VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HỒ THỊ THANH NHÃ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CHĂM SÓC TRẺ EM
TRÊN ĐỊA BÀN PHƯỜNG THẠNH LỘC, QUẬN 12,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HỒ THỊ THANH NHÃ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CHĂM SÓC TRẺ EM
TRÊN ĐỊA BÀN PHƯỜNG THẠNH LỘC, QUẬN 12,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Chính sách cơng
Mã số: 8340402
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. BÙI NGHĨA
HÀ NỘI, 2021
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là tương lai của đất nước, chăm sóc trẻ em trở thành những
người có phẩm giá và trí tuệ là một vấn đề quan trọng của toàn xã hội và của
Nhà nước. Cho đến nay Nhà nước Việt Nam ban hành nhiều chính sách chăm
sóc trẻ em và thật sự góp phần quan trọng vào việc hình thành nhiều thế hệ
con người Việt Nam đến nay.Tuy nhiên, thực tiễn phát triển xã hội ở môi
trường hiện đại như Thành phố Hồ Chí Minh đang đặt ra nhiều vấn đề cần
nghiêng cứu, đánh giá để hướng đến mục tiêu bền vững và bao trùm.
Hiến pháp của Việt Nam quy định: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình, xã
hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em.
Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao
động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em” (khoản 1, Điều 37, Hiến
pháp năm 2013).
Cùng với Luật Trẻ em (2016), các bộ luật, luật khác trong quá trình sửa
đổi, bổ sung cũng luôn cập nhật, đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn các thơng lệ và
chuẩn mực quốc tế có liên quan đến quyền trẻ em, như: Hình sự, Tố tụng hình
sự, Xử lý vi phạm hành chính, Lao động, Hơn nhân và gia đình, Tổ chức tịa án
nhân dân, v.v... Đến nay, chúng ta có rất nhiều văn bản luật và dưới luật liên
quan đến trẻ em nhằm cụ thể hóa nhiều quan điểm tiến bộ, góp phần tăng cường
cơng tác giáo dục, bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Chăm sóc trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội và công dân trong hoạt động nuôi dưỡng, giáo dục, theo dõi
quá trình phát triển của trẻ em để bảo đảm mọi trẻ em được phát triển thể chất,
trí tuệ và đạo đức. Trong những năm gần đây, cơng tác chăm sóc trẻ em đã có sự
chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu đạt được, cơng tác chăm sóc trẻ em ở Việt Nam vẫn còn những
tồn tại, hạn chế nhất định: vẫn còn trẻ em bị bỏ rơi; sự bạo hành của những bảo
1
mẫu, người giữ trẻ; tình trạng xâm hại trẻ; trẻ vào đời sớm; việc quản lý, can
thiệp trợ giúp đối với trẻ em có lúc, có nơi chưa kịp thời, hiệu quả; việc chấp
hành pháp luật về chăm sóc trẻ em một số nơi thực hiện chưa tốt, v.v…
Trong thời gian qua, cơng tác chăm sóc trẻ em trên địa bàn phường Thạnh
Lộc đạt được hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, cịn tồn tại những hạn chế đó là cịn
thiếu sót trong quản lý, chăm lo cho trẻ em vào các dịp lễ, Tết; công tác nắm bắt,
thu thập thông tin trẻ em cịn hạn chế; cịn xảy ra tình trạng trẻ em bị bạo hành;
một số bậc phụ huynh, người chăm sóc và bản thân trẻ em chưa nhận thức được
đầy đủ trách nhiệm nuôi dưỡng và chăm lo cho trẻ em; tình trạng xâm hại trẻ cịn
xảy ra; cơng tác tun truyền về chính sách chăm sóc trẻ em chưa đạt hiệu quả
cao; đội ngũ làm công tác trẻ em thường xuyên thay đổi nên còn yếu về kỹ năng
cơng tác; hoạt động dành cho trẻ em cịn thiếu sự đa dạng, phong phú do nguồn
lực kinh phí có hạn; v.v.
Tất cả những điều đó cho thấy, trên địa phường Thạnh Lộc còn tồn đọng
những bất cập và hạn chế dẫn đến cơng tác chăm sóc trẻ em đạt hiệu quả chưa
cao. Việc quản lý, phát hiện, can thiệp, trợ giúp đối với trẻ em có nguy cơ rơi
vào hồn cảnh đặc biệt có lúc chưa kịp thời, thiếu đồng bộ, chưa cụ thể về trách
nhiệm, quyền hạn, quy chuẩn. Việc chấp hành pháp luật về chăm sóc trẻ em
cũng chưa được thực hiện nghiêm. Bên cạnh đó, từ góc độ lý luận cho thấy, đã
có một số cơng trình nghiên cứu về thực hiện chăm sóc trẻ em ở những địa
phương khác nhưng chưa có cơng trình nào nghiên cứu về thực hiện chính sách
chăm sóc trẻ em trên địa bàn phường Thạnh Lộc.
Từ việc nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng nhằm tìm ra các giải
pháp nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước nói chung và tại phường Thạnh
Lộc nói riêng đối với chính sách chăm sóc cho trẻ em là rất cần thiết trong giai
đoạn hiện nay. Với những lý do đó nên tác giả chọn đề tài “Thực hiện chính
sách chăm sóc trẻ em trên địa bàn phường Thạnh Lộc, Quận 12, Thành phố Hồ Chí
Minh” làm nội dung nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ chính sách cơng của mình.
2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chính sách thực hiện chăm sóc trẻ em – một trong các quyền của trẻ em
được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, hoạch định chính sách và hoạt động thực
tiễn tập trung đi sâu nghiên cứu, tìm tịi, khảo sát. Đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu liên quan được cơng bố dưới nhiều góc độ, mức độ, hình thức thể hiện khác
nhau, tiêu biểu của các tác giả:
Ngô Thị Kiều Trang (2016), Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học “Nhận thức về
việc thực hiện quyền trẻ em của cha mẹ trên địa bàn miền núi Tỉnh Nghệ An”:
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về quyền trẻ em; tổng quan các tài liệu và
xây dựng các khái niệm liên quan đến nhận thức về quyền trẻ em của các bậc cha
mẹ. Đánh giá mức độ nhận thức của cha mẹ trong các hoạt động liên quan đến
việc thực hiện quyền trẻ em và phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng
nhận thức này. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức của cha mẹ
về việc thực hiện quyền trẻ em ở địa bàn miền núi.
