Tải bản đầy đủ (.doc) (143 trang)

ĐÁNH GIÁ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ LÂY NHIỄM HIV/AIDS TRONG NGÀNH THỦYLÂY NHIỄM HIV/AIDS TRONG NGÀNH THỦY SẢN TỈNH AN GIANG SẢN TỈNH AN GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.01 KB, 143 trang )

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
CHƯƠNG TRÌNH HỖ TRỢ NGÀNH THUỶ SẢN GIAI ĐOẠN 2 (FSPS - II) - HỢP
PHẦN STOFA
CÔNG TY TNHH TƯ VẤN VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ

BÁO CÁO KẾT QUẢ
ĐÁNH GIÁ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ
LÂY NHIỄM HIV/AIDS TRONG NGÀNH THỦY
SẢN TỈNH AN GIANG
(Bản thảo lần thứ hai)

Người viết báo cáo:

Trần Thị Kim Xuyến (Trưởng nhóm)
Phan Thị Mai Lan (Thành viên)
Đặng Thị Thìn (Thành viên)
Và với sự tham gia của 30 điều tra viên địa phương

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 12 – 2008


Lời cảm ơn
Báo cáo “Khảo sát và đánh giá những yếu tố tác động đến sự lan nhiễm HIV/AIDS trong ngành
thủy sản” được thực hiện theo đơn đặt hàng và hỗ trợ tài chính của Đại sứ quán Đan Mạch, dự án
STOFA và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, đánh giá và tìm hiểu những yếu tố tác động
đến sự lây nhiễm HIV/AIDS trong ngành thuỷ sản nói chung và ở tỉnh An Giang nói riêng nhằm
giúp Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Xây dựng Chiến lược phòng chống HIV giai đoạn
2010-2015 đồng thời giúp Ban quản lý dự án STOFA điều chỉnh các hoạt động chương trình
nhằm xem xét tính dễ bị lây nhiễm HIV và xây dựng kế hoạch hành động Chương trình phòng
chống HIV/AIDS trong ngành thủy sản giai đoạn 2009-2010.
Báo cáo này là một trong 9 báo cáo chuyên đề, được thực hiện tại tỉnh An Giang.


Nhóm nghiên cứu – thuộc Công ty Tư vấn và Phát triển công nghệ (ADCOM) đã hoàn thành
nhiệm vụ của mình trong khoảng thời gian 3 tháng với các nỗ lực soạn thảo bộ công cụ nghiên
cứu, tài liệu tập huấn, tập huấn cho điều tra viên và cùng điều tra viên địa phương thực hiện
nghiên cứu tại địa bàn 4 huyện/thị xã, 12 xã/phường thuộc tỉnh An Giang.
Để hoàn thành được báo cáo này, trước hết cho phép chúng tôi xin trân trọng bày tỏ sự biết ơn tới
Ông Nguyễn Văn Thạnh, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn An Giang; Bà
Phạm Thị Hòa, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn An Giang; Bà Trần
Nguyễn Thủy Tiên, chuyên viên Phòng Kế hoạch Sở; Ông Trần Hòang Hùng, Chi Cục phó bảo
vệ nguồn lợi thủy sản; Bà Lê Minh Trang, cán bộ Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh
An Giang; Ông Nguyễn Minh Thông, Cán bộ y tế thị xã Châu Đốc; Ông Nguyễn Văn Quận, Cán
bộ y tế xã Phú Bình, huyện Phú Tân; Ông Lê Nhựt Ngôi, Phó trưởng trạm y tế Phường A, thị xã
Châu Đốc; Ông Nguyễn Công Bình, Cán bộ trạm y tế xã Khánh An, huyện An Phú; Ông Nguyễn
Văn Huân, Phó trưởng trạm y tế xã Vĩnh Xương, huyện Tân Châu; cán bộ khuyến ngư và cán bộ
y tế các xã đã tạo điều kiện giúp đỡ và hỗ trợ nhóm tư vấn trong quá trình triển khai hoạt động
khảo sát, điều tra trên thực địa cũng như đã cung cấp số liệu thứ cấp, tài liệu tham khảo.
Để có được kết quả nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu xin gửi lời cảm ơn tới 30 điều tra viên của
4 huyện/thị xã nói trên đã tích cực giúp chúng tôi thu thập thông tin và cũng như các cán bộ địa
phương đã nỗ lực tổ chức và hướng dẫn để các điều tra viên hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Nhóm nghiên cứu đặc biệt biết ơn bà con ngư dân tại 12 xã/phường tại các điểm nghiên cứu cung
cấp thông tin cho chúng tôi để đảm bảo cho tiến độ và kết quả nghiên cứu.
Nhóm nghiên cứu


MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................................................3
MỤC LỤC CÁC HÌNH, BẢNG, HỘP............................................................................................4
.........................................................................................................................................................4
MỤC LỤC BẢNG BIỂU.................................................................................................................4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT..................................................................................................8
TÓM TẮT TỔNG QUAN ...............................................................................................................9

PHẦN I. TỔNG QUAN CHUNG..................................................................................................26
PHẦN II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU...........................................................................................34
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU.......................................................34
CHƯƠNG II. ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG THỦY SẢN TẠI AN GIANG......................................42
CHƯƠNG III. KIẾN THỨC VÀ HÀNH VI VỀ BỆNH LTQĐTD VÀ HIV/AIDS.....................57
CHƯƠNG IV. THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI HIV/AIDS.............................................................................83
CHƯƠNG V. HÀNH VI TÌNH DỤC VÀ TÌNH DỤC AN TOÀN...............................................94
CHƯƠNG VI. CÁC HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI GIẢI TRÍ VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
TỚI SỰ LÂY TRUYỀN HIV/AIDS............................................................................................108
.....................................................................................................................................................128
CHƯƠNG VII. HOẠT ĐỘNG CAN THIỆP PHÒNG CHỐNG HIV/ AIDS VÀ NHU CẦU CÚA
NGƯỜI DÂN...............................................................................................................................129


MỤC LỤC CÁC HÌNH, BẢNG, HỘP
Hình A. Tỷ lệ nhiễm HIV/ 100.000 dân qua các năm tại An Giang

40

Hình B.

Sơ đồ phân bổ nguồn lực các dự án

41

Hình 1.

Tỷ lệ nam nữ thuộc các nhóm nghề tham gia trả lời

44


Hình 2.

Mức độ biết về Các bệnh lây qua đường tình dục

59

Hình 3.

Tỷ lệ hiểu biết các bệnh lây qua đường tình dục theo nghề nghiệp

61

Hình 4.

Tỷ lệ người hiểu về mối liên hệ giữa bệnh LQĐTD và HIV

64

Hình 5.

Tương quan nghề nghiệp và nhận định “Một người khoẻ mạnh cũng có
thể lây nhiễm HIV”

74

Hình 6.

Thái độ ứng xử khi người nhà bị bệnh


87

Hình 7.

Nơi nghỉ lại khi đi xa của NTL

120

Hình 8.

Những hiện tượng tiêu cực ở nơi đi công tác

121

Hình 9.

Mong muốn nhận được bao cao su miễn phí

132

Hình 10. Mong muốn nhận được thêm các thông tin về HIV/ AIDS

140

Hình 11. Thời gian phù hợp cho hoạt động truyền thông với ngư dân trong ngày

140

MỤC LỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1


Tỉ lệ nhiễm HIV- Kết quả giám sát Trọng điểm năm 2001-2006

28


Bảng 2.

Phạm vi thực hiện nghiên cứu

31

Bảng 2a Tình trạng hôn nhân và giới tính của mẫu nghiên cứu

45

Bảng 3.

Số năm làm việc trung bình của người trả lời

45

Bảng 4.

Tương quan giữa các phân tổ về giới tính, trinh độ văn hóa, trình trạng
hôn nhân và tình trạng đi làm ăn xa của các nhóm nghề thủy sản

48

Bảng 5.


Mức độ tham gia của phụ nữ vào những lần đi làm ăn xa với chồng
trong tương quan với nghề nghiệp của NTL

50

Bảng 6.

Hiểu biết về bệnh lây qua đường tình dục theo trình độ văn hóa

60

Bảng 7.

Hiểu biết về bệnh lây qua đường tình dục theo nhóm tuổi

61

Bảng 8.

Tỷ lệ người hiểu biết về các BLTQĐTD tính theo giới tính, tình trạng đi
làm ăn và nhóm nghề nghiệp trong ngành thủy sản

63

Bảng 9.

