Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp của tỉnh An Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.07 KB, 72 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TẤN ĐỨC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM THẤT
NGHIỆP CỦA TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TẤN ĐỨC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM THẤT
NGHIỆP CỦA TỈNH AN GIANG

Ngành: Chính sách cơng
Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN AN HÀ

HÀ NỘI, 2021


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế xã hội mà hầu hết các nước trên thế
giới phải đương đầu. Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp được biểu lộ một
cách rõ nét nhất, nó là hệ quả tất yếu của phát triển công nghiệp. Chống thất nghiệp
và bảo vệ NLĐ trong trường hợp bị thất nghiệp không chỉ là nhiệm vụ riêng của
từng quốc gia mà trở thành mục tiêu chung của các tổ chức quốc tế, tổ chức liên kết
kinh tế và các khu vực... Thất nghiệp gia tăng làm cho tình hình chính trị xã hội bất
ổn, các tệ nạn xã hội và tội phạm gia tăng làm băng hoại các giá trị đạo đức, văn
hóa của gia đình và xã hội. Thất nghiệp dẫn đến những thiệt hại nghiêm trọng về
thu nhập kinh tế quốc dân, sự lãng phí nguồn nhân lực do tỷ lệ thất nghiệp cao đi
liền với sự giảm sút thu nhập do không sản xuất. Đồng thời, thất nghiệp còn làm
tăng chi tiêu của Chính phủ, của doanh nghiệp và xã hội cho các trợ cấp thất nghiệp
và các chi phí có liên quan như chi phí đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, dịch vụ việc
làm. Vì vậy, hạn chế thất nghiệp và đảm bảo ổn định đời sống người lao động trong
trường hợp bị thất nghiệp là mục tiêu chung của các quốc gia và các tổ chức quốc tế
và khu vực.
Việt Nam là nước thực hiện chính sách BHTN tương đối muộn so với nhiều
quốc gia khác trên thế giới. Đến năm 2006, BHTN mới được quy định trong Luật
BHXH và có hiệu lực thi hành từ năm 2009. Sau hơn 11 năm thực hiện, về cơ bản
BHTN đã đáp ứng được phần nào yêu cầu đặt ra, đảm bảo ổn định cuộc sống cho
NLĐ bị mất việc. Tiếp đến năm 2013, sau khi đã xem xét và tiếp thu ý kiến, Nhà
nước đã chuyển phần BHTN từ Luật BHXH năm 2006 sang quy định trong Luật
việc làm năm 2013. Theo đó, BHTN mang tính chất chủ động trong việc bảo đảm
việc làm, đời sống cho NLĐ tham gia BHTN mà bị mất việc làm nhanh chóng tìm
được việc làm, trở lại thị trường lao động. Tuy nhiên kể từ khi thực hiện theo Luật
việc làm tới nay, chính sách BHTN cũng đã bộc lộ những thiếu sót, tồn tại khơng
chỉ về các quy định pháp luật mà còn trong thực tiễn thực hiện BHTN như đối
tượng tham gia BHTN, tình trạng NSDLĐ nợ đóng BHTN, sự lợi dụng của NLĐ

1



đối với việc chi trả BHTN hay các hoạt động hỗ trợ học nghề, tư vấn - giới thiệu
việc làm.
An Giang có nền kinh tế ln đạt tốc độ phát triển cao và bền vững trong
suốt những năm qua, đứng thứ tư tại Đồng bằng song Cửu Long. Tỉnh có nhiều
chính sách thu hút đầu tư nước ngồi để giải quyết việc làm cho người lao động, có
giải quyết được việc làm cho người dân mới thúc đẩy nền kinh tế An Giang phát
triển nhanh và bền vững hơn nữa. Vì vậy, tỉ lệ thất nghiệp ln được tỉnh theo dõi
sát sao theo từng năm để điều chỉnh và quản lý tốt chế độ BHTN. Qua hơn 11 năm
thực hiện, BHTN trên địa bàn tỉnh đã đáp ứng được nhu cầu cơ bản của NLĐ,
NSDLĐ, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần quan trọng trọng
việc bảo đảm thu nhập của NLĐ và giúp họ sớm tìm được việc làm trở lại. Tuy
nhiên, trong q trình áp dụng và thực hiện chính sách BHTN tại An Giang vẫn cịn
nhiều thiếu sót và hạn chế như quy định về điều kiện tham gia, trình tự thủ tục, nhận
thức của NLĐ về các quyền lợi được hưởng khi hưởng TCTN; tình trạng NSDLĐ
nợ đóng BHTN. Do đó, tìm ra những phương pháp thích hợp để khắc phục những
thiếu sót, hạn chế trên là hết sức cần thiết để đảm bảo quyền lợi của người lao động
khi mất việc làm, đảm bảo niềm tin của người lao động đối với chính sách, pháp
luật của nhà nước, góp phần ổn định đời sống xã hội.
Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “ Thực hiện chính sách bảo hiểm thất
nghiệp của tỉnh An Giang" làm luận văn thạc sĩ chính sách cơng cho mình với
mục đích tìm ra những nguyên nhân vướng mắc, tồn tại trong quá trình áp dụng
những quy định về BHTN qua góc nhìn của tỉnh An Giang. Từ đó, có những kiến
nghị hồn thiện chính sách BHTN và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách BHTN tại tỉnh An Giang.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đề tài nghiên cứu khoa học, luận án, luận văn: Các đề tài khoa học cấp bộ,
cấp cơ sở, luận án, luận văn cũng có đề cập đến nội dung BHTN và chính sách
BHTN tại Việt Nam. Các đề tài nghiên cứu khoa học có thể kể đến như đề tài khoa

học: “Giải pháp về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam ” của Bộ Lao động -Thương
binh và Xã hội, năm 1996; Đề tài khoa học: “Hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội

2


” của Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2005. Luận án tiến sĩ luật học “Chế độ
BHTN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” (2005) của tác giả Lê Thị Hoài
Thu đã đi sâu nghiên cứu và trình bày một cách hệ thống những nội dung chủ yếu
của chế độ BHTN, những yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng chế độ BHTN ở Việt
Nam, đồng thời có sự so sánh với quy định của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và
một số nước trên thế giới, Luận án tiến sĩ “quản lý nhà nước về bảo hiểm thất
nghiệp ở nước ta hiện nay” (2016) của tác giả Nguyễn Quang Trường nghiên cứu
nhằm cung cấp các luận cứ khoa học cho các cơ quan hoạch định, thực thi luật
pháp, chính sách về bảo hiểm thất nghiệp để phục vụ cho việc điều chỉnh, bổ sung
hoàn thiện quản lý Nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
Luận văn thạc sĩ luật học “bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam
hiện nay” (2017) của Dương Thị Nguyệt Khuê đã nêu ra một số nội dung cơ bản
của BHTN cũng như thực trạng áp dụng BHTN ở Việt Nam sau 8 năm thực hiện,
Luận văn thạc sĩ luật kinh tế “pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp từ thực tiễn thực
hiện tại tỉnh Bắc Ninh” (2019) của Mai Thị Minh Hường, Luận văn thạc sĩ luật kinh
tế “bảo hiểm thất nghiệp trong luật việc làm từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” (2016)
của Nguyễn Anh Minh, Luận văn thạc sĩ luật học “pháp luật về bảo hiểm thất
nghiệp từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” (2020) của Lý Anh Quy, Luận văn
thạc sĩ chính sách cơng “thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp từ thực tiễn tỉnh
Bình Dương” (2017) Huỳnh Văn Lộc.
Tuy vậy, theo tìm hiểu và khảo cứu của tác giả thì chưa có cơng trình nào ở
cấp luận văn nghiên cứu về thực tiễn thực hiện chính sách BHTN trên địa bàn tỉnh
An Giang. Từ đó tác giả lựa chọn đề tài “ Thực hiện chính sách bảo hiểm thất
nghiệp của tỉnh An Giang" làm luận văn để góp phần củng cố và làm rõ hơn

những vấn đề lý luận về chính sách BHTN, những quy định của pháp luật hiện hành
về BHTN cũng như thực tiễn thực hiện chính sách BHTN tại tỉnh An Giang.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu với mục đích làm rõ những vấn đề chung về chính
sách BHTN, khái quát về chính sách BHTN hiện nay và đánh giá thực trạng quá