Lã Văn Bằng (2019), Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Lý luận và lịch sử
nhà nước và pháp luật đề tài “Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em ở Việt Nam
hiện nay”: Hệ thống hóa, làm sáng tỏ cơ sở lý luận THPL về BVTE, xây dựng
các khái niệm, nội dung, hình thức, các điều kiện bảo đảm THPL về BVTE. Phân tích, đánh giá tồn diện thực trạng THPL về BVTE ở Việt Nam hiện nay;
từ đó, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân trong việc THPL về BVTE
ở Việt Nam hiện nay Đồng thời, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm bảo
đảm THPL về BVTE ở Việt Nam ngày càng hiệu quả hơn.
Đặng Bích Thủy (2017), Luận án Tiến sĩ xã hội học với đề tài “Thực hiện
quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế”:
Luận án chỉ ra những hạn chế và khó khăn trong q trình thực hiện quyền chăm
sóc sức khỏe trẻ em của các bên chịu trách nhiệm thực hiện quyền trẻ em là Nhà
nước, gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội. Dựa trên những phát hiện này,
luận án đưa ra những khuyến nghị cụ thể để việc thực hiện quyền chăm sóc sức
khỏe trẻ em ở Việt được hoàn thiện hơn.
3
Nguyễn Thị Cẩm Nhung (2017), Luận văn Thạc sĩ ““Biện pháp chăm sóc,
bảo vệ và giáo dục trẻ em mồ côi trên địa bàn thành phố Vĩnh Long”: Đề tài chủ
yếu nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về chăm sóc, bảo vệ và giáo dục
trẻ em mồ côi trên địa bàn thành phố Vĩnh Long, gồm có: trẻ mồ cơi cả cha và
mẹ, trẻ mồ côi chỉ mồ côi cha hoặc mẹ; Trẻ mồ côi đang được chăm sóc ni
dưỡng tại cộng đồng. Tìm hiểu thực trạng trẻ em mồ cơi và việc chăm sóc trẻ em
mồ côi trên địa bàn thành phố Vĩnh Long. Đề xuất một số giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác chăm sóc trẻ em mồ cơi trên địa bàn thành phố Vĩnh Long.
Sách “Những điều cần biết về quyền trẻ em luật trẻ em và các chương
trình, hành động bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, giáo dục trẻ em” của tác giả Kim
Phượng, NXB Hồng Đức năm 2017 đã nêu lên các nội dung: công ước của liên
hiệp quốc về quyền trẻ em; luật trẻ em của quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; một số quyền của trẻ em trong pháp luật Việt Nam; chương trình
hành động của chính phủ để bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; tiêu chuẩn xã,
phường, thị trấn phù hợp với trẻ em và công tác quản lý trẻ chưa thành niên; luật
nuôi con nuôi và giải quyết việc ni con ni có yếu tố nước ngồi; hướng dẫn xử
phạt vi phạm hành chính trong cơng tác bảo vệ chăm sóc trẻ em.
Nhìn chung, những cơng trình nghiên cứu, bài viết trên đều có giá trị lớn
về lý luận và thực tiễn về thực hiện quyền trẻ em nói chung, chính sách chăm
sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em nói riêng. Các tác giả đã kế thừa các khái niệm về
chính sách, chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em, nêu ra những lý luận cơ bản nhất,
đánh giá thực trạng tình hình thực hiện chính sách liên quan đến trẻ em ở nước ta
ở từng địa phương cụ thể trong thời gian qua. Đưa ra những giải pháp, kiến nghị
rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN để chính sách thực
hiện quyền trẻ em trong những năm tới đạt hiệu quả. Phạm vi nghiên cứu của các
cơng trình trên được thực hiện khá đa dạng, đa phần thực hiện ở một tỉnh hoặc
một số cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, từ các đề tài tác giả tham khảo trên có nhiều chính sách hay
liên quan chăm sóc trẻ em nhưng ở địa bàn phường Thạnh Lộc quận 12 chưa có
4
cơng trình nghiên cứu nào cụ thể và chun sâu về vấn đề “Thực hiện chính sách
chăm sóc trẻ em trên địa bàn phường Thạnh Lộc, Quận 12, Thành phố Hồ Chí
Minh” từ góc độ khoa học chính sách cơng nhằm giúp các nhà quản lý xây dựng
và thực thi chính sách chăm sóc trẻ em phù hợp với thực tiễn địa phương góp
phần giúp trẻ em phát triển tồn diện về thể chất và tinh thần, xây dựng thế hệ kế
thừa có chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc
tế trong tương lai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm mục đích tập trung nghiên cứu các chính sách liên quan
đến chăm sóc trẻ em và việc thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em trên địa bàn
phường Thạnh Lộc, quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh để từ đó xác định căn cứ
đề xuất các giải pháp mang tính thiết thực, hiệu quả, mang tính định hướng phát
triển thời gian tới đối với thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách trẻ em ở Việt Nam
- Các văn bản Đảng chỉ đạo, triển khai và tổ chức thực hiện chính sách
chăm sóc trẻ em ở cơ sở phường, ( xã).
- Phân tích đánh giá thực trạng thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em trên
địa bàn phường Thạnh Lộc, quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh dưới góc độ khoa
học chính sách cơng. Trong đó nêu lên những thành tựu đạt được, những tồn tại,
hạn chế cần khắc phục cũng như phân tích các nguyên nhân hạn chế ảnh hưởng
đến việc thực hiện chính chăm sóc trẻ em.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách chăm sóc trẻ
em góp phần giải quyết các vấn đề an sinh xã hội cho địa phương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Giải pháp thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em trên địa bàn phường
Thạnh Lộc, Quận 12,Thành phố Hồ Chí Minh
Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
5
+ Về không gian: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu việc thực hiện các
chính sách chăm sóc trẻ em trên địa bàn phường Thạnh Lộc, Quận 12, Thành
phố Hồ Chí Minh.