Những người từng mắc bệnh LTQĐTD tính theo giới tính

65


Bảng 10. Cách thức điều trị của người trả lời, tính theo giới tinh

66

Bảng 11. Nhận thức của các nhóm nghề trong ngành thuỷ sản về con đường lây
nhiễm HIV/AIDS

68

Bảng 12. Biện pháp có thể phòng, tránh HIV/AIDS

71

Bảng 13. Nhận định về thuốc điều trị HIV/AIDS

72

Bảng 14. Nhận định về khả năng nhiễm bệnh

73

Bảng 15. Quan điểm về khả năng nhiễm bệnh của lao động thủy sản tính theo
trình độ học vấn

74

Bảng 16. Nhận định của người trả lời về biểu hiện của bệnh AIDS

75


Bảng 17. Sự hiểu biết về các triệu chứng bệnh tính theo nhóm tuổi

76

Bảng 18. Nguồn thông tin về HIV/AIDS tính theo giới tính

79

Bảng 19. Nguồn thông tin về HIV/AIDS tính theo nhóm nghể nghiệp

80

Bảng 20. Mức độ đồng ý với ý kiến phải đi khám khi nghi ngờ mình bị nhiễm

81


HIV
Bảng 21. Tỷ lệ người xét nghiệm HIV tính theo tình trạng hôn nhân và nghề
nghiệp của NTL

81

Bảng 22. Lý do không đi xét nghiệm HIV tính theo giới tính và tình trạng đi xa
của NTL

83

Bảng 23. Thái độ đối với người nhiễm HIV


84

Bảng 24. Thái độ của phụ huynh đối với học sinh bị HIV

88

Bảng 25. Thái độ của cộng đồng đối với người nhiễm HIV và gia đình họ

90

Bảng 26. Ý kiến về những khó khăn mà NCH gặp phải

91

Bảng 27. Tỷ lệ những người đã quan hệ tình dục tính theo tình trạng hôn nhân của
NTL

95

Bảng 28. Những đối tượng có quan hệ tình dục với những người lao động trong
ngành thủy sản tính theo tình trạng gia đình, giới tính và tính di động.

96

Bảng 29. Những đối tượng có quan hệ tình dục với những người lao động trong
ngành thủy sản tính theo nhóm nghề

97


Bảng 30. Hình thức quan hệ tình dục tính theo nhóm nghề, nhóm tuổi và tình
trạng hôn nhân.

98

Bảng 31. Địa điểm quan hệ tình dục được NTL xác nhận

99

Bảng 32. Địa điểm quan hệ tình dục được NTL xác nhận, tính theo giới tính và
tính di động

99

Bảng 33. Địa điểm quan hệ tình dục được NTL xác nhận, tính theo nhóm nghề.

100

Bảng 34. Việc sử dụng bao cao su trong lần QHTD gần nhất

101

Bảng 35. Mức độ sử dụng bao cao su khi quan hệ với vợ hoặc chồng

103

Bảng 36. Lí do không sử dụng bao cao su của NTL tính theo giới tính

105


Bảng 37. Lý do không sử dụng bao cao su tính theo tính di dộng và lứa tuổi.

106


Bảng 38. Mục đích sử dụng BCS

107

Bảng 39. Ý kiến về mục đích sử dụng bao cao su theo giới tính, nghề nghiệp và
tính di động của người trả lời

108

Bảng 40. Nơi nhận bao cao su theo giới tính, nghề nghiệp và tình trạng đi làm ăn
xa

109

Bảng 41. Tương quan giữa giới tính với công việc thường làm vào thời gian rỗi
của NTL

112

Bảng 42. Hình thức giải trí của NTL tính theo nghề nghiệp chính và mức độ di
động

112

Bảng 43. Tình trạng đi làm ăn xa theo nhóm nghề nghiệp chính


119

Bảng 44. Số ngày nghỉ trung bình mỗi lần cập cảng

120

Bảng 45. Hình thức giải trí của những người đi làm ăn xa ở nơi dừng chân

121

Bảng 46. Mức độ sử dụng rượu bia của NTL

123

Bảng 47. Tương quan giữa hình thức truyền thông với các đặc điểm cá nhân

134

Bảng 48. Hình thức giải trí của NTL tính theo nghề nghiệp chính và mức độ di
động

138

Bảng 49. Thời gian phù hợp để tổ chức hoạt động truyền thông phòng chống
HIV/AIDS

139

Bảng 50. Hình thức giúp đỡ những ngư dân bị nhiễm HIV/AIDS


141


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AIDS

Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải

ARV

Thuốc kháng vi rút ARV

BCS

Bao cao su

BLQDTD

Bệnh lây truyền qua đường tình dục

CB

Chế biến

DV

Dịch vụ

GDVĐĐ


Giáo dục viên đồng đẳng

KT

Khai thác

KTNVQS

Khám tuyển nghĩa vụ quân sự

NT

Nuôi trồng

NCMT

Nghiện chích ma túy


MDN

Mại dâm nữ

HIV

Vi rút suy giảm miễn dịch ở người

LTQĐTD


Lây truyền qua đường tình dục

MSM

Nam có quan hệ tình dục với nam

NCH

Người có HIV

PVS

Phỏng vấn sâu

QHTD

Quan hệ tình dục

TLNTT

Thảo luận nhóm tập trung

UNAIDS

Chương trình phòng chống AIDS của Liên hợp quốc

WHO

Tổ chức Y tế Thế giới
TÓM TẮT TỔNG QUAN


Báo cáo này là một trong báo cáo trình bày kết quả nghiên cứu được thực hiện theo đơn đặt hàng
và hỗ trợ tài chính của Đại sứ quán Đan Mạch, dự án STOFA và Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn, nhằm đánh giá và tìm hiểu những yếu tố tác động đến sự lây nhiễm HIV/AIDS trong
ngành thuỷ sản tại An Giang.
Nghiên cứu được thực hiện tại bao gồm 3 huyện và 1 thị xã, bao gồm 1 phường và 11 xã tại
tỉnhh An Giang. Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng kết hợp định tính, phân tích tài
liệu thứ cấp, Mẫu nghiên cứu đối với công cụ thu thập thông tin bằng bảng hỏi 300 đơn vị
vớingười trả lời từ 4 nhóm nghề nghiệp khác nhau: Khai thác, Nuôi trồng, Chế biến, Hậu
cầu/dịch vụ; Nghiên cứu định tính bao gồm phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm với các đối tượng
thuộc các nghề nói trên, đại diện lãnh đạo chính quyền các cấp, cán bộ y tế cơ sở, NCH và gia
đình NCH....
Nội dung khảo sát: Khảo sát các yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV của ngư dân, thông qua việc đánh
giá thực trạng về KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, HÀNH VI của các nhóm nghề nghiệp nói trên. Đồng
thời đánh giá những khó khăn mà người bị nhiễm HIV và gia đình họ gặp phải, trên cơ sở đó đề
xuất các giải pháp hỗ trợ họ. Cuối cùng, đưa ra những khuyến nghị của họ về hoạt động truyền
thông trong tương lai, về hình thức, thời gian thích hợp cho từng loại nghề nghiệp khác nhau
trong ngành thuỷ sản Nghệ An.


1. Đặc điểm lao động thủy sản tỉnh An Giang
Lao động thủy sản tại An Giang chủ yếu là những người lao động phổ thông, làm việc đòi hỏi sức
khỏe và kinh nghiệm. Trình độ học vấn không cao, chủ yếu từ cấp II trở xuống, đặc biệt, nhiều
người chưa từng đến trường.
Không như nhóm đánh bắt xa bờ ở Cà Mau và ở Bến Tre- thường dùng tàu đánh cá lớn ra biển
khơi, những người làm nghề khai thác tại An Giang phần lớn đánh bắt cá trên sông.
Những tàu đánh bắt gần bờ và tàu cào họ thường đem theo cả gia đình và thường đi dài ngày.
Một năm, họ chỉ nghỉ tháng 9 và tháng 10 âm lịch và trở về cộng đồng để sửa chữa tàu và làm
các thủ tục pháp lý mà thôi. Những ngư phủ (thủy thủ) trẻ thường theo tàu đi liên tục. Một năm
họ chỉ về nhà 2, 3 tháng, Trong khi sự kiểm soát xã hội hầu như không có, những thủy thủ

thường dễ có lối sống buông thả hơn. Mỗi khi cập bến họ thường mong muốn được thỏa mãn nhu
cầu vui chơi giải trí, thường sử dụng rượu bia, một số trong nhóm này thường có nhu cầu được
thỏa mãn tình dục. Đây chính là thời gian dễ tham gia vào các hoạt động liên quan tới những
hành vi nguy cơ nhiễm HIV.
Ngoài ra, tại An Giang nhiều con tàu và ghe nhỏ cũng ra biển không nhằm mục đích đánh cá mà
chủ yếu làm dịch vụ. Họ mua cá biển về bán hoặc mua cá nhỏ (cá cơm) về phục vụ cho nhóm
nuôi trồng thủy sản, chủ yếu là các hầm hoặc bè cá tra. Nhóm dịch vụ xa bờ này hoàn toàn được
hình thành một cách tự phát. Họ thường đi làm cùng với nhiều thành viên khác trong gia đình, họ
hàng với sự kiểm soát xã hội tương đối cao.
Về vai trò giới trong gia đình của lao động thủy sản ở An Giang, nhìn chung, có sự phân công lao
động theo giới ở cả 3 lĩnh vực hoạt động; lao động sản xuất, lao động tái sản xuất và công việc
cộng đồng. Tuy nhiên, mức độ thể hiện vai trò của nam và nữ trong các nhóm nghề không hoàn
toàn giống nhau.
Đối với vai trò lao động sản xuất ngoài xã hội, những dữ liệu định lượng và định tính đều cho
thấy có sự phân công lao động theo giới theo lĩnh vực lao động trong các nhóm nghề. Tỷ lệ nam
giới tham gia vào nghề khai thác thuỷ sản, đặc biệt là khai thác xa bờ, vận chuyển hàng hoá (lái
xe), một số công việc nặng trong nuôi trồng thuỷ sản luôn cao hơn nữ. Trong khi đó phụ nữ tập
trung nhiều ở nghề chế biến, dịch vụ. Chủ yếu họ tham gia đan lưới, buôn bán nhỏ hải sản tại các
chợ quê, chợ gần nhà và những công việc nhẹ trong nuôi trồng thuỷ sản. Gần đây, phụ nữ cũng
xu hướng đi làm thuê ở những cơ sở chế biến hải sản (làm nước mắm, làm mắm, hoặc buôn bán
nhỏ ở chợ gần nhà, chăn nuôi …).
Gần đây phụ nữ ở An Giang cũng đã phát huy được vai trò sản xuất. Nhiều bằng chứng cho thấy
sự năng động và chủ động trong vai trò sản xuất của phụ nữ. Nhiều gia đình tại các điểm khảo sát
có phụ nữ làm chủ hộ. Họ chủ động quyết định các công việc sản xuất và tỏ ra có khả năng quản