3


trình áp dụng chính sách BHTN tại tỉnh An Giang, từ đó nhận ra những mặt làm
được và những khiếm khuyết cịn tồn đọng để có hướng kiến nghị sửa đổi, hoàn
thiện pháp luật.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu để làm sáng tỏ một số vấn đề chung về chính sách BHTN.
- Phân tích thực trạng chính sách BHTN ở Việt Nam và đánh giá thực tiễn
thực hiện chính sách BHTN trên địa bàn tỉnh An Giang. Qua đó, rút ra những điểm
tích cực, những điểm cịn tồn tại, bất cập trong chính sách.
- Đề xuất một số kiến nghị hồn thiện chính sách BHTN và giải pháp nâng
cao hiệu quả thực hiện chính sách BHTN trên địa bàn tỉnh An Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Chính sách BHTN ở Việt Nam, cụ thể là nghiên cứu những tồn tại, khó khăn,
vướng mắc của chính sách BHTN để có những giải pháp và cơng cụ giải quyết vấn
đề dưới góc độ khoa học chính sách cơng.
- Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách BHTN hiện hành và tập trung
phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện chính sách BHTN trên địa bàn tỉnh An
Giang. Từ đó đề xuất các kiến nghị hồn thiện chính sách BHTN và giải pháp nâng
cao hiệu quả thực hiện chính sách BHTN trong thời gian tới.

Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2017 đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu lý
thuyết và nguyên cứu thực tế kết hợp với phương pháp nghiên cứu chuyên ngành
chính sách cơng.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế, xã hội phù hợp
với từng vấn đề của đề tài cũng như tổng hợp, khai thác các dữ liệu có sẵn liên quan
đến đề tài nghiên cứu như Luật, Nghị định, Thông tư và các văn bản hướng dẫn của

4


địa phương. Ngồi ra, cịn sử dụng sách, báo, tạp chí, thu thập thơng tin trên mạng
intetnet và tham khảo một số cơng trình nghiên cứu khác có liên quan đến đề tài.
Luận văn sử dụng phương pháp định tính như phân tích, tổng hợp, so sánh,
chứng minh, đối chiếu, thống kê, dự báo khoa học… Các phương pháp này có thể
được sử dụng riêng rẽ hoặc có thể được kết hợp với nhau để làm sáng tỏ một vấn đề
cụ thể.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn làm rõ hơn nữa vấn đề cơ bản về chính sách
BHTN. Cùng với đó phân tích thực trạng chính sách BHTN hiện nay và thực tiễn
thực hiện BHTN tại tỉnh An Giang để từ đó tìm ra những bất cập, hạn chế cịn tồn
tại.
- Về ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có giá trị như một tài liệu tham khảo về
chính sách BHTN tại Việt Nam. Đồng thời luận văn đưa ra một cái nhìn bao quát về
việc thực hiện BHTN tại An Giang, giúp các cơ quan quản lý tại địa phương này có
thể xem xét nghiên cứu để có thể ngày càng hồn thiện chính sách BHTN tại nơi
đây.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt
Nam.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh An Giang.
Chương 3: Giải pháp hồn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách bảo hiểm thất nghiệp tại tỉnh An Giang.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM THẤT
NGHIỆP Ở VIỆT NAM
1.1. Chính sách Bảo hiểm thất nghiệp
1.1.1. Khái niệm chính sách bảo hiểm thất nghiệp
Trên thế giới, vấn đề BHTN bắt đầu được ghi nhận trong các văn bản pháp lý
của các quốc gia kể từ sau cuộc Đại cách mạng công nghiệp lần thứ 2 vào cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi mà khoảng thời gian này là sự bùng nổ của nạn thất
nghiệp, sự phân hóa giai cấp, tầng lớp sâu sắc. Quốc gia đầu tiên áp dụng và thực
hiện chính sách pháp luật về BHTN là Vương Quốc Anh, bắt đầu thực hiện từ năm
1911, tiếp theo là Italia. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thực hiện vào năm 1935, Cộng
hòa Pháp thực hiện năm 1958, Trung Quốc bắt đầu thực hiện năm 1986 [15]. Tính
đến nay đã có hơn 70 quốc gia thực hiện chế độ BHTN. BHTN không chỉ là một
chính sách riêng của bất kỳ quốc gia nào mà nó cịn được thừa nhận trong cộng
đồng quốc tế.
Theo các Công ước của tổ chức lao động quốc tế (ILO) BHXH (theo

nghĩa rộng) có 9 nhánh chế độ, trong đó có chế độ TCTN. Ngồi các chế độ của

BHXH, BHTN phát huy vai trò bảo vệ quyền lợi của NLĐ tương tự như pháp luật
bảo hiểm xã hội. Với tính chất của BHTN là nhằm san sẻ giữa những đối tượng
tham gia với nhau, lợi ích của người tham gia BHTN là được Nhà nước hỗ trợ một
khoản tiền giúp NLĐ thất nghiệp đảm bảo ổn định cuộc sống; sớm đưa người lao
động thất nghiệp quay lại thị trường lao động góp phần cuộc sống thơng qua các
hoạt động đào tạo, tư vấn, hỗ trợ học nghề.
Tại Việt Nam, truớc đây thì chúng ta theo truờng phái Anh, Mỹ, Thụy Điển
khi quy định BHTN nằm trong hệ thống BHXH. Theo Từ điển tiếng việt, BHTN
đuợc hiểu là sự “bảo đảm những quyền và lợi ích cho NLĐ, cơng nhân, viên chức
khi không làm việc do bị mất việc làm " [34, tr.34]. Các quan điểm trên mới chỉ đề
cập BHTN như một chế độ trợ cấp về tài chính cho NLĐ khi bị mất việc làm, điều
này đã bó hẹp BHTN như một là chế độ BHXH mà không làm rõ được hết vai trò

6


quan trọng của BHTN trong thực tế là thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu ngành nghề,
giảm thất nghiệp, tìm và tạo việc làm cho NLĐ.
Sau nhiều năm thực hiện BHTN trong thực tiễn và đồng thời nhận được
những ý kiến đóng góp khác nhau từ những học giả, nhà nghiên cứu về lĩnh vực thất
nghiệp, nhà nước đã có điều chỉnh mang tính đột phá khi chuyển tồn bộ chế độ
BHTN quy định ở Luật BHXH năm 2006 sang Luật Việc làm năm 2013. Chúng ta
đã tiếp thu và bước đầu áp dụng theo mơ hình BHTN của Nhật Bản. Theo Luật Việc
làm đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2015 thì BHTN là
chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ khi bị mất việc làm, hỗ trợ NLĐ
học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào Quỹ BHTN.
Xét cho cùng BHTN được thiết lập nhằm hỗ trợ NLĐ và gia đình họ ổn định
cuộc sống khi gặp rủi ro khơng có việc làm. Có nghĩa là về bản chất, BHTN chính
là hình thức san sẻ rủi ro giữa những NLĐ với nhau nhằm giúp đỡ những người thất
nghiệp vượt qua khó khăn, BHTN cũng dựa trên cơ chế có đóng góp BHTN thì mới