+ Về thời gian: Thời gian nghiên cứu từ năm 2016 đến năm 2020
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận là các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước về chính sách đối với trẻ em, chính sách
chăm sóc trẻ em. Bên cạnh đó, đề tài luận văn tiếp tục kế thừa và phát triển
những kết quả nghiên cứu có giá trị khoa học của các cơng trình đi trước có liên
quan đến đề tài. Vận dụng lý thuyết chính sách cơng qua thực tiễn cơ sở là
phường (xã) giúp hình thành lý luận về chính sách chăm sóc trẻ em.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là q trình thực hiện chính sách chăm sóc
trẻ em trên địa bàn phường Thạnh Lộc, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh
(TPHCM) giai đoạn từ 2016 đến 2020.
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tài liệu được sử dụng trong nghiên
cứu này chủ yếu là các cơng trình nghiên cứu, các đề tài hội thảo; các tài liệu
của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực trẻ em; chương trình, kế hoạch của lỉnh
vực trẻ em, tập trung là các chính sách chăm lo trẻ em thực hiện trên địa bàn
phường Thạnh Lộc, quận 12,Thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp này giúp
tìm hiểu liên hệ thực tế để vận dụng những chính sách tốt hiệu quả và giải
pháp đề xuất những bất cập chính sách chưa hiệu quả trong chăm sóc trẻ em.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ các cơ sở tài liệu, thông tin và dữ
liệu thu thập được, tác giả nghiên cứu sẽ phân tích, đánh giá, xem xét trên bình
diện áp dụng từ khoa học chính sách cơng. Từ đó, có những đề xuất phù hợp nhằm
hồn thiện q trình thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em hiệu quả hơn.
6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn hệ thống hóa và làm rõ các khái niệm , các
vấn đề lý luận cơ bản liên quan thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em ở
phường Thạnh Lộc.Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chăm sóc trẻ em.
Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu thực tế về chính sách đối với
cơng tác chăm sóc trẻ em trên địa bàn phường, xã nói chung và tại phường
Thạnh Lộc, Quận 12 nói riêng, góp phần chăm lo tốt nhất cho trẻ em. Luận
văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng
dạy, học tập tại các trường chính trị tỉnh và các trung tâm bồi dưỡng lý luận
chính trị của các quận/huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các nội dung của phần mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt,
phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn được kết cấu thành 3 chương
với nội dung như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em trên địa
bàn phường Thạnh Lộc, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Giải pháp hồn thiện việc thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
CHĂM SÓC TRẺ EM
1.1. Lý luận chung về thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em
1.1.1. Mợt sớ khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1.1. Khái niệm về chính sách
James Anderson (2003) cho rằng chính sách là chuỗi những hoạt động mà
chính quyền chọn làm hay khơng làm với tính tốn và chủ đích rõ ràng, có tác
động đến người dân; hoặc “Chính sách là một q trình hành động có mục đích
mà một cá nhân hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải
quyết vấn đề”. Dye (2007) cho rằng chính sách là những gì mà chính phủ làm, lý
do làm và sự khác biệt mà nó tạo ra.
Theo Nguyễn Minh Thuyết (2011) định nghĩa: Chính sách là đường lối cụ
thể của một chính đảng hoặc một chủ thể quyền lực về một lĩnh vực nhất định
cùng các biện pháp, kế hoạch thực hiện đường lối ấy. Cấu trúc của chính sách
bao gồm: đường lối cụ thể (nhằm thực hiện đường lối chung), biện pháp, kế
hoạch thực hiện. Chủ thể ban hành chính sách là: chính đảng, cơ quan quản lý
nhà nước, đơn vị, công ty,…
Theo tác giả Vũ Cao Đàm (2011) trong Giáo trình Khoa học chính sách
thì “chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể
quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số
nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục
tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội”.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể
để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian
nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương
hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, văn hóa...”. Theo định nghĩa này thì mục đích của chính sách cơng là
8
thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng chứ không đơn giản chỉ dừng lại ở
việc giải quyết vấn đề cơng. Nói cách khác, chính sách cơng là cơng cụ để thực
hiện mục tiêu chính trị của nhà nước.
Theo Nguyễn Hữu Hải (2014): “Chính sách đơi khi có thể nhận thấy dưới
hình thức các quyết định đơn lẻ, nhưng thơng thường nó bao gồm một tập hợp
các quyết định hoặc nhìn nhận như một định hướng cụ thể. Chính sách thường sẽ
tiếp tục tiến hịa trong q trình thực hiện chứ khơng cố định như giai đoạn thực
hiện chính sách”.
Như vậy, có thể khái qt rằng chính sách là một tập hợp các quyết định có
liên quan với nhau do Nhà nước ban hành, bao gồm các mục tiêu và giải pháp có liên
quan đến các vấn đề cơng nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng nhất định.
Chính sách là hành động, cơng cụ quản lý của nhà nước trong quá trình thực hiện
hoạt động quản lý của mình nhằm thực hiện mục tiêu nhất định.
1.1.1.2. Khái niệm về trẻ em
Khái niệm về trẻ em được xác định dựa trên các đặc điểm về độ tuổi, đặc
điểm sinh hóa và đặc trưng tâm lý xã hội.
Về độ tuổi, có những chênh lệch khác nhau về độ tuổi quy định đối với trẻ
em, tùy thuộc và quan điểm, cách nhìn của nhà nghiên cứu, cũng như quy định
chung của quốc tế hoặc quy định của các quốc gia khác nhau. Các tổ chức của
Liên hiệp quốc (LHQ) như Quỹ Dân số (UNFPA), Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa (UNESCO) xác định trẻ em là
người dưới 15 tuổi. Theo Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em xác định trẻ em là
người dưới 18 tuổi.
