Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào Phật giáo Hòa hảo trên địa bàn huyện Phú Tân, tỉnh An Giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.64 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TĂNG VĂN NÊ

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI
ĐỒNG BÀO PHẬT GIÁO HÒA HẢO TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CƠNG

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TĂNG VĂN NÊ

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI
ĐỒNG BÀO PHẬT GIÁO HÒA HẢO TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG HIỆN NAY

Ngành: Chính sách cơng
Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS ĐẶNG THỊ HOA

HÀ NỘI, 2021




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách xã hội là một bộ phận trọng yếu trong hệ thống các chính sách
lãnh đạo, quản lý và phát triển đất nước của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Chính sách
xã hội giữ vai trị đặc biệt quan trọng trong tồn bộ hoạt động tổ chức, điều hành và
quản lý xã hội. Hiệu quả thực hiện chính sách xã hội góp phần phát triển lành mạnh
các mối quan hệ xã hội, phát triển kinh tế mang tính bền vững và phát triển tồn
diện con người trên cơ sở bình đẳng, cơng bằng và tiến bộ. Ngồi ra, chính sách xã
hội cịn góp phần trợ giúp những con người, những nhóm xã hội, đảm bảo mức sống
cho một số nhóm đối tượng yếu thế, giúp họ vượt qua khó khăn khi gặp những rủi
ro trong cuộc sống. Do vậy, ở bất kỳ thời đại nào, chế độ chính trị nào, chính sách
xã hội cũng đóng vai trị là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Đảng Cộng sản
Việt Nam khẳng định: “Chính sách xã hội có vai trị đặc biệt quan trọng, là mục
tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển.
Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện
đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn
lực trong từng thời kỳ…” [23].
An sinh xã hội là trụ cột trong chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước Việt
Nam. Đó là “hệ thống các chính sách và các chương trình do nhà nước, các đối tác
xã hội thực hiện nhằm đảm bảo mức tối thiểu về thu nhập, sức khỏe và các phúc lợi
xã hội, nâng cao năng lực cho cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng trong quản lý và
kiểm soát các rủi ro do mất việc làm, tuổi già, ốm đau, rủi ro thiên tai, chuyển đổi
cơ cấu, khủng hoảng kinh tế, dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập và giảm khả năng
tiếp cận đến các dịch vụ xã hội cơ bản” [14, 2]. Chính sách an sinh xã hội hướng
đến tạo ra một mạng lưới bảo vệ an toàn cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội
trước những rủi ro trong cuộc sống; đảm bảo thu nhập và đời sống cho các cơng dân
trong xã hội. Chính vì mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc, Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định nhiệm vụ: “Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần của người có công và bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên,
quan trọng của Ðảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội” [23].

1


Phật giáo Hịa Hảo là tơn giáo nội sinh với hơn hai triệu tín đồ, tập trung chủ
yếu ở các tỉnh phía Nam. Mục tiêu của chính sách an sinh xã hội của Đảng, Nhà
nước có nhiều điểm tương đồng với đường hướng “Vì Đạo pháp, vì Dân tộc”, mục
tiêu báo đáp “Ân đất nước”, “Ân đồng bào nhân loại” của Phật giáo Hòa Hảo, đặc
biệt là sự đồng nhất của hai chính sách và đường hướng cùng giúp cho cộng đồng
tín đồ Phật giáo Hịa Hảo có cuộc sống tốt đẹp hơn. Với sự huy động của Phật giáo
Hòa Hảo, bên cạnh hoạt động huy động số tiền ủng hộ ngày càng lớn (tổng số quy
thành tiền các hoạt động từ thiện xã hội và nhân đạo, trong các nhiệm kỳ từ 1999
đến nay đã thống kê được trên 2.882.243.403.000 đồng[21], q trình thực hiện
chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào tín đồ Phật giáo Hịa Hảo cịn xuất hiện
nhiều mơ hình mới, cách làm hay, vừa thúc đẩy phát triển xã hội, vừa góp phần thực
hiện các chính sách khác của Đảng và Nhà nước trên địa bàn. Đồng bào Phật giáo
Hòa Hảo đã trở thành điểm sáng trong thực hiện chính sách an sinh xã hội, được
Nhà nước và cộng đồng xã hội ghi nhận, tôn vinh, học tập.
Là quê hương khởi phát, trung tâm hội tụ của tín đồ Phật giáo Hịa Hảo,
huyện Phú Tân (An Giang) luôn là địa bàn tiên phong trong thực hiện chính sách an
sinh xã hội. Đồng bào tín đồ nơi đây thực hiện các hoạt động an sinh xã hội trở
thành nề nếp ổn định, với tinh thần tự giác, tính tích cực cao và hiệu quả lớn. Các
hoạt động đó, một mặt thể hiện các nội dung trong chương trình đạo sự hàng năm
của Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa Hảo, Ban Trị sự huyện Phú Tân và các
xã, thị trấn, mặt khác góp phần quan trọng trong thực hiện công tác dân vận, xây
dựng khối đoàn kết, phát huy sức mạnh của cộng đồng dân cư trong quá trình xây
dựng và phát triển q hương. Q trình thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với
đồng bào Phật giáo Hòa Hảo ở huyện Phú Tân biểu thị sự gắn bó ngày càng chặt

chẽ giữa Nhà nước với cộng đồng xã hội trong thực thi chính sách.
Việt Nam nói chung, tỉnh An Giang và huyện Phú Tân nói riêng đang đứng
trước những yêu cầu ngày càng cao hơn trên con đường đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ. Phát triển bền vững là đòi hỏi
tất yếu buộc các địa phương phải hướng đến. Đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội
đang là một trong ba trụ cột đặt ra tương quan với phát triển kinh tế và bảo vệ môi

2


trường của tồn bộ q trình phát triển bền vững. Tuy nhiên, trong q trình thực
hiện chính sách an sinh xã hội từng lúc từng nơi sự phối hợp giữa các ngành, đồn
thể, các cấp trong cơng tác tun truyền, vận động, việc huy động các nguồn lực
còn hạn chế; vẫn cịn tư tưởng trơng chờ, ỷ lại của một số hộ dân, nhận thức của
từng đối tượng đối với chính sách an sinh xã hội chưa thật sự tốt. Trong bối cảnh
đó, việc thực hiện chính sách an sinh xã hội tiếp tục phải được xem trọng và đẩy
mạnh với tính lan tỏa và hiệu quả thực tế. Huyện Phú Tân đã có q trình lâu dài,
ổn định trong thực hiện sâu rộng, hiệu quả chính sách an sinh xã hội đối với đồng
bào Phật giáo Hòa Hảo. Hiệu quả từ q trình đó mang lại là rất to lớn, để lại nhiều
bài học kinh nghiệm quý báu, nảy sinh nhu cầu phải được tổng kết nhằm một mặt
tôn vinh, ghi nhận sự nỗ lực của đồng bào, mặt khác khái quát ra các kinh nghiệm
hay và xây dựng các giải pháp đẩy mạnh, khơng chỉ có giá trị đối với huyện Phú
Tân mà còn với nhiều địa phương khác ở An Giang, vùng Đồng bằng sông Cửu
Long và cả nước.
Xuất phát từ tính cấp thiết nêu trên, tơi chọn đề tài “Thực hiện chính sách an
sinh xã hội đối với đồng bào Phật giáo Hòa hảo trên địa bàn huyện Phú Tân, tỉnh
An Giang hiện nay” làm luận văn thạc sĩ chun ngành Chính sách cơng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chính sách an sinh xã hội là đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình khoa
học dưới những hình thức khác nhau, từ bài viết trên tạp chí khoa học đến các đề tài