được hưởng TCTN. Khác với các dạng BHXH khác, BHTN là sự bảo đảm thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ chỉ trong trường hợp họ bị mất việc làm
tạm thời và đang có nhu cầu tìm việc làm. Hơn nữa, BHTN khơng những trợ cấp tài
chính cho người thất nghiệp, mà còn chi trả cho hỗ trợ học nghề, tư vấn việc làm…
Như vậy, có thể nói BHTN là một bộ phận của BHXH. Chính vì vậy, ở đa số các
nước, BHTN nằm trong hệ thống BHXH nói chung. Tuy nhiên, do tính đặc thù,
BHTN khơng chỉ đơn thuần là TCTN và cịn có những hỗ trợ khác để NLĐ nhanh
chóng quay trở lại thị trường lao động. Vì vậy, có những nước tách BHTN ra thành
hệ thống riêng. Hơn nữa, từ các quan niệm nêu trên, thất nghiệp là một trong những
nguyên nhân làm ngừng thu nhập của NLĐ làm cơng ăn lương và vì vậy, người thất
nghiệp là một trong những đối tượng cần được xã hội bảo vệ thơng qua việc hình
thành và sử dụng quỹ BHTN từ sự huy động, sự đóng góp của số đơng NLĐ và
người sử dụng lao động, để có nguồn chi trả cho số ít người bị thất nghiệp trong xã
hội. Sự huy động này và cách thức chi trả này chính là một trong những hoạt động
của BHTN.

7


Khái niệm chính sách cơng được hiểu như sau: “Chính sách cơng là kết quả ý
chí chính trị của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên
quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết
những vấn đề cơng trong xã hội”.
Như vậy, chính sách cơng thể hiện là những tập hợp các quyết định hình
thành trong những giai đoạn khác nhau vượt ra ngoài giai đoạn hoạch định chính
sách ban đầu. Ở cấp hoạch định, chính sách cũng không nhất thiết phải thể hiện rõ
ràng trong một quyết định duy nhất, mà có thể được phản ánh trong một chuỗi các
quyết định có liên hệ với nhau, giúp chúng ta nhận thức được nội hàm của chính
sách. Chính sách bao hàm sự thống nhất giữa các mục tiêu và biện pháp thực hiện
trong mỗi loại chính sách. Ngồi ra, giữa các loại chính sách và giữa chính sách với

các công cụ quản lý vĩ mô khác cũng hợp thành một hệ thống hướng đến mục tiêu
phát triển chung của tồn xã hội. Dưới góc độ khoa học chính sách cơng có thể định
nghĩa chính sách cơng BHTN: “Chính sách BHTN là tổng thể các quan điểm, các
quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước về BHTN với mục tiêu, giải pháp
công cụ cụ thể nhằm bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết tình trạng thất nghiệp, trợ
giúp kịp thời cho người lao động thất nghiệp trong thời gian chưa tìm được việc làm
và tạo điều kiện cho học nghề, tìm kiếm cơng việc của mình”.
1.1.2. Đặc điểm của chính sách bảo hiểm thất nghiệp
Thứ nhất, đối tượng áp dụng chế độ BHTN chỉ là những người trong độ tuổi
lao động, có khả năng lao động và tham gia vào các quan hệ lao động nhưng do một
lý do nào đó mà mất việc làm, tạm thời khơng có việc làm cho dù đang tích cực tìm
kiếm việc làm. Chính sách BHTN quy định rõ người lao động đang hưởng TCTN là
những người khơng có phát sinh quan hệ lao động mặc dù vẫn có khả năng lao
động. Nó khác với các loại bảo hiểm khác, các loại bảo hiểm khác thì người lao
động có phát sinh quan hệ lao động như tai nạn lao động, bảo hiểm ốm đau….
Thứ hai, BHTN mang tính chất bắt buộc, đây là một trong nhiều điểm chung
của các chế độ BHXH. Tính bắt buộc thể hiện qua 3 khía cạnh chính chủ thể đóng,
mức đóng, phuơng thức đóng. Chủ thể bắt buộc tham gia BHTN thuờng là NLĐ và
NSDLĐ, bên cạnh đó ở một số quốc gia, Nhà nuớc cũng là đối tuợng bắt buộc tham

8


gia BHTN. Cịn về mức đóng và phuơng thức đóng cũng bị ràng buộc bởi những
quy định theo một mức cụ thể và cách thức nhất định. Các bên tham gia khơng có
quyền lựa chọn mức đóng và phuơng thức đóng BHTN.
Thứ ba, NLĐ và NSDLĐ tạo lập nên một quỹ tài chính tập trung, đồng thời
quỹ này có sự hỗ trợ một phần cũng như sự bảo trợ từ phía nhà nuớc. Quỹ này hoạt
động theo một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ BHXH là lấy số đơng bù
số ít, có vai trị hỗ trợ một phần cho NLĐ và gia đình NLĐ khi họ mất việc làm,

giúp họ ổn định cuộc sống, nhanh chóng tìm đuợc việc làm mới.
Thứ tư, BHTN không chỉ nhằm mục đích thu và chi trả TCTN, mà nó cịn
đưa ra các biện pháp để giúp nguời lao động nhanh chóng quay lại thị truờng lao
động. Vì vậy cơ quan BHTN phải vừa có nghĩa vụ nhận đăng ký thơng tin BHTN,
kiểm tra các điều kiện của NLĐ truớc khi chi trả TCTN, vừa cung cấp và cập nhật
thông tin về thị truờng lao động việc làm nhằm giúp NLĐ tìm đuợc công việc phù
hợp với khả năng và những yêu cầu của bản thân.
1.1.3. Vai trị của chính sách bảo hiểm thất nghiệp
* Đối với người lao động
Chính sách BHTN là bù đắp thu nhập cho NLĐ khi bị mất việc làm. Chính vì
thế trong thời gian hưởng BHTN, NLĐ khơng những được trợ cấp tài chính mà cịn
được cấp thẻ bảo hiểm y tế và được tư vấn, giới thiệu việc làm, đào tạo nghề phù
hợp với NLĐ và thị trường để sớm tìm được việc làm thích hợp. Những hoạt động
hỗ trợ này khơng những góp phần làm giảm khó khăn trước mắt trong cuộc sống
của NLĐ khi họ tạm thời bị thất nghiệp, mà còn tạo điều kiện cho họ có cuộc sống
ổn định hơn. NLĐ được nhận BHTN trong thời gian khó khăn do mất việc làm,
NLĐ cũng cảm nhận được trách nhiệm của Nhà nước đối với mình, sự cưu mang
của cộng đồng khi gặp khó khăn, nhờ đó khơng những họ có khả năng ổn định
tương đối về cuộc sống, mà còn giảm tâm lý bất bình với xã hội, với Nhà nước và
cộng đồng. Ở các nước có nền KTTT, thu nhập chủ yếu của NLĐ thường gắn với
việc làm; khi khơng cịn việc làm, thu nhập đương nhiên cũng khơng cịn. Khi đó
NLĐ và gia đình họ có nguy cơ rơi vào cảnh túng quẫn, bị bần cùng hố. Để khắc
phục tình cảnh này, bản thân NLĐ phải tích cực tìm chỗ làm việc mới. Đây là biện