Theo Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em Việt Nam năm 1991 và
sửa đổi năm 2004 quy định “trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Luật
Trẻ em được ban hành vào ngày 5/4/2016 cũng quy định “trẻ em là người dưới
16 tuổi”. Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam việc quy định về độ tuổi trẻ em trong
các văn bản luật và dưới luật khơng có sự đồng nhất, điều này ảnh hưởng đến
việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Theo Luật Lao động năm 2019 thì
9
người lao động là người đủ 15 tuổi trở lên. Theo như quy định này thì người lao
động vẫn là trẻ em, do chưa thành niên đủ 18 tuổi. Theo Luật xử lý vi phạm hành
chính năm 2012, cũng xác định đối tượng xử phạt hành chính phải từ đủ 14 tuổi
trở lên, cụ thể là: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành
chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi
phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính”, quy định này đồng nghĩa với việc
coi trẻ em là 14 thay vì 16 như quy định chung. Sự quy định thiếu đồng nhất và
không rõ ràng về độ tuổi trẻ em như trên đã gây ra khơng ít khó khăn, bất cập trong
công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Bên cạnh việc xác định độ tuổi, các nhà nghiên cứu còn làm rõ khái niệm về
trẻ em thông qua việc xác định các đặc điểm tâm sinh lý, nhân khẩu xã hội đặc thù,
khác biệt so với người đã trưởng thành để nhấn mạnh các đặc trưng riêng của trẻ
em. Theo Feinberg (1980) nhấn mạnh trẻ em thuộc nhóm đối tượng đặc thù dễ bị
tổn thương nhất. Franklin (2001) đưa ra quan điểm rằng trẻ em là đối tượng non
nớt, cần được bảo vệ và hưởng được sự chăm sóc đặc biệt từ người lớn. Grant
(1994) cho rằng các đặc trưng quan trọng trong q trình phát triển vịng đời là vào
giai đoạn tuổi thơ, trẻ em là giai đoạn diễn ra sự hình thành và phát triển trí não, cơ
thể, các giá trị tinh thần và tính cách.
Theo Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em Việt Nam (2005) cho rằng “Trẻ
em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm xã hội về một độ t̉i, trong giai đoạn
đầu phát triển của con người. Đó là những người chưa trưởng thành cịn non
nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ và chăm sóc đặc
biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”.
Về mặt sinh học, trẻ em là người ở giữa giai đoạn sơ sinh và tuổi dậy thì.
Định nghĩa pháp lý về một “trẻ em” nói chung biểu thị một đứa trẻ, còn được
biết tới là người chưa trưởng thành.
Như vậy, có thể khái quát rằng trẻ em là người dưới 16 tuổi, là những
người còn non nớt về mặt thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương nên cần được bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục của gia đình, nhà trường, nhà nước và xã hội.
10
1.1.1.3. Khái niệm về chăm sóc trẻ em
Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (2004) thì trẻ em có
quyền được chăm sóc, ni dưỡng. Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là
trách nhiệm của gia đình, nhà trường, Nhà nước, xã hội và công dân. Trong mọi
hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan đến trẻ em thì lợi
ích của trẻ em phải được quan tâm hàng đầu. Nhà nước khuyến khích và tạo điều
kiện để cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân ở trong nước và nước ngồi góp phần
vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Chỉ thị số 20/CT-TW, ngày 5-11-2012 của Bộ Chính trị về việc tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ
em trong tình hình mới đã nhấn mạnh: “Chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em là
vấn đề có tính chiến lược, lâu dài, góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế”. Có thể nói, việc đầu tư cho trẻ em là đầu
tư cho tương lai của đất nước.
Tóm lại, chăm sóc trẻ em là các hoạt động của các bên liên quan nhằm
ni dưỡng, giáo dục và theo dõi q trình phát triển tồn diện về mặt thể chất,
trí tuệ, tinh thần và đạo đức của trẻ em.
1.1.1.4. Khái niệm về thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em
Thực hiện chính sách là một khâu cấu thành chu trình chính sách, là tồn
bộ q trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực với các đối
tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định. Tổ chức thực hiện chính sách là
trung tâm kết nối các khâu (các bước) trong chu trình chính sách thành một hệ
thống. Hoạch định được chính sách đúng, có chất lượng là rất quan trọng, nhưng
thực hiện đúng chính sách cịn quan trọng hơn. Có chính sách đúng nếu khơng
được thực hiện sẽ trở thành khẩu hiệu sng, khơng những khơng có ý nghĩa, mà
cịn ảnh hưởng đến uy tín của chủ thể hoạch định và ban hành chính sách (uy tín
của nhà nước).
11
Thực hiện chính sách là q trình triển khai thực thi các chương trình, nội
dung kế hoạch, đề án, dự án hoặc các chính sách cụ thể thuộc một chính sách lớn
hơn và hoạt động này biểu thị việc chuyển các kế hoạch của chính sách thành thực
tế. Như vậy, thực hiện chính sách bao gồm các hoạt động có tổ chức, kế hoạch
được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền các cấp thực hiện nhằm hướng tới
đạt các mục đích và mục tiêu được tuyên bố trong chính sách đề ra ban đầu.
Tóm lại, theo các khái niệm đã được phân tích, đề cập, trong phạm vi
nghiên cứu của luận văn thì thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em các hoạt động
của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ở các cấp, thực hiện triển khai bằng
những hình thức khác nhau nhằm đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ trong chính
sách chăm sóc trẻ em. Qua đó, góp phần bảo đảm các quyền của trẻ em được đáp
ứng ngày càng đầy đủ hơn và giải quyết tốt các vấn đề trẻ em phát sinh.
1.1.2. Vai trò của việc thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em
Thứ nhất, thực hiện tốt chính sách chăm sóc trẻ em góp phần hiện thực hóa
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về chăm sóc trẻ em
vào đời sống thực tiễn.
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn coi nhiệm vụ bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em là nội dung cơ bản của chiến lược phát triển con
người, góp phần tạo nguồn nhân lực tương lai cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Nhiều chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng về công tác
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã được pháp luật hóa trong hệ thống quy
phạm pháp luật về trẻ em. Trong điều kiện hiện nay, Việt Nam đang xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mà ở đó mọi hoạt động của bộ máy nhà
nước suy cho cùng cũng vì con người, vì hạnh phúc con người ln được xác định
là mục tiêu cao nhất; pháp luật được xác định có vai trị tối cao trong đời sống xã
hội và Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Việc tuân thủ và thực thi các quy
định của pháp luật về chăm sóc trẻ em cũng chính là thực hiện chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về cơng tác chăm sóc trẻ em trong thực tiễn cuộc
sống.
12
Thứ hai, bảo đảm cho trẻ em được phát triển tồn diện về mặt thể chất, tinh
thần, trí tuệ và đạo đức.
Trẻ em là công dân đặc biệt được gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc ngay
từ khi còn trong bụng mẹ. Do trẻ em còn non nớt về thể chất và tinh thần nên trẻ
em không thể tự mình thực hiện đầy đủ các quyền mà phần nhiều phải dựa vào
người lớn. Trẻ em có quyền được phát triển đầy đủ và tồn diện trong gia đình, đó
phải là tổ ấm an tồn giúp các em được ni dưỡng và phát triển tồn diện về thể
chất, tinh thần, bồi dưỡng trí tuệ và các giá trị đạo đức, không để gây ra những
mất mát, tổn thương về thể xác và tinh thần. Là thành viên của xã hội, trẻ em cũng
được hưởng đầy đủ những quyền cơ bản của con người như quyền được sống;
quyền được bảo vệ về tính mạng, nhân phẩm; quyền được phát triển và tham gia...