lý rất tốt công việc kinh doanh của gia đình. Khả năng phát triển nghề dich vụ thủy sản của
những người phụ nữ dựa trên mạng lưới xã hội của cộng đồng nông thôn tại An Giang.
Đối với công việc tái sản xuất, trước kia, theo truyền thống, phụ nữ được xã hội kỳ vọng là người
đảm đương công việc lao động, chăm lo cho chồng con ở trong gia đình. Tuy nhiên, trong thực tế

đã có sự thay đổi về sự hỗ trợ việc nhà từ phía nam giới đối với phụ nữ trong các nhóm nghề.
Ít có sự chia sẻ công việc gia đình trong nhóm đánh bắt xa bờ, tuy nhiên, trong gia đình của các
nhóm lao động động thủy sản còn lại, sự phân công lao động lại mang tính hợp lý hơn. Nam giới
cũng tham gia giải quyết các công việc trong gia đình (nấu cơm, đón con hay giặt quần
áo…)cùng người vợ.
Đối với công việc cộng đồng, phụ nữ là người tham gia các cuộc họp có liên quan tới các cuộc
họp thôn ấp hoặc tập huấn về kiến thức kế hoạch hóa gia đình hoặc HIV, còn nam giới thường đi
họp về những vấn đề liên quan tới sản xuất. Cộng đồng cho rằng, nam giới thường là nhóm nguy
cơ nhưng họ lại không tham gia các cuộc họp cộng đồng. Từ đây nhận thấy vấn đề trong thực
hiện hành vi phòng chống HIV/AIDS là phụ nữ được kỳ vọng là người nắm kiến thức và chịu
trách nhiệm về sự an toàn tình dục nhưng định kiến giới lại ngăn cản phụ nữ đòi hỏi nam giới về
tình dục an toàn.
Với những đặc điểm đã nêu ở trên, các chương trình truyền thông và can thiệp cho lao động thủy
sản cần tính tới những đặc điểm về tính chất công việc, đặc điểm tâm sinh lý của nhóm tuổi và
tính di động xã hội của họ để đảm bảo được tính hiệu quả một cách tối ưu nhất.
2. Kiến thức về HIV/AIDS
Khoảng 5 năm trở lại đây, do tỷ lệ nhiễm HIV ở An Giang tăng mạnh, các tổ chức chính quyền
địa phương, đặc biệt với sự nỗ lực của TT phòng chống HIV/AIDS và Lao đã kêu gọi được sự hỗ
trợ của các tổ chức quốc tế, nhiều dự án can thiệp phòng chống HIV/AIDS tại địa phương đã
được thực hiện. Chính vì vậy, người dân đã có kiến thức nhất định về căn bệnh HIV/ AIDS. Tuy
nhiên, sự hiểu biết về các bệnh lây truyền qua đường tình dục không đồng đều giữa các nhóm: sự
chênh lệch về tỉ lệ này có mối quan hệ với các yếu tố nhân khẩu xã hội (giới tính, trình độ học
vấn, nghề nghiệp, tuổi…). Nhận thức về các BLTQĐTD tỷ lệ thuận với trình độ học vấn và nhóm
tuổi. Những người có trình độ học vấn càng cao thì tỷ lệ hiểu biết về các BLTQĐTD càng lớn.
Người lao động thủy sản trưởng thành hơn có tỉ lệ hiểu biết về kiến thức này cao hơn so với các
nhóm lao động trẻ tuổi. Vấn đề đặt ra ở đây là, nhóm trẻ thuộc độ tuổi sung mãn về tình dục, có
xu hướng quan hệ tình dục sớm hơn. Đồng thời, các dữ liệu tại địa phương cho thấy tỉ lệ nhiễm
HIV của nhóm thanh niên từ 20-29 cao hơn hẳn các nhóm khác. Trong khi đó, kiến thức về bệnh
lây truyền qua đường tình dục ở nhóm này thì lại rất hạn chế.
Thực tế cho thấy, có khoảng trống trong việc phổ biến thông tin cho nhóm thanh niên. Các dự án

quốc tế tại địa phương thường dựa vào Hội Liên hiệp phụ nữ, Ủy ban Dân số và Gia đình, hệ


thống y tế v.v…. nên thường thu hút phụ nữ, những người có gia đình tham gia. Việc xác định
các nhóm trọng điểm (thường là các nhóm có nguy cơ cao: mại dâm, ma túy…) cũng vô tình bỏ
qua nhóm thanh niên này. Mặc dù Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng có những
chương trình hoạt động, nhưng chủ yếu vẫn là các Đoàn viên tích cực làm công tác tuyên truyền
trong trường học, tổ chức, các câu lạc bộ và chưa thực sự thu hút được nhiều thanh niên tham gia.
Mặt khác, do nghỉ học sớm nên những thanh niên tại An Giang cũng không thuộc nhóm được
quan tâm tuyên truyền ở trường học.
Trong các nhóm nghề ngành thủy sản, mặc dù tỷ lệ những người xác nhận có nắm được các căn
bệnh lây qua đường tình dục tương đối cao nhưng sự hiểu biết này cũng có sự khác biệt giữa các
nhóm nghề: nhóm khai thác và nhóm nuôi trồng có tỷ lệ những người không biết về các căn bệnh
này cao hơn. Nhóm này cũng xác nhận qua các cuộc TLNTT rằng họ rất ít khi tham gia các cuộc
họp cộng đồng, các buổi truyền thông về sức khỏe sinh sản và HIV/AIDS tại cộng đồng.
Nhóm nam giới trong lao động thủy sản hiểu biết về các bệnh lây truyền qua đường tình dục cao
hơn lao động phụ nữ.
Đề cập đến các các bệnh lây qua đường tình dục, số liệu khảo sát cho thấy có sự khác nhau đáng
kể về mức độ hiểu biết của người trả lời về các loại bệnh cụ thể. HIV và Lậu là hai loại bệnh
được nhắc đến nhiều nhất. Sau nữa, bệnh giang mai, Nấm sinh dục, bệnh Hecpec sinh dục thường
nằm cuối bảng xếp hạng các loại bệnh LTQĐTD mà lao động thủy sản nắm được. Phân tích
tương quan giữa sự hiểu biết của lao động thủy sản và những bệnh mà họ bị nhiễm trong thực tế,
báo cáo nhấn mạnh sự hiểu biết về các căn bệnh này có liên quan tới những bệnh mà giới nam
hoặc nữ thường mắc phải.
Những người đi xa thường biết rõ về các loại BLTQĐTD hơn nhóm không đi xa. Đặc biệt, nhóm
đi xa có tỷ lệ biết về các loại bệnh nguy hiểm hơn so với nhóm ở nhà. Sự hiểu biết về các lại bệnh
lây qua đường tình dục của người dân cũng không đều nhau giữa những người sống tại cộng
đồng nông thôn và cộng đồng đô thị. Những người sống ở vùng sâu vùng xa hiểu biết về các
bệnh LTQĐTD ít hơn.
Khi đề cập đến thông tin về tình trạng lây nhiễm BLQĐTD của mình, tỷ lệ người trả lời lảng

tránh câu hỏi này khá cao. Tương tự, những người tham gia thảo luận nhóm nói nhiều về những
bệnh LTQĐTD mà họ biết hơn là tiết lộ thông tin về những bệnh mà họ bị nhiễm. Phụ nữ và nam
giới thường liệt lê các bệnh mà họ hay mắc phải hoặc có nguy cơ bị nhiễm. Nam giới quan tâm
tới các bệnh HIV, giang mai và lậu hơn, phụ nữ quan tâm tới các loại bệnh có liên quan tới nấm
và siêu vi hơn (Herpes, nấm sinh dục, viêm gan B).
Đa số những người lao động thủy sản nắm được mối liên hệ giữa các bệnh lây qua đường tình
dục và khả năng gia tăng mức độ nhiễm HIV. Thông tin từ Sở y tế An Giang cho thấy, tỷ lệ lao