9


pháp khá năng động, có tính cá nhân. Tuy nhiên, khơng phải ai và lúc nào cũng có
thể tìm được việc làm ngay, vì thất nghiệp thường song hành với thời kỳ nền kinh tế
bị suy thoái, doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, nên

khó tạo ra chỗ làm việc mới cho NLĐ. Một biện pháp khác có tính xã hội cao, là
nhà nước tổ chức BHTN cho NLĐ. BHTN xét về mặt xã hội là biện pháp có tính
thụ động, nhưng lại có ý nghĩa tích cực đối với từng cá nhân NLĐ khi bị thất
nghiệp, giúp được họ có một khoản thu nhập bù đắp lại mức thu nhập đã bị mất do
bị mất việc làm; tạo điều kiện cho họ sớm quay trở lại thị trường lao động, tránh
không bị rơi vào tình cảnh túng quẫn.
* Đối với người sử dụng lao động
Ngoài việc hỗ trợ cho NLĐ bị thất nghiệp, BHTN cũng đem lại một số lợi
ích cho NSDLĐ. BHTN giúp cho NSDLĐ khơng phải bỏ ra một khoản chi phí quá
lớn để giải quyết chế độ cho người bị mất việc làm. Nhờ đó, NSDLĐ có thể cân
bằng các khoản tài chính khác, góp phần ổn định doanh nghiệp. Đồng thời trong
quá trình lao động, một khi NSDLĐ tham gia đóng một cách tích cực và đầy đủ thì
tâm lý của NLĐ sẽ được ổn định hơn khá nhiều, họ sẽ không quá lo lắng nếu chẳng
may bị mất việc làm, và khi đó chất lượng và cơng việc sẽ tăng lên đáng kể và
NSDLĐ sẽ được hưởng lợi rất nhiều, doanh nghiệp sẽ trên đà ngày càng phát triển.
Thực chất đây là mối quan hệ cả hai bên đều có lợi, do đó khơng có lý do gì mà
NSDLĐ khơng tham gia đóng BHTN. Đây cũng vừa là quyền lợi và trách nhiệm
của họ.
Mặt khác, việc cung cấp thông tin, tư vấn đào tạo cho NLĐ bị thất nghiệp
tìm việc làm, giúp cho NSDLĐ, những người có nhu cầu lao động và những người
thất nghiệp, đang có nhu cầu tìm việc làm, có nhiều cơ hội gặp nhau hơn. Xuất phát
từ ngun tắc có cung thì ắt sẽ có cầu, BHTN như là một cầu nối trong việc tạo lập
mối quan hệ giữa những NLĐ bị thất nghiệp với NSDLĐ. Từ đó, NSDLĐ được đáp
ứng nhu cầu lao động phù hợp với mong muốn, yêu cầu công việc mà họ đề ra.
* Đối với nhà nước và xã hội
Đối với bất kỳ quốc gia nào, một khi tình trạng thất nghiệp gia tăng thì đồng
nghĩa với việc nền kinh tế đang suy thối, nguồn nhân lực bị lãng phí quá mức, các

10



giá trị sản phẩm và dịch vụ cũng sụt giảm nghiêm trọng đồng thời nó cũng là
ngun nhân chính gây ra tình trạng lạm phát, mất cân đối cơ cấu kinh tế. Do đó
việc thực hiện chế độ BHTN góp phần giải quyết có hiệu quả tình trạng thất nghiệp,
giảm tải các gánh nặng về tài chính cho các vấn đề xã hội và mục tiêu xa hơn và
quan trọng hơn là đảm bảo ổn định cho sự phát triển kinh tế của quốc gia. Ngoài ra,
thất nghiệp gia tăng sẽ dẫn đến tình trạng mất thu nhập đột ngột và đương nhiên khi
thất nghiệp kéo dài thì người lao động sẽ gặp khó khăn về mặt tài chính [26, tr.78],
dẫn đến việc phát sinh các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, mại dâm.. Đây là
“mầm mống” gây bất ổn chính trị - xã hội ở bất kỳ quốc gia nào. Vì vậy, BHTN
cũng có một vai trị khơng nhỏ trong việc ổn định cuộc sống cho NLĐ trong thời
gian bị thất nghiệp cũng như góp phần ổn định trật tự an ninh - xã hội.
1.1.4. Nguyên tắc điều chỉnh chính sách bảo hiểm thất nghiêp
Chính sách BHTN được xây dựng và thực thi dựa trên những nguyên tắc sau:
Thứ nhất, chính sách BHTN dựa trên nguyên tắc cộng đồng chia sẻ rủi ro.
BHTN là "hạt nhân" của chính sách thị trường lao động, nằm trong hệ thống
chính sách kinh tế-xã hội, góp phần đảm bảo lợi ích của các bên trong quan hệ lao
động. BHTN là sự chia sẻ rủi ro giữa các cá nhân trong cộng đồng, có sự đóng góp
của nhiều thành phần trong xã hội, theo đó số nhiều bù số ít. Thực hiện đảm bảo
theo nguyên tắc này thì giúp cho NLĐ có một khoản tiền giải uyết nhu cầu cuộc
sống khi mất việc làm.
Do đó, Nhà nước phải quy định bắt buộc đối với NLĐ và NSDLĐ trong việc
tham gia BHTN. Vì đây là các chủ thể khơng thể thiếu trong chính sách.
Thứ hai, mức đóng BHTN được tính trên cơ sở tiền lương của người lao động.
NLĐ tham gia đóng BHTN theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định thì
tiền lương tháng đóng BHTN mà NLĐ đóng là tiền lương theo ngạch, bậc và các
khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp khác... Mức lương này dựa trên cơ sở mức tiền
lương cơ sở do Chính phủ quy định từng thời điểm đóng.
NLĐ tham gia đóng BHTN theo chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định thì
tiền lương hàng tháng đóng BHTN là mức tiền lương, tiền cơng ghi trên HĐLĐ.


11


Đối với trường hợp NLĐ tham gia đóng BHTN do NSDLĐ quyết định hông thấp
hơn mức lương tối thiểu vùng do Nhà nước quy định tại thời điểm đóng.
Trường hợp NLĐ là người quản lý doanh nghiệp, tiền lương, tiền cơng tháng
đóng BHTN là mức tiền lương do điều lệ của doanh nghiệp quy định; người quản lý hợp
tác xã mức tiền lương, tiền công được Đại hội xã viên thông qua.
Thứ ba, cơ sở xác định mức hưởng BHTN dựa trên mức đóng, thời gian
đóng BHTN.
Trong cơ chế thị trường, đối với các hoạt động kinh doanh, Nhà nước chỉ
thực hiện chức năng quản lý nên khi xây dựng chính sách BHTN cần có tỷ lệ tương
xứng giữa đóng góp với thụ hưởng của người lao động, hạn chế tới mức thấp nhất sự
bù đắp của Nhà nước đối với quỹ BHTN.
Nhà nước đóng vai trị quan trọng trong chính sách BHTN là hỗ trợ cho NLĐ
ổn định cuộc sống cho bản thân họ và gia đình NLĐ khi bị mất thu nhập do thất
nghiệp gây nên. Do đó, mức hưởng và thời gian hưởng trợ cấp BHTN hàng tháng
được Nhà nước xem xét mức sống tối thiểu cho người lao động và đồng thời được
cân đối với mức đóng góp BHTN trước đó của người lao động. Khi xác định mức
hưởng trợ cấp BHTN một mặt căn cứ vào khả năng chi trả của quỹ BHTN, mặt
khác còn đảm bảo khuyến khích người lao động chủ động tìm kiếm việc làm nhằm
thốt khỏi tình trạng thất nghiệp.
Thứ tư, Quỹ BHTN được quản lý tập trung, thống nhất, dân chủ, cơng khai,
minh bạch, đảm bảo an tồn và được Nhà nước bảo hộ.
Nguồn hình thành quỹ BHTN từ sự đóng góp của các bên tham gia là: Nhà
nước 1%, NSDLĐ 1%, NLĐ 1% . Vì vậy, hoạt động của quỹ phải dựa trên nguyên tắc
quản lý thống nhất, dân chủ, cơng khai và hạch tốn độc lập. Quỹ BHTN do một cơ
quan được quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương theo chế độ tài chính của
Nhà nước. Quỹ được sử dụng vào các mục đích như: Chi cho công tác đào tạo, đào

tạo lại, học nghề cho người thất nghiệp; Chi phí cho hoạt động của bộ máy quản lý
BHTN; Chi trả trợ cấp BHTN cho người lao động; Chi cho các hoạt động tìm việc
làm cho người thất nghiệp; …