Khi thực hiện pháp luật về bảo đảm các quyền trẻ em cần đảm bảo nguyên tắc
những lợi ích tốt nhất dành cho trẻ em và tương ứng với từng độ tuổi phát triển về
thể chất và tinh thần của trẻ em.
Thứ ba, phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm hại trẻ em.
Thực hiện tốt chính sách chăm sóc trẻ em sẽ góp phần nắm bắt tình hình trẻ
em tại địa phương, có tác dụng tích cực trong việc phịng ngừa, ngăn chặn và xử
lý các hành vi xâm hại trẻ em. Thông qua hoạt động này, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức, trách
nhiệm của toàn xã hội trong việc thực hiện quyền trẻ em, giảm nghèo đói và bất
bình đẳng trong xã hội, tăng cường tiếp cận y tế, giáo dục, vui chơi giải trí và bảo
vệ trẻ em được thực hiện thơng qua các chương trình, dự án riêng hoặc được lồng
ghép trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của các cấp, các ngành.
Tháng hành động vì trẻ em, Tết trung thu cho trẻ em và xây dựng xã, phường phù
hợp với trẻ em được duy trì hàng năm, góp phần quan trọng vào cơng tác phịng
ngừa, bảo vệ và chăm sóc trẻ em.
Thứ tư, bảo đảm trợ giúp trẻ em.
Thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em trước hết là nhằm mục đích tạo dựng
một mơi trường an tồn, lành mạnh dành cho trẻ em phát triển toàn diện. Tuy
13
nhiên, khi mà việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em ở cấp độ tạo dựng mơi trường lành
mạnh, an tồn và biện pháp phịng ngừa, ngăn chặn khơng thành cơng thì cần thiết
phải áp dụng các biện pháp hỗ trợ cho những trẻ em đã phải chịu ngược đãi, bóc
lột, sao nhãng, xâm hại với mục đích thúc đẩy quá trình phục hồi và tái hịa nhập,
phịng ngừa tổn thương trong tương lai. Bảo đảm trợ giúp trẻ em bao gồm hỗ trợ
cho cả trẻ em có nguy cơ cao hoặc đang bị tổn hại được bảo đảm an toàn, chăm
sóc phục hồi cho trẻ em. Hỗ trợ trẻ em bằng hình thức can thiệp trực tiếp đối với
từng cá nhân trẻ em và gia đình của trẻ em. Các biện pháp hỗ trợ phải được ra
quyết định bởi người có thẩm quyền trên cơ sở đánh giá hồn cảnh cụ thể của từng
trẻ em.
1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về chính sách chăm sóc
trẻ em
Trong tổng số các di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có 128 bài viết đề cập
đến trẻ em và việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; trong đó có tới 60 bức thư,
bài thơ, bài nói chuyện của Người gửi trực tiếp đến thiếu niên, nhi đồng chứng tỏ
trẻ em ln có vị trí vơ cùng đặc biệt đối với Người. Thông qua các bài báo, bài
viết cùng với những việc làm cụ thể, thiết thực của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu
lên những quan điểm cơ bản của Người về quyền của trẻ em. Những quan điểm
đúng đắn đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh là kim chỉ nam soi đường cho Đảng, Nhà
nước ta đề ra đường lối, chính sách và pháp luật thực hiện quyền của trẻ em Việt
Nam hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã dành tình u thương vô bờ cho trẻ
em. Người viết trong bài Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên,
nhi đồng. “ Thiếu niên nhi đồng là người chủ tương lai của đất nước…Vì tương
lai của con em ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải quyết tâm chăm sóc và
giáo dục các bé cho tốt”. Thực hiện lời dạy của Người, trong mọi chặng đường
phát triển của đất nước, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định “ Quan tâm đến việc đào
tạo, bồi dưỡng một lớp người mới không những phục vụ cho chủ nghĩa xã hội mà
còn cho sự nghiệp xây dựng cộng sản chủ nghĩa sau này”.
14
Kế thừa và phát triển quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền trẻ
em, Đảng và Nhà nước ta đã nâng lên thành đường lối chăm sóc, bảo vệ và giáo
dục trẻ em. Đường lối của Đảng được thể hiện rõ nét trong các văn kiện của Đảng
kể từ khi ra đời đến nay như: Chỉ thị số 17/CT/TW ngày 01/9/1947 của Ban
Thường vụ Trung ương Đảng về Công tác thanh vận; Chỉ thị số 197/CT/TW ngày
19/3/1960 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về cơng tác thiếu niên, nhi đồng; Chỉ
thị số 38-CT/TW của Ban Bí thư Trung ưởng Đảng khóa VII (ngày 30/5/1994) về
tăng cường cơng tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Chỉ thị số 55-CT/TW
của Bộ Chính trị khóa VIII (ngày 28/6/2000) về tăng cường sự lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng ở cơ sở với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Chỉ thị số
20/CT-TW ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị về việc tăng cường sự lãnh đạo của
đảng đối với cơng tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới
v.v. Đây là tư tưởng xuyên suốt của Đảng qua các thời kỳ đại hội sau đó về bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, xác định sự nghiệp này được ưu tiên hàng đầu
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đường lối của Đảng đã
lần lượt được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật quốc gia.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơng
ngừng đấu tranh để đem lại các quyền cơ bản cho trẻ em - chủ nhân tương lai của
đất nước, quyết định sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em là quan điểm nhất quán, xuyên suốt trong tư tưởng của Người. Với tầm
nhìn vượt thời đại, cho đến nay, quan điểm của Người về quyền trẻ em chính là cơ
sở khoa học đầu tiên để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em phù
hợp với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay. Tiếp tục khai thác quan điểm của Người về
quyền trẻ em và cụ thể hóa nó vào hệ thống pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc
sống là trách nhiệm chung của tồn hệ thống chính trị, trước hết là của Đảng, Nhà
nước và những người phụ trách công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở
nước ta hiện nay.