nghiên cứu, hội thảo khoa học, luận văn, luận án và sách xuất bản. Liên quan đến đề
tài luận văn, có thể tổng quan tình hình nghiên cứu theo các nhóm sau:
- Cơng trình nghiên cứu về chính sách xã hội, chính sách an sinh xã hội
Các nghiên cứu về chính sách xã hội, chính sách an sinh xã hội rất nhiều.
Chủ yếu các nghiên cứu này tiếp cận dưới góc độ chính trị học, chính sách cơng,
quản lý xã hội, quản lý nhà nước, triết học,…
Một bộ phận các công trình nghiên cứu thuộc nhóm này đề cập đến những
vấn đề lý thuyết của chính sách xã hội, chính sách an sinh xã hội - từ lý luận Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước đến các lý thuyết chính sách xã hội đương đại trên thế giới. Đó là

3


các nghiên cứu của Nguyễn Hải Hữu trong “Hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam”
[40]; "Giáo trình Luật an sinh xã hội" của Nguyễn Thị Kim Phụng [49]; "Giáo trình
ưu đãi xã hội" của Trường Đại học Lao động [60]; "Giáo trình Cứu trợ xã hội" của
Trường Đại học Lao động [61];"Giáo trình Bảo hiểm xã hội" của Trường Đại học
Kinh tế quốc dân [62]. Trong các công trình này, chính sách an sinh xã hội có khi
được nghiên cứu tổng thể, khi được nghiên cứu một bộ phận nội dung cấu thành
chính sách, với việc trình bày các nội dung chủ yếu như quan niệm về an sinh xã
hội, đặc điểm và cấu trúc an sinh xã hội, phương pháp đánh giá và các nhân tố ảnh
hưởng đến hệ thống chính sách an sinh xã hội, vai trò và tầm quan trọng của xây
dựng và thực thi chính sách an sinh xã hội.
Nhiều cơng trình nghiên cứu cả những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện
chính sách an sinh xã hội ở phạm vi cả nước. Vũ Văn Phúc trong bài viết "An sinh
xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" [47] đã trình bày khái niệm an
sinh xã hội và cấu trúc của hệ thống an sinh xã hội; kết quả thực hiện chính sách an
sinh xã hội và những thách thức đang đặt ra đối với quá trình đổi mới, hồn thiện hệ
thống an sinh xã hội ở Việt Nam; quan điểm, mục tiêu, yêu cầu đổi mới, hoàn thiện

hệ thống an sinh xã hội. Lê Quốc Lý trong cơng trình “Chính sách an sinh xã hội thực trạng và giải pháp”, 2014) [43] đã trình bày khá sâu sắc cơ sở lý luận và thực
tiễn và những trở ngại trong thực thi chính sách an sinh xã hội; những trở ngại trong
thực thi các chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam gần đây qua đánh giá của nhóm
cán bộ thực thi và đối tượng thụ hưởng chính sách; mục tiêu, quan điểm và giải
pháp thực thi hiệu quả chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020. Năm
2015, Tạp chí Xã hội học số 2 (130) đăng bài viết “An sinh xã hội ở Việt Nam sau
30 năm đổi mới và định hướng đến năm 2030” [2] của Đặng Nguyên Anh. Bài viết
phân tích sâu sắc đặc điểm và thực trạng thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt
Nam sau 30 năm đổi mới, nêu bật những kết quả đạt được và các khó khăn, thách
thức; đồng thời, tác giả cũng nêu lên những định hướng an sinh xã hội ở Việt Nam
đến năm 2030 thông qua những đề cập về dự báo bối cảnh phát triển xã hội, hồn
thiện chính sách an sinh xã hội. Nghiên cứu "Chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập quốc tế những thách thức và giải pháp" [65], Đinh Thành

4


Trung, Lữ Quang Ngời và Lê Thị Thanh Hiếu, 2017) đã khái quát thực trạng thực
hiện chính sách an sinh xã hội, phân tích bối cảnh và những nhân tố tác động, chỉ ra
những phương hướng và giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả thực
hiện trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập quốc tế sâu rộng. Bên cạnh, cịn
nhiều nghiên cứu khác thuộc nhóm chủ đề này như: Mai Ngọc Cường (2012), “Về
xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội ở nước ta những năm tới”, [17];
Dương Văn Thắng (2011), “Bảo đảm an sinh xã hội dưới ánh sáng Đại hội XI của
Đảng”, [55]; Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2008), An sinh xã hội ở Việt Nam:
Chuẩn bị cho giai đoạn phát triển mới, [63]; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
và Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Cộng hoà Liên bang Đức (GTZ) (2009), Xây dựng
Chiến lược an sinh xã hội giai đoạn 2011 - 2020, [13]; Ban Tuyên giáo Trung
ương, Tạp chí Cộng sản, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Hội đồng khoa học
các cơ quan Đảng Trung ương (2012), An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn, Hà Nội [4]; Phạm Thị Hải Chuyền (2012), "Thực hiện tốt chính
sách an sinh xã hội - động lực pháp triển bền vững đất nước", [18]; Nguyễn Trọng
Đàm (2017), "An sinh xã hội ở Việt Nam: Nhìn lại năm 2016 và những vấn đề đặt
ra trong giai đoạn tới", [20]; … Nhìn chung, các cơng trình này tổng kết, đánh giá
thực trạng thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, chỉ ra những ưu điểm,
hạn chế, nêu lên những vấn đề đặt ra, đồng thời có những phân tích, dự báo, đề xuất
các giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện trong tương lai.
Ở phạm vi hẹp hơn, một số cơng trình nghiên cứu việc thực hiện chính sách
an sinh xã hội gắn với vai trị của một chủ thể hoặc thực hiện chính sách an sinh xã
hội ở một thành phần xã hội, một vùng hoặc địa phương. Đó là các nghiên cứu:
Nguyễn Danh Sơn (2012), “Hệ thống an sinh xã hội cho người nơng dân Việt
Nam”, [52]; Nguyễn Văn Chiểu (2014), Chính sách an sinh xã hội và vai trò của
nhà nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, [17]; Nguyễn
Thị Kim Ngân (2011), "Tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có cơng, bảo
đảm an sinh xã hội trong phát triển bền vững", [41]; Lương Vĩnh Thái (2014), Thực
thi chính sách an sinh xã hội ở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và
giải pháp, [54]; Phạm Văn Sáng và các cộng sự (2009), Lý thuyết và mơ hình an