12


Do vậy, quỹ BHTN là một quỹ tài chính độc lập, tự thu, tự chi, hoàn toàn
độc lập với ngân sách Nhà nước, mục tiêu là giải quyết vấn đề thất nghiệp.
Thứ năm, cách thức giải quyết chính sách bảo hiểm thất nghiệp phải đơn
giản, dễ dàng, thuận tiện, đảm bảo kịp thời đầy đủ quyền lợi của người tham gia.
Nhà nước thống nhất quản lý BHTN thể hiện trước hết ở việc Nhà nước trực
tiếp ban hành pháp luật về BHTN, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện chế
độ này. Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở từng thời kỳ mà Nhà nước
xây dựng chương trình quốc gia về BHTN, các qui định pháp luật về như thu hẹp
hay mở rộng đối tượng, điều kiện hưởng và mức hưởng…
Với tư cách là người đại diện và thực hiện các chính sách xã hội, Nhà nước
cịn có trách nhiệm đóng góp vào quỹ BHTN, áp dụng các biện pháp để bảo tồn giá
trị quỹ và làm cho quỹ tăng trưởng. Ngoài ra, Nhà nước thống nhất tổ chức, quản lý
sự nghiệp BHTN cho tồn xã hội nhưng khơng bao cấp, khơng lấy ngân sách để chi
trả mà chỉ hỗ trợ một phần.
1.2. Nội dung chính sách bảo hiểm thất nghiệp
1.2.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp
Đối tượng tham gia BHTN là vấn đề được quan tâm đầu tiên khi đề cập tới
BHTN. Trước đây, quy định về BHTN được nêu rõ tại Luật BHXH 2006. Tuy nhiên,
sau lần sửa đổi gần nhất, vấn đề BHTN được tách ra và quy định tại Luật Việc làm năm
2013, không thuộc Luật BHXH như trước nữa. Đối tượng tham gia BHTN được quy
định tại Điều 43, Điều 44 Luật Việc làm 2013 và Điều 11 Nghị định 28/2016/NĐ-CP.
Theo đó, đối tượng tham gia BHTN là NLĐ, NSDLĐ và nhà nước.
* Người lao động

Theo khoản 1 Điều 3, Điều 43 Luật Việc làm năm 2013 thì NLĐ là cơng dân
Việt Nam, phải tham gia BHTN khi làm việc theo HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc
không xác định thời hạn; Hợp đồng lao động hoặc HĐLV xác định thời hạn; HĐLĐ
theo mùa vụ hoặc theo một cơng việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới
12 tháng.
Theo quy định này, chỉ những NLĐ là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở
lên, có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc; giao kết các loại hợp đồng lao

13


động, hợp đồng làm việc như trên với NSDLĐ mới là đối tượng của BHTN. Do đó,
những NLĐ là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; người đang hưởng lương
hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng, giúp việc gia đình; người giao kết HĐLĐ
dưới 03 tháng khơng thuộc đối tượng tham gia BHTN. Ngoài ra, theo quy định tại
Điều 11 Nghị định số 28/2016/NĐ-CP thì NLĐ nghỉ việc hưởng chế độ thai sản
hoặc ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên không hưởng tiền lương tháng tại đơn vị
mà hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội, NLĐ tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động
hoặc HĐLV đã giao kết theo quy định của pháp luật thì NLĐ không thuộc đối
tượng tham gia BHTN trong thời gian này.
* Người sử dụng lao động
Cũng như NLĐ, pháp luật BHTN ngay từ khi mới ban hành cũng giới hạn
phạm vi được tham gia BHTN của NSDLĐ. Trước đây, theo quy định tại khoản 2,
khoản 4 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội và Điều 3 Nghị định số 127/2008/NĐ-CP thì
việc tham gia BHTN chỉ áp dụng đối với NSDLĐ có sử dụng từ 10 lao động trở lên
tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Nhưng thực tế của thị
trường Việt Nam hiện nay cho thấy, NSDLĐ có sử dụng dưới 10 lao động còn khá
phổ biến, hơn nữa nguy cơ NLĐ mất việc làm ở những nơi này lại cao hơn so với
các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan có quy mơ sử dụng lao động lớn nên đây là một
điểm bất cập. Vì vậy, cùng với việc mở rộng đối tượng tham gia đóng BHTN, Luật

việc làm cũng đề ra những thay đổi về việc tham gia BHTN của NSDLĐ. Theo
Điều 43, NSDLĐ tham gia BHTN gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công
lập, đơn vị vũ trang nhân dân; Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; Cơ
quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; Doanh
nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, hộ kinh doanh, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân
có thuê mướn, sử dụng lao động. Như vậy, theo Luật việc làm, việc tham gia BHTN
khơng cịn phụ thuộc vào số lượng NLĐ nữa mà căn cứ vào thời hạn làm việc theo
hợp đồng lao động của NLĐ. Sự thay đổi đáng kể này khơng chỉ hỗ trợ, giải quyết
những khó khăn cho NLĐ khi mất việc mà còn ràng buộc thêm trách nhiệm từ phía
NSDLĐ.

14


1.2.2. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp
1.2.2.1. Nguồn hình thành quỹ
Quỹ BHTN được quy định tại Điều 57 Luật Việc làm năm 2013 thì các
nguồn hình thành BHTN gồm có:
Thứ nhất, nguồn đóng góp từ NLĐ: NLĐ tham gia đóng góp vào quỹ BHTN
với mức đóng là 1% tiền lương tháng. Đối với trường hợp NLĐ thuộc đối tượng
thực hiện chế độ tiền lương do nhà nước quy định thì tiền lương tháng đóng BHTN
sẽ được tính là tiền lương theo ngạch, bậc và các khoản phụ cấp chức vụ, thâm niên
(nếu có) nhưng khơng q 20 tháng lương cơ sở tại thời điểm đóng BHTN. Cịn với
trường hợp NLĐ đóng BHTN theo chế độ lương do NSDLĐ quyết định thì tiền
lương tháng đóng BHTN sẽ được tính là tiền lương được quy định trong hợp đồng
lao động đã ký giữa NSDLĐ và NLĐ. Tuy nhiên, nếu mức tiền lương tháng của
NLĐ cao hơn hai mươi tháng lương tối thiểu vùng thì NLĐ phải đóng BHTN theo
mức tiền lương bằng hai mươi tháng lương tối thiểu vùng.
Thứ hai, nguồn đóng góp từ NSDLĐ, NSDLĐ đóng bằng 1% quỹ tiền lương

tháng của những NLĐ đang tham gia BHTN; So với quy định cũ trong luật BHXH
năm 2006 thì những quy định mới có một số điểm lợi cho NSDLĐ, khi bên sử dụng
lao động đóng BHTN với mức 1% thì họ sẽ khơng phải thanh tốn trợ cấp thơi việc
cho NLĐ với mức nửa tháng lương trên một năm như trước, và từ đó giảm bớt một
phần gánh nặng về tài chính cũng như tiết kiệm được một khoản tiền không nhỏ cho
NSDLĐ. Ngồi ra quy định NSDLĐ đóng BHTN cũng góp phần tái tạo sức lao
động cho NLĐ thông qua các hoạt động hỗ trợ bồi dưỡng nâng cao trình độ tay
nghề hay hỗ trợ học nghề. Bên cạnh đó nó cịn đặt ra những trách nhiệm đối với
chính NSDLĐ trong công tác quản lý và sử dụng NLĐ.
Thứ ba, là từ sự hỗ trợ của phía nhà nước. Nhà nước hỗ trợ tối đa 1% quỹ
tiền lương tháng đóng BHTN của những NLĐ đang tham gia BHTN và do ngân
sách trung ương bảo đảm. Ngân sách nhà nước hỗ trợ Quỹ BHTN theo nguyên tắc
bảo đảm duy trì số dư quỹ hằng năm bằng 02 lần tổng các khoản chi các chế độ
BHTN và chi phí quản lý BHTN của năm trước liền kề nhưng mức hỗ trợ tối đa
bằng 1% quỹ tiền lương tháng đóng BHTN của những NLĐ đang tham gia BHTN.