Trẻ em chiếm tỷ lệ càng cao, Đảng và Nhà nước càng quan tâm hơn. Từ
khi ký Công ước, Việt Nam ln tơn trọng và luật hóa các quyền cơ bản của trẻ
15
em trên cơ sở phù hợp với Hiếp pháp và Pháp luật Việt Nam.
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
là nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển
nguồn nhân lực con người của Việt Nam, vì trẻ em là hạnh phúc của gia đình,
tương lai của đất nước. Điều này cung quy định rất rỏ trong văn kiện của Đảng
cộng sản Việt Nam cũng như trong Hiếp pháp 1946 (Hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam khi mới giành được chính quyền), Hiến pháp 1959, Hiếp pháp
1992 và Hiến pháp 2013.
Trong Hiến pháp 2013, bên cạnh những quy định chung về quyền con
người, quyền công dân với tất cả mọi người, Hiến pháp năm 2013 còn quy định
riêng để bảo vệ quyền của trẻ em tại Điều 37 “Trẻ em được Nhà nước, gia đình,
xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề trẻ em.
Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bốc lột sức lao
động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Theo đó, trẻ em được Nhà
nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia các vấn đề
về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc lạm dụng, bốc lột
sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX cũng đã khẳng định “chính sách chính
sách chăm sóc , bảo vệ trẻ em tập trung vào quyền trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ
em được sống trong mơi trường an tồn và lành mạnh phát triển hài hịa về thể
chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức; trẻ em mồ côi , bị khuyết tật, sống trong hồn
cảnh đặc biệt khó khăn có cơ hội học tập và vui chơi.”
Cho đến nay, về cơ bản hệ thống pháp luật về quyền trẻ em Việt Nam
ngày càng được hoàn thiện. Quyền trẻ em đã tương đối đầy đủ, đảm bảo tính
thống nhất, đồng bộ, hài hịa với pháp luật quốc tế và ứng phó kịp thời với những
mối quan hệ xã hội mới, tạo hành lang pháp lý toàn diện nhằm bảo vệ và thực
hiện quyền trẻ em ở mức cao nhất. Quá trình phát triển pháp luật về chăm sóc trẻ
em ở Việt Nam được thể hiện cụ thể qua từng giai đoạn như sau:
16
- Giai đoạn từ 1945 đến năm 1978: Vấn đề bảo vệ chăm sóc trẻ em trong
thời kỳ này đã được Đảng và Nhà nước coi trọng, các chủ trương chính sách về
bảo vệ chăm sóc trẻ em được quy định trong nhiều văn bản pháp luật quan trọng,
tạo cơ sở pháp lý cho công tác trẻ em, tạo cơ hội cho trẻ em phát triển toàn diện.
Tuy nhiên, do thời kỳ này đất nước còn đang chiến tranh nên chủ yếu tập trung
vào nhiệm vụ chăm sóc trẻ em.
- Giai đoạn từ năm 1979 đến 1990: Pháp lệnh Bảo vệ chăm sóc trẻ em
năm 1979 là văn bản pháp quy chuyên ngành, có giá trị pháp lý cao nhất về lĩnh
vực BVCSTE trong giai đoạn này với nhiều quy định cụ thể về chăm sóc trẻ em.
Nội dung điều chỉnh của pháp luật trong giai đoạn này hướng nhiều tới mục tiêu
giáo dục trẻ em và bảo đảm thực hiện các quyền về chăm sóc, ni dưỡng, bảo
vệ sức khỏe, chế độ chính sách cho trẻ em là con thương binh, liệt sĩ, trẻ mồ cơi
khơng có người thân thích trơng nom được Nhà nước và xă hội chăm nuôi và
giáo dục.
- Giai đoạn từ 1991 đến 2003: Việt Nam phê chuẩn CRC năm 1990 và
công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em (BVCSTE) phát triển cả về nội dung, hình thức
và tổ chức thực hiện. Việt Nam đã nội lực hóa và từng bước đưa vào các quy
định CRC trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Luật BVCSTE năm 1991 thay thế
cho Pháp lệnh về BVCSTE năm 1979; Cơng tác chăm sóc trẻ em có chuyển biến
rõ nét về nhận thức và tổ chức thực hiện. Trong giai đoạn này mục tiêu trong
công tác trẻ em là chăm sóc trẻ em và giáo dục trẻ em.
- Giai đoạn 2004 đến nay: Trong giai đoạn này, pháp luật Việt Nam đã
hướng tới việc bảo vệ trẻ em nhiều hơn. Luật BVCSTE năm 2004 thay thế cho
Luật 1991. Luật trẻ em 2016 thay thế cho Luật trẻ em 2004, đã quy định cụ thể
biện pháp BVTE từ phòng ngừa, hổ trợ, can thiệp và trách nhiệm thực hiện của
các cơ quan, tổ chức, gia đình cá nhân để bảo vệ, bảo đảm trẻ em được an toàn,
được hổ trợ và can thiệp kịp thời khi có quy cơ hoặc đang bị xâm hại. Tổ chức
bộ máy trong công tác trẻ em có nhiều thay đổi từ Trung ương đến cấp phường
17
(xã) ảnh hưởng rất nhiều đến công tác thực hiện chính sách trẻ em nói chung và
cơng tác chăm sóc trẻ em nói riêng.
Các nội dung liên quan đến Chăm sóc trẻ em được quy định cụ thể tại
Chương III của Luật trẻ em 2016 cụ thể như sau:
Tại Điều 42 quy định về bảo đảm về chăm sóc, ni dưỡng trẻ em: Nhà nước
có chính sách trợ cấp, trợ giúp, ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn để thực hiện việc
chăm sóc ni dưỡng trẻ em theo độ tuổi, trẻ em có hồn cảnh đặc biệt; khuyến
khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia trợ giúp, chăm sóc trẻ em, trẻ em
có hồn cảnh đặc biệt; hỗ trợ về đất đai, thuế, tính dụng cho tổ chức, cá nhân cung
cấp dịch vụ chăm sóc, ni dưỡng trẻ em theo quy định của pháp luật.
Tại điều 43 quy định về bảo đảm về chăm sóc sức khỏe trẻ em với các nội
dung:
- Nhà nước có chính sách phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
từng thời kỳ để hỗ trợ, bảo đảm mọi trẻ em được chăm sóc sức khỏe, ưu tiên cho
trẻ có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, trẻ em đang sinh
sống tại các xã biên giới, miền núi, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế xã hội
đặc biệt khó khăn.
