một hình thức hoạt động của cơ quan
nhà nước hoặc tổ chức xã hội nhằm bảo đảm pháp chế hoặc sự chấp hành những
quy tắc chung nào đó” [21, tr.116].
Từ điển Luật học định nghĩa: “giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động
mang tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp
để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy
chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước, đảm bảo cho
pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh” [45, tr.292]. Khoa học hành chính dùng
khái niệm giám sát để chỉ hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước, toà án,
các tổ chức xã hội và công dân nhằm bảo đảm sự tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật
trong quản lý xã hội [17, tr.217]. Như vậy, nội hàm giám sát của Khoa học Hành
chính và Từ điển Luật học về cơ bản là giống nhau, đã chỉ rõ các chủ thể giám sát
đối với hoạt động tuân thủ pháp luật của tổ chức và cơng dân trong xã hội.
Mặc dù có sự diễn đạt khác nhau, các định nghĩa về “giám sát” đều cho thấy
những đặc trưng của giám sát, đó là hoạt động phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể
và đối tượng trong một hệ thống, cấu trúc xã hội xác định. Mục đích của giám sát là
nhằm phịng ngừa, uốn nắn những sai phạm có thể xảy ra trong quá trình thực hiện
và đảm bảo cho hệ thống vận hành đạt hiệu quả cao.
Trong hệ thống xã hội, hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, giám sát được
13


thực hiện bởi nhiều cấp độ chủ thể khác nhau: Giám sát của Đảng, giám sát của Nhà
nước, giám sát của nhân dân và giám sát của xã hội. Xét về cấu trúc, giám sát được
thực hiện bởi hai loại chủ thể: giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước (giám
sát trong hệ thống nhà nước) và giám sát của các chủ thể xã hội (giám sát từ bên

ngoài vào hệ thống nhà nước). Hoạt động giám sát của các chủ thể xã hội được gọi
là giám sát chính trị - xã hội. Giám sát chính trị - xã hội phân biệt với giám sát nhà
nước ở chỗ: chủ thể giám sát chính trị - xã hội là nhân dân trực tiếp tham gia giám
sát hoặc thông qua các tổ chức do mình ủy nhiệm. Giám sát chính trị - xã hội khơng
mang tính quyền lực nhà nước. Đối tượng giám sát xã hội là các cơ quan quyền lực
nhà nước. Phương thức giám sát chính trị - xã hội cũng linh loạt, năng động và
khách quan hơn giám sát nhà nước vì nó là giám sát từ bên ngoài vào hệ thống nhà
nước.
Từ những định nghĩa trên, có thể hiểu: giám sát là một phạm trù dùng để chỉ
các hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra và nhận định về một việc làm nào đấy,
xem việc làm đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định. Trong
khuôn khổ luận văn này, giám sát được tiếp cận từ chủ thể ngoài nhà nước thơng
qua các tổ chức xã hội, hoặc bằng hình thức giám sát trực tiếp của công dân đối với
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, của đảng cầm quyền nhằm đảm bảo
thực thi quyền lực của nhân dân.
Khái niệm giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Theo Quyết định 217-QĐ/TW của Bộ Chính trị, giám sát của MTTQVN là
việc chủ thể giám sát theo dõi, phát hiện, xem xét, đánh giá, kiến nghị nhằm tác
động đối với đối tượng giám sát về việc thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước [7, khoản 1, điều 1].
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 định nghĩa: “Giám sát của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trực tiếp
hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo dõi, xem
xét, đánh giá, kiến nghị đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cán
bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện chính sách, pháp luật” [28, Khoản 1,
14


Điều 25].
Khơng chỉ trực tiếp chủ trì giám sát, Mặt trận Tổ quốc cịn được mời tham gia