15


Có thể thấy so với quy định cũ thì vai trị của nhà nước đã khơng bị bó buộc chặt
như trước nữa. Hiện tại, nhà nước có thể chủ động trong việc hỗ trợ quỹ BHTN,
khơng bắt buộc phải đóng bằng 1% như truớc kia, thay vào đó dựa vào mức ổn định
và khả năng tài chính của quỹ BHTN mà nhà nước sẽ quyết định mức hỗ trợ của
chính mình. Ngồi ra, theo quy định tại khoản 2, Điều 57 Luật Việc làm thì quỹ
BHTN cịn được đóng góp từ một số nguồn khác như tiền sinh lời từ các hoạt động
đầu tư quỹ (như đầu tư trái phiếu, tín phiếu của nhà nước hay các ngân hàng thương
mại) cũng như các nguồn thu hợp pháp khác do pháp luật quy định.
1.2.2.2. Quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Theo quy định quỹ BHTN được dùng vào các mục đích sau: hỗ trợ học nghề;
hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm; đóng bảo hiểm y tế cho người hưởng TCTN chi

trả TCTN; hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc
làm cho NLĐ; chi phí quản lý BHTN thực hiện theo quy định; đầu tư để bảo toàn và
tăng trưởng quỹ. Cho dù quỹ BHTN được tạo lập nên bởi 3 chủ thể là nhà nước,
NSDLĐ và NLĐ song về cơ bản quỹ BHTN là 1 quỹ tài chính độc lập, riêng biệt và
được quản lý tập trung bởi cơ quan BHXH các cấp từ Trung ương tới địa phương.
Các cơ quan BHXH này trực tiếp đảm nhận công tác thu, chi và quản lý BHTN; cứ
đến quý 4 hàng năm thì BHXH phải lập bảng dự tốn thu chi để làm căn cứ cho nhà
nước xem xét quyết định mức hỗ trợ BHTN. Do đó, cơng tác quản lý quỹ BHTN
phải được đảm bảo một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời, để từ đó nhà nước có
những điều chỉnh phù hợp hơn cho người tham gia BHTN và ngày càng đáp ứng
được mục đích của BHTN là hỗ trợ một phần thu nhập cho NLĐ khi bị mất việc
làm và giúp họ có cơ hội nhanh chóng quay trở lại thị trường lao động và tìm được
việc làm. Hiện nay, BHTN ở Việt Nam được thực hiện theo ngun tắc lấy số đơng
bù số ít, có nghĩa là số người đóng BHTN lớn hơn nhiều so với số người hưởng
BHTN do đó số tiền chưa được dùng ngay rất lớn. Đây chính là khoản tiền nhàn rỗi
mà cơ quan BHXH được nhà nước cho phép thực hiện một số hoạt động đầu tư tài
chính – tín dụng nhằm đảm bảo sự an toàn và tăng trưởng quỹ BHTN. Theo Điều 4
Nghị định số 30/2016/NĐ-CP của Chính phủ “quy định chi tiết hoạt động đầu tư từ
quỹ BHXH, bảo hiểm y tế, BHTN” thì các hoạt động đầu tư bao gồm: Việc đầu tư

16


không chỉ đảm bảo sinh lời nhằm gia tăng khả năng tài chính cho quỹ BHTN, mà
cịn phải đảm bảo an toàn khi đầu tư, hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra, tránh để
xảy ra những trường hợp “vỡ quỹ” gây thiệt hại lớn cho các bên tham gia. Chính vì
vậy, cơ quan BHXH cần phải cân nhắc cẩn thận và cụ thể dựa trên tình hình tài
chính của quỹ BHTN mà quyết định hình thức đầu tư cho phù hợp.
1.2.3. Các chế độ của bảo hiểm thất nghiệp
1.2.3.1. Chế độ bảo hiểm thất nghiệp

- Đối tượng hưởng trợ cấp thất nghiệp:
Đối tượng hưởng TCTN là những NLĐ làm việc theo HĐLĐ hoặc HĐLV
bao gồm:
+ HĐLĐ hoặc HĐLV không xác định thời hạn;
+ HĐLĐ hoặc HĐLV xác định thời hạn;
+ HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một cơng việc nhất định có thời hạn từ đủ 03
tháng đến dưới 12 tháng;
Trường hợp NLĐ giao kết và đang thực hiện nhiều HĐLĐ, HĐLV thuộc đối
tượng tham gia BHTN thì NLĐ và NSDLĐ của HĐLĐ, hợp đồng việc làm đầu tiên
có trách nhiệm tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
- Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp:
NLĐ bị thất nghiệp sẽ được hưởng TCTN nếu đáp ứng đủ 4 điều kiện sau:
+ Điều kiện thứ nhất, là đã chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm
việc theo quy định Điều 36 Bộ luật Lao động năm 2012 về các trường hợp chấm dứt
hợp đồng lao động và Điều 28, 29 Luật Viên chức năm 2010 trừ các trường hợp:
NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ, HĐLV trái pháp luật; Hưởng lương hưu, trợ
cấp mất sức lao động hằng tháng; NLĐ đang đóng BHTN được hiểu là người có
tháng liền kề trước thời điểm chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV đã đóng BHTN và được
tổ chức bảo hiểm xã hội xác nhận.
+ Điều kiện thứ hai, là NLĐ bị thất nghiệp đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở
lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng
làm việc đối với những trường hợp là “hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc
không xác định thời hạn” và “hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc xác định

17


thời hạn”. Ngoài ra do Luật Việc làm năm 2013 có quy định thêm đối tượng tham
gia BHTN là NLĐ đã ký hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một cơng việc
nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng. Với đối tượng này thì điều

kiện được hưởng TCTN của họ là đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở lên trong thời
gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động.
+ Điều kiện thứ ba, là NLĐ đã nộp hồ sơ hưởng TCTN tại trung tâm dịch vụ
việc làm trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp
đồng làm việc. Sau khi NLĐ mất việc làm và họ muốn được hưởng trợ cấp thì họ
phải nộp hồ sơ xin hưởng trợ cấp đến Trung tâm Dịch vụ việc làm do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cấp phép cho hoạt động. Hồ sơ hưởng trợ cấp gồm có đơn đề
nghị hưởng BHTN, bản sao hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc đã hết hạn hoặc
thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc..., sổ bảo hiểm xã hội.
Việc quy định hồ sơ hưởng trợ cấp nhằm giúp cơ quan quản lý có căn cứ pháp lý để
xác định mức hưởng cũng như thời gian mà người thất nghiệp được hưởng dựa trên
khoảng thời gian tham gia và đóng góp BHTN. Ngồi ra, luật có quy định thời hạn
nộp hồ sơ là 3 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, làm việc. Khoảng thời
gian 3 tháng là tương đối hợp lý bởi vì sau khi mất việc, NLĐ phải hoàn thiện khá
nhiều các thủ tục khác nhau để đảm bảo quyền và lợi ích cho chính mình khơng chỉ
riêng về BHTN.
+ Điều kiện thứ tư, là NLĐ bị thất nghiệp chưa tìm được việc làm sau 15
ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng BHTN trừ những trường hợp mà luật quy định tại
khoản 4 Điều 49 Luật Việc làm.
So với quy định trước đây về những trường hợp khơng được hưởng BHTN
thì quy định mới trong Luật Việc làm đã được thắt chặt hơn nhằm góp phần đảm
bảo công bằng cho các chủ thể là NLĐ khi tham gia vào BHTN. Về khoảng thời
gian 15 ngày nhìn chung cũng là tương đối hợp lý nếu so với quy định của một số
nước trên thế giới, không quá dài cũng khơng q ngắn, đảm bảo cho NLĐ có một
khoảng thời gian phù hợp để tìm kiếm việc làm mới, nhằm tránh tâm lý ỷ lại, chỉ
mong được hưởng chứ không muốn làm việc. Về cơ bản, Luật Việc làm quy định
bốn điều kiện để được hưởng trợ cấp như trên là tương đối hợp lý so với trước đây,