động tại An Giang nhiễm và phải điều trị về các bệnh các bệnh lây qua đường tình dục tương đối
cao. Tuy nhiên, tỉ lệ ghi nhận ở số người mắc phải thông qua bảng hỏi không nhiều. Điều này cho
thấy sự e ngại nhất định khi nói tới vấn đề có liên quan tới tình dục.
Mặc dù khi bị bệnh thông thường, người dân ở Đồng bằng Sông Cửu Long thường có thói quen
đến hiệu thuốc mua thuốc để tự điều trị. Tuy nhiên, họ có cách ứng xử khác hơn khi mắc các
bệnh lây qua đường tình dục. Việc tự giác đến các cơ sở y tế công và tư nhân chữa bệnh lây qua
đường tình dục, đặc biệt ở nhóm lao động thủy sản nữ cho thấy tính hiệu quả của công tác truyền
thông tại địa phương. Vấn đề là cần nhân rộng các mô hình truyền thông đến với các nhóm còn
lại.
Từ nhận thức khá cao về con đường lây và không lây các BLTQĐTD, người lao động thủy sản
An Giang đã thể hiện trình độ nhận thức cao về các biện pháp phòng tránh HIV/ AIDS.
Nhìn chung, lao động thủy sản ở An Giang hiểu được về cơ bản nguyên nhân bị nhiễm HIV, kể
cả kiến thức về những cách sinh hoạt có khả năng lây nhiễm và những cách thức trong sinh hoạt
không bị lây. Mặc dù vậy, có sự khác biệt về nhận thức giữa nhóm lao động nam và nữ. Nhóm
lao động nữ hiểu biết về HIV rõ ràng hơn thông qua những kiến thức về con đường lây truyền, về
cách thức phòng chống HIV. Xét theo nhóm nghề, tỷ lệ những người hiểu rõ về các biện pháp
phòng tránh HIV/AIDS cũng có sự khác biệt. Nhóm chế biến, nhóm dịch vụ hậu cần hiểu rõ về
các biện pháp phòng tránh HIV hơn so với nhóm nuôi trồng và nhóm khai thác.
Về kiến thức liên quan đến triệu chứng bệnh, kết quả nghiên cứu cho thấy không phải tất cả các
triệu chứng của bệnh AIDS đều được người lao động thủy sản nắm rõ. Những người lao động tại
chỗ hiểu rõ về các triệu chứng bệnh hơn so với nhóm đi xa. Lao động nữ cũng có tỷ lệ hiểu cao

hơn nam giới về phần lớn các chứng bệnh ngoại trừ triệu chứng sốt kéo dài.
3. Nguồn thông tin, từ đó ngư dân tiếp nhận thông tin về HIV/AIDS
Tại An Giang, các cơ quan chức năng và các tổ chức xã hội đã kết hợp nhiều hình thức của
truyền thông đại chúng trong việc tuyên truyền kiến thức về HIV/AIDS. Đó là điều kiện rất thuận
lợi để người dân nói chung và người lao động thủy sản ở An Giang nói riêng, có thể nâng cao
kiến thức về lĩnh vực này. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nguồn thông tin mà từ đó ngư dân có
được kiến thức và thông tin về HIV/AIDS được người trả lời xác định rất đa dạng. Các kênh
thông tin được ngư dân xác định cao nhất là những kênh truyền thông đại chúng Tuy nhiên, kênh
truyền hình Trung ương không phải là nguồn chính để ngư dân tiếp cận. Tỷ lệ xác định về nguồn
này thấp hơn nhiều trong tương quan với các kênh địa phương. Trong các cuộc thảo luận nhóm,
những người tham gia thảo luận cũng xác nhận rằng những kiến thức và thông tin mà họ có được
chủ yếu thông qua các kênh truyền hình và đài địa phương hoặc loa phóng thanh của xã.
Có sự khác biệt nhất định về nguồn truyền thông đối với các nhóm lao động thủy sản. Mặc dù các


nhóm nghề nghiệp đều có đặc điểm chung là coi kênh truyền hình địa phương là công cụ tiếp
nhận kiến thức HIV/AIDS. Tuy nhiên, những người thuộc nhóm nghề chế biến và dịch vụ - hậu
cần có xu hướng tiếp nhận thông tin từ truyền hình và hệ thống phát thanh tại địa phương hơn.
Còn những người làm nghề khai thác lại thường tiếp nhận thông tin từ đài phát thanh và kênh
truyền hình trung ương hơn. Như vậy, các kênh truyền thông đại chúng, đặc biệt các kênh truyền
hình địa phương được coi là nguồn chính để tiếp nhận thông tin về HIV. Điều này chưa đủ để
đánh giá và so sánh tính hiệu quả của công tác truyền thông trực tiếp tại địa phương và nguồn
thông tin từ các kênh TTĐC, nhưng về cơ bản có thể thấy sự phổ cập thông tin từ các kênh truyền
thông đại chúng đã phát huy được thế mạnh của chúng. Đối với lao động nữ, kênh truyền hình
địa phương là nguồn chính, đối với nhóm khai thác, kênh truyền hình trung ương và đài phát
thanh là phương tiện chính.
Đối với nguồn từ truyền thông trực tiếp như các cuộc hội thảo, các lớp tập huấn, các hoạt động
của ngành “y tế địa phương” được những người trả lời xác định như một nguồn có hiệu quả hơn
cả. Ngoài ra, nguồn thông tin từ “cán bộ Hội liên hiệp phụ nữ” cũng được ngư dân đánh giá
tương đối cao.

Về hình thức truyền thông, thông tin từ các cuộc tập huấn hội thảo diễn ra tại địa phương cũng
được ngư dân ghi nhận. Tuy nhiên, lao động nữ tiếp nhận thông tin do đi họp cộng đồng và các
buổi tập huấn do Hội liên hiệp Phụ nữ nhiều hơn. Còn nam giới chủ yếu nắm được thông tin từ
các cuộc họp hội thảo. Đối với công cụ truyền thông, các nhóm lao động thủy sản đánh giá cao
hình thức tờ rơi hơn là những cuốn sách nhỏ.
4. Thái độ đối với HIV/AIDS
Từ kết quả định lượng và định tính, có thể nhận định rằng, sự kỳ thị của cộng đồng đối với những
bệnh nhân HIV trong cuộc nghiên cứu này chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Đa số có thái độ thông cảm và sẵn
sàng giúp đỡ những người không may mắn này. So với trước kia thì sự kỳ thị đang có xu hướng
giảm vì người dân đã hiểu rõ cơ chế lây truyền của căn bệnh này nhiều hơn trước. Tuy nhiên, sự
kỳ thị và phân biệt đối xử vẫn còn tồn tại trong các nhóm dân cư, và hình thức kỳ thị tương đối
đa dạng từ hạn chế tiếp xúc, giao tiếp cho đến xa lánh những người nhiễm HIV. Những người có
trình độ học vấn thấp, do sự hiểu biết về con đường lây nhiễm hạn chế, dễ có thái độ kỳ thị đối
với NCH. Chính sự kỳ thị còn tồn tại trong cộng đồng không những gây khó khăn cho bản thân
những người bị bệnh mà nhiều khi cả gia đình họ cũng là nạn nhân của sự phân biệt đối xử.
Những đứa trẻ không may mắn bị nhiễm HIV vẫn còn vấp phải những khó khăn khi đến trường
khi một số phụ huynh vẫn còn thái độ kỳ thị và chính họ sẽ có tác động đến con cái của họ khi
đến trường. Điều này sẽ gây không ít mặc cảm cho những trẻ em kém may mắn này.
Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy tình cảm gắn kết trong gia đình làm cho người thân của


các bệnh nhân vượt qua được mặc cảm và bất chấp khó khăn về kinh tế để chăm sóc họ tốt nhất
trong khả năng có thể. Đây là đặc điểm tốt đẹp từ truyền thống văn hóa của Việt Nam cần khai
thác và phát huy trong công tác tuyên truyền phòng chống HIV/ AIDS trong ngành thủy sản.
Những thông tin từ những NCH xác nhận sự mặc cảm với chính mình nhiều nhất. Khi phát hiện
mình bị bệnh họ thường chán nản, muốn buông xuôi và nếu như gia đình và cộng đồng xa lánh
họ thì những nạn nhân này dễ có những hành vi tiêu cực cho bản thân, gia đình họ và cho xã hội.
Các cuộc phỏng vấn sâu đối với NCH cho thấy những khó khăn về kinh tế đang làm cho các bệnh
nhân không có điều kiện thực hiện chế độ ăn uống khoa học và đầy đủ dinh dưỡng để duy trì một
sức khỏe tốt. Như vậy, đối với những bệnh nhân nghèo thì sự hỗ trợ của nhà nước đang đóng vai