5


sinh xã hội (phân tích thực tiễn ở Đồng Nai), [51]; Mai Ngọc Anh (2010), An sinh
xã hội đối với nông dân, trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, [1];… Các nghiên
cứu này cũng đề cập cả những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc thực hiện chính
sách an sinh xã hội đối với một thành phần xã hội hoặc ở một vùng, địa phương.
Qua đó, các nghiên cứu này phản ánh nhưng đặc trưng riêng có của thành phần xã
hội hoặc địa bàn nơi thực hiện chính sách an sinh xã hội.
Một số nghiên cứu về an sinh xã hội từ thực tiễn của nước ngoài và đúc rút
kinh nghiệm tham khảo cho Việt Nam. Đó là các nghiên cứu: Trần Hồng Hải, Lê
Thị Thúy Hương (2011), Pháp luật an sinh xã hội – kinh nghiệm một số nước đối

với Việt Nam, [37]; Nguyễn Quang Thuấn, Bùi Nhật Quang (2011), Mơ hình phát
triển xã hội của một số nước phát triển Châu Âu: Kinh nghiệm và ý nghĩa đối với Việt
Nam, [57]; Đinh Công Tuấn (Chủ biên) (2008), Hệ thống an sinh xã hội của EU và bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam, [58]; Trần Thị Nhung (2008), Bảo đảm xã hội trong nền
kinh tế thị trường Nhật Bản hiện nay, [42]; Nguyễn Duy Dũng (1998), Chính sách và
biện pháp giải quyết phúc lợi ở Nhật Bản, [19];… Các nghiên cứu này đi sâu trình bày lý
thuyết và q trình thực hiện chính sách an sinh xã hội ở nước ngoài, liên hệ với Việt
Nam thông qua việc khái quát những bài học kinh nghiệm.
- Cơng trình nghiên cứu về Phật giáo Hịa Hảo:
Phật giáo Hòa Hảo là đối tượng nghiên cứu, đề cập trong nhiều văn kiện và
cơng trình nghiên cứu khoa học. Xét ở mức độ tổng thể, có thể chia các nghiên cứu
về Phật giáo Hịa Hảo thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất là những văn kiện và cơng
trình nghiên cứu trình bày về hiến chương, giáo lý, kinh văn, tổ chức bộ máy và
hoạt động đạo sự, chủ yếu do Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo
ấn hành. Đó là: Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa Hảo (2004), Sấm giảng giáo
lý Phật giáo Hòa Hảo của Đức Huỳnh Giáo chủ, [5]; Ban Trị sự Trung ương Phật
giáo Hòa Hảo (2004), Thi văn giáo lý Phật giáo Hòa Hảo của Đức Huỳnh Giáo
chủ, Nhà xuất bản Tơn giáo, Hà Nội [6];… Bên cạnh đó là những nghiên cứu của
các cá nhân giới thiệu một cách cơ bản về Phật giáo Hòa Hảo như: Nguyễn Văn
Hầu (1973), Sấm giảng Đức Phật Thầy Tây An - Đoàn Minh Huyên. [38]; Nguyễn
Văn Hầu (2017), Nhận thức Phật giáo Hòa Hảo, [39];…

6


Tiếp cận nghiên cứu một khía cạnh của Phật giáo Hòa Hảo đặt trong mối
tương quan với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, trong mối tương quan với các
tôn giáo khác thể hiện trong nội dung của một số cơng trình nghiên cứu như:
Nguyễn Hồng Sa, Đạo Hịa Hảo và ảnh hưởng của nó ở Đồng bằng sông Cửu
Long, 1999 [50]; Võ Văn Thắng và Đỗ Anh Thư (2009), "Tìm hiểu tính dung hợp

linh hoạt, sáng tạo đạo lý truyền thống dân tộc của Phật giáo Hòa Hảo với các đề
thuyết của giáo phái, tôn giáo khác", [56];…
- Cơng trình nghiên cứu về thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với
đồng bào Phật giáo Hòa Hảo:
Một trong những điểm nổi bật trong hoạt động của tín đồ Phật giáo Hịa Hảo
là thực hiện chính sách an sinh xã hội. Do vậy, hoạt động này đang thu hút sự
nghiên cứu của nhiều tổ chức, cá nhân.
+ Nguyễn Huy Diễm (2017), "Nhận dạng và xác định trách nhiệm của tín đồ
Phật giáo Hịa Hảo đối với xã hội hiện nay", [22]. Nội dung bài viết trình bày những
cơ sở để nhận dạng và xác định trách nhiệm của tín đồ Phật giáo Hịa Hảo đối với
xã hội hiện nay. Đó là những cơ sở từ giáo lý, đường hướng, tơn chỉ đến đặc tính
văn hóa và thực tiễn tổ chức đạo sự.
+ Nguyễn Văn Sỹ (2019), Hoạt động an sinh xã hội của một số tôn giáo nội
sinh ở Tây Nam Bộ hiện nay, [55]. Một phần khơng nhỏ của cơng trình này trình
bày thực trạng tham gia hoạt động an sinh xã hội của đồng bào tín đồ Phật giáo Hịa
Hảo – từ mơ hình thực hiện đến phân tích thực trạng, chỉ ra nguyên nhân và những
vấn đề đặt ra. Cơng trình cũng nêu lên những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào tôn giáo nội sinh ở Tây Nam
Bộ, trong đó có đồng bào tín đồ Phật giáo Hịa Hảo.
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài nêu trên nhận thấy chưa
có cơng trình nghiên cứu việc thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào
Phật giáo Hòa Hảo ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang dưới góc độ chính sách cơng.
Điều đó góp phần minh chứng tính mới của đề tài luận văn. Thành tựu nghiên cứu
đã có góp phần cung cấp nhiều dữ liệu (cả trên phương diện nghiên cứu lý thuyết và
tổng kết thực tiễn) để nghiên cứu đề tài luận văn.

7


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích của đề tài: nhằm khảo sát đánh giá thực trạng, thực tiễn thực hiện
chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào Phật giáo Hòa Hảo huyện Phú Tân, tìm
ra những bất cập trong thực hiện chính sách an sinh xã hội trong thời gian qua, từ đó
đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với
đồng bào Phật giáo Hòa Hảo trên địa bàn huyện Phú Tân, An Giang.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Tổng quan và làm rõ những vấn đề lý thuyết cơ bản liên quan đến thực
hiện chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào Phật giáo Hòa hảo trên địa bàn
huyện Phú Tân, tỉnh An Giang hiện nay.
+ Khảo sát, phân tích, đánh giá quá trình thực hiện chính sách an sinh xã hội
đối với đồng bào Phật giáo Hòa hảo trên địa bàn huyện Phú Tân, tỉnh An Giang
hiện nay – Kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân, vấn đề đặt ra.
+ Đề xuất các giải pháp góp phần tiếp tục duy trì, đẩy mạnh, nâng cao chất
lượng thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào Phật giáo Hòa hảo trên
địa bàn huyện Phú Tân, tỉnh An Giang hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Q trình thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với
đồng bào Phật giáo Hòa hảo trên địa bàn huyện Phú Tân, tỉnh An Giang hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Khơng gian: Phạm vi hành chính huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
+ Thời gian: Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách an
sinh xã hội đối với đồng bào Phật giáo Hòa hảo trên địa bàn huyện Phú Tân, tỉnh
An Giang hiện nay giai đoạn 2010 – 2020. Xây dựng giải pháp đến năm 2025.
Năm 1999, Phật giáo Hòa hảo được thừa nhận và có sự phát triển lớn mạnh
về tổ chức. Từ năm 2010 đến 2020, Giáo hội Phật giáo Hòa hảo đã phát động các
chương trình thực hiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh An Giang. Các
chương trình hỗ trợ an sinh xã hội được triển khai rộng khắp trên địa bàn có tín đồ
Phật giáo Hịa Hảo cư trú và hưởng ứng các chương trình an sinh xã hội của Nhà
nước phối hợp với Ban trị sự Giáo hội của các địa phương ở An Giang. Do vậy,