các đồn giám sát của các cơ quan, tổ chức theo luật định. Luật Hoạt động giám sát
của Quốc hội và HĐND, khoản 1 Điều 9 ghi rõ: Uỷ ban MTTQVN, các tổ chức
thành viên của Mặt trận có thể được mời tham gia hoạt động giám sát [29, khoản 1
Điều 9].
Như vậy, có thể hiểu: Giám sát của MTTQVN là việc Uỷ ban MTTQVN trực
tiếp (hoặc phối hợp với các tổ chức thành viên, các cơ quan, tổ chức khác theo luật
định) theo dõi, phát hiện, xem xét, đánh giá, kiến nghị đối với hoạt động của cơ
quan, tổ chức và cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước
về việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Từ khái niệm giám sát và giám sát của Ủy ban MTTQVN, có thể thấy giám sát
có một số đặc điểm như sau:
Tính xã hội trong giám sát của Ủy ban MTTQVN
Theo khoản 2, Điều 25, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015, “Giám
sát của Ủy ban MTTQVN mang tính xã hội, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của nhân dân, kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm,
khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến
những nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền
làm chủ của Nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh” [28].
Hoạt động giám sát được thực hiện bởi các chủ thể xã hội và của cơ quan Nhà
nước. Hoạt động giám sát của các chủ thể xã hội gọi là giám sát xã hội, chủ thể
giám sát xã hội là các đảng chính trị, các tổ chức chính trị- xã hội, báo chí, cơng
dân. Đảng cầm quyền là chủ thể xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy và trực tiếp lãnh
đạo Nhà nước. Phương thức giám sát xã hội được thực hiện thông qua Ủy ban
MTTQVN, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các đoàn
thể... bằng hình thức giám sát gián tiếp (thơng qua đại diện) hoặc giám sát trực tiếp.
15



Giám sát xã hội là sự bổ sung khách quan cho hình thức giám sát của cơ quan quyền
lực Nhà nước và hệ thống. Hoạt động giám sát phải được thực hiện theo nguyên tắc
phát huy quyền làm chủ của nhân dân và thành viên của Mặt trận.
Hoạt động giám sát của MTTQVN có chủ thể là hệ thống tổ chức của Uỷ ban
MTTQVN các cấp, bao gồm: Ủy ban MTTQVN các cấp, mà trực tiếp và thường
xuyên là Ban Thường trực Uỷ ban MTTQVN: là cơ quan chủ trì, trực tiếp giám sát,
hoặc là cơ quan phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác trong hệ thống chính trị để
giám sát. Các tổ chức, cá nhân thành viên của MTTQVN các cấp: tham gia giám sát
dưới sự chủ trì của Uỷ ban MTTQVN cùng cấp.
Nghiên cứu trong hệ thống chính trị, theo quan điểm của Đảng, thì giám sát
của MTTQVN khơng mang tính Đảng, tính quyền lực của Nhà nước, mà mang tính
xã hội [35]. Giám sát xã hội là giám sát của ba lực lượng cơ bản. Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo xã hội, đồng thời có vai trị giám sát việc thực hiện lãnh đạo đó;
các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp là những bộ máy công quyền thực hiện
chức năng thay mặt nhân dân giám sát việc thực thi pháp luật của cá nhân, tổ chức,
việc thực hiện quyền tự do dân chủ của nhân dân; các cá nhân, tổ chức của xã hội
giám sát lực lượng lãnh đạo chính trị, lực lượng thực hiện quyền lực của nhân dân,
cán bộ, công chức, đảng viên và các thành viên của xã hội trong việc thực hiện Điều
lệ, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và quyền làm chủ,
quyền con người của nhân dân.
Giám sát của MTTQ thể hiện quyền lực chính trị của nhân dân. Nhân dân với
vai trò là chủ nhân của đất nước. Dân là gốc, phát huy quyền chính trị của nhân dân
trong giám sát và phản biện hoạt động của cơ quan nhà nước là thể hiện dân chủ xã
hội chủ nghĩa trong thể chế chính trị ở nước ta. Giám sát, phản biện là một phương
thức hoạt động của MTTQVN trong công tác vận động nhân dân tham gia xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền.
MTTQVN là tổ chức liên minh chính trị, là liên hiệp tự nguyện của tổ chức
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong
các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài
16