trò quan trọng trong việc cung cấp các phương tiện thuốc thang chữa trị khi bản thân họ và gia
đình không có khả năng.
Kết quả nghiên cứu về thái độ đối với NCH cũng chỉ ra hệ quả của định kiến giới. Nam giới được
kỳ vọng là trụ cột trong gia đình, Sức khỏe giảm sút trầm trọng, dẫn đến hiệu quả làm việc kém,
trong khi đó chi phí cho bệnh tật lại cao làm cho những bệnh nhân HIV cảm thấy mình trở thành
gánh nặng trong gia đình. Bên cạnh đó, không được cộng đồng và xã hội hỗ trợ, họ không thể
thực hiện tốt vai trò trụ cột gia đình. Đối với người đàn ông Việt Nam, sự mặc cảm vì không thể
hiện được nam tính càng làm cho người có HIV tự ti hơn. Một vấn đề nữa cần được nhấn mạnh
khi phân tích thái độ của cộng đồng với người có HIV là sự kỳ thị có yếu tố giới. Cùng bị nhiễm
HIV nhưng những người vợ trong gia đình sống chung với bên chồng bị đối xử kém hơn những
gì mà người chồng nhiễm HIV của họ phải gánh chịu.
Vì vậy để giải quyết một cách hiệu quả và bền vững trong cuộc chiến với đại dịch HIV, thiết nghĩ
cần có sự phối hợp chặt chẽ và tòan diện từ gia đình, cộng đồng và tòan xã hội. Ngòai sự hỗ trợ
về thuốc men, cần tổ chức các họat động giúp đỡ khác về vật chất và tinh thần. Song song với
việc truyền thông HIV, sự truyền thông nhằm thay đổi nhận thức về bình đẳng giới là vô cùng
quan trọng.
5. Hành vi tình dục an toàn
Hành vi quan hệ tình dục là một trong những thông tin quan trọng trong việc đánh giá nguy cơ
lây nhiễm HIV. Tất cả thành viên có gia đình trong nhóm đi xa ghi nhận rằng mình duy trì quan
hệ tình dục với vợ hoặc chồng trong 12 tháng qua, cho tới thời điểm nghiên cứu. Ngoài ra, có một
tỷ lệ nhất định xác nhận mối quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Kết quả chưa đủ dữ kiện để xác
định có hiện tượng quan hệ tình dục đồng giới trong nhóm mẫu nghiên cứu tại An Giang. Trong
số 300 người tham gia trả lời bảng hỏi, chỉ có duy nhất một trường hợp xác nhận là có quan hệ
giữa nam giới với nam.


Tại An Giang, quan hệ tình dục với hình thức không truyền thống không được nhiều người xác
nhận nhưng cũng có một tỷ lệ nhỏ từ một nhóm nhỏ những người công nhận rằng mình đã từng
quan hệ tình dục qua đường hậu môn và đường miệng Nhóm quan hệ tình dục qua đường miệng
cũng là những người thuộc nhóm chế biến và dịch vụ - hậu cần và thuộc nhóm tuổi trung niên.

Kết quả cũng cho thấy cần phải xem lại quan điểm tuyệt đối hóa quá mức các nhóm nguy cơ cao
dẫn đến việc chỉ tập trung truyền thông thay đổi hành vi cho người nghiện ma túy, mại dâm, v.v...
mà bỏ qua các nhóm dân cư còn lại trong cộng đồng. Đồng thời, cũng sẽ là sai lầm nếu cho rằng
chỉ có nhóm đánh bắt xa bờ và nhóm di chuyển mới có những hành vi nguy cơ đối với sự lây
nhiễm HIV.
Giống như các lao động khác tại An Giang, người hành nghề thủy sản ngoài nhà của mình, họ có
thể quan hệ tình dục ở nhiều địa điểm khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh lao động và sinh hoạt.
Nam giới quan hệ tình dục bên ngoài gia đình nhiều hơn nữ. Người đi xa cũng tương tự. Tuy
nhiên, ở một số nơi như đầm, hồ, ngoài đồng... là những nơi không dễ kiếm bao cao su. Những
dữ liệu thứ cấp và những nghiên cứu khác về bao cao su cho thấy tại các nhà hàng, nhà trọ, khách
sạn, bao cao su đã được cấp hoặc bán rẻ cho khách hàng. Nhưng tính sẵn có của bao cao su vẫn
chưa được đảm bảo tịa các quán cafe, nơi canh cá (đầm, hồ, nuôi tôm cá,...). bên cạnh tính sẵn có
của bao cao su cần phải đánh gái thêm kiến thức và hành vi của người dân đối với bao cao su.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, người trả lời dễ dàng nói về những thông tin về quan hệ tình dục
nói chung hơn so với khi được yêu cầu nói về từng mối quan hệ cụ thể. Tuy nhiên, khi yêu cầu họ
xác định việc sử dụng BCS đối với từng đối tượng cụ thể, thông tin có phần nào bị phân tán. Có
nhiều người lảng tránh câu hỏi có liên quan tới những mối quan hệ trước hoặc ngoài hôn nhân.
Người lao động thủy sản tại An Giang thoải mái hơn khi nói về những vấn đề liên quan tới quan
hệ riêng tư giữa vợ và chồng vì được coi là chính danh hơn.
Trong các cuộc thảo luận nhóm và trò chuyện trong phỏng vấn sâu, những người cung cấp thông
tin đã trao đổi thoải mái hơn so với công cụ bảng hỏi khi nói về chủ đề này.
Có thể nhận thấy yếu tố giới trong hành vi sử dụng bao cao su. Tỷ lệ phụ nữ cho rằng mình tin
tưởng bạn tình thấp hơn nhiều so với niềm tin tương tự đối với đối tác ở nam giới nhưng tỷ lệ
những người phụ nữ ghi nhận rằng mình không chuẩn bị trước lại cao hơn gấp 3 lần so với nhóm
nam giới. Tương tự như vậy, nhóm nữ không sợ “giảm khoái cảm” nhiều như nam giới nhưng tỷ
lệ lao động thủy sản nữ sợ bạn tình không đồng ý lại cao gấp gần 3 lần so với lao động nam giới.
Có thể thấy, quá trình xã hội hóa theo những giá trị , chuẩn mực giới đối với nam giới và phụ nữ
trong xã hội đã củng cố sự bất bình đẳng giới trong cả vấn đề tình dục. Những người phụ nữ được
khuyến khích trở thành những người phụ thuộc không chỉ về kinh tế mà còn là người lệ thuộc
trong quan hệ tình dục. Phụ nữ không được thoải mái nói về những vấn đề có liên quan tới nhu



cầu sinh lý của họ. Thậm chí, nếu không muốn, vì nhiều lý do, họ cũng không thể từ chối sự đòi
hỏi sinh lý của người chồng hoặc bạn tình.
Những người lao động thủy sản tại An Giang phần lớn, chỉ tập trung vào mục đích tránh thai của
bao cao su, chưa đánh giá đúng vai trò của phòng tránh các bệnh lây qua đường tình dục của nó.
Đặc biệt, khi đề cao vai trò tránh thai của bao cao su, nếu có các biện pháp tranh thai khác (biện
pháp tự nhiên, uống thuốc, thắt ống dẫn trứng, triệt sản…), các cặp vợ chồng hoặc bạn tình sẽ
không sử dụng bao cao su nữa. Điều này dễ làm tăng nguy cơ lây nhiễm các bệnh lây qua đường
tình dục nói chung và HIV/AIDS nói riêng trong cộng đồng.
6. Các hoạt động vui chơi giải trí và những yếu tố tác động tới sự lây truyền HIV/AIDS.
Hoạt động vui chơi giải trí là những hoạt động về văn hóa tinh thần của con người, nhưng đòi hỏi
phải có những điều kiện vật chất để họ có thể thỏa mãn được nhu cầu hoạt động đó.
Tại các địa bàn khảo sát ở An Giang, hầu hết các địa phương đều không có những khu vui chơi
giải trí có quy mô lớn. những sân bóng chuyền, bóng đá chủ yếu do người dân tự tạo và mang
tính tạm bợ. Thư viện xã chưa hoàn chỉnh, sách báo còn hạn chế. Chính vì vậy trong thời gian
rảnh rỗi, người dân chủ yếu tham gia các hoạt động mang tính thụ động nhiều hơn là tích cực.
Khi được yêu cầu xác định các hoạt động trong thời gian rảnh rỗi, lao động thủy sản An Giang ưu
tiên hơn cả là việc xem ti vi hoặc nghe đài. Tỷ lệ những người đọc sách báo (chủ yếu là đọc báo)
thấp hơn nhiều. Ngoài ra, dù không thường xuyên, một nhóm nhỏ trong số lao động thủy sản ở
địa phương còn tham gia vào các họat động thể thao, chủ yếu là đá bóng và bóng chuyền tại các
sân dã chiến vào mùa khô. Trong thời gian rảnh rỗi ngoài thời gian xem truyền hình và nghe đài,
người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu tham gia vào hoạt động giao tiếp cộng đồng,
trong đó có việc tham gia vào các cuộc họp thôn ấp, tổ nhóm, các buổi sinh hoạt do các tổ chức
xã hội tổ chức (Hội LHPN, Hội Nông dân…) cũng như những buổi giao lưu với gia đình, bạn bè,
những dịp dỗ chạp, cưới xin, ma tang…
Những hành vi của người dân Nam bộ trong các hoạt động giao lưu đó thường không thể thiếu
rượu, hình thành nên một lối ứng xử được gọi là “văn hóa nhậu Nam Bộ”. Trong ngôn ngữ,
người Nam bộ nói đến từ “ăn nhậu” là bao hàm cả những dịp ăn uống thường có sử dụng rượu
bia với bạn bè người thân ở gia đình hoặc ở nhà hàng.