8


luận văn lựa chọn mốc thời gian từ 2010 đến 2020 để làm rõ hơn q trình thực hiện
chính sách an sinh xã hội của Nhà nước và của Giáo hội Phật giáo Hòa hảo với Phật
tử trên địa bàn huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
+ Đối tượng: Chính sách an sinh xã hội thực hiện đối với tín đồ Phật giáo
Hòa Hảo và tổ chức, cá nhân hữu quan trên địa bàn nghiên cứu.
+ Nội dung: Chính sách an sinh xã hội nghiên cứu trong đề tài luận văn tập
trung ở ưu đãi xã hội, bảo trợ xã hội, xóa đói giảm nghèo, từ thiện xã hội, bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng, chính sách của Nhà nước về chính sách xã hội, chính sách an sinh xã hội.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
+ Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp lịch sử, phương pháp logic,
phương pháp thu thập tài liệu, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích,
phương pháp khảo sát, phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận:
+ Luận văn góp phần khái quát lý luận về chính sách an sinh xã hội và việc thực
thi ở địa bàn một đơn vị hành chính cấp huyện thuộc Đồng bằng sơng Cửu Long.
+ Luận văn góp phần khái quát, làm phong phú thêm lý luận về thực hiện
chính sách an sinh xã hội nói chung, thực hiện chính sách an sinh xã hội trên địa
bàn địa phương có đơng tín đồ tơn giáo (Phật giáo Hòa Hảo).
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Luận văn góp phần tổng kết q trình thực hiện chính sách an sinh xã hội đối
với đồng bào Phật giáo Hòa hảo trên địa bàn huyện Phú Tân, tỉnh An Giang hiện nay.

+ Luận văn cung cấp luận cứ có giá trị tham khảo cho các cơ quan, tổ chức
và cá nhân hữu quan trong việc tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng thực hiện
chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào Phật giáo Hòa hảo trên địa bàn huyện

9


Phú Tân, tỉnh An Giang hiện nay. Qua đó, luận văn góp phần cung cấp luận cứ cho
cơ quan hữu trách trong củng cố, tăng cường sự gắn kết hiệu quả giữa hệ thống
chính trị và Ban Trị sự, chức việc, tín đồ Phật giáo Hịa Hảo trên địa bàn huyện.
+ Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho tổ chức, cá nhân
trong nghiên cứu, giảng dạy về chính sách an sinh xã hội trên địa bàn đơn vị hành
chính cấp huyện, trong vùng đồng bào tín đồ tơn giáo nói chung, tín đồ Phật giáo
Hịa Hảo nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách An sinh xã hội đối với
đồng bào Phật giáo Hòa Hảo.
- Chương 2: Thực hiện chính sách An sinh xã hội đối với đồng bào Phật
giáo Hòa Hảo trên địa bàn huyện Phú Tân – Thực trạng; Những vấn đề đặt ra và các
yếu tố tác động.
- Chương 3: Mục tiêu, quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách An sinh xã hội đối với đồng bào Phật giáo Hòa Hảo trên địa bàn huyện
Phú Tân đến năm 2025.

10


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI
ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO PHẬT GIÁO HÒA HẢO
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm
- An sinh xã hội
Theo nghĩa rộng, an sinh xã hội (social security trong tiếng Anh, sécurité
sociale trong tiếng Pháp) là sự bảo đảm thực hiện các quyền con người được sống
trong hịa bình; được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong
khn khổ luật pháp; được học tập, có việc làm, có nhà ở; được bảo đảm thu nhập
để thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già… Theo nghĩa
này thì tầm bao phủ của an sinh xã hội rất lớn và vì vậy bên cạnh thuật ngữ an sinh
xã hội được sử dụng rộng rãi, có những lúc những nơi, các thuật ngữ bảo đảm xã
hội, bảo trợ xã hội, an ninh xã hội, an toàn xã hội… Theo nghĩa hẹp, an sinh xã hội
là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thơng qua một loạt biện
pháp công cộng nhằm khắc phục những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị mất
hoặc bị giảm thu nhập, gây ra bởi thiên tai, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất
nghiệp, tàn tật, tuổi già, đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp y tế cho các gia
đình có con nhỏ, cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi…(Phạm Xuân Nam,
2012).
Với cách hiểu phổ biến, an sinh xã hội là hình thức hoạt động có tổ chức của
cộng đồng nhằm quy tụ các nguồn lực xã hội để cung cấp, tương trợ cho cho một bộ
phận người có đời sống khó khăn vì biến cố, rủi ro, bất hạnh, mất (kém) khả năng
lao động,… An sinh xã hội thường được thực hiện trên cơ sở tính tương đồng và
tình thương yêu con người. Cuối thế kỷ XIX, ở các nước công nghiệp phát triển
phương Tây, an sinh xã hội được nhắc đến với tư cách là một khái niệm khoa học,
một vấn đề chính trị - xã hội gắn liền với chính sách của nhà nước. Trên nền tảng
đó, hiện nay, an sinh xã hội trở thành khái niệm phổ biến toàn cầu, được tiếp cận
định nghĩa ở nhiều góc độ khác nhau.