18



việc thêm nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp là một điểm sáng, phù hợp với thông lệ
quốc tế cùng với đó là việc thay thế quy định đăng ký thất nghiệp bằng nộp hồ sơ
hưởng trợ cấp thất nghiệp nhằm rút gọn thủ tục hành chính và giúp NLĐ mất việc
làm dễ dàng hơn trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của chính mình. Tuy vậy,
đối với những NLĐ theo hợp đồng mùa vụ và một công việc nhất định từ 3-12
tháng thì sẽ găp khó khăn hơn trong việc tích lũy số tháng đóng BHTN nếu so với
các loại hợp đồng lao động khác, do tính chất loại hình cơng việc khơng có tính ổn
định lâu dài và dễ mất việc. Do đó nhà nước nên nghiên cứu điều chỉnh thời gian
đóng BHTN với đối tượng này từ 12 tháng xuống cịn 6 tháng thì hợp lý hơn.
- Mức hưởng trợ cấp cho NLĐ bị thất nghiệp
Theo khoản 1 Điều 50 Luật Việc làm năm 2013 có quy định thì “Mức hưởng
TCTN hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHTN của 06
tháng liền kề trước khi thất nghiệp”. Tuy vậy, trên thực tế không phải ai cũng sẽ
đóng đủ BHTN 6 tháng liên tiếp trước khi mất việc làm, họ có thể bị gián đoạn thời
gian đóng bảo hiểm do những lý do chủ quan và khách quan khác nhau ví dụ như
nghỉ hưởng chế độ thai sản hay ốm đau. Chính vì vậy nhà làm luật đã đưa ra trường
hợp nếu những tháng cuối cùng trước khi thất nghiệp, NLĐ có thời gian gián đoạn
đóng BHTN thì mức hưởng trợ cấp của NLĐ thay vì dựa trên mức đóng của 06
tháng liền kề trước đó nay được tính dựa trên bình qn tiền lương của 06 tháng
đóng BHTN trước khi NLĐ chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc
theo quy định của pháp luật. Mức hưởng TCTN hằng tháng của NLĐ tối đa không
quá 05 lần mức lương cơ sở đối với NLĐ thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền
lương do Nhà nước quy định hoặc không quá 05 lần mức lương tối thiểu vùng theo
quy định của Bộ luật Lao động đối với NLĐ đóng BHTN theo chế độ tiền lương do
NSDLĐ quyết định tại thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động.
Lý do phải khống chế mức hưởng TCTN là do theo quy định tại Luật Việc
làm thì NLĐ khi thất nghiệp khơng chỉ được hưởng chế độ TCTN mà còn được
hưởng các chế độ khác như: hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm; hỗ trợ học nghề.
Ngoài ra, người đang hưởng TCTN được hưởng chế độ BHYT theo quy định của

pháp luật về BHYT. Không những vậy cịn đảm bảo sự cơng bằng giữa 2 đối tượng

19


là NLĐ trong khu vực nhà nước và NLĐ trong khu vực doanh nghiệp, do 2 đối
tượng này có mức lương tối thiểu khác nhau.
- Thời gian hưởng TCTN
Thời gian hưởng TCTN của NLĐ dựa trên số tháng mà NLĐ đóng BHTN,
nếu NLĐ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 3 tháng TCTN, sau đó,
cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng TCTN nhưng tối đa không
quá 12 tháng. Như vậy thời gian tối đa mà một NLĐ có thể hưởng TCTN ở Việt
Nam là 12 tháng tương đương 1 năm, NLĐ sẽ nhận các khoản trợ cấp theo từng
tháng một.
- Tạm dừng, tiếp tục hưởng TCTN
Theo quy định taị khoản 1 Điều 53 và khoản 1 Điều 52 Luâṭ Việc làm năm
2013 thì người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiêp ̣ hàng tháng sẽ bị tạm dừng
hưởng trợ cấp trong trường hợp họ khơng thơng báo về tình hình tìm kiếm việc làm
hàng tháng cho Trung tâm dịch vụ việc làm biết. Ngoài ra tại khoản 2 Điều 19 Nghị
định số 28/2015/NĐ-CP của Chính phủ cũng có quy định về vấn đề trên cụ thể như
sau: “Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày NLĐ không đến thơng báo về
việc tìm kiếm việc làm hằng tháng theo quy định, Trung tâm dịch vụ việc làm nơi
NLĐ đang hưởng TCTN trình Giám đốc Sở LĐTBXH quyết định về việc tạm dừng
hưởng TCTN của NLĐ”.
Mục đích của việc thơng báo tình hình việc làm hàng tháng trong thời gian
hưởng trợ cấp là nhằm giúp các cơ quan quản lý lao động xác định được tình trạng
việc làm hiện tại của NLĐ, xem họ đã tìm được việc làm chưa, nếu rồi thì sẽ làm
thủ tục chấm dứt hưởng TCTN cịn nếu chưa thì sẽ tiếp tục cho NLĐ hưởng tiếp trợ
cấp trong thời gian còn lại, đồng thời đưa ra những chế độ hỗ trợ NLĐ như hỗ trợ
học nghề, tư vấn giới thiệu việc làm... Vì vậy, khi NLĐ khơng thơng báo tình hình

việc làm thì đương nhiên họ sẽ bị tạm dừng hưởng TCTN và không được nhận tiền
TCTN. Có thể qn thơng báo cho Trung tâm dịch vụ việc làm hay họ “cố tình
qn” thơng báo nhằm được hưởng lợi kép “vừa hưởng lương, vừa hưởng trợ cấp”.
Do đó pháp luật đã đưa ra những quy định như trên nhằm siết chặt việc quản lý tình
hình việc làm cũng như trong việc chi trả BHTN. Tuy vậy không phải cứ tạm dừng

20


hưởng TCTN là NLĐ hết cơ hội được hưởng tiếp. Theo quy định tại khoản 2 Điều
53 và khoản 1 Điều 20 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP của Chính phủ thì nếu NLĐ
bị tạm dừng hưởng TCTN mà vẫn còn trong thời gian hưởng TCTN đồng thời tiếp
tục thông báo về tình hình tìm kiếm việc làm thì họ sẽ được hưởng TCTN trở lại.
- Việc chấm dứt hưởng TCTN
Chấm dứt hưởng TCTN là việc NLĐ thôi không được hưởng TCTN nữa.
Như đã biết TCTN được đưa ra nhằm giúp đỡ NLĐ về mặt tài chính trong một
khoảng thời gian nhất định để họ có thể ổn định cuộc sống. Tuy vậy TCTN chỉ
mang tính chất tạm thời, khơng thể hỗ trợ NLĐ trong khoảng thời gian quá dài
được. Tại Việt Nam pháp luật đưa ra 13 trường hợp chấm dứt hưởng TCTN đối với
NLĐ. Theo khoản 3 Điều 53 Luật việc làm và Điều 21 Nghị định 28/2015/NĐ-CP,
NLĐ đang hưởng TCTN bị chấm dứt hưởng TCTN trong các trường hợp: Hết thời
hạn hưởng TCTN theo quyết định hưởng TCTN của NLĐ; Có việc làm; Thực hiện
nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; Hưởng lương hưu hằng tháng; Sau hai lần từ
chối nhận việc làm do Trung tâm dịch vụ việc làm nơi đang hưởng TCTN giới thiệu
mà khơng có lý do chính đáng; Khơng thực hiện thơng báo tìm kiếm việc làm hằng
tháng trong thời hạn 03 tháng liên tục với Trung tâm dịch vụ việc làm theo quy
định; Ra nước ngồi để định cư, đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp
đồng; Bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù; Chết; Chấp hành quyết định áp dụng
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt
buộc.