- Nhà nước bảo đảm thực hiện các biện pháp theo dõi sức khỏe định kỳ
cho phụ nữ mang thai và trẻ em theo độ tuổi; chăm sóc dinh dưỡng, sức khỏe
ban đầu và tiêm chủng cho trẻ em; phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em; tư
vấn và hỗ trợ trẻ em trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục
phù hợp độ tuổi theo quy định của pháp luật.
- Ưu tiên tư vấn, bảo vệ, chăm sóc về sức khỏe, dinh dưỡng cho phụ nữ mang
thai, bà mẹ nuôi con dưới 36 tháng tuổi và trẻ em, đặc biệt trẻ em dưới 36 tháng tuổi,
trẻ em bị xâm hại phù hợp với Điều kiện phát triển xã hội từng thời kỳ.
- Nhà nước có chính sách, biện pháp tư vấn, sàng lọc; chuẩn đoán, điều trị
trước sinh và sơ sinh; giảm tỷ lệ tử vong trẻ em, đặc biệt là tử vong trẻ sơ sinh;
xóa bỏ phong tục, tập quán có hại, ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ em.
18
- Nhà nước có chính sách, biện pháp tư vấn, sàng lọc, chuẩn đoán, điều trị
trước sinh và sơ sinh; giảm tỷ lệ tử vong trẻ em.
- Nhà nước có chính sách, biện pháp để trẻ em tiếp cận nguồn nước hợp
vệ sinh và điều kiện vệ sinh cơ bản, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy
định của pháp luật.
- Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân ủng hộ, đầu
tư nguồn lực để bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho trẻ em,ưu tiên cho trẻ em có
hồn cảnh đặc biệt.
Tại điều 44 quy định việc bảo đảm về giáo dục cho trẻ em với các nội
dung:
- Nhà nước có chính sách hổ trợ, bảo đảm mọi trẻ em được đi học, giảm
thiểu tình trạng trẻ em bỏ học; có chính sách hổ trợ trẻ em có hồn cảnh đặc
biệt,trẻ em thuộc hộ nghèo,hộ cận nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em đang
sinh sống tại các xã biên giới, miền núi, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn được tiếp cận giáo dục phổ cập,giáo dục hòa nhập,
được học nghề và giới thiệu việc làm phù hợp độ tuổi và pháp luật về lao động.
- Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, bảo đảm công bằng về cơ hội tiếp
cận giáo dục cho mọi trẻ em, giáo dục hòa nhập cho trẻ em khuyết tật; có chính
sách miễn, giảm học phí cho từng nhóm đối tượng trẻ em phù hợp với điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ.
- Chương trình, nội dung giáo dục phải phù hợp với từng độ tuổi, từng
nhóm đối tượng trẻ em, bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển toàn
diện và yêu cầu hội nhập; chú trọng giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa dân
tộc và phát triển nhân cách, kỹ năng sống, tài năng, năng khiếu của trẻ em, giáo
dục giới tính, giáo dục sức khỏe trẻ em.
- Nhà nước quy định môi trường giáo dục an tồn, lành mạnh, thân thiện,
phịng, chống bạo lực học đường.
- Nhà nước có chính sách phù hợp để phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ
em 05 tuổi và chính sách hổ trợ để trẻ em trong độ tuổi được giáo dục mầm non
19
phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ; khuyến khích, thu
hút các nguồn đầu tư khác để phát triển giáo dục, đào tạo.
Tại điều 45 quy định về bảo đảm Điều kiện vui chơi giải trí, hoạt động
văn hóa nghệ thuật, thể thao, du lịch cho trẻ em với các nội dung:
- Nhà nước có chính sách hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm, cơng trình
văn hóa nghệ thuật; phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở cho trẻ
em; có chính sách ưu tiên trẻ em khi sử dụng dịch vụ vui chơi, giải trí, thể thao,
du lịch và tham quan di tích, thắng cảnh.
- Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm lập quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất, bố trí quỹ đất, đầu tư xây dựng điểm vui chơi, giải trí, hoạt động văn
hóa, nghệ thuật, thể thao cho trẻ em; bảo đảm điều kiện thời gian, thời điểm
thích hợp để trẻ em được tham gia các hoạt động tại các thiết chế văn hóa, thể
thao cơ sở.
- Nhà nước tạo điều kiện để trẻ em giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, văn
hóa tốt đẹpvà được sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình.
- Nhà nước khuyến khích tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia ủng hộ, đầu
tư, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ trẻ em vui chơi, giải trí; khuyến khích sáng
tạo, sản xuất đồ chơi, trị chơi cho trẻ em bảo đảm an toàn, lành mạnh mang bản
sắc dân hóa dân tộc.
Tại điều 46 quy định về bảo đảm thông tin, truyền thông cho trẻ em với
các nội dung:
- Nhà nước bảo đảm trẻ em được tiếp cận thơng tin, bày tỏ ý kiến, nguyện
vọng, tìm hiểu học tập, trao đổi kiến thức qua các kênh thông tin, truyền thông
phù hợp.
- Các cơ quan thông tin, xuất bản phải dành tỷ lệ nội dung, thời điểm, thời
lượng phát thanh, truyền hình , ấn phẩm phù hợp cho trẻ em. Thơng tin, đồ chơi,
trị chơi, chương trình phát thanh, truyền hình, nghệ thuật điện ảnh có nội dung
khơng phù hợp với trẻ em phải thông báo hoặc ghi rõ độ tuổi trẻ em không được
sử dụng.
20
- Nhà nước khuyến khích phát triển thơng tin, truyền thơng phù hợp với sự
phát triển tồn diện của trẻ em, sản xuất, đăng nội dung, thông tin với thời lượng
thích hợp cho trẻ em dân tộc thiểu số.