Trong tương quan giữa các loại hình giải trí và giới tính, lao động nam giới tham gia vào hoạt
động mang tính hướng ngoại nhiều hơn (chơi thể thao, đi nhà hàng…, những người lao động nữ
lại tham gia vào các hoạt động hướng nội nhiều hơn (xem tivi, làm việc nhà…). Tỷ lệ lao động
nam tham gia vào các hoạt động ăn uống và có sử dụng rượu bia nhiều hơn nhóm phụ nữ gấp 5
lần.


Ngoài việc thưởng thức các chương trình truyền thông đại chúng, ngư dân Ang Giang chủ yếu
tham gia vào các hoạt động giao tiếp, ăn nhậu và các hoạt động thư giãn phục hồi sức khỏe. Đối
với lao động nam giới, bên cạnh việc ăn nhậu, đi hát karaoké, họ còn sử dụng nhiều loại hình
dịch vụ massage và một số người không dừng lại ở đó, họ sẽ được chào mời tham gia vào các
dịch vụ mại dâm với nhiều hình thức khác nhau:
Trong việc sử dụng thời gian tự do, có sự khác biệt giữa các nhóm nghề. Nhóm khai thác, đặc
biệt những người đánh bắt xa bờ thường có thu nhập cao sau mỗi chuyến đi biển. Cùng với việc
phải làm việc cách biệt trên sông, trên biển dài ngày, với tính cách nông dân Nam bộ, họ thường
có xu hướng giải trí bằng ăn nhậu. Việc sử dụng rượu bia là không thể tránh khỏi. Đồng thời, do
đi xa nhà trong thời gian dài, nhu cầu thỏa mản tình dục dễ thôi thúc họ có hành vi tìm kiếm dịch
vụ mại dâm hoặc tìm đến bạn tình quen thuộc.
Hiện tượng các ngư dân có quan hệ với mại dâm nữ được nêu lên nhiều trong các cuộc trao đổi
thông tin mang tính định tính. Các nhóm cung cấp thông tin khác nhau đều cho rằng, những thủy
thủ đánh bắt xa bờ là những nhóm người có hành vi nguy cơ cao trong việc lây truyền các bệnh
LTQĐTD. Nhóm chế biến bao gồm những người làm công tác tại chỗ trong các nhà máy, xí
nghiệp hoặc các cơ sở sản xuất cá của gia đình. Trong hoạt động giải trí, có sự khác biệt giữa
những người lao động đã có gia đình và lao động còn độc thân.
Ngoài thời gian chủ yếu xem tivi, thỉnh thoảng những người chưa có gia đình cũng thường đi
chơi gần nơi ở Còn những người có gia đình mà cả hai vợ chồng cùng làm công nhân thì ngoài
việc xem truyền hình hàng ngày, họ cũng thường đi đến các trung tâm thương mại, giải trí hoặc
đi thăm gia đình, bạn bè. Những người có tuổi thường giải trí ở nhà.
Nhóm nuôi trồng có đặc điểm vừa trồng lúa vừa nuôi trồng thủy sản. Trừ các công ty lớn, nhiều
hộ nuôi trồng thủy sản cá lẻ, vẫn giữ một ít ruộng làm lúa. Chính vì vậy, ngoài việc nuôi cá, tôm

ra họ cũng sản xuất lúa hoặc nuôi vịt. Ngoài thời gian dành cho hoạt động thủy sản, tỷ lệ những
người làm thêm nghề khác cao hơn hẳn các nhóm còn lại. Điều này cho thấy tính không thuần
ngư của những người hành nghề thủy sản tại An Giang. Mỗi khi thu hoạch, đặc biệt khi có lãi,
giống như người dân Nam Bộ khác, lao động thủy sản thường có thói quen ăn nhậu. Tuy nhiên,
nhóm này thường tổ chức ăn uống tại nhà hơn.
Những người làm nghề dịch vụ-hậu cần tham gia vào các loại hình công việc tương đối đa dạng.
Một phát hiện quan trọng trong nghiên cứu là sự kiểm soát xã hội có vai trò quan trọng trong việc
hỗ trợ nhau trong kiểm soát hành vi sinh hoạt trong đội nhóm gia đình. Nhóm những người làm
nghề trung chuyển, mua bán cá bằng những chiếc ghe lớn cũng đi làm xa nhà nhưng họ có cách
quản lý đội hình của mình theo lối tự quản và sự kiểm soát hành vi giữa các thế hệ. trong quá
trình làm việc, thế hệ lớn truyền đạt kinh nghiệm nghề nghiệp cho giới trẻ. Trật tự của gia đình và


dòng họ được lồng ghép vào tổ đội sản xuất, là yếu tố làm cho thế hệ trẻ dễ tự điều chỉnh hành vi
của mình tốt hơn. Đây là mô hình thuận lợi cho việc tuyên truyền kiến thức HIV mang tính liên
cá nhân, trực diện khá có hiệu quả.
Như đã trình bày, đối với văn hóa nhậu của người Nam Bộ, lao động thủy sản An Giang không
phải là một ngoại lệ. Các dạng hoạt động giải trí của những người lam nghề thủy sản thường bao
gồm việc đi nhậu, nếu các hoạt động giải trí của họ không bao gồm thì cũng kết thúc bằng việc rủ
nhau đi nhậu.
Nghiên cứu cũng phát hiện mối quan hệ giữa những yếu tố kích thích và quan hệ tình dục
Rượu như một biểu tượng của nam tính- “trai vô tửu như cờ vô phong” đã khiến nhiều người
mượn rượu đề thể hiện tính đàn ông của mình. Đồng thời, một biểu hiện nữa của nam tính, trong
quan niệm của đàn ông là khả năng tình dục của họ. Sự quảng cáo về khả năng tăng cường sinh
lý của rượu thuốc tại các quán nhậu đã làm cho đàn ông những nơi này có xu hướng uống nhiều
rượu thuốc và muốn kiểm chứng ngay hiệu quả của chúng. Tuy nhiên, như đẵ trình bày, chính
rượu lại làm cho hành vi an toàn tình dục không được đảm bảo. Điều này tạo ra một chuỗi các
yếu tố trong hoạt động thụ hưởng và giải trí của nam giới tại địa phương: thu nhập –giải trí- rượubạn tình- hành vi tình dục không an toàn.
Phù hợp với những nhận định trên, một số người lao động thủy sản trong mẫu nghiên cứu, thông
qua các cuộc trò chuyện đã bộc lộ những thông tin xác nhận tình hình mại dâm trá hình ở địa

phương vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Phần lớn những người cung cấp thông tin
nhấn mạnh: hoạt động mại dâm sôi nổi hơn vào mùa thu hoạch đặc điểm của dịch vụ mại dâm tại
các vùng quê, trong đó có các xã tại An Giang. Tại địa phương này, những mại dâm nữ lớn tuổi
vẫn có khả năng tiếp tục hành nghề. Đồng thời, họ thường núp dưới dạng tiếp viên nhà hàng, tiếp
viên tại quan cà phê, thậm chí là những người bán quán cóc, trứng vịt lộn… . có bằng chứng là có
sự gia tăng về số lượng khách hàng, đồng thời thể hiện của sự mở rộng đối tượng khách làng chơi
đến những người lao động bình dân tại An Giang trong bối cảnh hiện nay.Với đặc điểm nghề
nghiệp và thu nhập như vậy, họ dễ dàng chấp nhận MDN với tiêu chuẩn thấp hơn, do đó tạo khả
năng cho MDN lớn tuổi làm việc dài hơn.
Đối với việc sử dụng ma túy, những thông tin từ bảng hỏi không đủ để khái quát và phân tích
hiện tượng này (chỉ có duy nhất 01 trường hợp xác nhận có sử dụng ma túy), nhưng từ các cuộc
phỏng vấn sâu một số người vừa nhiễm HIV vừa nghiện cho thấy hệ quả của sự thiếu kiến thức
về HIV của họ. Nghiện ma túy là hành vi không được xã hội chấp nhận, những người nghiện này
thường không cho những người xung quan biết. Mặc dù có sự hiện diện của nhóm đồng đẳng tại
địa phương nhưng vẫn còn nhiều người e ngại không tham gia vào các nhóm tự quản. Chính vì
vậy, họ thiếu sự tư vấn của các nhóm hoạt động đồng đẳng. Mặt khác, khi có bạn hoặc người yêu,


họ thường lôi kéo bạn mình cùng tham gia hút chích ma túy. Việc dùng chung kim tiêm hoặc
quan hệ tình dục không sử dụng bao cao su, sẽ làm cho nguy cơ lây nhiễm giữa họ lên rất cao.
Kết quả giám sát trọng điểm năm 2007 ghi nhận Nữ NCMT nhiễm cao hơn Nam NCMT. Nhóm
Nữ NCMT có kết hợp với mại dâm thì tốc độ lây truyền HIV rất cao, thường là những người nữ
NCMT chuyển sang hoạt động mại dâm để có tiền chích ma tuý. Đây là hình thái lây truyền HIV
vừa NCMT vừa mại dâm có ở Việt Nam, trong khi các nước khác như Campuchia, Thái Lan
không có.
7. Nhu cầu của người dân về các chương trình can thiệp phòng chống HIV/ADIS
Nhìn chung, những khách thể trong phạm vi nghiên cứu đều cho rằng các chương trình đã thực
hiện đều đem lại những kết quả nhất định. Sự hưởng ứng của người dân thể hiện qua những phản
hồi tích cực đối với những hoạt động can thiệp phòng chống lây nhiễm HIV/ AIDS do địa
phương tổ chức.