1.2.3.2. Chế độ hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm
Khi NLĐ chấm dứt HĐLĐ, HĐLV thì NLĐ khơng có việc làm, thu nhập
khơng cịn, vì vậy NLĐ cần tìm một cơng việc mới. Một trong mục tiêu cơ bản của
BHTN là giúp NLĐ thất nghiệp nhanh chóng quay trở lại thị trường lao động và
tìm được một cơng việc thực sự phù hợp trình độ khả năng của bản thân. Để được
như vậy thì mỗi quốc gia phải có những quy định cụ thể về việc hỗ trợ tư vấn và
giới thiệu việc làm nhằm giúp NLĐ vượt qua tình trạng thất nghiệp. Ở Việt Nam,
theo quy định tại Điều 54 Luật Việc làm năm 2013 và Điều 14 Nghị định số
28/2015/NĐ-CP của Chính phủ thì các điều kiện để NLĐ được hưởng hỗ trợ tư

21


vấn, giới thiệu việc làm gồm có: NLĐ thuộc đối tượng bắt buộc tham gia BHTN
khi làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc được quy định tại
Luật Việc làm; Đang đóng BHTN thì bị chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp
đồng làm việc; Có mong muốn và nhu cầu tìm một cơng việc mới phù hợp với bản
thân.
Cũng theo các quy định trên thì cơ quan đảm nhiệm việc tự vấn và giới thiệu
việc làm cho NLĐ là Trung tâm dịch vụ việc làm tỉnh. Trung tâm này đóng vai trị
như là một “trạm trung chuyển” giữa NLĐ đang thất nghiệp với NSDLĐ đang có
nhu cầu tuyển dụng, họ tiếp nhận thơng tin cũng nhu cầu tìm việc của NLĐ và sau
đó tùy thuộc vào trình độ khả năng cũng như nhu cầu của từng NLĐ cộng với nhu
cầu của thị trường lao động để từ đó tư vấn và bố trí giới thiệu một cơng việc phù
hợp cho NLĐ. Bên cạnh đó, NLĐ sẽ được tư vấn và giới thiệu việc làm miễn phí,
họ sẽ khơng phải bỏ ra bất kỳ một chi phí nào. Kinh phí thực hiện tư vấn, giới thiệu
việc làm của Trung tâm được giao khoán theo số lượng người nộp hồ sơ đề nghị
hưởng TCTN của năm liền trước, và thực hiện thanh quyết toán theo quy định trên
cơ sở thực tế số lượng người nộp hồ sơ hưởng TCTN. Phí tư vấn, giới thiệu việc
làm theo quy định của pháp luật về phí. Trung tâm dịch vụ việc làm có nhiệm vụ tư

vấn, giới thiệu việc làm trên cơ sở nhu cầu, khả năng của NLĐ và nhu cầu của thị
trường lao động [07, Điều14].
1.2.3.3. Chế độ hỗ trợ học nghề
Bên cạnh TCTN thì hỗ trợ học nghề cũng là một nôi dung quan trọng khác
của BHTN. Chế độ này ra đời nhằm nâng cao trình độ tay nghề làm việc của NLĐ
để giúp họ có thể đáp ứng các yêu cầu công việc khác nhau, từ đó nhanh chóng
quay trở lại thị trường lao động và tìm được một cơng việc phù hợp. Hiện nay nhà
nước có quy định tương đối chi tiết về vấn đề hỗ trợ học nghề cho NLĐ.
- Điều kiện được hỗ trợ học nghề
Theo quy định tại Điều 55 Luật Việc làm năm 2013 thì NLĐ đã đóng BHTN
sẽ được hỗ trợ học nghề khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:
+ Có quyết định chấm dứt HĐLĐ, HĐLV đúng quy định.
+ Đã nộp hồ sơ hưởng TCTN tại Ttrung tâm dịch vụ việc làm.

22


+ Sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng BHTN chưa tìm việc làm.
Ngồi ra đối với NLĐ đã đóng BHTN từ 9 tháng trở lên nhưng khơng thuộc
diện hưởng TCTN thì cũng có quyền được hưởng hỗ trợ học nghề nếu họ thực sự có
nhu cầu.
- Mức hỗ trợ và thời gian học nghề
Mức hỗ trợ học nghề cho NLĐ tham gia BHTN được quy định tại Điều 3
Quyết định số 77/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về mức hỗ trợ học nghề
đối với NLĐ tham gia BHTN. Theo đó mức hỗ trợ học nghề cho NLĐ tham gia
BHTN tối đa 1 triệu đồng/người/tháng. NLĐ tham gia BHTN chỉ phải đóng phần
vượt q nếu phí học nghề cao hơn mức hỗ trơ.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật việc làm thì thời gian được hỗ trợ
học nghề của NLĐ phụ thuộc vào thời gian học nghề thực tế nhưng không quá 06
tháng. Thông qua các quy định trên, chúng ta có thể thấy nhà nước khá quan tâm về

vấn đề hỗ trợ học nghề, với mong muốn NLĐ có thể nâng cao chất lượng trình độ
và tay nghề nhằm đáp ứng yêu cầu của công việc. Tuy vậy trên thực tế thì NLĐ họ
khơng thực sự mặn mà với chế độ này, tỷ lệ NLĐ thất nghiệp đăng ký hỗ trợ học
nghề là tương đối ít. Lý do có thể kể ra như do thời gian đào tạo được hỗ trợ theo
quy định nhiều nhất 6 tháng là quá ngắn, không đủ thời gian học trọn vẹn một nghề
mới hoặc nâng cao trình độ hiện có, mức hỗ trợ học nghề cịn thấp, nếu thiếu thì lại
phải bỏ tiền túi đề bù thêm. Ngồi ra, một vài NLĐ họ chỉ quan tâm đến phía cạnh
tài chính mà khơng quan tâm đến mục đích sâu xa của BHTN là giúp NLĐ trang bị
đủ điều kiện kiến thức và kỹ năng để có thể quay lại thị trường lao động và tìm
được cơng việc phù hợp.
1.2.3.4. Chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề
để duy trì việc làm cho người lao động
Đây là một trong các giải pháp hữu ích giúp cho NLĐ có thể duy trì thu
nhập. NSDLĐ được hỗ trợ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng
nghề để duy trì việc làm cho NLĐ trong trường hợp đóng đủ BHTN cho NLĐ thuộc
đối tượng tham gia BHTN liên tục từ đủ 12 tháng trở lên, tính đến tháng liền trước
của tháng đề nghị hỗ trợ, hoặc đến tháng của ngày đề nghị hỗ trợ nếu NSDLĐ đã

23


×