có quyền đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Hoạt
động giám sát việc thực hiện pháp luật; phản biện dự thảo các chủ trương, chính
cách, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ, giáo dục, y tế, mơi
trường, trật tự an ninh chung tồn xã hội của Đảng, Nhà nước là trách nhiệm của
MTTQVN.
Tính nhân dân trong hoạt động giám sát của MTTQVN
Tính nhân dân trong hoạt động giám sát trước hết là thể hiện quyền lực của
nhân dân trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Phát huy dân chủ, nhân dân có
quyền giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, nhân viên nhà
nước. Ngoài thể chế nhân dân ủy quyền cho Nhà nước thực hiện giám sát, nhân dân
còn thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, giám sát Nhà nước, giám sát cán bộ, công
chức nhà nước. Mọi hoạt động của Nhà nước, của cán bộ, công chức, viên chức đều
chịu sự giám sát của nhân dân.
Tính nhân dân trong hoạt động giám sát, là MTTQ phải bằng nhiều hình thức,
biện pháp vận động được đơng đảo các tầng lớp nhân dân tham gia vào các hoạt
động giám sát như: dựa vào sự theo dõi, phát hiện và cung cấp thông tin từ người
dân, các đối tượng vận động của Mặt trận; dựa vào các ý kiến, phản ánh, kiến nghị
của các thành viên của Mặt trận, của hệ thống Ủy ban MTTQVN các cấp; hoạt động
giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức thành viên, giám sát của các
phương tiện thông tin đại chúng; từ hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân (Ban
TTND), của Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng (Ban GSĐTCCĐ); thông qua hoạt
động tiếp công dân, tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân… Tính nhân
dân cịn thể hiện qua các hoạt động trực tiếp giám sát của Mặt trận phát hiện có sai
sót, vi phạm pháp luật, thì kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân khắc phục, sửa chữa
sai sót; kiến nghị xử lý vi phạm (nếu có), kiến nghị sửa đổi, bổ sung pháp luật, kiến
nghị giải quyết quyền lợi cho cơng dân, đồn viên, hội viên bị xâm hại.
Giám sát của MTTQVN khơng mang tính quyền lực, là giám sát mang tính xã
hội, tính nhân dân như nêu ở trên. Mặt trận là nơi thể hiện cho ý chí và nguyện vọng

của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vận động nhân dân giám sát,
17


tham gia giám sát hoặc trực tiếp giám sát theo nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật
quy định với cơ chế là “theo dõi, xem xét, đánh giá, kiến nghị” đối với hoạt động
của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực
hiện chính sách, pháp luật, đồng thời giám sát việc giải quyết kiến nghị đó.
Tính chất của giám sát của Mặt trận là giám sát xã hội, giám sát mang tính
nhân dân và sau giám sát là đề xuất, kiến nghị. Khơng phải là giám sát mang tính
quyền lực Nhà nước hoặc giám sát trong Đảng. Do vậy, mục đích giám sát của
MTTQVN nhằm kịp thời phát hiện những sai phạm, khuyết điểm, hạn chế, vướng
mắc trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật; qua đó đề xuất, kiến nghị cơ
quan có thẩm quyền kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay thế chính sách, pháp luật nhằm
đảm bảo phù hợp với thực tiễn cuộc sống, đem lại lợi ích chính đáng cho nhân dân;
đồng thời thơng qua giám sát sẽ phát hiện, phổ biến, nhân rộng những nhân tố mới,
các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực trong q trình xây dựng và thực thi
chính sách, pháp luật.
Thơng qua hoạt động giám sát, nâng cao vai trị và trách nhiệm của
MTTQVN, các tổ chức thành viên và nhân dân trong việc tham gia quản lý xã hội,
tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân; thực hiện vai
trị kiểm sốt quyền lực của Nhân dân; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, góp
phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh
1.2. Nội dung giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở cấp huyện
Tại khoản 2, Điều 26 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 quy định
“Nội dung giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc thực hiện chính
sách, pháp luật có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân
dân, quyền và trách nhiệm của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” [28].
Tại khoản 2, Điều 4 Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội ban hành kèm theo Quyết định số

217/QĐ-TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước (trừ những vẫn đề thuộc bí mật quốc gia) của cơ quan, tổ chức và
18