11



Ngân hàng Thế giới xem “an sinh xã hội là những biện pháp cộng đồng
nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu và kiềm chế được
nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và những bấp bênh
thu nhập” [15, 21]. Ở quan niệm này, an sinh xã hội được tiếp cận chủ yếu ở biện
pháp kiềm chế nguy cơ làm giảm thu nhập để tránh những tổn thương. Tiếp cận ở
góc độ phân phối phúc lợi, Tổ chức Lao động quốc tế định nghĩa: “An sinh xã hội là
sự cung cấp phúc lợi cho các hộ gia đình và cá nhân thông qua cơ chế của nhà nước
hoặc tập thể nhằm ngăn chặn sự suy giảm mức sống hoặc cải thiện mức sống thấp”
[15, 21]. Cơng trình “Chính sách an sinh xã hội – Thực trạng và giải pháp” của Lê
Quốc Lý định nghĩa: “An sinh xã hội là sự đảm bảo thu nhập và đời sống cho các
công dân trong xã hội trong trường hợp họ gặp phải các rủi ro hay khó khăn trong
cuộc sống, với phương thức hoạt động là thông qua các biện pháp công cộng, nhằm
tạo ra sự an sinh cho mọi thành viên trong xã hội” [43, 17].
- Chính sách an sinh xã hội
Phần nhiều các định nghĩa chính sách an sinh xã hội gắn với chính sách
cơng. Theo Ngân hàng Phát triển châu Á, “Chính sách an sinh xã hội là một hệ
thống chính sách cơng nhằm giảm nhẹ tác động bất lợi của những biến động đối với
các hộ gia đình và cá nhân” [15, 22]. Nguyễn Hải Hữu trong “Giáo trình nhập mơn
an sinh xã hội”, định nghĩa: “ Chính sách an sinh xã hội là một hệ thống cơ chế
chính sách, biện pháp của nhà nước và xã hội nhằm đối phó với các rủi ro, các cú
sốc về kinh tế, xã hội làm cho họ có nguy cơ bị sút giảm nguồn thu nhập do bị ốm
đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không có sức lao động hoặc vì
những ngun nhân khách quan rơi vào hồn cảnh nghèo khổ, bần cùng hóa…,
thơng qua hệ thống mạng lưới về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và hỗ trợ xã hội,
xóa đói giảm nghèo và hỗ trợ đặc biệt” [40, 16-17]. Ở một cơng trình nghiên cứu
khác, an sinh xã hội được tiếp cận theo nghĩa rộng và hẹp. “Theo nghĩa rộng, chính
sách an sinh xã hội là sự đảm bảo thực hiện các quyền để con người được bình an,
bảo đảm an ninh, an tồn trong xã hội. Theo nghĩa hẹp, chính sách an sinh xã hội là

sự đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và
cộng đồng trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập vì lý do bị giảm hoặc mất

12


khả năng lao động hay mất việc làm; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi,
người tàn tật, người yếu thế, người bị ảnh hưởng bởi thiên tai, địch họa. Bản chất
của an sinh xã hội là tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp cho tất cả các
thành viên trong xã hội trong trường hợp bị giảm, bị mất thu nhập hay gặp phải
những rủi ro khác” [48, 14]. Sách “Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng” định nghĩa: “chính sách An sinh xã
hội là một hệ thống chính sách và giải pháp nhằm bảo vệ mức sống tối thiểu của
người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi
trường; vừa không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân”
[46, 18].
Chiến lược An sinh xã hội Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020 và Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI cùng đưa ra định nghĩa:
“An sinh xã hội là hệ thống các chính sách và các chương trình do nhà nước, các
đối tác xã hội thực hiện nhằm đảm bảo mức tối thiểu về thu nhập, sức khỏe và các
phúc lợi xã hội, nâng cao năng lực cho cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng trong
quản lý và kiểm sốt các rủi ro do mất việc làm, tuổi già, ốm đau, rủi ro thiên tai,
chuyển đổi cơ cấu, khủng hoảng kinh tế, dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập và giảm
khả năng tiếp cận đến các dịch vụ xã hội cơ bản” [14, 2].
Trong các định nghĩa về an sinh xã hội, luận văn tiếp cận nghiên cứu theo
định nghĩa được nêu trong Chiến lược An sinh xã hội Việt Nam thời kỳ 2011 –
2020 và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.
Với định nghĩa này, khái niệm an sinh xã hội có nội hàm sau:
- Tính chất: An sinh xã hội vừa tồn tại với tư cách là hệ thống chính sách,
vừa là hoạt động để hiện thực hóa chính sách.

- Chủ thể của an sinh xã hội là nhà nước, các đối tác của nhà nước và lực
lượng xã hội cùng hướng đến thực hiện các nội dung và mục tiêu an sinh xã hội.
- Đối tượng mà an sinh xã hội hướng đến là cá nhân, hộ gia đình và cộng
đồng bị các rủi ro do mất việc làm, tuổi già, ốm đau, rủi ro thiên tai, chuyển đổi cơ
cấu, khủng hoảng kinh tế, dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập và giảm khả năng tiếp
cận đến các dịch vụ xã hội cơ bản.

13


- Mục tiêu của an sinh xã hội là đảm bảo mức tối thiểu về thu nhập, sức khỏe
và các phúc lợi xã hội, nâng cao năng lực trong quản lý và kiểm soát các rủi ro cho
các đối tượng hướng đến.
Như vậy, trong trường hợp này, khái niệm “An sinh xã hội” được định nghĩa
rất gần với khái niệm “Chính sách an sinh xã hội”. Một số nghiên cứu thường gọi
“An sinh xã hội” với nghĩa hiểu là “Chính sách an sinh xã hội”. Tuy nhiên, một số
nghiên cứu khác cho rằng khái niệm “An sinh xã hội” có nội hàm rộng hơn khái
niệm “Chính sách an sinh xã hội”, bởi bao gồm cả “Chính sách” và hoạt động thực
hiện chính sách. Với tiếp cận này, khái niệm “Chính sách an sinh xã hội” được xem
là khía cạnh “chính sách” trong khái niệm “an sinh xã hội”. Theo Vũ Văn Phúc,
“chính sách an sinh xã hội là một chính sách xã hội cơ bản của nhà nước nhằm thực
hiện chức năng phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro, đảm bảo an toàn thu nhập
và cuộc sống cho các thành viên trong xã hội” [48, 14]. Theo Nguyễn Văn Chiều:
“Chính sách an sinh xã hội là những biện pháp bảo vệ của nhà nước nhằm phòng
ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro cho các thành viên của mình khi họ bị mất hoặc
giảm thu nhập do các nguyên nhân ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, thất nghiệp, già cả khơng cịn sức lao động hoặc vì ngun nhân khách quan
khác thơng qua các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp, ưu đãi xã hội và trợ giúp xã hội” [17, 18].
Tóm lại, chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam là hệ thống chủ trương,

phương hướng và biện pháp đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác
cho cá nhân, gia đình và cộng đồng trước những biến động về kinh tế, xã hội và tự
nhiên làm cho họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, bị ốm
đau, bệnh tật hoặc tử vong; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn
tật, những người yếu thế, những nạn nhân chiến tranh, những người bị thiên tai địch
họa. Đây là hệ thống chính sách nhằm phịng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro
thông qua các hoạt động bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội và trợ giúp xã hội. Mục
tiêu của chính sách an sinh xã hội là đảm bảo thu nhập và một số điều kiện sinh
sống thiết yếu khác cho mọi thành viên trong xã hội. Đối tượng của chính sách an
sinh xã hội là mọi người dân, kể cả những người trong đối tượng lao động, người