Hầu hết lao động thủy sản đều mong muốn nhận được bao cao su miễn phí. Một trong những
nguyên nhân của tình hình này là lý do người lao động không ngại ngùng khi đề cập đến bao cao
su. Mặt khác, trong thực tế có thể dễ dàng tìm thấy bao cao su miễn phí tại nhiều điểm tại địa
phương. Ngoài ra, những ngư dân trong mẫu nghiên cứu định tính còn đóng góp ý kiến để các
chương trình trong tương lai có thể đạt được hiệu quả hơn như tính hợp lý về địa điểm đặt bao
cao su miễn phí: tại các quán café, quán nhậu, quán nước nhỏ gần những đồng ruộng, trên xe,
trên tàu1.
Về những yêu cầu cho các hoạt động sắp tới, tất cả các nhóm đều mong muốn nâng cao kiến thức
của bản thân về HIV/ AIDS.
Nhu cầu về các hình thức truyền thông
Mức độ ưa thích các hình thức truyền thông của người dân thủy sản theo các nhóm về hình thức
truyền đạt thông tin như sau: Nhóm chuyên về tư vấn, nhóm truyền thông theo nhóm (với quy mô
nhóm khác nhau), nhóm thông tin truyền đạt trên phạm vi rộng lớn như các phương tiện truyền
thông đại chúng, các loại hình thông tin đa dạng khác
Phương thức truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng tỏ ra có hiệu quả và được đa
số những người làm nghề thủy sản tán đồng. Tất cả các nhóm đều thống nhất đây là phương thức
chiếm ưu thế hơn cả trong công tác tuyên truyền phòng chống HIV/ AIDS. Trong đó, hệ thống
loa đài địa phương là kênh được ưa thích nhất. Có thể thấy, hệ thống này đóng vai trò rất quan
trọng trong nếp sinh hoạt ở nông thôn nói chung và ĐBSCL nói riêng.

1

100% bao cao su.


Tuy vậy, đối với những người đi xa, với tính chất nghề nghiệp đặc thù thì hệ thống loa đài cố
định tại địa phương không phải là hình thức phù hợp với họ. Còn đối với nhóm lao động chuyên
về khai thác và đi xa, nguồn thông tin mà những ngư dân đánh bắt thường được biết đến thông
qua radio.
Bên cạnh radio và loa địa phương, truyền hình đóng vai trò quan trọng trong đời sống sinh hoạt

của người dân tại địa phương. Tuy vậy, khi xây dựng những dự án tuyên truyền trong tương lai,
cần chú ý tới thói quen ứng xử truyền thông tại nơi này. Ở An Giang, những người dân thủy sản
thường ưa thích các kênh địa phương hơn là đài trung ương. Sự chênh lệch này là khá lớn ở các
nhóm nghề, đặc biệt thể hiện rõ ở nhóm khai thác Trong nhóm truyền thông đại chúng, báo chí là
một trong những lựa chọn được đưa vào bảng hỏi, tuy vậy, các thông số định lượng cho thấy đây
chưa phải là một trong những hình thức triển vọng trong việc tuyên truyền trong tương lai.
Truyền thông thông qua tư vấn bao gồm [1] Tư vấn trực tiếp; [2] Tư vấn qua đường dây nóng; [3]
Tư vấn kết hợp khám sức khỏe. Dù gián tiếp hay trực tiếp đối diện với tư vấn viên, việc nâng cao
kiến thức người dân về HIV/ AIDS đều nhận được sự ủng hộ của các nhóm lao động thủy sản.
Tương quan nghề nghiệp cho thấy, nhóm khai thác và nhóm chế biến có mức độ ưa thích đối với
hình thức “Tư vấn cá nhân trực tiếp” hơn, trong khi những người làm nghề nuôi trồng thủy sản
hay dịch vụ hậu cần lại mong muốn có sự kết hợp với việc khám sức khỏe. Một phương thức
truyền thông tỏ ra hiệu quả, nhất là với nhóm thường đi xa như nhóm khai thác, là hình thức
tuyên truyền liên cá nhân như nói chuyện, trao đổi kiến thức và thông tin. Thông thường, các
nhóm truyền thông về vấn đề này là các nhóm nhỏ hay sự trao đổi giữa vợ và chồng trong gia
đình.
Đối với những người tham gia đánh bắt thủy sản, nhóm truyền thông ưa thích của họ là nhóm
theo tính chất nghề nghiệp, với phương thức truyền đạt kinh nghiệm của những người lớn tuổi
cho nhóm thanh niên. Khác với nhóm khai thác và nhóm đi xa, nhóm hậu cần ưa thích những
kiểu tuyên truyền trực tiếp, nhất là thanh niên, thường thích sinh hoạt kết hợp với các hoạt động
vui chơi giải trí để có dịp giao lưu với nhau.
Ngoài những nhóm truyền thông kể trên, một hoạt động mà các cơ quan tổ chức tại địa phương
thường hay áp dụng là phổ biến kiến thức qua các cuộc thi viết, hỏi đáp, hái hoa dân chủ, đóng
kịch tiểu phẩm. Tuy vậy, nhóm hình thức tuyên truyền thông qua việc tìm hiểu kiến thức tự
nguyện này dường như không thu hút được sự quan tâm của những người dân thủy sản. Tình hình
này phù hợp với sự bày tỏ sở thích tương ứng của các nhóm đối với loại hình truyền thông trực
tiếp nhưng theo nhóm lớn như các cuộc họp khi họ ngại đi họp, công cụ truyền thông qua các
công cụ này sẽ không phát huy được tác dụng. Mặt khác, đối với tâm lý người Việt Nam, sự riêng
tư đối với chủ đề này rất quan trọng. Đó là lí do vì sao người lao động An Giang thích tư vấn cá



nhân hơn tư vấn cộng đồng.
Việc truyền thông phù hợp với các nhóm đối tượng khác nhau thông qua nhiều hình thức sẽ tăng
tính hiệu quả của các dự án trong tương lai. Bên cạnh các hình thức, yếu tố quan trọng quyết định
sự thành công của hiệu ứng truyền thông là nơi triển khai của công tác này.
Các địa điểm mà người làm nghề thủy sản tại địa phương cho rằng thích hợp là qua các buổi họp
thôn xã và các tụ điểm. Không có sự khác biệt lớn giữa các nhóm nghề và tình trạng đi làm ăn xa
của những người trả lời trong hai lựa chọn địa điểm này. Những phương án tuyên truyền tại nơi
làm việc như trên thuyền và tại các cảng cá không được ưa thích.
Về các cuộc họp tại cộng đồng. Nếu được chọn giữa cuộc họp ấp với các cuộc họp của các tổ
chức xã hội người lao động lại chọn loại hình họp ấp hơn. Điều này lại một lần nữa cho thấy sự
ưa thích các hình thức tập trung mang tính tình cảm, trực diện, liên cá nhân hơn là các cuộc họp
mang tính chính thức. Mặt khác, cũng cần nhận ra rằng, khi truyền thông thông qua các cuộc họp
của các tổ chức xã hội (hội nghị, đoàn thể) cần thay đổi các nội dung và phương pháp sao cho
chúng phù hợp với các nhóm nghề và lứa tuổi khác nhau hơn.
Thời gian truyền thông được phân biệt gồm thời gian thích hợp trong năm và thời gian thích hợp
trong ngày.
Có thể thấy, không quá khắt khe trong việc lựa chọn thời gian để phù hợp với người lao động
thủy sản tại địa phương, tuy nhiên, cần phải đặc biệt chú ý đến nhóm khai thác, những người
thường xuyên xa nhà. Thời điểm phù hợp với họ là khoảng từ tháng 9, tháng 10 và tháng 11.
Thời gian còn lại trong năm được coi là mùa làm việc của họ.
Thời gian trong ngày được cho là phù hợp với tất cả các nhóm là buổi chiều. Không có sự khác
biệt lớn giữa các nhóm khác nhau. Người dân ở đây coi thời gian buổi sáng bắt đầu một ngày làm
việc, buổi tối là để nghỉ ngơi và sinh hoạt trong gia đình.
Trong việc đề xuất các ý tưởng giúp đỡ các gia đình và những ngư dân có H, các thông tin định
lượng và định tính cung cấp những góc nhìn từ nhiều phía: cộng đồng ngư dân, các cán bộ địa
phương và bản thân những NCH.
Đối với cộng đồng địa phương, các hình thức họ cho rằng có thể giúp đỡ những lao động trong
ngành thủy sản nhiễm HIV/ AIDS là: Cho vay vốn phát triển sản xuất”; Cung cấp thuốc ARV
miễn phí”, Cung cấp thuốc điều trị các bệnh cơ hội miễn phí; Có sự hỗ trợ thường xuyên của

nhân viên y tế địa phương. Như vậy, từ phía những người ngoài cuộc, sự ủng hộ kinh tế và những
trợ giúp về mặt y tế được cho là cần thiết đối với NCH.
Thông tin từ chính quyền địa phương, những cán bộ phụ trách công tác phòng chống HIV/ AIDS