cá nhân” [7].
Có thể thấy, phạm vi giám sát theo quy định tại Quy chế 217 rộng hợn theo quy
định tại Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015. Giám sát xã hội có nội dung rất
rộng, liên quan đến tất cả những lĩnh vực, những vấn đề của đời sống cộng đồng (giai
cấp, dân tộc, quốc gia): Từ khâu hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật đến
khâu tổ chức thực hiện; từ lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đến an ninh,
quốc phịng; từ đối nội đến đối ngoại; từ tổ chức bộ máy, con người đến công việc
của con người và bộ máy; từ tầm vĩ mô đến trung, vi mô.
Khoản 1 Điều 5 của Quy chế 217 cũng quy định rõ đối tượng giám sát của Ủy
ban MTTQVN bao gồm: (1) Các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến cơ sở; (2)
Cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức,viên chức nhà nước (sau đây gọi
chung là cá nhân).
Để làm cơ sở cho việc phân tích thực tiễn hoạt động giám sát của Ủy ban
MTTQVN huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, trên cơ sở đối tượng và nội dung giám
sát của Ủy ban MTTQVN, luận văn làm rõ hơn các nội dung giám sát cho từng đối
tượng cụ thể.
1.2.1. Giám sát Hội đồng nhân dân và đại biểu dân cử
Quan hệ giữa MTTQ và HĐND là quan hệ phối hợp, bình đẳng, tơn trọng và
tạo điều kiện để mỗi bên thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình
theo quy định của pháp luật. Quan hệ này được thực hiện theo Quy chế phối hợp
công tác do UBMT và HĐND thống nhát ban hành.
Về công tác phối hợp thực hiện hoạt động giám sát thì UBMT có trách nhiệm
giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu HĐND, Tổ đại biểu HĐND, các Ban
HĐND, Thường trực HĐND; trao đổi kiến nghị với thường trực HĐND những

nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân. MTTQ cử đại diện tham gia các đoàn giám
sát của HĐND khi được đề nghị và ngược lại; Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
giám sát, các bên cùng nhau cung cấp thơng tin có liên quan đến nội dung giám sát
và thực hiện theo quy định của pháp luật về giám sát để Đoàn giám sát hoạt động
đúng mục đích và có hiệu quả. Kết quả giám sát do thường trực HĐND, các Ban
19


HĐND hoặc của MTTQ tổ chức, nếu phát hiện vấn đề có liên quan đến trách
nhiệm, phẩm chất đạo đức của đại biểu HĐND thì MTTQ nghiên cứu và đề nghị
thường trực HĐND xem xét theo quy định. Theo quy chế phối hợp thì MTTQ có
thẩm quyền đề nghị HĐND tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ
chức danh do HĐND bầu; Đối với các đại biểu HĐND khơng hồn thành nhiệm vụ
của người đại biểu, khơng cịn được cử tri nơi ứng cử tín nhiệm thì MTTQ cấp xã,
cấp huyện nơi đại biểu ứng cử gửi đến MTTQ cấp tỉnh đề nghị bãi nhiệm, nếu
MTTQ đề nghị thì thường trực HĐND và UBND quyết định việc đưa ra HĐND
hoặc cử tri bãi nhiệm tư cách đại biểu HĐND của đại biểu đó.
1.2.2. Giám sát Ủy ban nhân dân và hoạt động hành chính
UBND và Ủy ban MTTQVN phối hợp để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội, bảo vệ quốc phòng an ninh của địa phương và xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. UBND phối hợp
chặt chẽ với Ủy ban MTTQVN và các tổ chức thành viên của Mặt trận chăm lo và
bảo vệ lợi ích của nhân dân, vận động nhân dân tham gia vào việc quản lý nhà nước
và thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước; vận động Nhân dân thực hiện các chủ
trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tôn trọng và giải quyết kịp
thời những ý kiến chính đáng của nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi để Ủy ban
MTTQVN và các tổ chức thành viên thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
UBND và Ủy ban MTTQ thường xuyên trao đổi thơng tin về những vấn đề có
liên quan để đảm bảo hiệu quả phối hợp công tác. UBND gửi Ủy ban MTTQVN các
báo cáo định kỳ về tình hình kinh tế - xã hội và sự chỉ đạo, điều hành của UBND, Ủy

ban MTTQVN gửi UBND các báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện chương trình
phối hợp và thống nhất hành động của Ủy ban MTTQVN.
Trong quá trình tham gia giám sát của MTTQ nếu phát hiện có biểu hiện vi
phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước thuộc thẩm quyền quản lý của
UBND, các sở, ban, ngành, cơ quan thuộc UBND thì MTTQ kiến nghị bằng văn
bản với các cơ quan đó. Khi nhận được kiến nghị, cơ quan Nhà nước có trách nhiệm
xem xét và trả lời kiến nghị của Ủy ban MTTQVN theo luật định.
20


×