14


chưa đến tuổi lao động và người hết tuổi lao động, trong đó bao gồm các đối tượng
của chính sách xã hội là người nghèo thành thị và nông thôn, phụ nữ, trẻ em, thanh
niên, người tàn tật và người dân tộc thiểu số...
- Ưu đãi xã hội (ƯĐXH): Là một bộ phận đặc thù trong hệ thống an sinh xã
hội Việt Nam, ƯĐXH là sự đãi ngộ vật chất và tinh thần đối với những người có
cơng với nước với dân, với cách mạng nhằm ghi nhận những công lao đóng góp, hy
sinh cao cả của họ. Điều này không những thể hiện trách nhiệm của nhà nước, cộng
đồng và tồn xã hội mà cịn nói lên đạo lý của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”,
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Ở nước ta Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng (Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội) chỉ rõ: Đối tượng hưởng chế độ ưu đãi quy định
tại Pháp lệnh bao gồm Người có cơng với cách mạng và Chế độ ưu đãi đối với
người có cơng với cách mạng và thân nhân.
- Bảo trợ xã hội (BTXH): Là một loại hình quan trọng trong lĩnh vực an sinh
xã hội - đó là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh
sống thiết yếu khác đối với mọi thành viên của xã hội trong những trường hợp bất

hạnh, rủi ro, nghèo đói, khơng đủ khả năng để tự lo được cuộc sống tối thiểu của
bản thân và gia đình. BTXH là sự giúp đỡ thêm của nhà nước và xã hội bằng tiền
hoặc bằng các điều kiện và phương tiện thích hợp để đối tượng được giúp đỡ có thể
phát huy khả năng tự lo liệu cuộc sống cho mình và gia đình, sớm hịa nhập trở lại
với cuộc sống của cộng đồng. BTXH thường có 02 loại: Trợ giúp xã hội thường
xuyên và trợ giúp đột xuất. Trợ giúp thường xuyên là hình thức trợ giúp xã hội đối
với những người hồn tồn khơng thể lo được cuộc sống trong một thời gian dài
(một hoặc nhiều năm) hoặc trong suốt cả cuộc đời của đối tượng trợ giúp (ví dụ: trợ
cấp một khoản kinh phí hàng tháng; miễn phí thẻ bảo hiểm y tế cho những đối
tượng người cao tuổi, người nghèo, người tàn tật, tâm thần; miễn, giảm học phí học
tập; đưa người già cô đơn, trẻ em mồ côi vào các trung tâm ni dưỡng…). Trợ
giúp đột xuất là hình thức trợ giúp xã hội do nhà nước và cộng đồng giúp đỡ những
người không may bị thiên tai, mất mùa hoặc gặp những biến cố khác mà đời sống
của họ bị đe dọa về tính mạng, lương thực, nhà ở, chữa bệnh, chôn cất hay phục hồi

15


sản xuất nếu khơng có sự trợ giúp khẩn cấp. Đối tượng, chế độ của hai nhóm đối
tượng trên được quy định tại Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007; Nghị
định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/2/2010 về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo
trợ xã hội; Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 Quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người khuyết tật.
- Thực hiện chính sách an sinh xã hội
Thực hiện chính sách (Policy Implementation) là q trình biến các chính
sách thành những kết quả trên thực tế thơng qua các hoạt động có tổ chức trong bộ
máy nhà nước, nhằm hiện thực hóa những mục tiêu mà chính sách đã đề ra; là tồn
bộ quá trình hoạt động của chủ thể theo các cách thức khác nhau nhằm hiện thực
hóa nội dung chính sách cơng một cách có hiệu quả
Thực hiện chính sách an sinh xã hội là quá trình biến các chủ trương, phương

hướng và biện pháp liên quan đến hệ thống ASXH thành những kết quả trên thực tế
thông qua các hoạt động có tổ chức trong bộ máy nhà nước và sự tham gia rộng rãi
của các tổ chức, đơn vị, gia đình, cá nhân và tồn xã hội, nhằm hiện thực hóa những
mục tiêu mà chính sách đã đề ra. Đó là q trình triển khai hệ thống chính sách
ASXH (trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, giải quyết
việc làm…) vào thực tiễn bằng các công cụ, bộ máy của nhà nước nhằm hiện thực
hóa mục tiêu đã đề ra.
Thực hiện chính sách an sinh xã hội là hoạt động cụ thể triển khai các chính
sách an sinh xã hội, cầu nối giữa ban hành chính sách với hiệu quả thực tiễn của
chính sách. Ở Việt Nam, thực thi chính sách an sinh xã hội là khâu thứ hai trong
chu trình thực hiện một chính sách cơng: (1) Hoạch định chính sách; (2) Tổ chức
thực thi chính sách; (3) Đánh giá chính sách. Ở nhiều nước khác, thực thi chính
sách là khâu thứ 4 trong 5 khâu của chu trình thực hiện chính sách cơng: (1) Thiết
lập chương trình nghị sự chính sách là q trình mà các vấn đề cơng được trở thành
sự quan tâm của Nhà nước và đưa vào chương trình nghị sự; (2) Hình thành chính
sách là q trình thiết lập các phương án chính sách khác nhau để giải quyết vấn đề
công; (3) Ra quyết định chính sách là q trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền

16


thông qua đường lối hành động cụ thể bằng một chính sách; (4) Thực hiện chính
sách là q trình đưa chính sách vào thực tế để các đối tượng cùng tham gia thực
hiện; (5) Đánh giá chính sách là việc xem xét kết quả tác động của chính sách đến
các đối tượng và quá trình kinh tế -xã hội theo hệ thống tiêu chí định tính và định
lượng.
Nhà nước là chủ thể ban hành đồng thời cũng là cũng là chủ thể đóng vai trị
chủ đạo trong tổ chức thực thi chính sách an sinh xã hội. Ngồi ra, tham gia thực thi
chính sách cơng cịn có các thành tố khác của hệ thống chính trị, các lực lượng xã
hội. Trên thế giới, về cơ bản chia ra hai nhóm đối tượng xã hội tham gia thực hiện

chính sách an sinh xã hội:
(1) Các đối tượng tham gia vào các chính sách an sinh xã hội theo ngun
tắc đóng - hưởng. Đối tượng này là người lao động gặp rủi ro và khó khăn do những
nguyên nhân là ốm đau, thai sản, mất sức lao động, tuổi già phải đối mặt với những
khó khăn do bị “mất hoặc suy giảm nghiêm trọng thu nhập". Những người lao động
này phải đóng góp một khoản góp một khoản tiền cho quỹ bảo hiểm trong suốt thời
gian làm việc với một tỷ lệ thu thập nhất định. Việc tham gia bảo hiểm xã hội đảm
bảo cho họ duy trì mức sống trong trường hợp gặp những vấn đề nêu trên.
(2) Những đối tượng tham gia vào chương trình ASXH theo nguyên tắc trợ
giúp, bao gồm người di cư ở thành thị, nhóm dân tộc thiểu số, những người dân
nghèo đói liên miên, những đối tượng rất dễ bị tổn thương (người già cô đơn, người
tàn tật, trẻ em mồ côi), những người bị thiệt hại trước những biến đổi đột xuất của
tự nhiên và xã hội.
Tổ chức thực thi chính sách an sinh xã hội chịu sự tác động của nhiều yếu tố
như thể chế chính sách về an sinh xã hội, thể chế tổ chức bộ máy và cán bộ, nhận
thức của xã hội và người dân, mơi trường thực thi chính sách (điều kiện tự nhiên,
đặc trưng văn hóa, điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện cơ sở hạ tầng,…). Mỗi yếu
tố có vai trị và mức độ tác động khác nhau đến quá trình và kết quả thực thi chính
sách an sinh xã hội. Do vậy, để đảm bảo thực thi tốt chính sách an sinh xã hội, việc
nhận diện và kết hợp đồng bộ nhiều yếu tố tác động là yêu cầu phổ biến.