cho rằng: ngoài hai giải pháp quan trọng trên, liệu pháp tâm lý đối với những người bệnh cần
được chú trọng hơn, bởi tại cộng đồng địa phương vẫn tồn tại những sự kỳ thị nhất định Đối với
bản thân NCH, hầu như những hỗ trợ họ nhận được cho đến bây giờ đều xuất phát từ bạn bè và
người thân trong gia đình.
Thông tin từ những người có H cho thấy, những người công khai bệnh nhận được nhiều sự hỗ trợ
hơn, nhất là đối với những người có điều kiện tham gia sinh hoạt ở các CLB dành cho NCH.
Những CLB này chủ yếu được thành lập từ các dự án nước ngoài, hoạt động với mục đích hỗ trợ
về mặt tinh thần là chủ yếu. Ngoài ra, thông qua CLB, thuốc ARV và một số thuốc bổ trợ khác
được phân phát miễn phí. Những người tham gia có thể tìm được các thông tin liên quan đến
HIV/ AIDS từ đây.
Ngoài ra, không ít NCH vẫn nhận được hỗ trợ từ chính quyền, nhưng không phải từ địa phương
nơi mình đang sinh sống. Những người này tìm đến xã lân cận với hy vọng không bị cộng đồng
hiện tại phát hiện tình trạng bệnh của mình nhưng đồng thời vẫn tiếp cận được các nguồn lực.
Có thể thấy, các nhóm đều thống nhất về việc hỗ trợ về mặt kinh tế là cần thiết cho NCH. Tuy
nhiên, hướng dẫn và giới thiệu việc làm cho nhóm này là cần thiết và có ý nghĩa hơn cả bởi một
mặt duy trì sự ổn định về kinh tế lâu dài cho họ, và tạo điều kiện để họ cảm thấy mình sống có
ích cho cộng đồng xã hội. Nói cách khác, hỗ trợ người bệnh không nên chỉ dừng lại ở những
cung ứng về mặt vật chất mà còn là ủng hộ về mặt tinh thần.

Kiến nghị

Từ những kết quả nghiên cứu, nhóm tư vấn đề xuát một vài kiến nghị sau:
Thực hiện chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm
nhìn 2020
Ngành thủy sản phối hợp với các cơ quan chức năng khác thực hiện chiến lược quốc gia phòng

chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020.
Tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt các văn bản Pháp luật liên quan đến công tác phòng chống
HIV/AIDS, thực hiện Nghị quyết số 21/2004/NQ-HĐND7 ngày 09/12/2004 cuả Hội đồng nhân
dân tỉnh An Giang khoá VII về « Tăng cường công tác phòng, chống HIV/AIDS và phòng chống
tệ nạn ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác»,
Những biện pháp can thiệp nhằm giảm tác hại cho người nhiễm và lam chậm sự lây lan
HIV/AIDS ra cộng đồng


 Đẩy mạnh các hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông thay đổi hành vi về phòng
chống HIV/AIDS trong cộng đồng, tập trung cho những đối tượng có hành vi nguy cơ
cao, nhóm dân di biến động, thanh niên, phụ nữ... nhằm nâng cao hiểu biết của người
dân về dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS.
 Triển khai thực hiện trên diện rộng các hoạt động can thiệp giảm tác hại cho nhóm đối
tượng có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS, tập trung cho những lao động thủy
sản nghiện chích ma tuý và mại dâm, Những người thường xuyên di chuyển.
 Tổ chức tốt công tác quản lý, chăm sóc và tư vấn, điều trị nhiễm HIV/AIDS tại cộng
đồng, tăng số lượng bệnh nhân AIDS được tiếp cận điều trị nhiễm trùng cơ hội và
thuốc đặc hiệu kháng vi rút HIV (ARV).
 Dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS qua các dịch vụ y tế: giám sát, tư vấn xét nghiệm tự
nguyện, đảm bảo an toàn truyền máu và các chế phẩm máu; đảm bảo thực hiện
nghiêm ngặt, an toàn, cẩn trọng tổng quát về chế độ vô khuẩn, sát khuẩn phòng lây
nhiễm HIV/AIDS trong các cơ sở y tế.
 Sở NN&PTNN cần phối hợp với các ban ngành, đặc biệt trung tâm y tế dự phòng
hoàn thiện hệ thống quản lý theo phần mềm quản lý của Bộ y tế, theo dõi, giám sát,
đánh giá chương trình phòng chống HIV/AIDS; tăng cường năng lực hoạt động của hệ
thống phòng chống AIDS của các cấp, các ngành, các địa phương.
 Tăng cường hợp tác quốc tế, duy trì và phát triển nhanh các dự án tài trợ quốc tế trong
công tác phòng chống HIV/AIDS cho người lao động thủy sản. Tăng cường giáo dục
truyền thông cho nhân dân khu vực thành thị nông thôn miền núi hiểu đúng và biết

cách dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS
 Tăng cường chương trình giảm tác hại cho người nghiện chích ma tuý tạo điểu kiện
cho người làm nghề thủy sản có địa chỉ được tiếp cận với các dịch vụ y tế chăm sóc
phòng ngừa nhiễm trùng cơ hội và tư vấn.
 Đảm bảo cho các bà mẹ mang thai được phát hiện nhiễm HIV được quản lý, chăm
sóc, tư vấn và điều trị dự phòng ARV. quan tâm và có chế độ đặc biệt đối với trẻ em <
15 tuổi bị nhiễm HIV hoặc bị ảnh hưởng bởi HIV được quản lý, chăm sóc, tư vấn và
điều trị nhiễm trùng cơ hội và ARV. Thực hiện giám sát trọng điểm HIV – STIs hàng
năm.
 Tuyên truyền và có biện pháp hỗ trợ người lao động thủy sản nhằm tăng diện mua bán
bảo hiểm y tế để cấp miễn phí cho các trẻ có ‘H’ từ 6 tuổi đến 15 tuổi.
Giải pháp về xã hội
Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn cần kết hợp với chính quyền các cấp địa phương đưa hoạt
động phòng, chống HIV/AIDS vào kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Huy động


toàn dân tham gia phòng, chống HIV/AIDS nhằm từng bước ngăn chặn, đẩy lùi HIV/AIDS,
không thực hiện công tác này một cách cục bộ trong ngành.
Cụ thể;
 Xây dựng chương trình phòng, chống HIV/AIDS thành chương trình phối hợp liên
ngành, toàn diện, đặc biệt chú trọng việc lồng ghép có hiệu quả với các chương trình
phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm để ngăn ngừa lây nhiễm HIV/AIDS, huy động
mọi tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động phòng, chống HIV/AIDS. Khuyến khích các
tổ chức xã hội , tổ chức tôn giáo, tổ chức từ thiện, tổ chức phi chính phủ, các doanh
nghiệp, nhóm cộng đồng, người nhiễm HIV/AIDS cùng gia đình tham gia công tác
phòng, chống HIV/AIDS.
 Tăng cường việc phổ biến, giáo dục pháp luật, tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực
hiện các qui định của pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS cho người lao động thủy
sản.
 Đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục và truyền thông hay đổi hành vi có nguy cơ,

nâng cao số lượng, chất lượng, tính phù hợp và hiệu quả của các hoạt động thông tin,
giáo dục và truyền thông.
 Xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên trong ngành thủy sản, đồng thời phối hợp với đội
ngũ cộng tác viên y tế khóm, ấp và cán bộ ban, ngành, đoàn thể ở cơ sở xã phường.
Phân công trách nhiệm cụ thể về thực hiện công tác thông tin, giáo dục và truyền
thông thay đổi hành vi cho từng địa phương
 Tăng cường công tác tuyên truyền về chương trình can thiệp giảm tác hại nhằm tạo
môi trường thuận lợi cho công việc thực hiện các biện pháp can thiệp. Triển khai
chương trình can thiệp giảm tác hại một cách đồng bộ bao gồm chương trình bơm kim
tiêm sạch, tiến tới điều trị bằng thuốc thay thế. Kết hợp với trung tâm y tế và hội nông
dân thực hiện tốt chương trình 100% bao cao su đã có tại địa phương.
 Xây dựng hệ thống chăm sóc, hỗ trợ toàn diện cho người nhiễm HIV/AIDS, hổ trợ
chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS dựa vào cộng đồng, nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của người nhiễm HIV/AIDS đối với bản thân, gia đình và cộng đồng để ngăn
ngừa nhiễm HIV/AIDS cũng như gia đình, cộng đồng xã hội đối với người nhiễm
HIV/AIDS.
 Tăng cường sự bình đẳng giới và giảm thiểu sự phân biệt trên cơ sở giới: Nâng cao
vai trò của Ban vì sự tiến bộ phụ nữ và Hội phụ nữ trong hoạt động vì Bình đẳng giới;
Tăng cường sự tham gia của phụ nữ, đặc biệt phụ nữ nghèo và phụ nữ có HIV hoặc
chồng có HIV vào hoạt động truyền thông phòng chống HIV; Đảm bảo nam giới và
phụ nữ được tiếp cận bình đẳng các thông tin và dịch vụ trong hoạt động phòng chống
và kiểm soát HIV; Tập huấn cho nam và nữ (đặc biệt nhóm trong độ tuổi 15-25) kỹ


×