1.3. Nợi dung thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em
1.3.1. Xây dựng và triển khai thực hiện chính sách
Việc xây dựng và triển khai thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em tại địa
phương phải đảm bảo phù hợp theo mục tiêu chung của Chương trình hành động
quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2021 – 2030 đó là đảm bảo thực hiện các quyền
trẻ em, phát triển toàn diện cho trẻ em, đáp ứng yêu cầu xây dựng nguồn nhân
lực có chất lượng để phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế; tạo lập môi
trường sống an tồn, lành mạnh và thân thiện, góp phần hồn thành các mục tiêu
của Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
Về xây dựng chương trình và tổ chức thực hiện kế hoạch chăm sóc trẻ em
cần thực hiện theo chương trình chung hàng năm của cơ quan có thẩm quyền ở
địa phương quy định, nội dung chương trình phải phù hợp với đặc thù của địa
phương, phù hợp với thực tiễn và đảm bảo công tác chăm sóc trẻ em được triển khai
kịp thời, đầy đủ đến các đoàn thể phường, khu phố, tổ dân phố để người dân cùng
nhau chung tay bảo vệ quyền lợi chính đáng của trẻ em.
Kinh phí dành cho cơng tác chăm sóc trẻ em thường được sử dụng từ
nguồn ngân sách nhà nước, nguồn kinh phí vận động, tùy thuộc vào từng giai
đoạn, quy mô số lượng trẻ em mà mức kinh phí này có thể khác nhau, tuy nhiên
điểm chung là kinh phí dành cho cơng tác này phải được sử dụng đúng mục đích,
có báo cáo cơng khai và khi sử dụng ngân sách nhà nước thì khơng vượt quá
phạm vi ngân sách.
1.3.2. Phổ biến và tuyên truyền chính sách
Hoạt động này giúp cho đội ngũ cán bộ làm cơng tác chăm sóc trẻ en hiểu rõ
chính sách và chủ động tham gia thực hiện chính sách có hiệu quả. Tuyên truyền,
phổ biến chính sách được thực hiện theo nhiều hình thức đa dạng, phong phú.
Tổ chức các chiến dịch, sự kiện truyền thông, vận động xã hội tham gia
21
thực hiện quyền của trẻ em, như Tháng hành động vì trẻ em, Ngày tồn dân đưa
trẻ em đến trường, Ngày vi chất dinh dưỡng trẻ em, Diễn đàn trẻ em quốc gia;
các sự kiện văn hoá, thể thao. Hỗ trợ trẻ em tổ chức các sự kiện, hoạt động
truyền thông cho trẻ em và thực hiện quyền, bổn phận của trẻ em.
Tổ chức các hoạt động truyền thông đại chúng về bảo vệ, chăm sóc, giáo
dục trẻ em. Nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm truyền thơng có chất lượng và
phù hợp với các nhóm đối tượng.
1.3.3. Phân cơng, phới hợp thực hiện chính sách
Để thực hiện chính sách có hiệu quả cần phải có sự phối hợp nhịp nhàng
giữa các đơn vị, các cấp, các ngành có liên quan:
- Chủ tịch Ủy ban Nhân dân phường chủ trì, phối hợp với Bộ phận Tài
chính – Kế tốn, giám sát tình hình sử dụng kinh phí thực hiện chính sách chăm
sóc trẻ em, bảo đảm đúng mục đích và chế độ quy định; giám sát tình hình thực
hiện các mục tiêu của chương trình, định kỳ tổng hợp báo cáo cấp trên và tổ
chức tổng kết việc thực hiện.
- Cán bộ làm cơng tác trẻ em cấp xã/phường: Có trách nhiệm tham mưu
cho Chủ tịch Ủy ban Nhân dân phường xây dựng Chương trình hành động vì trẻ
em của địa phương, bố trí kinh phí và phối hợp với các cơ quan chức năng của
địa phương triển khai thực hiện Chương trình; đưa các mục tiêu, nội dung của
Chương trình vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; kiểm tra,
đánh giá và định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện Chương trình ở địa phương,
báo cáo với các đơn vị có liên quan.
- Công chức Tư pháp – Hộ tịch và cán bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội phường phối hợp với các bên có liên quan có trách nhiệm tham mưu cho Chủ
tịch Ủy ban Nhân dân phường các nội dung liên quan đến góp ý xây dựng và
hồn thiện hệ thống tư pháp thân thiện với trẻ em và người chưa thành niên;
hướng dẫn, thường xuyên kiểm tra đối với tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý
cho trẻ em; xây dựng các chương trình, đề án liên quan đến trẻ em do ngành
22
quản lý; thực hiện chức năng quản lý nhà nước về nuôi con nuôi, đăng ký hộ
tịch, quốc tịch, khai sinh cho trẻ em; nghiên cứu, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung
Luật Hơn nhân và gia đình; tun truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em.
- Cơng an phường chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan thực hiện
các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh với các hành vi xâm hại trẻ em, người chưa
thành niên vi phạm pháp luật; xây dựng các chương trình, đề án liên quan đến trẻ
em do ngành quản lý; thiết lập cơ chế can thiệp khẩn cấp nhằm ngăn chặn và xử
lý kịp thời các trường hợp xâm hại và bạo lực đối với trẻ em; tổ chức tập huấn
nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm cơng tác phịng ngừa, ngăn chặn, điều
tra, xử lý hành vi xâm hại trẻ em và người chưa thành niên vi phạm pháp luật;
chỉ đạo thực hiện quản lý nhà nước về cư trú để tạo điều kiện cho trẻ em được
thực hiện các quyền của trẻ em tại nơi cư trú; tổ chức thực hiện có hiệu quả các
Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2012 - 2015 về phòng, chống tội phạm
(đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1217/QĐ-TTg ngày
06 tháng 9 năm 2012) và Chương trình hành động phịng, chống tội phạm mua
bán người giai đoạn 2011 - 2015 (đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại
Quyết định số 1427/QĐ-TTg ngày 18 tháng 8 năm 2011).
- Trạm y tế phường chủ trì, phối hợp với các bên có liên quan tuyên
truyền và thực hiện các mục tiêu về dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe cho trẻ em,
xây dựng các chương trình, đề án liên quan đến trẻ em do ngành quản lý; xây
dựng các chương trình về dinh dưỡng, chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em; chỉ đạo tổ
chức thực hiện có hiệu quả chính sách khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em dưới 6
tuổi, trẻ em có hồn cảnh đặc biệt, trẻ em của hộ gia đình nghèo; phục hồi chức
năng cho trẻ em khuyết tật; thí điểm các loại hình dịch vụ y tế đặc thù cho trẻ
em; tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng
giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 (đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt tại Quyết định số 226/QĐ-TTg ngày 22 tháng 02 năm 2012), các
23