17


1.1.2. Hướng tiếp cận và Khung phân tích
- Hướng tiếp cận
Luận văn vận dụng hướng tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội và
vận dụng các phương pháp nghiên cứu từ lý thuyết chính sách cơng. Đó là cách tiếp
cận quy phạm chính sách cơng về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng
chính sách, thực hiện và đánh giá chính sách có sự tham gia của các bên chủ thể

chính sách, cụ thể việc thực hiện chính sách an sinh xã hội với các quy trình sau:
Chính sách an sinh xã hội là một chính sách lớn, Đảng và Nhà nước đã hình
thành được hệ thống chính sách bảo đảm an sinh xã hội rộng khắp với những cơ chế
chủ động, tích cực, linh hoạt làm chỗ dựa vững chắc cho những người gặp rủi ro tự
vươn lên khắc phục khó khăn, vượt đói thốt nghèo và tiếp tục hòa nhập cộng đồng.
Phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong công tác bảo đảm an sinh xã
hội đã huy động được nguồn lực và sự tham gia của nhiều tổ chức xã hội, cá nhân
và cộng đồng tham gia thực hiện với mục tiêu hạn chế các rủi ro và thực hiện công
bằng với những người thuộc nhóm yếu thế.
Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách an sinh xã hội được xây dựng trước
khi đưa chính sách vào cuộc sống. Các cơ quan triển khai thực thi chính sách từ
Trung ương đến địa phương đều phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện.
Thứ nhất, lập kế hoạch tổ chức điều hành cần đảm bảo những dự kiến về hệ
thống các cơ quan chủ trì và phối hợp triển khai thực hiện chính sách; số lượng và
chất lượng nhân sự tham gia tổ chức thực thi; những dự kiến về cơ chế trách nhiệm
của cán bộ quản lý và công chức thực thi; cơ chế tác động giữa các cấp thực thi
chính sách.
Thứ hai, xác định kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực gồm dự kiến về các
cơ sở kiến trúc, trang thiết bị kĩ thuật phục vụ cho tổ chức thực thi chính sách an
sinh xã hội; các nguồn lực tài chính.
Thứ ba, kế hoạch thời gian triển khai thực hiện đó là dự kiến về thời gian
duy trì chính sách; dự kiến các bước tổ chức triển khai thực hiện từ tuyên truyền
chính sách đến tổng kết rút kinh nghiệm. Mỗi bước đều có mục tiêu cần đạt được
và thời gian dự kiến cho việc thực hiện mục tiêu.

18


Thứ tư, kế hoạch kiểm tra thực thi chính sách là những dự kiến về tiến độ,
hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát tổ chức thực thi chính sách.

Thứ năm, dự kiến những nội quy, quy chế trong thực thi chính sách an sinh
xã hội bao gồm nội quy, quy chế về tổ chức, điều hành; về trách nhiệm, nghĩa vụ
và quyền hạn của những bên liên quan đến thực thi chính sách.
Hoạt động phân cơng, phối hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách
cơng về an sinh xã hội ln duy trì chính sách được ổn định, góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả chính sách, đảm bảo phát huy được tính năng động, sáng tạo của
các yếu tố cấu thành và tác động đến chính sách.
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về chính sách an sinh xã hội, các địa
phương phải chủ động tổ chức thực thi chính sách, tăng cường cơng tác tuyên
truyền, vận động các đối tượng chính sách và tồn xã hội tích cực tham gia thực thi
chính sách. Nếu việc thực thi chính sách gặp phải những khó khăn do mơi trường
thực tế biến động thì các cơ quan nhà nước sử dụng hệ thống công cụ quản lý tác
động nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho việc thực thi chính sách, đồng thời chủ
động điều chỉnh chính sách cho phù hợp với hồn cảnh mới.
Trong q trình thực hiện chính sách an sinh xã hội, để phù hợp với từng địa
phương, chính quyền cơ sở phối hợp với các tổ chức xã hội trên địa bàn điều chỉnh
chính sách là một hoạt động cần thiết diễn ra thường xun trong tiến trình tổ chức
thực hiện chính sách. Nó được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực tế. Theo
quy định, cơ quan nào ban hành chính sách thì được quyền điều chỉnh, bổ sung
chính sách, nhưng trên thực tế, việc điều chỉnh các biện pháp, cơ chế chính sách
diễn ra rất linh hoạt, vì thế cơ quan quản lý nhà nước các ngành, các cấp chủ động
điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính sách để thực hiện sao cho có hiệu quả, miễn là
khơng làm thay đổi mục tiêu của chính sách.
Khung phân tích thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào
Phật giáo Hòa Hảo
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn về việc tổ chức và thực hiện chính sách
an sinh xã hội, vận dụng lý thuyết về công bằng xã hội và thực hiện theo quan điểm

19



chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về an sinh xã hội. Các yếu tố tác động đến quá trình
thực hiện chính sách an sinh xã hội với sự phối hợp của Giáo hội Phật giáo Hòa
Hảo và những vấn đề đặt ra trong việc huy động các nguồn lực xã hội trong thực
hiện chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào theo tôn giáo.
1.2. Vài nét giới thiệu về Phật giáo Hòa Hảo
Hiến chương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo nhiệm kỳ V (2019 – 2024) nêu rõ
những điểm cơ bản trong lịch sử hình thành, tơn chỉ, đường hướng và tổ chức hoạt
động của Đạo Phật giáo Hịa Hảo. Theo đó, Phật giáo Hịa Hảo (PGHH) là nền đạo
do Đức Huỳnh Giáo Chủ khai sáng vào ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão, nhằm ngày
04 tháng 7 năm 1939 tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay là thị
trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Hơn ba phần tư thế kỷ xiển dương
chánh pháp, Phật giáo Hòa Hảo đã phổ truyền giáo pháp “Học Phật Tu Nhân” với
hàng triệu nhơn sanh, giữ gìn giáo lý chơn truyền, góp phần cùng nhân dân cả nước
nêu cao truyền thống yêu nước, phát huy giá trị đạo đức và tinh hoa văn hóa dân
tộc. Từ khi Tổ quốc độc lập và thống nhất, Phật giáo Hòa Hảo tiếp tục sứ mạng phổ
truyền giáo lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ nhằm trau dồi và nâng cao đạo đức cho tín
đồ, chấn hưng nền Đạo gắn bó với dân tộc, phù hợp với chính sách và pháp luật của
Nhà nước, góp phần tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đường hướng hành đạo của Phật giáo Hịa Hảo là “Vì đạo pháp, vì dân tộc”;
tơn chỉ hành đạo của Phật giáo Hịa Hảo là “Học Phật, tu Nhân”, tại gia cư sĩ, lấy
việc báo đáp Tứ ân (Ân Tổ tiên cha mẹ, Ân Đất nước, Ân Tam bảo, Ân Đồng bào
và Nhơn loại) làm căn bản tu hành; giữ tám điều răn cấm và thực hành giáo lý chơn
truyền của Đức Huỳnh Giáo chủ; tích cực cứu giúp người nguy khó, tương trợ trong
quan, hôn, tang, tế và hoạt động từ thiện hữu ích cho xã hội, cho chúng sanh.
Giáo lý của Phật giáo Hòa Hảo là sự tiếp thu, nâng cao tư tưởng Bửu Sơn Kỳ
Hương và chịu ảnh hưởng xu hướng nhập thế của phong trào chấn hưng Phật giáo
và quan điểm đạo đức của Nho giáo và Lão giáo. PGHH khuyên tín đồ ăn ngay ở

lành, ra sức làm những điều từ thiện, bài xích bọn tham ơ quan lại áp bức bất cơng,
đả kích đồng bóng mê hoặc dân chúng làm tiền…những lời giáo huấn, cầu nguyện,

20


tiên tri do Huỳnh Phú Sổ truyền dạy được chép thành từng cuốn gọi là Sấm giảng
viết theo dạng thơ hoặc văn vần, giản dị dễ nhớ. Kinh sách của PGHH bao gồm
phần Sấm giảng giáo lý và phần Thi văn giáo lý.
Phật giáo Hòa Hảo chủ trương “Học Phật, tu nhân”. Học Phật là học những
điều Phật dạy và làm những điều Phật khuyên nhằm nhận thức được con đường đạt
tới chân, thiện, mỹ, nâng cao hơn khả năng tu nhân. Tu nhân tức là tu theo đúng đạo
làm người. Con người, trước khi muốn tu thành Tiên Phật đi nữa, cũng phải làm
một con người cho xứng đáng. Làm người thì phải hiểu và phải có trách nhiệm trả
tứ ân đối với tổ tiên cha mẹ, đất nước, Tam bảo và đồng bào nhân loại. Tu nhân
cũng là phải thực hiện những điều thánh hiền (đạo Nho) đã dậy: phải chấp hành luật
pháp của Nhà nước, kính cha mẹ, trọng thầy dạy, u anh em, hồ thuận xóm làng,
họ hàng, vợ chồng, tôn trọng nhau, quan tâm dạy dỗ con cái, với chính mình phải
giữ cho tâm thanh tịnh, làm điều thiện, tránh điều ác, sửa tính hạnh, bố thí cho
người nghèo, giúp đỡ người gặp hoạn nạn. Tu nhân có nghĩa là phải thực hiện Tứ
đại trọng ân:
- Ân tổ tiên cha mẹ: Mỗi con người được sinh ra, nuôi dưỡng trưởng thành là
nhờ công lao cha mẹ, nhưng công sinh thành ra cha mẹ là ông bà, tổ tiên. Do đó,
phải sống hiếu nghĩa với cha mẹ, ơng bà tổ tiên. Con người phải có trách nhiệm đền
ơn đáp nghĩa với cha mẹ, ông bà tổ tiên. Muốn đền ơn đáp nghĩa với cha mẹ thì
phải nghe lời răn dạy, không làm điều xấu để làm phiền lịng cha mẹ; phải chăm sóc
phụng dưỡng cha mẹ, nhất là lúc cha mẹ già yếu, ốm đau. Muốn đền ơn ông bà tổ
tiên, không được làm hại đến truyền thống tốt đẹp của gia đình, dịng họ. Nếu tổ
tiên có làm điều gì sai lầm gieo đau thương cho con cháu thì phải quyết chí tu cầu
để rửa nhục. Đây là điều ân nghĩa đầu tiên, quan trọng nhất trong đạo.

- Ân đất nước: Giáo lý răn dạy tín đồ sanh ra, ta phải nhớ ơn tổ tiên, cha mẹ,
sống ta cũng nhờ đất nước, quê hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau,
muốn cho sự sống được rỡ ràng, giống nòi được truyền thụ, ta cảm thấy bổn phận
bảo vệ đất nước khi bị kẻ xâm lăng giầy đạp, ráng nâng đỡ xứ quê hương lúc
nghiêng nghèo và làm cho đất nước được cường thịnh. Bờ cõi vững vàng, thân ta
mới yên, quốc gia giàu mạnh, mình ta mới ấm.

21


- Ân tam bảo: Về mặt vật chất, con người nhờ cha mẹ sinh ra nuôi dưỡng,
nhờ đất nước tạo kiếp sống cho mình. Cịn về mặt tinh thần, theo giáo lý con người
phải ơn Phật, Pháp, Tăng khai mở trí óc cho sáng suốt, chỉ dẫn con đường thốt
khỏi bể khổ. Phật là đấng toàn thiện, toàn mỹ, bác ái vơ cùng, quyết cứu với chúng
sinh khỏi vịng trầm luân khổ ải. Muốn đền ơn Tam bảo thì phải có “trí tuệ minh
mẫn, hành động minh mẫn theo khn khổ”.
- Ân đồng bào nhân loại: Giáo lý PGHH cho rằng “Con người ta vừa sinh ra
đã nhờ đến sự giúp đỡ của mọi người xung quanh mà không tự túc được. Đồng bào
ta và ta cùng một chủng tộc giống nịi, cùng có những trang sử vẻ vang, cùng chung
tiền đồ giang sơn đất nước, chẳng những đồng bào ta mà nhân loại cần lao đang
sống với ta trên địa cầu, Cơm ta ăn, áo ta mặc, thuốc ta uống, vật liệu ta dùng là do
đồng bào và nhân loại cung cấp. Thế nên ta phải ơn đồng bào và nhân loại, vả lại
cái tình từ bi bác ái của Đức Phật là không bờ bến, không phân biệt chủng tộc mầu
da, không phân biệt sang hèn hay đẳng cấp xã hội. Biết ơn đồng bào nhân loại thì ta
phải có bổn phận giúp đỡ trong khó khăn hoạn nạn, khơng vì lý do gì mà gây hại
cho người khác”.
Giáo luật của Phật giáo Hịa Hảo có các quy định sau:
- Về thực hiện các điều răn: PGHH chủ trương khơng có đội ngũ giáo sỹ và
hàng giáo phẩm, khơng hình thành thiết chế giáo quyền, khơng xây dựng chùa
chiền, không thờ tượng cốt. Thờ phụng và hành đạo rất đơn giản, chủ yếu tiến hành

tại gia đình. PGHH khuyên tín đồ ăn ngay ở lành, ra sức làm những điều thiện, bài
xích bọn tham ơ, quan lại áp bức bất cơng, đả kích đồng bóng mê hoặc dân chúng
làm tiền. Cũng như Bửu Sơn Kỳ Hương, Phật giáo Hịa Hảo chủ trương niệm Nam
Mơ A Di Đà Phật (tức niệm lục tự Di Đà).
- Về hôn nhân: PGHH khuyên cha mẹ không nên ép duyên các con, bỏ tục lệ
thách cưới, khơng tổ chức ăn uống linh đình tốn kém.
- Về ăn chay: Hàng tháng ăn chay vào các ngày âm lịch 14-15, 29- 30, tháng
thiếu thì 30 - 01. Ba ngày cuối năm 29, 30, 01; những ngày ăn chay phải cúng chay.

22


×